F.
Bottéro & Christoph Harbsmeier
Người
dịch: Hà Hữu Nga
Ý
nghĩa của Lối
viết Ký
tự Đầu mục từ
Ký tự đầu mục từ trong từ điển của
Hứa Thận không phải là kiểu chữ tiêu chuẩn và kiểu lệ thư 隸書 - “kiểu chữ văn thư”- chiếm ưu thế vì được sử dụng để viết trên các thẻ tre trong thời đại ông, mà
là một lối viết khác, cổ hơn, lối viết tiểu triện 小篆, “kiểu chữ dấu triện nhỏ”. Lối viết tiểu triện này, mặc dù được
sử dụng rộng rãi trên các con dấu cũng như các đồ tạo tác quý giá khác, chắc chắn
không phải là cách viết chữ
Hán tiêu chuẩn trong hầu hết các bối cảnh khác. Thật ra thì hàng trăm ngàn thẻ tre làm chứng cho việc thực hành ghi chép
hàng ngày hiện tại từ thời Chiến Quốc muộn cho đến thời Hứa Thận. Tuy nhiên, Hứa Thận đã quyết định bỏ
qua thực hành ghi chép hiện tại này. Thay vào đó, ông nhập các ký tự tiểu triện như là các ký tự đầu mục
từ. Các ký tự đầu mục từ theo lối lệ thư được thêm vào để
thuận tiện trong tất cả các phiên bản Thuyết
Văn hiện đại không phải là một phần của văn bản Thuyết
Văn được thừa nhận rộng rãi, mà chỉ đại diện cho các
phần hiện đại được lồng vào. Vì Hứa Thận có thể đã bổ sung thêm các hình thức
lệ thư như vậy, thì tại sao ông lại không thấy nó
đáng để ông làm như vậy? Có
thể hình dung để thuận tiện cho độc
giả người Hán khi ông bổ
sung thêm các ký tự đầu mục
từ theo lối lệ thư, nhưng trong bối cảnh phân tích hệ thống các chữ của ông, thì
thực tế quyết định lại
là phân tích này không
được áp dụng cho các hình thức chữ
lệ thư, mà là cho
các hình thức chữ tiểu triện. Phân tích của Hứa Thận tiếp tục xác định các thành tố cấu trúc của mỗi ký tự
tiểu triện trong loại
chữ lệ thư, chứ không phải trong loại chữ triện.12
Nhưng tính không nhất quán
này vẫn vô hại miễn là không có những khác biệt đáng kể
về phương diện tự dạng
(graphologie - bút tích học) giữa loại chữ tiểu triện và các phiên bản lệ thư của các thành tố được xác định. Hứa Thận hẳn đã nhận thức
được nhiều vấn đề liên quan đến việc sử dụng các ký tự tiểu triện làm ký tự đầu mục từ và sau đó quy vào các yếu tố trong
các ký tự này dưới dạng ký tự lệ thư tiêu chuẩn của
chúng.
Điểm quan trọng cần
chú ý là ở chỗ việc
phân tích các từ của Hứa Thận là mang tính tự vị (graphème)
chứ không phải là cách
viết (graphie): ông không bao giờ giải
thích sự phân bố các nét trong một
ký tự hoặc bất kỳ cách thức viết
theo quy tắc hoặc khuyến nghị
nào. Mối quan tâm của ông trừu tượng hơn.
Ngay cả khi, thỉnh thoảng ông thảo luận về vị trí của một thành phần liên
quan đến các thành phần khác, nhưng
ông không bao giờ chạm
gần đến trật tự các nét và tương tự. Ông quan tâm đến những gì chúng ta có thể gọi là cấu trúc
thành phần trực tiếp của mỗi ký tự và bản chất của
những thành phần tham gia vào cấu trúc này. Những thành phần này không phải
là các ký tự mà là các tự vị. Giờ
đây, cấu trúc tự
vị của các từ nằm trong quan điểm của Hứa Thận, được thể hiện
rõ nhất trong sự đa dạng mang
tính phục cổ của những
cách viết chữ Hán truyền thống trong
thời ông, cụ thể là lối viết chữ tiểu triện. Lấy một ví dụ
trong số nhiều ví dụ có thể, chữ 弔 điếu (phúng viếng) theo lối viết lệ thư không chứa tự vị 人 nhân, trong khi phiên
bản tiểu triện lại có. Ở đây, như
thường lệ, chữ tiểu
triện thể hiện rõ về cấu trúc hơn các
chữ lệ thư chuẩn, và do đó
được sử dụng thuận lợi hơn cho cách tiếp cận phân tích của Hứa Thận. Xem thêm chữ sử “史: “从又持中”
(sử: tòng hựu trì trung): sử
có chữ hựu 又 ‘bàn tay’ như một thành phần
ngữ nghĩa nắm giữ 中
‘trung’ [HHN trộm chú: câu đầy đủ trong Thuyết văn là: 史,記事者也。从又持中。中,正也。凡史之屬皆从史。“Sử, ký sự giả dã; tòng hựu trì trung;
trung, chính dã; phàm sử chi thuộc giai tòng sử.” Ở đây cần lưu ý ký tự 中
‘trung’ trong chữ 史 sử, chữ sử này trong kim văn vẽ hẳn một bàn
tay người cầm chiếc cung quay lộn ngược xuống dưới, hình chiếc cung đó chẳng
khác nào chữ 中 ‘trung’, và đó là
chiếc cung toán,
dụng cụ khoan mai rùa để bói toán điềm lành dữ, và đây mới là bổn phận gốc của
chức quan này; các chữ sứ 使 (sứ giả, đi sứ); lại 吏 (lại viên, quan chức bậc thấp); sự 事 (việc, làm việc, thờ cúng) đều có gốc
từ chữ sử 史 này. Còn mệnh đề: 中,正也 trung, chính dã, như chúng ta đều biết
trung 中 kim văn vẽ hẳn cái
cung có mũi tên, nên ngoài nghĩa ‘ở giữa’ thì trung 中 còn có nghĩa là đúng, là (bắn) trúng
đích; còn gốc của chữ chính 正 được vẽ gồm hai phần, phần trên là một thành ấp hình vuông, phần
dưới là cái bàn chân đang tiến về thành ấp đó, nên chính 正 có nghĩa là đánh, là gốc của chữ
chinh (phạt, phục) 征 - HHN], và thư 書: “从聿者声”
(thư: tòng duật giả thanh): thư có chữ duật 聿 ‘bút lông’ như một thành phần
ngữ nghĩa và giả 者 là
thành phần ngữ âm” [Lại trộm chú: Chữ thư 書 là chữ hình thanh, gồm hai phần, phần trên là
chữ duật
聿 trong kim văn vẽ
hình bàn tay cầm chiếc bút lông để biểu nghĩa là ghi chép; còn phần dưới là chữ
giả 者
âm mới là zhě, còn âm cổ là zhū gần giống với âm shū của chữ thư 書 - HHN], trong đó cấu trúc thành phần được Hứa Thận quy cho là biểu hiện lối viết tiểu triện và đã biến mất
trong các phiên bản chữ
lệ thư.
Khoa kim thạch học (épigraphie - nghiên cứu về văn khắc trên đá và đồng) và cổ văn tự học (paléographie) đem lại cho chúng ta cái
nhìn sâu sắc hơn bao giờ hết về các biến thể cách viết các ký tự Hán trong các văn bản cổ phát quật được. Hứa Thận vẫn khá thờ ơ với
nhiều cách thức tuyệt vời mà trong đó một thành phần cách viết nhất định có thể
được thể hiện trong các văn bản kim
thạch học của thời đại mình
mà ông phải rất quen
thuộc. Các ký tự biến
thể của ông luôn luôn tạo
thành các biến thể tự
vị mà không chỉ là
các biến thể (allographes về bộ và nét - HHN) giống hệt nhau về
mặt cấu trúc. Việc một chữ có thể được viết
theo những cách rất khác nhau
không khiến Hứa Thận quan tâm cho đến
khi biến thể ấy ảnh hưởng đến cấu
trúc cấu thành tự
vị. Điều chúng tôi muốn nói đến bằng phân tích tự vị là việc tập trung vào cấu
trúc thành phần trừu tượng của các ký tự và sự trừu tượng
hóa từ sự biến đổi các
loại hình văn khắc trong việc thực hiện các cách viết của các yếu tố tự vị tương tự. Và những
gì mà việc phân tích tự dạng (graphologie
- bút tích học) trong hệ thống Thuyết
Văn bổ sung thêm vào phân
tích tự vị chính là những quy cách loại hình học của các thành phần
tự vị. Do đó, đây là một
phần của phân tích tự
dạng (graphologie - bút tích học) của chữ thượng 上 mà chữ này “đề cập (bằng hình
tượng) đến một thứ gì đó” (zhi
shi – chỉ sự HHN), nhưng về phương diện tự vị - theo cách diễn giải này – thì chữ này không thể phân
tích được.13 Tham vọng trí tuệ của Hứa Thận hóa ra không chỉ
đơn thuần là cung cấp một phân tích tự
vị của các ký tự được sử dụng
trong kinh điển thời ông, mà còn sử dụng lối viết tiểu triện như một phương
tiện để quay trở lại lịch sử, hay phong
cách viết từ nguyên của
chữ Hán. Vậy
thì người ta có thể hỏi tại sao, ông
đã không quay trở lại đến
tận các văn bản kim văn mà dường như ông đã có một số khả năng tiếp cận hạn chế. Đối với câu hỏi quan trọng này, có
một câu trả lời đơn giản: vì bất kỳ từ điển nào như 漢語大字典 Hán
ngữ Đại Tự điển đều cho thấy,14
ngay cả ngày nay, với việc văn khắc trên đồng được phát quật ngày càng nhiều, thì phần lớn trong Thuyết
Văn có thể thấy không có các ký tự kim văn 金文 tương ứng. Do đó, Hứa Thận chỉ có thể đề cập
đến các loại văn bản trước đó như vậy một cách tình cờ, khi ông có sẵn cho mình và khi chúng cung cấp bằng chứng
liên quan đến phân tích tự
dạng của ông. Việc lựa chọn cách viết tiểu triện cho phép Hứa Thận quay trở lại quá khứ càng xa càng tốt
khi người ta đang tìm kiếm một bộ ký tự hoàn chỉnh hợp lý cho số lượng lớn các cách viết mà ông muốn thảo luận.
Bộ
thủ
Nguyên tắc sắp xếp trật tự đầu tiên của từ điển Hứa Thận, là tổ chức toàn bộ 9.353 ký tự dưới 540 “bộ thủ”, hoặc công cụ phân loại.15 Nguyên tắc tiếp theo là mỗi bộ thủ này đều được mô tả tự dạng phức tạp có cấu trúc không chính thức ở ký tự đầu của 540 mục từ của nó. Tất cả các ký tự (với ngoại lệ quan trọng của chính các bộ thủ) đều được gộp vào dưới 540 bộ thủ. Rõ ràng là tổng số bộ thủ trong cách nhìn của Hứa Thận đều quan trọng hơn là việc sử dụng theo chức năng của chúng. Trong số 540 bộ thủ, có 36 bộ không có ký tự nào được gộp vào. Có ý kiến cho rằng con số 540 là sản phẩm của phép nhân các số tượng trưng cho Âm và Dương (6 x 9 = 54) và để có đủ số lượng công cụ phân loại đủ theo mục đích phân loại của mình, Hứa Thận đã nhân 54 với 10, và cuối cùng có được con số 540.16 Có lẽ Hứa Thận đã chọn số 10 vì nó đại diện cho con số mà ông định nghĩa là “con số hoàn hảo”.17 Số mười thực sự được đánh bóng là “sự toàn hảo của dãy số” và ký tự này (十) được giải thích bao gồm bốn chính phương và trung tâm (nghĩa là năm hướng). Không phải tất cả các bộ thủ đều có thể được sử dụng để viết các từ: ví dụ: các bộ thủ khảm 凵, vi 囗, miên 宀, trác 丵, nhược 叒, v.v., là các yếu tố lặp lại trong các ký tự, nhưng bản thân chúng không phải là các ký tự hoàn chỉnh. Vì không đại diện cho các từ, nên ipso facto tự thân chúng không bao giờ được phát âm theo cách thông thường, và người ta phải hỏi làm thế nào để có bất kỳ cách phát âm nào đó có thể được gán cho chúng. Chúng tôi kết luận rằng cách đọc các bộ thủ phải được các nhà biên soạn từ điển phát minh ra.18 Phải chỉ ra rằng các bộ thủ không giống như các yếu tố không thể phân tích thành các thành phần. Cấu trúc tự dạng nội tại của các bộ thủ thường được giải thích trong Thuyết Văn, như khi lời nói bộ thủ ngôn 言 được diễn đạt một cách chính xác với tòng khẩu 从口 (“có bộ khẩu như một thành tố ngữ nghĩa”). Các bộ thủ phức tạp như vậy tạo thành một tập hợp các cách viết mà trên thực tế không thể phục hồi được dưới các thành phần ngữ nghĩa chính công khai của chúng. Chúng ta có thể nói rằng chúng là “tòng nhi bất chúc 从而不屬,” theo nghĩa: chúng có một bộ thủ là thành phần ngữ nghĩa chính của mình, nhưng thực tế lại không thuộc về bộ thủ đó. Do vậy, người ta bác bỏ sự khái quát hóa hiện tại cho rằng các cách viết trong Thuyết Văn có thể thuộc thành phần ngữ nghĩa chính của chúng.
Một điều bất thường khác nữa là: có đến tận 36 bộ thủ không sinh sản, nghĩa là chúng là
các bộ thủ mà không hề
tạo ra được từ nào thuộc
về mình. Một phần của cách giải thích về sự bất
thường này là trong thực tế điều
mà Hứa Thận cần là
phải có được con số thần thông gồm 540 bộ thủ. Nhưng nếu một ký
tự mà không thể hoặc khó phân tích theo hệ thống của Hứa Thận thì việc tuyên bố
nó là một bộ thủ sẽ buộc phải tìm được cho nó một vị trí trong hệ thống đó. Các số 三, 四, 五, 六, và 七 (ba, bốn, năm, sáu và bảy) đều được nhập vào
dưới dạng các bộ
thủ “vô nữ tử” vô sinh: các ký tự này được hiểu là các “số nguyên tố” không thể phân tích được, không có chức
năng nào khác trong hệ thống tự
vị. Người ta thường cho rằng các bộ thủ tạo thành một hệ
thống phục hồi từ vựng tiên tiến cho các ký tự Hán, và không hề nghi ngờ gì rằng
đây thực sự là cách mà
chúng đã bắt
đầu vận hành mất nhiều thời gian và vận
hành trong thực tế. Trong khi đó, chức năng lý thuyết của chúng trong Thuyết
Văn có liên quan đến việc hệ thống hóa các thành phần chủ
yếu phi ngữ âm trong các ký tự Hán. Vai trò ngữ âm của các thành phần được xác định rõ ràng bằng thuật ngữ kỹ
thuật ‘thanh’ shēng 聲, trong khi
đó một thành phần phi ngữ âm X rõ ràng không được mô
tả là “ngữ nghĩa”; mặc dù chúng tôi phát
hiện ra lý do để dịch thuật ngữ kỹ thuật “tòng
从 X” vì “có X là một thành
phần cấu trúc ngữ nghĩa”: như chúng ta sẽ thảo luận ngay sau đây, các thành phần
phi ngữ âm thường được Hứa
Thận hiểu là ngữ nghĩa. Các thành phần được giới thiệu theo cách này đôi khi có
thể được gán một chức năng ngữ âm thứ cấp bổ sung theo công thức “X yì shēng, X 亦 聲 – X diệc thanh (“X cũng là ngữ âm”).
Phải nói rằng một
số lượng khá lớn các bộ thủ, và không chỉ những
bộ thủ “vô nữ tử” vô sinh kia, ít hoặc không đem lại cái nhìn sâu xa về bất kỳ đặc điểm ngữ nghĩa nào của các ký tự thuộc các bộ thủ đó. Mặc dù đúng là
các ký tự có bộ thủ bộ ngư 魚 có ý nghĩa liên quan đến cá,
nhưng bộ thủ ‘chủ’ zhŭ 丶, được xác định là dấu đánh để ghi nhớ hoặc phân biệt, hoặc dấu chấm trong câu văn, không thể xác định
được có liên quan với những gì Hứa
Thận coi là nghĩa “bấc đèn” phù hợp về mặt tự dạng, của ký tự zhŭ 主 (sau này được viết
tiêu chuẩn là ‘chú’ zhù 炷: bấc đèn, tim
đèn, nén nhang, đốt - HHN) mà ông biết hiện đang là từ nói về người cai trị, người chủ, vua chúa: điều quan trọng
là Hứa Thận chỉ xem xét ý
nghĩa của từ này vốn
có liên quan đến việc giải thích lối viết của nó. Hơn nữa, trong
trường hợp này, Hứa
Thận tuyên bố bộ
thủ đồng thời phải
là ngữ âm: 丶亦聲 (“chủ
diệc thanh – chủ cũng là ngữ âm”). Mặc dù có các trường hợp như ví dụ này, nhưng các bộ thủ vẫn xác định một tập
hợp các thành phần lặp
lại chủ yếu phi ngữ âm
có liên quan đến sự phân loại ngữ nghĩa của các từ. Chúng cần thiết cho việc
phân tích tự dạng của các ký tự, và đôi khi
chúng rất hữu ích cho việc tích hợp các ký tự vào các sơ đồ vũ
trụ luận của Hứa Thận. Các bộ thủ này chỉ tình cờ thuận tiện cho việc phục hồi trong các từ điển của các tự dạng có chứa chúng. Công thức “X tòng 从 Y” thường chỉ ra rằng
một thành phần trong một
tự dạng nhất định thường mang
tính ngữ nghĩa và không chỉ (là) ngữ âm. Bất cứ khi nào Hứa Thận đưa ra các nguyên do hoặc các giải thích cho việc
sử dụng công thức
“X tòng 从 Y”, thì hóa ra ông quan tâm đến việc giải thích ngữ nghĩa cho sự
hiện diện tự nhiên của nguyên tố Y trong một tự dạng X với ý nghĩa mà ông đã gán cho tự dạng đó trong việc giải nghĩa đánh bóng của mình. Do đó, mặc dù Hứa Thận không có thuật
ngữ ngữ nghĩa rõ ràng tương tự tương ứng với công cụ xác định ngữ âm ‘thanh’ shēng 聲, nhưng có những nguyên do nội tại rõ ràng để khẳng định rằng
công thức “X tòng
从 Y” thực sự quy
gán một cách điển hình các yếu tố ngữ nghĩa.19
Các mục từ về các bộ thủ với tư cách là các ký tự đầu mục từ trong Thuyết
Văn thường phân tán hơn nhiều so với các mục từ khác. Chúng thể hiện một sở thích bách khoa chỉ là ngẫu nhiên so với phần còn lại của
bộ từ điển. Mỗi phần
của Thuyết Văn được hình thành như một chương trong một cuốn
sách mà mục từ về bản thân bộ thủ này được dùng như một loại giới thiệu.
Trong mỗi chương này, việc sắp xếp tài liệu, mặc dù thường tản mạn và không thể
đoán trước, nhưng không phải lúc
nào cũng tùy tiện. Một số lượng lớn chuỗi ngữ nghĩa cấu trúc nên văn bản này, mặc dù có một số
thiếu sót nổi bật trong chuỗi này, cụ thể là, người ta mong muốn các ký tự theo một chuỗi, nhưng lại thấy ở những vị trí tùy tiện nào đó thuộc cùng một bộ thủ. Chỉ riêng bộ tâm 心, chúng tôi đã
xác định được chuỗi sau: chuỗi hoan
lạc (14-16) (3 mục từ), chuỗi trí lực (31-33) (3 mục từ), chuỗi tình cảm
(40-(42)-44) (4 mục
từ), chuỗi tư tưởng: (59-(61)-63) (4
mục từ), chuỗi lo sợ 120 (69-70) (2 mục từ), chuỗi nỗ lực (84 - (+ 86)-87-(+ 88)) (3 đến
5 mục từ), chuỗi bình tâm (93-94) (2 mục từ), chuỗi xao xuyến/ háo hức
(106-(110)-112) (6 mục
từ), chuỗi biểu hiện ngu đần (123-127) (5 mục từ), chuỗi thiếu siêng năng
(132-136) (5 mục từ), chuỗi sơ suất (139-142) (4 mục từ), chuỗi khinh khi (143-144) (2 mục từ), chuỗi phẫn nộ
(168-(177)-180) (12 mục
từ), chuỗi bất mãn (181-189) (9 mục từ), chuỗi từ chối (194-205) (12 mục), chuỗi chuyển động (207-209) (3 mục từ), chuỗi lo âu (211-(232)-233) (22 mục từ), chuỗi hốt hoảng 2 (238-(244)-249)
(11 mục từ), chuỗi hổ thẹn/ nhục nhã (251-256) (6 mục từ).
Mặc dù trong tất
cả các loạt mục từ này, không có nỗ
lực nào nhằm tổ chức tổng thể
tài liệu theo từng bộ
thủ, ngoại trừ các ký tự nhị
thức-đồng nghĩa có xu hướng được nhập vào từ điển cùng nhau, và theo thứ tự xuất
hiện của chúng theo nhị thức. Do đó, ‘trù’ chóu 惆 buồn bã sẽ phải đứng trước ‘trướng’ chàng 悵 buồn bã trong Thuyết Văn vì tiền tệ của từ đồng nghĩa là ‘trù trướng’ chóu
chàng 惆悵 “buồn rầu”. Hơn nữa, chúng
tôi cũng nhận thấy rằng
các thuật ngữ tích cực có xu hướng đi trước các thuật ngữ tiêu cực sao cho một phần bộ thủ bần cùng mới phải bắt đầu bằng từ mang nghĩa tiêu cực. Mặt khác, có một
sự tích lũy nổi bật các
từ mang ý nghĩa tiêu cực vào cuối phần bộ thủ ‘tâm’ 心
hiện tại của chúng ta. Lại
đáng kinh ngạc
là bộ thủ ‘khẩu’ (口)
bắt đầu bằng những từ thú vị về tiếng khóc của em bé và kết thúc bằng tiếng
khạc nhổ, phiền não, im lặng và âm
thanh động vật. Cũng lưu ý trường hợp bộ thủ bộ ‘nữ’ (女), bắt đầu bằng các từ được đánh giá cao về tên họ và từ chỉ thanh nữ tới tuần cập kê, và kết thúc bằng
những từ liên quan đến những
điều xấu ác. Việc
gộp vào một bộ thủ không phải là vấn đề chẩn đoán ngữ nghĩa mang tính cơ học hay trực giản. Ví dụ, khá ít ký tự có ý nghĩa tâm lý
và chứa bộ thủ ‘tâm’ 心 không được phát hiện thấy trong phần bộ thủ ‘tâm’ 心, mặc dù thực tế
là Hứa Thận phải biết rằng
đây chính là nơi mà người ta sẽ tìm kiếm. Như
chúng tôi đã lưu ý ở trên, Hứa
Thận đã không tự
nhận thấy mình sử dụng các bộ
thủ như một hệ thống phục
hồi. Chúng chính là bộ công cụ khái niệm mang tính phân tích. Nếu việc xếp gộp chỉ là vấn đề chẩn
đoán ngữ nghĩa, thì
người ta có thể ngờ rằng Hứa
Thận cố gắng tập hợp tất cả các ký
tự có ý nghĩa tâm lý
rõ ràng có chứa các biến thể của cách
viết x…n 心 đại diện cho bộ tâm. Ví dụ, từ tâm lý phổ biến cao ‘ưu’ yōu 憂 (lo âu, phiền não) sẽ chỉ khiến hoài công tìm kiếm dưới theo bộ thủ tâm 心, và cũng hệt như vậy với trường hợp vì vậy từ ‘ái’ 愛 (yêu). Trong những
trường hợp như thế này, rõ ràng Hứa
Thận ưu tiên cho việc cân nhắc phân tích tự dạng (graphologie), và ông không quan tâm đến việc xem xét mức độ dễ dàng truy xuất từ vựng (nếu
khả năng truy xuất từ vựng thực sự là một phần động lực của ông). Phân loại của Hứa Thận chủ yếu thuộc về các kiểu viết, còn ý nghĩa chỉ là thứ yếu. Trong trường hợp như ‘ưu’ 憂 và ‘ái’ 愛, hóa ra ‘tâm’ 心 được gán vào lối viết chứ không phải là một thành phần trực
tiếp của từ đó. Do đó, những gì
các nhà ngôn ngữ học hiện đại gọi là phân tích cấu thành trực tiếp hóa ra là một
công cụ phương pháp
luận không thể thiếu để phân tích ký tự Hán, và Hứa Thận đã sử dụng công
cụ này từ 2.000 năm trước.
Hứa Thận, nhận thức một
cách sinh động về ý nghĩa hiện tại của từ ‘ái’ 愛, đã giải thích đánh bóng ký tự là ‘hành mạo’ xíng
mào 行皃 (mô tả về cách đi bộ), và ông liên hệ với ‘truy’ su…夂 (đi chậm)
với những gì ông nhận thấy như là ý nghĩa vận hành mang tính tự dạng của từ. Phần còn
lại của ký tự, ‘ái’ 愛 được phân tích
như một thành phần ngữ âm ghép, và thành phần ghép này diễn ra để chứa bộ thủ ‘tâm’ 心. Theo phân tích của Hứa Thận, ‘tâm’ 心 không phải là
thành phần ngữ âm cũng không phải là thành phần ngữ nghĩa trực tiếp trong cách viết này. Do đó, không thể có câu hỏi về việc nó là bộ thủ của ‘ái’ 愛 hay không. Chỉ các thành
phần trực tiếp mới có thể là bộ
thủ trong các ký
tự mà chúng là các
thành phần trực tiếp trong hệ thống của Hứa Thận, khi được dịch thành biệt ngữ của ngôn ngữ học hiện đại. Khi một
bộ thủ được chèn vào một
thành phần đơn hình khác, Hứa Thận đã đi xa đến mức
hình thành một thành phần lối
viết đứt đoạn để giải thích việc
tạo dựng lối viết. Trong mọi trường
hợp, ký tự ‘ái’ 愛 không thể nói là tòng
tâm 从心 (“có x…n như một thành phần trực tiếp”) trong hệ thống của Hứa Thận. Mối quan tâm trừu tượng của Hứa Thận đối với việc phân tích tự dạng đi xa đến mức ông hoàn toàn
không để ý đến các ý nghĩa hiện tại được
biết rất rõ của các từ chủ
chốt chữ Hán khi các nguyên tắc phân tích của ông đưa ông đến các kết
luận khác thường, như trong các
trường hợp của các
từ ‘ái’ ai 愛, ‘sở’ suo 所 và ‘chủ’ zhu 主, ở trên.
Chúng ta đã thấy rằng
không thể nào tất cả các ký tự mà người ta rõ ràng sẽ tìm kiếm thuộc bộ thủ tâm 心
được liệt kê thuộc
bộ thủ đó trong Thuyết Văn. Do đó, mọi người
sẽ tìm kiếm ‘tư’ sī 思 (nghĩ, suy tư) thuộc bộ thủ tâm 心
cho đến khi anh ta biết rằng Hứa
Thận coi ‘tư’ sī 思 là một bộ thủ phức tạp, bản
thân nó có bộ thủ tâm
心 là thành phần ngữ
nghĩa của nó nhưng không thuộc về bộ
thủ tâm 心.
Tất nhiên cũng đúng là không phải tất cả các ký tự có ý nghĩa tâm
lý rõ ràng đều có bộ
tâm 心 ở vị trí đầu tiên. Vì vậy, phần
của chúng ta về bộ tâm 心
thực sự là không làm cạn kiệt các mục từ của các ký tự với ý nghĩa tâm
lý. Leibniz có lẽ đã thất vọng khi thấy rằng không có mối quan hệ thường xuyên giữa sự hiện
diện của tâm lý đặc trưng và sự hiện diện của bộ tâm 心 trong các ký
tự có ý nghĩa cơ bản liên quan đến đặc trưng đó. Trong khi
một vài loại cá được viết mà không có bộ ngư 魚, nhiều loại khái niệm tâm lý hóa ra lại được viết mà không có bộ tâm 心. Chỉ có một trong bốn
loại cảm xúc chính, cụ thể là
‘ai’ āi 哀 (bi thương), ‘lạc’ lè 樂 “(vui thích), ‘hỉ’ xĭ
喜 (vui mừng), và ‘nộ’ nù 怒 (giận giữ), có bộ tâm 心. Hơn nữa, thật thú
vị khi lưu ý rằng từ
‘duyệt’ yuè 說 (vui lòng, đẹp lòng) đã được viết với bộ
tâm rất lâu sau khi nó trở thành hiện tại như được viết với bộ ‘ngôn’ yán
言.
‘Hiếu’ xiào
孝 (hiếu kính ông bà
cha mẹ) được viết mà không có bộ tâm 心 và ‘hảo’ hào
好 (tốt) cũng vậy. Trong thời Hứa Thận, động từ phổ biến nhất biểu thị “khao khát” là ‘dục’ yù 欲 và cách viết lúc đó được sử dụng để
viết từ đó không có bộ
tâm 心, cũng không có bất kỳ từ thông dụng nào khác để biểu thị “khao khát” hoặc “mong muốn” như ‘nguyện’ yuàn 願 (cầu mong, hy vọng), hoặc ‘vọng’ wàng 望 (ước
mong, mong mỏi). Thực tế là hệ thống chữ viết của chữ Hán rất khác so với hệ thống
chữ viết dựa trên khái niệm theo nghĩa Leibniz, xuất hiện rất rõ ràng trong Thuyết
Văn. Chỉ có một số ít các giải thích đánh bóng của Hứa Thận cho các lối viết có bộ thủ tâm 心 bản thân chúng được viết bằng chính bộ
tâm 心 đó. Mặt khác, bộ
tâm 心 thường được thêm vào các ký
tự có ý nghĩa tâm lý.21 Bàng Phác 龐樸,[1] trong một bản thảo chưa xuất bản năm 2004, đã thu hút sự chú ý của chúng
ta đến một thực tế quan trọng, trong các văn bản triết học được phát quật cũng như
trong các chương Phép Biện chứng Mặc Tử, về việc thêm bộ tâm 心 như một dấu hiệu biểu chỉ ý nghĩa tâm
lý trừu tượng. Nhưng thực tế ghi chép hạn chế này không bao giờ bắt đầu tiến gần đến việc thiết lập bất
kỳ thực hành thường xuyên nào về việc đánh dấu các thuật ngữ tâm lý bằng bộ tâm 心. Ngay cả trong trường
hợp từ ‘dục’ yù 慾 (nhu cầu, lòng ham muốn) thì việc bổ sung thêm bộ tâm 心 đã cho thấy một sắc thái
ngữ nghĩa của “khát
dục” vốn vắng mặt trong ‘dục’ yù 欲 (khao khát) không tâm 心 ở trên.
_____________________________________________
Còn nữa…
Nguồn: F. Bottéro and Christoph Harbsmeier, 2008, «The
Shuowen jiezi Dictionary and the Human
Sciences in China», Asia Major
Third Series, Volume 21, Part.
Tác
giả:
1.
Françoise Bottéro, giáo sư Hán học, Trung tâm Nghiên cứu Ngôn ngữ Đông Á, École des Hautes Études en Sciences Sociales.
Trưởng nhóm nghiên cứu Văn tự Trung Quốc. Lĩnh vực nghiên
cứu: Các phương pháp phân loại các ký tự Trung Quốc; Hệ thống ký tự trên giáp cốt văn; Lý thuyết văn
bản chữ hán, v.v…
2.
Christoph Harbsmeier là giáo sư Hán học tại Đại học Oslo. Ông là giáo sư danh dự
tại Đại học Bắc Kinh, Đại học Phúc Đán (Thượng Hải), Đại học Vũ Hán, Đại học
Chiết Giang, Đại học Sư
phạm Thượng Hải và Đại học Sư phạm Hoa Đông. Các công trình chính của ông là
lịch sử khoa học (logic), lịch
sử khái niệm, ngôn ngữ học lịch sử, và phim hoạt hình Trung Quốc hiện đại. Ông
là biên tập viên của dự án quốc tế Thesaurus Linguae Sericae 新編漢文典 Tân biên Hán văn
điển.
Ghi chú của người dịch:
Ghi chú của người dịch:
[1] Bàng Phác (1928
- 2015): Tự Nhược Mộc, nguyên danh Thanh Lộc, học giả đương đại nổi
tiếng Trung Quốc, là
nhà sử học văn hóa, nhà sử học triết học, chuyên gia nghiên cứu Phương Dĩ Trí (1611-1671, nhà sư, học
giả, nhà tư tưởng và nhà khoa học nổi tiếng cuối Minh, đầu Thanh). Sinh ra ở huyện Hoài Âm, tỉnh Giang Tô vào tháng 10 năm 1928. Tốt nghiệp Nghiên cứu sinh khoa Triết học
của Đại học Nhân dân Trung Quốc năm 1954. Ông là giảng viên tại Đại học Sơn Đông, Tổng biên tập tạp chí “Nghiên cứu Lịch
sử”, là nhà nghiên cứu của Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, thành viên ban biên tập
quốc tế của UNESCO “Lịch sử Phát triển Khoa học và Văn hóa Con người”, Giám đốc Trung
tâm Nghiên cứu Quốc tế về Tơ lụa, Giáo sư trọn đời của Đại học Sơn Đông. Phó
Chủ tịch Hội đồng Học viện và Giám đốc Ủy ban Học thuật. Chuyên sâu nghiên cứu lịch
sử triết học Trung Quốc, lịch sử tư tưởng, lịch sử văn hóa và sách thẻ tre được phát quật. Ông qua đời ở Tế Nam ngày 9 tháng 1 năm 2015 ở tuổi 86.
Ghi chú
Ghi chú
12.
No wonder the Qing-era scholar Duan Yucai is sometimes tempted to rewrite Xu
Shen’s text so as to bring the identification of constituents closer to the
small-seal script form. Duan Yucai 段玉裁 (1735–1815), Shuowen
jiezi zhu 說文解字注 (Shanghai: Guji
chubanshe, 1988).
13.
The fact that one might insist that this character should be read as hui yi 會意 “associating ideas”
because something X is depicted as being above a level Y is irrelevant to the present
discussion.
14.
Hanyu da cidian 漢語大詞典,
Luo Zhufeng 羅竹風, ed. (Shanghai:
Hanyu da cidian chubanshe, 1986–1993).
15.
Xu Shen points out that he has included 1,163 graphic variants, which together
with the 9,353 entries, add up to the number 10,516. This is sometimes said to
come close enough to wan wu 萬物 (“myriad
[all-encompassing kinds of] creatures).”
16.
Atsuji Tetsuji 阿辻哲次, Kanjigaku:
Setsumon kaiji no sekai 漢字学, 説文解字の世界 (Tokyo: T±kai daigaku shuppankai, 1985), pp.
135–72.
17. Bottéro, Sémantisme et
Classification, pp. 69–71.
18.
We note in passing that the horror vacui from which traditional
lexicographers have tended to suffer may well have induced them to provide
readings for many characters withoutreliably attested early readings.
19.
The isolated instances of X 从 Y 聲 are limited to
explanations for allographs, i.e., graphologicallydistinct alternative ways of
writing a given character. The pattern 或从X
聲 (“is
alternatively written with the constituent X which is phonetic”) in cases where
X is manifestly irrelevant semantically, provides explicit evidence to prove
that the technical term cong 从 could
occasionally introduce in Shuowen constituents of a purely phonetic
kind. See 10B 408 246 bu 悑:
“scared out of one’s mind,” in which an allograph is explained by the phrase: 或从布聲 (“[the graph bu]
is alternatively written with the constituent bu 布 which is
phonetic”).
20. “Minor” means less than three
entries.
21.
Note incidentally that the addition of the heart radical to the character yu
欲 tends
to createa new meaning of “illicit/inappropriate/excessive desire, lust” by
Warring States times.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét