Người dịch: Hà Hữu Nga
Suy tư về Hiện tượng luận Husserl
Cách đơn giản nhất để xác định ý nghĩa của cái mà chúng ta gọi là thực hành tư duy hay làm triết học là tiếp thu một khái niệm từ truyền thống và suy ngẫm lại về phạm vi và nội dung của nó. Một câu trả lời truyền thống cho câu hỏi chúng ta “làm” gì khi chúng ta suy nghĩ được mô tả là “suy tư”, và không phải ngẫu nhiên mà Husserl đặt tên cho một trong những ấn phẩm chính của ông là “Suy tư” (Meditations). Bên cạnh mối gắn kết lịch sử rõ ràng với Descartes, những lý do chính khác dẫn đến sự lựa chọn của Husserl là hai đặc điểm của tư duy đang diễn ra theo nghĩa thông thường nhất của từ này, đó là (1) suy tư như một hoạt động chủ quan, và (2) sự biến mất của chủ thể trong khách thể của nó. Tôi muốn làm sáng tỏ một cách ngắn gọn hai khía cạnh này.
(1) Một mặt, tư duy là thứ mà chúng ta thực hiện một mình. Như hầu hết mọi nhà triết học đều khẳng định, tư duy nằm trong linh hồn hay tâm trí và trong cái mà Augustine gọi là interior homine “con người nội tâm”, tức là con người bên trong. Mặc dù chúng ta nói với nhau và truyền đạt suy nghĩ của mình và mặc dù chúng ta cần kẻ khác phát triển suy nghĩ của mình, nhưng không thể nghĩ với kẻ khác theo nghĩa chặt chẽ của từ này. Có thể nói rằng không ai có thể nghĩ cho chúng ta, ít nhất là nếu chúng ta muốn nói đến việc thực hiện một hoạt động trí óc bằng “tư duy”. Mặc dù các nhà tư tưởng theo định hướng đối thoại cố gắng phá vỡ khái niệm suy nghĩ như một quá trình “tinh thần” và như một thực hiện từ quan điểm của ngôi thứ nhất, họ đã không hoàn toàn thành công trong việc loại bỏ chiều góc bí mật trong suy nghĩ của một người. Vì mặc dù các suy nghĩ phải được chia sẻ và luôn được phát triển với những kẻ khác, nhưng cuối cùng chúng vẫn thuộc về một ai đó tiêu khiển những suy nghĩ đó. Chúng thuộc về tôi hoặc bạn.
(2) Mặt khác, tư duy dưới hình thức suy tư có một cái gì đó liên quan đến việc biến mất trong chủ đề, với việc vượt qua những gì vừa được mô tả. Theo nghĩa này, tư duy và suy tư được gắn với vượt qua quan điểm của ngôi thứ nhất, nhằm nỗ lực để bản thân thoát khỏi những gì kẻ khác đang nghĩ (về). Mục đích của tư duy không phải là tạo ra nội dung “riêng lẻ” hoặc “chủ quan” triệt để, mà là để vượt qua nội dung chủ quan. Ngay cả khi chúng ta thừa nhận rằng philosophical meditation - suy tư triết học không hề liên quan gì đến cái mà chúng ta thường gọi là “thiền” (ví dụ, hành thiền của các Phật tử), thì ý nghĩa hàng ngày vẫn được lưu giữ trong cách Husserl giới thiệu tư duy triết học như một hình thức thiền, đặc biệt là kể từ khi suy tư triết học giả định rằng “nhà tư tưởng” chia tách ông ta hoặc cô ta vào vấn đề của những gì được suy nghĩ bằng cách tư duy như vậy. Vì tư duy đối với Husserl là một dạng hiện hữu ý thức, nên chúng ta cần thêm rằng suy tư triết học, trên hết, có nghĩa là chia tách bản thân vào thứ ý thức về một vấn đề được ngẫm nghĩ trong ý thức đó. Sự khác biệt giữa tình trạng bị chia tách trong một vấn đề và bị chia tách trong ý thức về một vấn đề là rất đáng kể, vì nó tách biệt cuộc sống hàng ngày khỏi cuộc sống triết học của chúng ta. Chúng ta [“geradehin” (Hua 1/72)] “mất hút vào” sự vật trong cuộc sống hàng ngày của mình, như Husserl nói. Chúng ta sống trong chúng và với chúng. Ví dụ, khi chúng ta bị “chia tách” trong các hoạt động hàng ngày, chẳng hạn như nấu ăn, làm việc hoặc lái xe, chúng ta bị mất hút trong đối tượng của các hành động hoặc hoạt động tinh thần của mình. Cuộc sống “chuẩn thường” hàng ngày của chúng ta được xác định một cách chính xác bởi cái cụ thể này bị biến mất trong một số hoạt động nhất định. Vấn đề ở đây là: thông thường chúng ta tự quên đi bản thân mình hoặc chúng ta quên mất bản thân trong những hoạt động đó, nghĩa là chúng ta không nhận thức theo cách phản ánh về việc bản thân đang “thực hiện” và “tham gia” vào các hoạt động nói trên. Thay vào đó, chúng ta quên đi bản thân mình, chúng ta quên đi ý thức về các đối tượng mà chúng ta vẫn liên quan trong các hoạt động hàng ngày của mình.
Trái ngược với phương thức hàng ngày bị mất hút trong các khách thể đã nói ở trên, tình trạng mất hút trong suy tư triết học chính xác có nghĩa là việc tự “thực hiện” vẫn hoàn toàn nhận thức được những gì mình đang làm, cụ thể là tư duy, mặc dù nó bị mất hút trong vấn đề tư duy kia. Do đó, chỉ từ quan điểm cấu trúc, chúng ta mới có thể thừa nhận rằng không có sự khác biệt giữa phương thức hiện hữu thông thường và phương thức hiện hữu phản ánh, trong đó chúng ta nghĩ rằng các vấn đề đã “kết thúc”. Suy tư triết học là một hình thức ý thức “cao hơn” đưa khách thể ra khỏi cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Bằng cách này, khách thể tư duy của chúng ta, ít nhất là ở dạng phi-trừu tượng, sẽ chuyển khỏi cuộc sống tiền-phản ánh của chúng ta. Suy tư về phương diện triết học có nghĩa là tập trung hoàn toàn vào một vấn đề và câu hỏi cụ thể không phải do triết học phát minh ra mà là lấy từ những gì đã sống trải trước khi chúng ta bắt đầu suy tư. Ngay cả khi ngẫm nghĩ về toán học hoặc khái niệm tự do, chúng ta phải lấy những “ý tưởng” đó từ một nơi khác. Nói cách khác, bằng cách suy tư, kẻ tư duy biến thế giới-sống của mình thành một vấn đề suy nghĩ. Do đó, triết gia hiện tượng luận không phải là nhà phát minh, mặc dù cần lưu ý là suy tư của họ bao hàm yếu tố biến đổi và do đó, sáng tạo.
Việc phân tích trước dẫn đến hai hệ quả: một mặt, tư duy triết học, theo Husserl, không phát minh ra các vấn đề triết học được đề cập; đúng hơn, nó tìm kiếm và phát hiện ra chúng. Thật vậy, các khách thể của suy tư triết học được đưa cho. Mặt khác, tư duy là một hoạt động và do đó, phải biến đổi vấn đề mà đang tư duy. Tư duy, đặc biệt là khi được thực hiện trong hiện tượng luận Husserl, là một quá trình chứ không phải một chớp lóe. “Phương pháp ký tượng” eidetic method là bằng chứng tốt nhất cho luận điểm này. Trong mối gắn kết này, Husserl đã nghĩ đi nghĩ lại một số vấn đề, trên cơ sở đó vấn đề được đề cập không còn như cũ; mà đúng hơn, nó đã thay đổi bản chất của mình. Trong Chương I của cuốn sách này chúng ta sẽ thấy mối quan hệ giữa các công việc tìm kiếm và phát minh hoạt động ra sao, và phép eidetics - ký tượng học Husserlian phải được hiểu thế nào. Đối với tôi, dường như mối quan hệ tương tự giữa sáng tạo và tiếp nhận xảy ra khi chúng ta cố gắng phản ánh suy nghĩ của người khác, chẳng hạn như tư duy của Husserl. Trong trường hợp này, bằng cách ngẫm kỹ các ý tưởng của Husserl, thì cả khám phá và biến đổi đều tham gia cuộc chơi, trong chừng mực (1) chúng ta phát hiện ra vấn đề thông qua suy nghĩ về nó và (2) chúng ta biến đổi ý nghĩa và “ý thức” về khách thể của mình (trường hợp này là các suy nghĩ của Husserl).
Do đó, điều tôi hy vọng đối với văn bản này là người đọc sẽ khám phá và thấy được những khía cạnh mới của những gì chưa được thấy rõ ràng trước đây (ở Husserl) và, bất chấp những biến đổi đó, học cách nhìn đối tượng - tư tưởng của Husserl – rõ ràng hơn trước đó, tức là bằng một nguồn sáng mới. Vẻ đẹp tư tưởng Husserl thực sự ở chỗ nó cho phép cả các khám phá và biến đổi những gì chúng ta vẫn nghĩ là hoặc được cho là Husserl hoặc tư duy của Husserl, và lối diễn ngôn đương đại đôi khi quên rằng tư duy triết học không phải chỉ liên quan đến những lập luận chặt chẽ, mà còn liên quan đến vẻ đẹp của quá trình sáng tạo, gần như nghệ thuật, đó chắc chắn là triết học.
Husserl, như hầu hết mọi người trong truyền thống hiện tượng luận đều thừa nhận, là một bậc thầy trong việc kết hợp những cân nhắc phương pháp luận chặt chẽ với những phân tích cụ thể vô cùng phong phú về các hiện tượng. Về vấn đề này, tôi không biết một nhà tư tưởng nào khác, vừa không chỉ tự nhận thức về mình như một nhà tư tưởng mà thậm chí còn nhận thức rõ hơn về bản thân như một nhà tư tưởng trong thế giới này. Không nghi ngờ gì nữa, không có nhà tư tưởng nào khác đã chứng minh được khả năng tương tự trong việc phân tích ngay cả những khoảnh khắc “tối thiểu” nhất trong trải nghiệm của chúng ta, chẳng hạn như khoảnh khắc thời gian “bây giờ” hoặc khả năng phân tích sự liên tưởng. Husserl đã có thể viết, theo đúng nghĩa, hàng trăm trang trong một khoảng thời gian ngắn về các hiện tượng ấy, điều này thường gây ra sự nhầm lẫn ở các nhà bình luận về các tác phẩm của Husserl, vì dường như cực khó để dung hòa các vấn đề phương pháp luận chặt chẽ và nỗ lực liên tưởng để thúc đẩy triết học siêu việt tiến xa hơn, với những phân tích chi tiết và (phi) tổ chức gần như vô chính phủ của ông về trải nghiệm sống của chúng ta. Độc giả (đặc biệt là nghiên cứu sinh sau đại học) cảm thấy nản lòng với “khoảnh khắc vô hạn” trong các tác phẩm của Husserl. Tuy nhiên, nhìn từ một góc độ khác, tính vô hạn trong tư duy của Husserl là cực kỳ năng suất và sáng tạo, vì nó (ít nhất) cũng dạy chúng ta rằng - với cách tư duy của Husserl - luôn có nhiều thứ để thấy, nhiều thứ để hiểu và nhiều thứ để học hỏi. Vì đối với Husserl, thế giới là một hệ thống quy chiếu mở có chủ đích, nên triết học của ông cũng vậy (mặc dù bản thân Husserl không coi đây là đặc điểm nhất thiết thực chứng thuộc hệ thống của mình).
Trong cuốn sách này, tôi sẽ cố gắng kết nối một quan điểm và lập trường phương pháp luận cẩn trọng, từ đó xuất hiện suy tư triết học và phân tích hiện tượng luận, với phép phân tích hiện tượng phong phú mà Husserl đưa ra. Ngoài việc tìm ra sự kết hợp hiệu quả giữa phương pháp và kinh nghiệm, tôi cố gắng mở ra những con đường lịch sử mới có thể khiến tư duy của Husserl dễ tiếp cận hơn từ bên ngoài. Chẳng hạn, nỗ lực này bao gồm việc kết nối khái niệm affection - xúc cảm của Husserl với Fichte và Levinas, mà tôi thực hiện trong phần 2.2 và 2.3. Tôi cho rằng những nhịp cầu này giúp cho chúng ta thấy được quyền lực tư tưởng của Husserl và thấy được tư duy của ông đóng vai trò trung tâm ra sao đối với sự phát triển của triết học Châu Âu. Công trình của tôi được soạn theo quan điểm tránh tập trung vào các văn bản kinh điển của Husserl, chẳng hạn như Logical Investigations Khảo sát Logic hay Crisis Khủng hoảng, mà thay bằng việc chủ yếu tập trung vào những gì Husserl đã viết sau năm 1912. Theo đó, văn bản này không có ý định giới thiệu chung về tư tưởng của Husserl. Vì đã có một số văn bản bậc thầy, chẳng hạn như Hiện tượng luận Husserl của Dan Zahavi và Edmund Husserl: Ông tổ Hiện tượng luận của Dermot Moran có sẵn trên thị trường, nên tôi tin rằng không cần phải có thêm một giới thiệu nữa về Hiện tượng luận Husserl. “Nhìn lại”, trên thực tế, có nghĩa là tôi khảo sát các chủ đề quen thuộc, chẳng hạn như phép quy giảm (Chương I), cơ thể sống (Chương II) và chủ thể tính (Chương III), mà không lặp lại, bằng một quan điểm mới và được làm mới, có tính đến những thay đổi, phá bỏ của Husserl, và đặc biệt là Quá trình hậu Ý tưởng của ông. Do đó, diễn giải của tôi về tư tưởng của Husserl cố gắng phải mang tính biến đổi mà không phá hủy những hiểu biết sâu sắc của ông. Theo đúng nghĩa, cuốn sách này nên được coi là một sự phát triển hơn nữa một số khía cạnh nhất định, mà Don Welton, trong cuốn The Other Husserl – Kẻ Husserl khác đầy ấn tượng của ông, đã thực hiện thành công.
Chi tiết hơn, trong Chương I (Hiện tượng luận), tôi khảo sát lại các giả định phương pháp luận trung tâm của hiện tượng luận Husserl. Ở đây, dựa vào khối lượng lớn văn liệu về các vấn đề phương pháp luận Husserl, vốn bỏ qua cơ sở thực sự của phương pháp Husserl, tôi cho rằng cần phải tính đến các cội nguồn tư duy của Husserl trong các hoạt động hàng ngày. Bằng cách làm này, tôi đưa ra một cách diễn giải mới, độc đáo về hoạt động hiện tượng luận và về cái mà Husserl gọi là epochē (treo phán đoán lại), từ đó dẫn chúng ta đến hiểu biết tốt hơn về cách thức mà hiện tượng luận là một phương pháp và một hình thức khảo sát triết học, dựa trên kinh nghiệm người, không xa lạ với ý thức hàng ngày, mà lại có thể bắt nguồn từ đó. Tôi chỉ ra tư duy của Husserl, khi được hiểu một cách đúng đắn, có nguồn gốc từ sự kết hợp giữa năng lực tưởng tượng và hành động chơi (động cơ một và hai), bản thân nó có cơ sở cho hiện tượng hiểu lầm (động cơ ba). Bằng cách phân tích các khái niệm nói trên trong mối quan hệ với phương pháp luận của Husserl, tôi đưa ra lời đáp cho câu hỏi được thảo luận gắt gao là làm thế nào để có thể hiểu đúng tư duy hiện tượng luận như một hoạt động triết học cụ thể.
Tôi đưa ra câu trả lời của mình theo một số bước: thứ nhất, hoạt động tư duy hiện tượng luận, theo Husserl, không dựa trên các kết nối suy luận, mà dựa trên một hoạt động trước đó, cụ thể là hoạt động của năng lực tưởng tượng. Tư duy với tư cách là việc khảo sát các khái niệm (bản chất) theo cách thức hiện tượng luận có nghĩa là sáng tạo và tìm ra các khái niệm đó bằng hoạt động tưởng tượng. Trong khi hầu hết các diễn giải hiện hành về Husserl đều khẳng định rằng phản ánh là nguồn gốc độc lập của hiện tượng luận, ngược lại với các lập trường này, tôi khẳng định rằng trí tưởng tượng năng sản nên được coi là nguồn gốc của phản ánh. Theo đó, hiện tượng luận không thể được các nhà tư tưởng thực hiện nếu không có Einbildungskraft năng lực tưởng tượng. Tôi sẽ chỉ ra rằng, trí tưởng tượng, được hiểu như một sức mạnh thực nghiệm và là điều kiện cho hiện tượng luận, phải được bắt nguồn từ hoạt động nhân học và hàng ngày thông thường, mà từ đó trí tưởng tượng triết học và hiện tượng luận chân chính có thể xuất hiện.
Như tôi khẳng định, gốc rễ này là đang chơi, vì khi chơi, cá nhân suy nghĩ kết hợp hai khía cạnh quan trọng đối với hiện tượng luận: một mặt, cá nhân đang “thử nghiệm” và chơi với các khả tính; mặt khác, chỉ có thể thực hiện điều này bằng cách tuân theo các quy tắc. Phân tích độc đáo của tôi làm sáng tỏ khẳng định của Husserl cho rằng tư duy về các “bản chất” có nghĩa là tư duy bằng các khả tính. Theo đó, cái gọi là eidetic intuition - trực giác ký tượng của Husserl và eidetic method -phương pháp ký tượng đi kèm có thể được bắt nguồn từ mối quan hệ giữa các khả tính “thử nghiệm” vui chơi, sáng tạo và, như một điều kiện của hoạt động này, là tuân thủ quy tắc. Theo cách này, hiện tượng luận quan tâm đến các quy tắc cấu thành “tư duy”. Cuối cùng, hoạt động hiện tượng luận, được hiểu dưới hình thức tưởng tượng và chơi, có thể bắt nguồn từ những cuộc chạm trán với các hiện tượng không hiểu và hiểu sai. Nói cách khác, trước khi hiện tượng luận có thể bắt đầu với công việc của mình, thì cần phải khảo sát một “hiện tượng” cơ bản, cụ thể là hiện tượng tối hậu thúc đẩy (ngay cả) hiện tượng luận siêu việt: sự thiếu hiểu biết làm phát sinh việc tìm kiếm một cách hợp lý sự hiểu biết. Tôi cũng chỉ ra rằng Husserl đã theo đuổi cái nhìn sâu sắc này khi ông phát triển khía cạnh “di truyền” trong phương pháp luận của mình. Nhìn chung, trong Chương đầu tiên này, tôi chỉ ra một số khái niệm nhất định, chẳng hạn như epochē (treo phán đoán lại), “quy giản” và “đặt trong ngoặc”, được hết sức nhấn mạnh khi quan niệm đơn thuần là các khái niệm phương pháp luận. Thay vào đó, các khái niệm ấy cần được hiểu là các hoạt động và trải nghiệm cụ thể của con người đã biến đổi.
Như đã đề cập ở trên, Chương II (“Tính xúc cảm”) sẽ tái cấu trúc gấp ba trải nghiệm người (xúc cảm, chủ thể tính, kinh nghiệm) bắt đầu với khái niệm xúc cảm. Chống lại những gì mà nhiều học giả (chẳng hạn như Henry) tuyên bố, tôi khẳng định rằng các hiện tượng cảm giác (sensation) và xúc cảm (affection) vốn mở ra các mối quan hệ thế giới của chúng ta ở mức độ cơ bản, không thể được phân tích tách rời khỏi trải nghiệm thế giới. Thay vào đó, tính xúc cảm (1) là khoảnh khắc trải nghiệm thế giới quy mô lớn của chúng ta, (2) nằm trong cơ thể, và hơn nữa (3) phải được hiểu trong bối cảnh định chuẩn và đạo đức học, như Husserl chỉ ra trong nhiều bản thảo chưa được công bố. Tôi sẽ tái dựng lập trường của ông một cách có hệ thống, vì theo quan điểm của tôi, lý thuyết dữ liệu-giác quan chỉ có thể được vượt qua nếu người ta có thể chỉ ra rằng bản thân cảm giác đã là một quá trình định chuẩn, trong đó chúng ta gặp gỡ thế giới và bản thân ở cấp độ nguyên-đạo đức học. Tôi chứng minh điều này bằng cách phân tích chặt chẽ hiện tượng cảm giác nói chung và hiện tượng đau đớn nói riêng. Sau khi hoàn thành công việc ấy, tôi sẽ khép lại chương này bằng cách đối chiếu lập trường của Husserl với hai nhà tư tưởng khác gắn kết chặt chẽ với những ý tưởng chính của ông, đó là (hướng tương lai) Levinas và (hướng quá khứ) Fichte. Đối với cả Levinas và Fichte, cảm giác và xúc cảm là những khoảnh khắc trải nghiệm của chúng ta, mở ra mối quan hệ của chúng ta với trải nghiệm thế giới và kẻ khác. Bằng cách đề cập đến hai nhà tư tưởng này (điều chưa hè có đối với Fichte), lập trường của Husserl sẽ được minh định. Chương ba (“Chủ thể tính”) xuất trình phân tích về yếu tố cốt lõi của trải nghiệm thế giới, là yếu tố tự-cấu thành của các chủ thể trong và thông qua mối quan hệ của họ với (các) quá khứ của mình. Với Husserl, tôi cẩn thận phân tích kinh nghiệm quá khứ tạo nên thế giới của chúng ta mà nếu không có nó thì chủ thể tính sẽ không thể tư duy được. Tôi xem xét hiểu biết của Husserl về ký ức, là thứ có thể được xem như một khái niệm đẩy dự án của Husserl đến những giới hạn của nó, trong chừng mực ký ức không thể được tái tạo hoàn toàn bằng khuôn khổ siêu việt. Thật vậy, quá khứ là một chiều kích không thể hiểu được hoàn toàn bằng hiện tượng luận siêu việt, mặc dù quá khứ của tự ngã cấu thành chính nó ở dạng không có sẵn.
Theo đó, cuối cùng trong cuốn sách này tôi biện hộ cho tầm nhìn sâu sắc cho rằng thế giới và trải nghiệm thế giới có trước bất kỳ tường trình siêu việt nào về thế giới, cuối cùng cho thấy cả những giới hạn của hiện tượng luận siêu vệt và cùng với đó, là tự-diễn giải quá-duy lý hóa của Husserl. Có một khoảng cách rất lớn giữa các phân tích cụ thể của Husserl và các phản ánh phương pháp luận của ông. Về mối liên hệ này, tôi cho rằng Husserl chưa bao giờ thực sự dung hòa hai khía cạnh này trong triết học của mình, và diễn ngôn hiện tượng luận của thế kỷ trước dường như xác nhận ấn tượng này. Ví dụ, Husserl - như chúng ta đã biết - không tán thành cách phát triển mới về hiện tượng luận của Heidegger, và chúng ta có thể thêm rằng ông sẽ không bao giờ “cho phép” Sartre bước vào “thánh đường” của triết học siêu việt. Tuy nhiên, ngay cả những Husserlians “ròng” của diễn ngôn đương đại cũng không đi xa được như chính Husserl. Có lẽ là như vậy, tôi hy vọng rằng ngay cả độc giả không đồng ý với lập trường toàn là hoài nghi của tôi đối với những khẳng định tuyệt đối luận của Husserl cũng sẽ tìm thấy một số hiểu biết mới về những khía cạnh còn khá ẩn kín trong tư tưởng của Husserl.
_______________________________________
(Còn nữa…)
Nguồn: Lotz Ch. (2007). From Affectivity to Subjectivity - Husserl’s Phenomenology Revisited, published by Palgrave Macmillan.
Tác giả: Christian Lotz (sinh ngày 21 tháng 2 năm 1970 tại Wuppertal, Đức) là một triết gia người Mỹ gốc Đức hiện đang giảng dạy tại Đại học Bang Michigan. Các công trình của Lotz chủ yếu tập trung vào triết học châu Âu thế kỷ 19 và 20 (đặc biệt là triết học Đức), mỹ học lục địa, lý thuyết phê phán, chủ nghĩa Mác và triết học chính trị châu Âu đương đại. Lotz nhận bằng Thạc sĩ triết học, xã hội học và lịch sử nghệ thuật tại Đại học Otto Friedrich ở Bamberg năm 1997 và bằng Tiến sĩ về triết học tại Đại học Philipps Marburg năm 2002. Ông là Nghiên cứu viên từ năm 2000 đến năm 2002 tại Đại học Emory, giảng dạy tại Đại học Seattle và Đại học Kansas, Đại học Công nghệ Brandenburg vào năm 2011 và 2013. Lotz hiện là Giáo sư Triết học, Phó Chủ nhiệm Khoa và Giám đốc Chương trình Sau Đại học, Khoa Triết học, Đại học Bang Michigan.
Tài liệu tham khảo
Fichte, Johann Gottlieb 1971: Fichtes sämmtliche Werke. I. H. Fichte, ed. Berlin: De Gruyter.
Fichte, Johann Gottlieb 1988: Grundlage der gesamten Wissenschaftslehre (1794). Hamburg: Meiner.
Heidegger, Martin 1985: Sein und Zeit. 16th ed. Tübingen: Niemeyer [cited as SuZ].
Heidegger, Martin 1994: Prolegomena zur Geschichte des Zeitbegriffs (Sommersemester 1925), P. Jaeger, ed. Frankfurt: Klostermann.
Heidegger, Martin 1996: Being and Time. Trans. J. Stambough. New York: SUNY Press.
Henry, Michel 1992: Radikale Lebensphänomenologie. Ausgewählte Studien zur Phänomenologie. Freiburg: Alber.
Husserl, Edmund 1950ff.: Husserliana – Gesammelte Werke. Dordrecht/Den Haag: Kluwer/ Martinus Nijhoff.
Husserl, Edmund 1980ff.: Husserliana – Collected Works. Dordrecht/Den Haag: Kluwer/ Martinus Nijhoff.
Husserl, Edmund 1964: The Paris Lectures. Trans. Peter Koestenbaum. The Hague: Martinus Nijhoff, 1964.
Husserl, Edmund 1981: “Renewal: Its Problem and Method.” Trans. Jeffner Allen. In Husserl: Shorter Works. Peter McCormick and Frederick A. Elliston eds. Notre Dame: University of Notre Dame Press, 326–331.
Husserl, Edmund 1981ff: Husserliana – Dokumente. Dordrecht/Den Haag: Kluwer [cited as HuaDok].
Husserl, Edmund 1985: Erfahrung und Urteil. Untersuchungen zur Genealogie der Logik, edited and revised by Ludwig Landgrebe. Hamburg: Meiner. [cited as EU].
Husserl, Edmund 1996: “Wert des Lebens. Wert der Welt. Sittlichkeit (Tugend) und Glückseligkeit <Februar 1923>,”in Husserl Studies 13/3. Ulrich Melle, ed. 201–235 [cited as Wert].
Husserl, Edmund 2000: “Phänomenologische Methode und phänomenologische Philosophie <Londoner Vorträge 1922>,” in Husserl Studies 16. Berndt Gossens, ed., 183–254.
Lévinas, Emmanuel 1969: Totality and Infinity. Trans. A. Lingis. Pittsburgh: Duquesne University Press.
Lévinas, Emmanuel 1981: Otherwise than Being or Beyond Essence. Trans. A. Lingis. The Hague: Martinus Nijhoff, 1981.
Lévinas, Emmanuel 1986: “Phenomenology and the Non-Theoretical.” Trans. J. N. Kraay and A. J. Scholten. Facts and Values. M. C. Doeser and J. N. Kraay eds. Dordrecht: Martinus Nijhoff, 109–119.
Lévinas, Emmanuel 1989: Humanismus des anderen Menschen. Hamburg: Meiner.
Lévinas, Emmanuel 1993: Outside the Subject. Trans. Michael B. Smith. Stanford: Stanford University Press.
Lévinas, Emmanuel 1995: Edmund Husserl’s Theory of Intuition. Evanston: Northwestern University Press.
Lévinas, Emmanuel 1998: Collected Philosophical Papers. Trans. A. Lingis. Pittsburgh: Duquesne University Press.
Lévinas, Emmanuel 2003: Humanism and the Other. Trans. Nidra Poller. Champaign: University of Illinois Press.
Moran, Dermot 2000: Introduction to Phenomenology, London: Routledge.
Moran, Dermot 2005: Edmund Husserl. Founder of Phenomenology. London: Polity Press.
Sartre, Jean-Paul 1956: Being and Nothingness: An Essay on Phenomenological Ontology. Trans. Hazel E. Barnes. New York: Philosophical Library.
Sartre, Jean-Paul 1993: Das Sein und das Nichts. Versuch einer phänomenologischen Ontologie. Reinbek bei Hamburg: Rowohlt.
Sartre, Jean-Paul 2000: Der Existentialismus ist ein Humanismus und andere philosophische Essays 1943–1948. Reinbek bei Hamburg: Rowohlt.
Welton, Donn 1998: “Affectivity, Eros, and the Body,” in Body and Flesh: A Philosophical Reader. Donn Welton, ed. Oxford: Blackwell, 181–206.
Welton, Donn 1999a: “Soft, Smooth Hands: Husserl’s Phenomenology of the Lived-Body,” in The Body: Classic and Contemporary Readings. Donn Welton ed. Oxford: Blackwell, 38–56.
Welton, Donn 1999b: Touching Hands. Unpublished manuscript.
Welton, Donn 2000: The Other Husserl. Bloomington: Indiana University Press.
Zahavi, Dan 1998a: “Self-Awareness and Affection,” in Alterity and Facticity: New Perspectives on Husserl. Natalie Depraz and Dan Zahavi, eds. Dordrecht: Kluwer Academic Publishers, 205–228.
Zahavi, Dan 1998b: “The Fracture of Self-Awareness,” in Self-Awareness, Temporality, and Alterity: Central Topics in Phenomenology. Dan Zahavi, ed. Dordrecht: Kluwer Academic Publishers, 21–40.
Zahavi, Dan 1999: Self-Awareness and Alterity: A Phenomenological Investigation. Evanston, IL: Northwestern University Press.
Zahavi, Dan 2001: Husserl and Transcendental Intersubjectivity: A Response to the Linguistic-pragmatic Critique. Athens: Ohio University Press.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét