Phép
tường giải Khảo cổ học - Triết học của Khảo cổ học Ngữ cảnh (I)
Harald Johnsen and Bjornar Olsen
Người dịch:
Hà Hữu Nga
Trong bài viết này, chúng tôi đặt khảo cổ học ngữ cảnh
của Hodder trong mối quan hệ với một truyền thống rộng lớn hơn của phép tường
giải triết học để thảo luận một cách có phê phán. Chúng tôi cho rằng lập trường
của Hodder đã tiến rất gần đến cách quan niệm lãng mạn về cách diễn giải do các
nhà triết học và sử học Đức phát triển. Trung tâm của lập trường này chính là phương
trình nghĩa và chủ đích, ngữ cảnh và cội nguồn, việc làm cho nhận thức lịch sử
trở thành một lối giao dịch giữa ý thức sáng tạo của các tác nhân tiền sử và ý
thức tái cấu trúc hoặc tiếp nhận của nhà khảo cổ học. Dựa vào phê phán của
Gadamer về phép tường giải sớm, chúng tôi cho rằng khảo cổ học ngữ cảnh của
Hodder đã bất chấp phép biện chứng giữa các lớp nghĩa của quá khứ và hiện tại,
một phép biện chứng thấm nhập trong văn hóa vật chất quá khứ tự thân nó đặt ra
trước chúng ta như là những dấu vết hiện tại của một quá khứ.
Từ cuối những năm 1960 đến đầu những năm 1980, các lập trường lý
thuyết trong khảo cổ học phương Tây thống trị bởi tư tưởng cho rằng các mục
tiêu và logic của khảo cổ học ít nhiều đều tương tự như các mục tiêu và logic của
khoa học tự nhiên vậy. Thực vậy, các mục tiêu ấy là những mục tiêu duy nhất có
thể chấp nhận nếu như bộ môn này được phân loại là một bộ môn khoa học. Để trở
thành một khoa học chính xác, lẽ ra khảo cổ học đã phải mô hình hóa thực tiễn của
nó theo các khoa học tự nhiên, một chiến lược mà những người đề xướng đã liên kết
với việc kiểm nghiệm giải thuyết, các công thức của những giả định giống như
quy luật, và một niềm tin không cần đặt lại vấn đề vào sự phát triển tích lũy của
tri thức khoa học (chẳng hạn xem Binford 1972, 1983, 1987;
Clarke 1968; Fritz and Plog 1970; Schiffer 1976, 1988; Watson et al. 1971).
Tuy nhiên, trong thập kỷ vừa qua, cái
quan niệm tự nhiên luận này của khảo cổ học đã bị phân mảnh. Nhiều nhà phê
bình, với các phê phán thường a dua nhau với cái đầu đề “hậu quá trình” (Hodder
1985), đẫ thách thức quyết liệt cái nền tảng thực chứng của loại khảo cổ với tiếp
đầu ngữ “mới” hoặc “quá trình” (chẳng hạn xem Barret 1987a; Hodder 1982a, 1986;
Leone 1982; Miller and Tilley 1984; Patterson 1989; Shanks and Tilley 1987a,
1987b, 1989), mà trung tâm điểm của sự phát triển của cái gọi là khảo cổ học
“ngữ cảnh” do Hodder (1982a, 1982b, 1986, 1987a, 1990a, 1991a, 1991b) đề xuất ấy
thì lại coi việc thực hành diễn giải là trọng tâm. Cái “bước ngoặt diễn giải”
này, thoạt nhìn có vẻ là một phản đề đối với khung giải thích được khảo cổ học
mới ứng dụng, xây dựng cơ sở cho bài viết này với tư cách là một thảo luận phê
phán khảo cổ học ngữ cảnh trong mối liên quan đến cơ sở phép tường giải – triết
học của nó.
Một điều cần phải nói là có rất ít, hoặc
không có tài liệu tham khảo nào đối với truyền thống tường giải Đức trong các nỗ
lực này nhằm tạo lập một khảo cổ học diễn giải. Thay vào đó, nhà sử học và triết
học Anh R.G.Collingwood thường được trích dẫn như là nguồn gợi hứng chính của
Hodder (xem Hodder 1986, 1987b:353; và cả Melas 1989:143). Hoàn toàn có thể hiểu
được rằng cách tiếp cận của Collingwood đối với lịch sử, một cách tiếp cận có
thể được mô tả là không liên quan gì nhiều đến các lý giải các hiện tượng bên
ngoài so với ý nghĩa bên trong của chúng, đã hấp dẫn những kẻ biệt giáo đến với
trường phái quá trình vì nó thách thức quyết liệt với quan niệm tự nhiên chủ
nghĩa về quy luật nhân quả lịch sử. Tuy nhiên triết học lịch sử của Collingwood
lại thể hiện các lập trường tường giải nổi tiếng đã được tranh luận và phê phán
rộng rãi trong triết học và sử ký châu Âu. Vì vậy chúng tôi cho rằng lập trường
của Hodder cần phải được minh định, làm phong phú thêm, và có lẽ phải sửa lại
những gì mà ông xem là cuộc luận chiến dai dẳng này. Những bài viết mới nhất của
Hodder về khảo cổ học diễn giải hỗ trợ cho hiệu lực của lập luận này (Hodder
1991a, 1991b). Chúng tôi cũng sẽ xem xét cái bước ngoặt mới nhất ấy của ông một
cách chi tiết hơn trong phần cuối của bài viết này.
Mục đích chính của bài viết là chỉ rõ tầm
quan trọng của triết học đối với cuộc luận chiến khảo cổ học hiện này, và nhất
là về phép tường giải đối với các lý thuyết diễn giải. Những mối quan tâm về
triết học tường giải đan xem với mối quan tâm cơ bản về tri thức luận khảo cổ học:
cái gì là [tiền] điều kiện cho nhận thức của chúng ta về xã hội quá khứ của
loài người? Câu hỏi tường giải không quá nhấn mạnh đến cách thức nhận thức của
chúng ta: những điều kiện nào tạo thành nhận thức về tính khác, về quá khứ, hiện
tại và khả thể? Không may là trong khảo cổ học cũng như trong nhiều ngành khoa
học xã hội khác các điều kiện này thường bị bỏ qua vì những định kiến chủ quan
và phi khoa học phải được thanh toán, hoặc che đậy, thông qua việc ứng dụng các
phương pháp khoa học nghiêm nhặt mà nhờ đó có thể có được tri thức. Tuy nhiên,
mục đích của chúng tôi không phải là xuất trình phép tường giải như một siêu
“phương pháp” để nhận thức quá khứ, hoặc ngay cả với tư cách là một phương pháp
thôi cũng vậy. Đối với chúng tôi, điều quan trọng là xem xét “các vấn đề” tri
thức luận vốn có trong nhiệm vụ nhận thức các dấu vết quá khứ trong một ngữ cảnh
hiện tại.
Bài viết này chia thành ba phần. Trước hết
chúng tôi giới thiệu vắn tắt phép tường giải sớm từ Schleiermacher đến Dilthey.
Sau đó đến phần thảo luận về các công trình của Hodder và Collingwood dưới ánh
sáng của truyền thống này. Cuối cùng chúng tôi sẽ thảo luận về các bộ phận của
triết học Gadamer và phê phán của ông đối với phép tường giải liên quan đến khảo
cổ học ngữ cảnh mà Hodder đề xuất.
Trước khi bắt đầu, chúng tôi khẳng định
rằng chúng tôi nhận thức được đầy đủ về giới hạn của bài viết này. Chúng tôi
cũng chủ tâm gác lại một vài lĩnh vực rõ ràng liên quan đến chủ đề hiện tại, chẳng
hạn như phép tường giải phê phán của Habermas (1986) và Apel (1986), phép tường
giải “cấu trúc” của Ricoeur (1981), và các lý thuyết cấp tiến của chủ nghĩa hậu
hiện đại Pháp (Tilley 1990). KHi chọn cách tiếp cận giới hạn hơn, chúng tôi muốn
tạo khoảng cách với cái mà chúng tôi coi là một khuynh hướng đáng ngại về “món
quà biếu tri thức” trong cuộc luận chiến lý thuyết về khảo cổ học hiện hành.
Trong cuộc luận chiến này có vẻ như càng càng trích dẫn nhiều công trình lý
thuyết và triết học [mới] thì càng quan trọng, chứ không phải là thảo luận một
cách nghiêm túc về một vài vấn đề được đưa ra trong một hoặc hai công trình nào
đó, nhưng như thế không có nghĩa coi một vài công trình là trung tâm của vấn đề).
Vì vậy chúng tôi cho rằng sẽ càng hiệu quả khi chúng ta tiến hành thảo luận một
cách triệt để về một lĩnh vực tường giải hơn là đưa ra một cách giải thích hời
hợt về tất cả các lý thuyết diễn giải, vì vậy trong bài viết này chúng tôi chống
lại sức cám dỗ để kết luận về các cách tiếp cận đã đề cập ở trên.
Phần I: Phép tường giải sớm
Thuật ngữ phép tường giải có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp hermeneuein ἑρμηνεύω, có nghĩa là giải thích, hiểu, hoặc nhận thức, và về mặt từ nguyên nó gắn với thần Hermes, thần đưa tin của người Hy Lạp (Wind 1976:7). Ngày nay thuật ngữ này được gắn liền với một định hướng lý thuyết mà bằng chính các thuật ngữ khái quát có thể được quy chiếu vào nó như là một cách tiếp cận verstehen nhận thức, được sử dụng trong nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn khác nhau, chẳng hạn như triết học, xã hội học, dân tộc học, lịch sử, và phê bình văn học. Phép tường giải hiện đại phát triển vượt khỏi hai trào lưu tri thức cơ bản vào đầu thế kỷ 18 tại châu Âu: một mặt chủ nghĩa lãng mạn và hoài niệm của nó đối với quá khứ, và mặt khác Aufklärung Thời đại Ánh sáng và cuộc đấu tranh của nó chống lại định kiến [Ricoeur 1981:66]. Buổi đầu, các quan niệm tiền lãng mạn về diễn giải mà phép tường giải chủ yếu được coi là một phương pháp kỹ thuật – diễn giải bằng cách đảm bảo diễn giải chính xác và diễn giải đúng các văn bản của quá khứ.
Vấn đề tiền lãng mạn này đối với tính hiệu lực đã được Friedrich Schleiermacher (1768-1834), đặt vấn đề; ông được coi là người sáng lập phép tường giải hiện đại. Theo ông, phép tường giải được sử dụng để minh họa các điều kiện cho tính khả thể của việc nhận thức và các cách thức diễn giải nó (Mueller-Vollmer 1986:9). Học thuyết nổi tiếng và có ảnh hưởng của ông đối với việc hiểu chính xác (văn bản) đã được hệ thống hóa trong khẳng định sau: “Trước khi nghệ thuật nhận thức có thể được thực hiện, thì người diễn giải phải tự đặt mình một cách khách quan và chủ quan vào vị trí của tác giả” (Schleiermacher 1986:83). Việc tự đặt mình một cách khách quan vào vị trí của tác giả chính là việc hiểu ngôn ngữ của tác giả một cách đầy đủ nhất có thể. Nếu người ta có thể nói một ngôn ngữ (tức là làm chủ được ngữ pháp) thì người ấy cũng có thể hiểu được những cách thức bày tỏ nó. Một năng lực ngôn ngữ chung lấp đầy khoảng trống giữa người nói và người nghe, hoặc giữa tác giả và người diễn giải. Đây chính là phương pháp và kỹ thuật nhận thức. Tuy nhiên việc nhận thức đầy đủ đòi hỏi cả việc xác định lập trường tâm lý nữa. Vì vậy người diễn giải phải biết cả những giả định, và ý định không được nói ra của tác giả, tư tưởng của tác giả, lịch sử nội tâm và tâm trí cũng như bối cảnh đời sống (bao gồm cả các tiêu chí và chuẩn mực xã hội) quy định cho tác giả văn bản (Schleiermacher 1986).
Phần I: Phép tường giải sớm
Thuật ngữ phép tường giải có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp hermeneuein ἑρμηνεύω, có nghĩa là giải thích, hiểu, hoặc nhận thức, và về mặt từ nguyên nó gắn với thần Hermes, thần đưa tin của người Hy Lạp (Wind 1976:7). Ngày nay thuật ngữ này được gắn liền với một định hướng lý thuyết mà bằng chính các thuật ngữ khái quát có thể được quy chiếu vào nó như là một cách tiếp cận verstehen nhận thức, được sử dụng trong nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn khác nhau, chẳng hạn như triết học, xã hội học, dân tộc học, lịch sử, và phê bình văn học. Phép tường giải hiện đại phát triển vượt khỏi hai trào lưu tri thức cơ bản vào đầu thế kỷ 18 tại châu Âu: một mặt chủ nghĩa lãng mạn và hoài niệm của nó đối với quá khứ, và mặt khác Aufklärung Thời đại Ánh sáng và cuộc đấu tranh của nó chống lại định kiến [Ricoeur 1981:66]. Buổi đầu, các quan niệm tiền lãng mạn về diễn giải mà phép tường giải chủ yếu được coi là một phương pháp kỹ thuật – diễn giải bằng cách đảm bảo diễn giải chính xác và diễn giải đúng các văn bản của quá khứ.
Vấn đề tiền lãng mạn này đối với tính hiệu lực đã được Friedrich Schleiermacher (1768-1834), đặt vấn đề; ông được coi là người sáng lập phép tường giải hiện đại. Theo ông, phép tường giải được sử dụng để minh họa các điều kiện cho tính khả thể của việc nhận thức và các cách thức diễn giải nó (Mueller-Vollmer 1986:9). Học thuyết nổi tiếng và có ảnh hưởng của ông đối với việc hiểu chính xác (văn bản) đã được hệ thống hóa trong khẳng định sau: “Trước khi nghệ thuật nhận thức có thể được thực hiện, thì người diễn giải phải tự đặt mình một cách khách quan và chủ quan vào vị trí của tác giả” (Schleiermacher 1986:83). Việc tự đặt mình một cách khách quan vào vị trí của tác giả chính là việc hiểu ngôn ngữ của tác giả một cách đầy đủ nhất có thể. Nếu người ta có thể nói một ngôn ngữ (tức là làm chủ được ngữ pháp) thì người ấy cũng có thể hiểu được những cách thức bày tỏ nó. Một năng lực ngôn ngữ chung lấp đầy khoảng trống giữa người nói và người nghe, hoặc giữa tác giả và người diễn giải. Đây chính là phương pháp và kỹ thuật nhận thức. Tuy nhiên việc nhận thức đầy đủ đòi hỏi cả việc xác định lập trường tâm lý nữa. Vì vậy người diễn giải phải biết cả những giả định, và ý định không được nói ra của tác giả, tư tưởng của tác giả, lịch sử nội tâm và tâm trí cũng như bối cảnh đời sống (bao gồm cả các tiêu chí và chuẩn mực xã hội) quy định cho tác giả văn bản (Schleiermacher 1986).
Trong khi cố gắng giới thiệu chiều góc
tường giải cho việc nghiên cứu lịch sử và nhận thức lịch sử, các sử gia Đức đã
chủ trương một cách tiếp cận tương tự, chẳng hạn như Wilhelm von Humboldt
(1767-1835). Nhận thức được tìm thấy trong ngôn ngữ, và đối với Schleiermacher,
việc nói và hiểu được kết nối với nhau bằng một năng lực ngôn ngữ chung giữa
người nói và người nghe: “Người ta có thể hiểu một từ mà chỉ người đó nghe được
vì chính người đó có thể tự nói ra”, Humboldt viết (Mueller-Vollmer 1986:14). Theo
Humboldt, nhận thức lịch sử được đảm bảo bằng một cách tương hợp như vậy giữa
chủ thể và khác thể: Các sử gia có thể hiểu được lịch sử vì bản thân họ chính
là một phần của quá trình lịch sử mà họ đang nghiên cứu. Humboldt gọi sự ràng
buộc giữa lịch sử và sử gia trong công cuộc nghiên cứu ấy là “cơ sở tiền tồn của
nhận thức”. Trong bất cứ khía cạnh nào thì nó cũng vọng lại khẳng định của Giambattista
Vico là con người chỉ có thể có tri thức thực sự về những gì mà tự thân họ làm
ra, tức là chúng ta chỉ có thể có kiến thức thực sự về lịch sử chứ không phải
là tự nhiên (Vico 1961). Sự độc đáo này cũng làm nên nền tảng triết học cho sự
khẳng định mới đây của Anthony Giddens về xã hội học. Ông cho rằng sự khác biệt
cơ bản giữa các khoa học tự nhiên và các khoa học xã hội là các khoa học xã hội
thì gia nhập thành một “khoa học tường giải kép”. Các khoa học xã hội không thể
cách ly khỏi “thế giới khách quan” của họ, vì bản thân chúng là một bộ phận của
cái xã hội mà họ đang nghiên cứu (Giddens 1987:30; có thể xem thêm Shanks and
Tilley 1987a:108).
Thâm kiến ấy đã đặt nền tảng cho sự phân
biệt nổi tiếng và có ảnh hưởng lớn của Johann Gustav Droysen (1808-1884) giữa Verstehen nhận thức và Erkldrung giải thích. Nhận thức là thuộc
về tự nhiên, còn phương pháp của các khoa học lịch sử và nhân văn khi đối lập với
các giải thích nhân quả thì lại được xác định bằng các khoa học tự nhiên. Theo Droysen,
các sử gia có thể hiểu được các sự kiện lịch sử vì họ không gặp phải bất cứ cái
gì xa lạ: “Khả năng nhận thức này xuất hiện từ sự thân quen của bản chất chúng
ta với những cách thể hiện đặt trước chúng ta với tư cách là tư liệu lịch sử” (Droysen
1986:121). Loại thân thuộc này được thể hiện bằng quan niệm về tính chủ đích. Các
sử gia nghiên cứu tính chủ đích của các hành động, và Droysen nhấn mạnh vấn đề
là những chủ đích như vậy có thể không được mô tả bằng phép phân tích nhân quả
bằng cách thức của các khoa học tự nhiên. Chủ định của một hành động chỉ có thể
được nắm bắt thông qua việc nhận thức về tình huống, hoặc bối cảnh cụ thể trong
đó hành động diễn ra. Theo khái niệm của Schleiermacher về nhận thức văn bản, Droysen
khẳng định rằng chỉ có cách tiếp cận duy nhất thích hợp đối với lịch sử là cách
tiếp cận tường giảng liên quan đến tổng thể và các bộ phận của nó: “Bộ phận được
nhận thức trong tổng thể mà từ đó nó phát sinh, còn tổng thể thì được hiểu từ bộ
phận trong đó nó có được cách thể hiện” (Droysen 1977:35). Với tư cách là người
diễn giải lịch sử, chúng ta phải đột phá vào cái vòng tròn tường giải này và thực
hiện một bước nhảy trực giác để chia sẻ sự nhận thức được khai thác. Sau đó
chúng ta có thể khia thác các mối quan hệ biện chứng tồn tại giữa các bộ phận
và tổng thể.
Droysen và Humboldt được coi là đại diện
của cái gọi là “Trường phái Lịch sử” vạch trở lại đến Johann Gottfried Herder
(1744-1803). Các sử gia này coi tiến hóa lịch sử là một quá trình hữu cơ: Các nền
văn hóa được sinh ra, phát triển, và cuối cùng suy tàn (Johannessen 1985). Theo
Schleiermacher là người đầu tiên đưa ra quan niệm về đơn vị kiểm nghiệm hữu cơ
thì các sử gia này hiểu toàn bộ các văn hóa là cố kết về phương diện tổ chức và
nội tại. Mỗi văn hóa cần phải được coi là một đơn vị độc lập gắn bó với nhau bằng
một Volksgeist Tinh thần Dân tộc. Các
quan điểm này được phát triển thành các tư tưởng về dân tộc trong giai đoạn
Lãng mạn, dẫn đến mối quan tâm rộng khắp về việc vạch lại dòng dõi của Volk Dân tộc, cũng như một yêu cầu thúc
đẩy các nghiên cứu khảo cổ học sớm (Trigger 1989). Các đóng góp của loại chủ
nghĩa lịch sử này đối với công việc nghiên cứu lịch sử được tóm tắt bằng các vấn
đề sau (Johannessen 1985: 61):
1. Toàn bộ nhận thức là nhận thức mang
tính lịch sử, nó hướng dẫn ta về bất cứ nhận thức nào đối với các văn bản, nghệ
thuật, và các hành động.
2. Nhận thức lịch sử đòi hỏi sự đồng nhất
hóa (Einfiilung) về tình cảm với một giai đoạn hoặc một nhân vật rất xa. Phương
pháp “đồng cảm” này chỉ có thể được tuân thủ khi các sử gia tẩy xóa cái thời đại
và con người riêng của họ để thiên về thời đại và con người của chủ đề mà họ
theo đuổi.
3. Các đối tượng tri thức của các sử gia
không phải là những dấu ấn quá cụ thể của quá khứ theo nghĩa đen của từ ấy, với
tư cách là ý thức của những người đã tạo ra chúng.
4. Mỗi giai đoạn đều có các giá trị
riêng và các sử gia phải tránh những phán đoán dựa trên các giá trị và các quan
niệm đạo đức rút ra từ chính thời đại của mình. Họ cần mô tả, phân tích và diễn
giải không hề vướng bận bất cứ định kiến nào.
Wilhelm Dilthey
Trong truyền thống tường giải Đức, công
trình của Wilhelm Dilthey (1833-1911) bao gồm cả đỉnh điểm của phép tường giải
Lãng mạn và một xuất phát điểm cho bước ngoặt của thế kỷ 20 để dẫn đến Heidegger
và Gadamer. Khi phản ứng lại với sự xuất hiện của chủ nghĩa thực chứng với tư
cách là một triết học, Dilthey đã xây dựng dự phóng của ông như sau: cung cấp nền
tảng triết học cho các Geistewissenschaften khoa học xã hội và nhân văn khác biệt, nhưng
lại có một vị thế có thể so sánh với (và đáng tôn trọng) hệt như vị thế của các
khoa học tự nhiên (Ricoeur 1981:49). Dilthey tin chắc rằng tri thức luận của
Kant liên quan đến với việc giải thích các
hiện tượng bên ngoài, chỉ có giá trị đối với các khoa học tự nhiên. Theo sự
phân biệt mà Droysen đã khai thác giữa các khoa học nhân văn và khoa học tự
nhiên, Dilthey đã chuyển hướng phép tường giải nhằm đảm bảo cho cơ sở tri thức
luận của các Geistewissenschaften khoa học xã hội và nhân văn bằng khái niệm nhận
thức: “nhận thức đưa vào các quy trình không có phép ngoại suy trong các phương
pháp khoa học. Vì chúng dựa trên mối quan hệ giữa các biểu hiện và các trạng
thái bên trong được biểu hiện trong chúng” (Dilthey 1986:163).
Ngược lại với các nhà tường giải đi trước
như Schleiermacher, Dilthey không dựa vào nhận thức với tư cách là một khái niệm
phương pháp luận về ngôn ngữ hoặc năng lực ngôn ngữ. Đối với ông, nhận thức có
căn nguyên trong kinh nghiệm của tự thân cuộc sống con người: Nó chủ yếu là một
Lebenskategorie “phạm trù cuộc sống” (Mueller-Vollmer
1986:25). Cơ sở cho nhận thức của chúng ta về kẻ khác trong các tình huống lịch
sử khác nhau phải được tìm thấy trong chính kinh nghiệm của chúng ta, cái thế
giới mà chúng ta sống với nó. Thông qua kinh nghiệm này chúng ta có được các phạm
trù cho việc tư duy về con người (Dilthey 1986:149; Waterhouse 1981:10). Theo
quan điểm của Dilthey, mọi con người đều phải “hiểu” về môi trường văn hóa và
xã hội của họ. “Loại hình nhận thức cơ bản” này về một Erlebnis kinh nghiệm sống được phản ánh trong hành vi thực của chúng
ta, nó được biểu hiện, hoặc khách thể hóa, bằng một Lebensdusserung biểu hiện sống. Cách thể hiện này về cuộc sống con
người chính là cái mà chúng ta nhận thức với tư cách là các nhà khao học nhân
văn. Nguồn của một Lebensdusserung biểu
hiện sống chính là một Erlebnis kinh
nghiệm sống, và chúng ta nhận thức được nghĩa của nó được thể hiện dưới dạng một
kinh nghiệm sống lại, quá trình “nghỉ ngơi” hoặc “tái sinh” (Dilthey
1986:153-159; Mueller- Vollmer 1986:20-26).
Triết học cuộc sống của Dilthey dựa trên
kinh nghiệm sống của cá nhân mâu thuẫn với việc ông chấp nhận lý thuyết “tư duy
khách quan” hoặc Geist tinh thần của
Hegel (Dilthey 1986:155-156). Việc chấp nhận này là một nỗ lực nhằm giải quyết
vấn đề lấp đầy khoảng cách giữa quá trình tự nhận thức và nhận thức khoa học -
xã hội về biểu hiện sống cố định vĩnh viễn (Gadamer 1975:198; Warnke 1988:30).
Chịu ảnh hưởng của Hegel và các công trình sớm của Husserl, Dilthey đã phát hiện
ra lời đáp tối hậu về tư duy khách quan, một thứ ý thức liên chủ thể và bao
quát, trong đó cái mà “các cá nhân có chung đã tự khác thể hóa trong thế giới của
các giác quan” (Dilthey 1986:155). Dilthey (1986:155) đã đặt khả năng nhận thức
lịch sử của chúng ta trong sự tồn tại của loại tư duy khách quan này như sau:
“Bằng tư duy khách quan này quá khứ
chính là hiện tại kéo dài vĩnh viễn đối với chúng ta...Đó chính là môi trường
trung gian mà nhận thức về kẻ khác và về các biểu hiện sống của họ diễn ra. Vì
mọi thứ trong đó tư duy tự khách thể hóa đều chứa đựng một cái gì đó có chung
giữa Tôi và Anh. Mỗi khu đất có trồng cây, mỗi căn phòng được đặt ghế ngồi thì
ngay từ thuở ấu thơ chúng ta đã hiểu vì việc quy hoạch, sắp xếp, định giá nhà cửa
đồ đạc – và với tất cả mọi người đều như vậy – đã ấn định vị trí cho mỗi khu đất
và mỗi đồ vật trong phòng ... Vì vậy cá nhân tự định hướng cho mình trong cái
thế giới của tư duy khách quan ấy”.
Vận động của Dilthey từ kinh nghiệm cá
nhân đến kinh nghiệm loài đạt được thông qua việc nắm bắt được một khách thể luận
theo đó khả thể tính liên quan đến các sử gia và các nhà khoa học xã hội bằng
cách vượt qua cái vị trí lịch sử của riêng họ để nắm bắt được lượng tri thức
thuần túy khách quan và vô điều kiện về cuộc sống và các kinh nghiệm của kẻ
khác. Thật nghịch lý là khi phê phán Kant vì đã bỏ qua sử tính của “lý tính”,
thì bản thân Dilthey cũng lại đề xuất một quan niệm về tri thức không hề có dấu
ấn của tri thức lịch sử, ngữ cảnh, và bộ phận (Gadamer 1975:205-210; Warnke
1988:33).
_________________________________________
Nguồn: Johnsen, Harald and Bjomrnar Olsen
1992. Hermeneutics and Archaeology: on
the Philosophy of Contextual Archaeology. American Antiquity, 57(3), 1992,
pp. 419-436. Copyright 1992 by the Society for American Archaeology.
Tác
giả: Bjornar Olsen, sinh năm 1958, giáo sư Khảo cổ học, chuyên về khảo
cổ học lý thuyết, văn hóa vật chất, bảo tàng học, khảo cổ học Bắc/ Bắc cực. Là
con một dân chài tại Finnmarrk, Na Uy; nhận học vị tiến sỹ năm 1984, trở thành
giáo sư chính năm 1991, khi mới 33 tuổi. Ông là một trong những nhân vật phát
triển khảo cổ học hậu quá trình trong những năm 1980-1990; hiện nay ông đang dẫn
đầu trong một vài hướng tiếp cận mới đối với sự vật khảo cổ học, trong đó có khảo
cổ học đối xứng, và các tàn tích hiện đại trong khảo cổ học và nghiên cứu văn
hóa vật chất. Ông cũng là một trong số ít nhà khảo cổ học lý thuyết quốc tế
hàng đầu hiện nay.
Riêng tác giả Harald Johnsen thì tôi chưa có bất cứ thông tin nào về ông.
Riêng tác giả Harald Johnsen thì tôi chưa có bất cứ thông tin nào về ông.
References
Apel, K.
0. 1986. Scientists, Hermeneutics,
Critique of Ideology: An Outline of a Theory of Science from an
Episte-mological-Anthropological Point of View. In The Hermeneutics Reader,e
dited by K. Mueller-Vollmer, pp. 321-345. Blackwell, Oxford.
Barret,
J. 1987a. Fields of Discourse: Reconstituting
a Social Archaeology. Critique of Anthropology 7 :5-16. 1987b Contextual
Archaeology. Antiquity 61:468-473.
Bell, J.
1987. Rationality Versus Relativism: A
Review of "Reading the Past." Archaeological Review from
Cambridge 6:75-86.
Bernstein,
R. 1983. Beyond Objectivism and
Relativism. Science, Hermeneutics, and Praxis. Blackwell, Oxford.
Binford,
L. 1972. An Archaeological Perspective.
Academic Press, New York.
- 1983. Working at Archaeology. Academic Press,
New York.
- 1987. Data, Relativism and Archaeological Science.
Man 22:391-404.
Childe,
V. G. 1949. Social Worlds of Knowledge.
Oxford University Press, London.
Clarke,
D. L. 1968. Analytical Archaeology.
Methuen, London.
Collingwood,
R. G. 1946. The Idea of History.
Oxford University Press, London.
Dilthey,
W. 1986. The Understanding of Other
Persons and Their Life-Expressions. In The Hermeneutics Reader, edited by
K. Mueller-Vollmer, pp. 152-164. Basil Blackwell, London.
Droysen,
J. G. 1977. Historik. Band I:
Rekonstruktion der ersten voll-stdndigen Fassung der Vorlesungen (1857)
Grundriss der Historik. Edited by P. Leyh. Fromann-Holzboog, Stuttgart-Bad
Cannstatt.
- 1986. History and the Historical Method. In
The Hermeneutics Reader, edited by K. Mueller-Vollmer, pp. 119-124. Basil
Blackwell, London.
Fritz,
J. M., and F. T. Plog 1970. The Nature of
Archaeological Explanation. American Antiquity 35:405-412.
Gadamer,
H. G. 1975. Truth and Method. Sheed
and Ward, London.
- 1977. Philosophical Hermeneutics. Translated
and edited by D. Linge. University of California Press, Berkeley.
Geertz,
C. 1983. Local Knowledge: Further Essays
in Interpretative Anthropology. Basic Books, New York.
Giddens,
A. 1987. Social Theory and Modern
Sociology. Polity Press, Cambridge.
Habermas,
J. 1986. On Hermeneutics' Claim to
Universality. In The Hermeneutics
Reader, edited by K. Mueller-Vollmer, pp. 294-319. Basil Blackwell, Oxford.
Heidegger,
M. 1962. Being and Time. Harper and
Row, New York.
Hodder,
I. 1982a. Theoretical Archaeology: A
Reactionary View. In Symbolic and
Structural Archaeology, edited by I. Hodder, pp. 1-16. Cambridge University
Press, Cambridge.
- 1982b.
Symbols in Action. Cambridge
University Press, Cambridge.
- 1985. Postprocessual Archaeology. In Advances in Archaeological Method and Theory,
vol. 8, edited by M. B. Schiffer, pp. 1-26. Academic Press, New York.
- 1986. Reading the Past. Cambridge University
Press, Cambridge.
- 1987a.
The Contextual Analysis of Symbolic
Meanings. In The Archaeology of
Contextual Meanings, edited by I. Hodder, pp. 1-10. Cambridge University
Press, Cambridge.
- 1987b.
Digging for Symbols in Science and
History: A Reply. Proceedings of the Prehistoric Society 53:352- 356.
- 1987c.
The Contribution of the Long Term. In
Archaeology as Long-Term History,
edited by I. Hodder, pp. 1-8. Cambridge University Press, Cambridge.
- 1987d.
Reading Bell Reading "Reading the
Past." Archaeological Review from Cambridge 6:87-91.
- 1989a.
Post-modernism, Post-structuralism and
Post-processualism. In The Meanings
of Things, edited by I. Hodder, pp. 64-78. Unwin Hyman, London.
- 1989b.
This is Not an Article About Material
Culture as Text. Journal of Anthropological Archaeology 8: 250-269.
- 1990a.
The Domestication of Europe.
Blackwell, Oxford.
- 1990b.
Archaeology and the Post-modem.
Anthropology Today 6(5): 13-15.
- 1991a.
Interpretative Archaeology and Its Role.
American Antiquity 56:7-18.
- 1991b.
Postprocessual Archaeology and the
Current Debate. In Processual and
Postprocessual Archaeologies. Multiple Ways of Knowing the Past, edited by
R. W. Preucel, pp. 30-41. Occasional Papers No. 10. Center for Archaeological
Investigations, Southern Illinois University, Carbondale.
Johanessen,
K. 1985. Tradisjoner og skoler i moderne
vitenskaps-filosofi. Sigma forlag, Bergen.
Kohl, P.
L. 1981. Material Approaches in
Prehistory. Annual Review of Anthropology 10:89-118.
Lentricchia,
F. 1983. After the New Criticism.
Methuen, London.
Leone,
M. P. 1982. Some Opinions About
Recovering Mind. American Antiquity 47:742-760. 435 Johnsen and Olsen]
Lindseth,
A. 1981. Forstaelsens prosess: et stadig
oppgjor med vAre for-dommer. Om Hans-Georg Gadamers filosofi. Dyade 4:4-
28.
Linge,
D. E. 1977. Editor's Introduction. In
Philosophical Hermeneutics, by H. G.
Gadamer, edited by D. E. Linge, pp. xi-lviii. University of California Press,
Berkeley.
Melas,
E. M. 1989. Etics, Emics and Empathy in
Archaeological Theory. In The
Meanings of Things, edited by I. Hodder, pp. 137-155. Unwin Hyman, London.
Miller,
D., and C. Tilley (editors) 1984. Ideology,
Power and Prehistory. Cambridge University Press, Cambridge.
Mueller-Vollmer,
K. (editor) 1986. The Hermeneutics Reader.
Blackwell, London.
Olsen,
B. 1990. Roland Barthes: From Sign to
Text. In Reading Material Culture,
edited by C. Tilley, pp. 163-205. Blackwell, Oxford.
Patterson,
T. 1989. History and the Post-processual
Archaeologies. Man 24:555-566.
Ricoeur,
P. 1981. Hermeneutics and the Human
Sciences. Edited and translated by J. Thompson. Cambridge University Press,
Cambridge.
Saari,
H. 1984. Re-enactment. A Study in R. G.
Collingwood's Philosophy of History. Abo Akademi, Abo.
Schiffer,
M. B. 1976. Behavioral Archeology.
Academic Press, New York. 1988 The Structure of Archaeological Theory. American
Antiquity 53:461-485.
Schleiermacher,
F. D. E. 1986. General Hermeneutics.
In The Hermeneutics Reader, edited by
K. Mueller-Vollmer, pp. 73-86. Black-well, Oxford.
Shanks,
M., and C. Tilley 1987a. Re-constructing
Archaeology. Cambridge University Press, Cambridge.
1987b. Social Theory and Archaeology. Polity
Press, Cambridge.
- 1989. Archaeology into the 1990s. Norwegian
Archaeological Review 22(1): 1-12. Tilley, C. (editor) 1990 Reading Material
Culture. Blackwell, Oxford.
Trigger,
B. 1989. A History of Archaeological
Thought. Cambridge University Press, Cambridge.
Vico, G.
1961. The New Science of Giambattista
Vico. Anchor Books, New York.
von
Humboldt, W. 1986. On the Task of the
Historian. In The Hermeneutics Reader,
edited by K. Mueller-Vollmer, pp. 105- 118. Blackwell, London.
Warnke,
G. 1988. Gadamer - Hermeneutics,
Tradition and Reason. Polity Press, Cambridge.
Waterhouse,
R. 1981. A Heidegger Critique. A Critical Examination of the Existential
Phenomenology of Martin Heidegger. Harvester Press, Sussex.
Watson,
P. J., S. A. LeBlanc, and C. L. Redman 1971. Explanation in Archaeology. Columbia University Press, New York.
Winch,
P. 1963. The Idea of a Social Science.
Routhledge, London.
Wind, H.
1976. Filosofisk hermeneutik.
Berlingske forlag, Copenhagen.
Wylie,
A. 1989. Archaeological Cables and
Tacking: The Implications of Practice for Bernstein's "Options Beyond
Objectivism and Relativism." Philosophy of the Social Sciences
19:1-18.
Yates,
T. 1990. Jacques Derrida: 'There is
Nothing Outside of the Text.' In Reading Material Culture, edited by C.
Tilley, pp. 206-280. Blackwell, Oxford.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét