Godel và các định lý về Tính không Hoàn hảo (I)
Karlis
Podnieks
Người dịch: Hà Hữu Nga
Epimenides (thế kỷ VI BC) là một người đảo Cret
tức giận với các đồng bào của mình, đã
nói rằng “Tất cả những người Crets đều là những kẻ nói dối”. Vậy thì phán đoán này
là chân hay giả?
a) Nếu phán đoán của Epimenides là chân thì Epimenides cũng là một
người nói dối, tức là ông ta lúc nào cũng nói dối, vì vậy phán đoán của ông về
toàn bộ dân Cret là giả (và có một người Cret không nói dối). Vậy là chúng ta
đã gặp phải mâu thuẫn; b) Nếu phán đoán của Epimenides là giả thì có một người
Cret không phải là người nói dối. Vậy thì bản thân Epimenides có phải là một người
nói dối không? Trong trường hợp này chúng ta không gặp phải mâu thuẫn.
Vì vậy ở đây không có một nghịch lý trực tiếp mà chỉ có một chuỗi
những kết luận đáng kinh ngạc: nếu một người Cret nói rằng “Toàn bộ dân Cret
đều nói dối” thì có một người Cret không nói dối. Tuy nhiên, hãy không cho phép
một người Cret duy nhất phỉ báng toàn bộ dân Cret. Để làm điều đó, chúng ta giả
định rằng Epimenides đang nói về bản thân mình: “Tôi là một kẻ dối trá”. Câu
nói này là chân hay giả? a) Nếu câu nói này là chân, thì Epimenides lúc nào
cũng là kẻ dối trá, và vì vậy phán đoán của ông “Tôi là một kẻ dối trá” cũng là
giả. Tức là Epimenides cũng là một kẻ dối trá (và cũng tức là đôi khi ông ấy
không dối trá). Vậy là chúng ta đã gặp phải mâu thuẫn. b) Nếu phán đoán của
Epimenides là giả thì ông không phải là một người dối trá, tức là đôi khi ông
không nói dối. Vậy là trong trường hợp đặc biệt này ông đang dối trá.
Chúng ta không mắc phải mâu thuẫn ở đây. Hơn nữa ở đây không có
một nghịch lý trực tiếp, chỉ là một chuỗi các kết luận đáng kinh ngạc: nếu ai
đó nói “Tôi là một kẻ dối trá”, thì ông ta không phải (luôn luôn) là một kẻ dối
trá. Bước tiếp theo trong câu truyện này là theo Eubulides (thế kỷ IV BC). Ông
phán đoán: “Tôi đang nói dối”. Tức là ông ta nói rằng chính lúc này ông ta đang
nói dối. Vậy là chân hay giả? a) Nếu phán đoán này là chân thì Eubulides là kẻ đang
nói dối (ngay lúc này!), và vì vậy phán đoán của ông phải là giả. Trong trường
hợp này chúng ta gặp phải mâu thuẫn. b) Nếu phán đoán này là giả thì Eubulides
không phải đang nói dối, và vì vậy phán đoán của ông ta phải là chân. Trong trường
hợp này chúng ta cũng gặp phải mâu thuẫn. Vậy là chúng ta gặp phải một nghịch
lý thật, Nghịch lý Kẻ nói dối nổi
tiếng.
Chúng ta sẽ phải tin rằng bất kỳ một câu nào loại như “Tôi đang
viết” hoặc “Tôi đang đọc” phải là chân hay giả. Tuy nhiên câu “Tôi đang nói
dối” lại không thể được đánh giá là chân hay giả mà không gặp phải những mâu
thuẫn. Trong suốt khoảng thời gian 2000 năm người ta đã nghĩ rằng các nghịch lý
như vậy phải được “giải quyết” bằng việc sáng tạo ra những “qui tắc nói chính
xác” thích hợp. Nhưng họ chưa bao giờ thành công 100%, vì bất cứ “qui tắc”
nào như vậy không chỉ luôn luôn cấm (một vài chứ không phải tất cả) những
nghịch lý, mà còn cấm nhiều câu vô hại, thậm chí hữu dụng. Đối với tôi, tiềm
năng sáng tạo ẩn sau các nghịch lý dường như thú vị hơn nhiều so với các “qui
tắc nói chính xác”. “Quá trình phát triển” của Nghịch lý nói dối được mô tả ở
trên đã kết thúc vào thế kỷ XIV, khi Jean Buridan phán đoán nghịch lý này bằng
một hình thức tuyệt đối rõ ràng:
“Toàn bộ những phán đoán về lá (folium) này đều giả”*. [Lưu ý: Chỉ có duy nhất một
phán đoán này về "lá (folium) này"]. Và Buridan ngày nay sẽ nói đơn giản hơn:
p: p là giả.
Nếu p là chân, thì p phải là giả. Nếu p là giả thì p phải là chân.
Ghi chú: Buridan còn lừng danh với tư cách là tác giả của câu truyện con
lừa nổi tiếng, một con vật đói đến chết vẫn đứng ở một khoảng cách không thay
đổi giữa hai bó cỏ giống hệt nhau mà không thể tìm ra “những lập luận đầy đủ”
để chọn một trong hai bó. Đối với những người tin rằng “các qui tắc nói đúng”
không cho phép các phán đoán tự qui chiếu vào bản thân chúng, vào thế kỷ XIV, Albert von Sachsen đã đề xuất các nghịch lý sau: .
p1: p2 là giả,
p2: p1 là chân.
q1: q2 là giả,
q2: q3 là chân,
q3: q1 là giả.
Ngày nay, theo các ví
dụ này, các nhà toán học có thể sáng tạo ra rất nhiều nghịch lý…Bạn hãy tự thử
xem sao.
Chúng ta hãy thử “chấp nhận” Nghịch lý Nói dối bằng cách triển
khai việc phân loại các phán đoán chỉ là chân hay giả: a) Các phán đoán chân;
b) Các phán đoán giả; c) Các phán đoán không có giá trị-chân. Giờ ta xem xét
phát đoán dưới đây:
q: q là giả hoặc q không có giá trị chân.
a) Nếu q là chân, thì cả q cũng là giả hoặc q không có giá trị
chân, tức là q không chân - Chúng ta gặp phải một mâu thuẫn. b) Nếu q là giả,
thì q là chân - Chúng ta gặp phải một mâu thuẫn. c) Nếu q không có giá trị
chân, thì q là chân - Chúng ta gặp phải một mâu thuẫn. Vì vậy phân loại khai
triển của chúng ta về các phán đoán là không hoàn hảo. Phán đoán q ở trên được
gọi là
Nghịch lý Nói dối Mở
rộng.
Theo một nghĩa nào
đó thì Nghịch lý nói dối là một nghịch lý logic hai giá trị thông thường, và q
là một nghịch lý của logic ba giá trị. Hãy công thức hóa một nghịch lý tương tự
của logic bốn giá trị…vv. Chúng ta sẽ đi xa đến đâu theo con đường này? Chi
tiết lịch sử xin xem: N. I. Styazhkin. Sự hình thành Logic Toán. Nhà xuât bản
Khoa học Moscow 1967, tiếng Nga, bản tiếng Anh: Styazhkin, N. I. History
of Mathematical Logic from Leibniz to Peano. MIT Press, Cambridge, MA, 1969).
Nghịch lý Curry: Ý tưởng về nghịch lý sau do Haskell B. Curry đề xuất năm 1942 –trong
quan niệm của chúng ta p: nếu p là chân thì q là chân (tức là p chỉ rõ
phán đoán “nếu p, thì q”). Không đọc phần lý giải ở dưới. Hãy thử tự bạn phân
tích lấy. Giải thích. p là chân hay giả? Nếu p là giả thì “nếu p, thì q”
là chân, tức là p là chân. Nếu p là chân, thì “nếu p, thì q” hàm ý là q là
chân. Vì vậy chúng ta đã chứng minh rằng q là chân. q là gì? Một xác quyết võ
đoán! “Trần gian là vô giá trị!” – như bạn có thể đọc thêm trong bài viết
Nghịch lý Curry – Curry’s Paradox trong Stanford Encyclopedia of Philosophy.
Bổ đề Tự qui chiếu
Liệu có thể hình thức hóa các nghịch lý ở những phần đã trình bày
trước bằng một lý thuyết hình thức như PA không? Nếu bạn muốn tái cấu trúc
Nghịch lý Nói dối, thì bạn phải xây dựng một công thức Q “xác quyết” rằng “PA
chứng minh cho ¬Q:
Q: PA chứng minh cho ¬Q. Bạn làm thế nào để bắt ép một công thức “xác quyết” các thuộc
tính riêng của nó? Hơn nữa, bạn làm thế nào để bắt một công thức “nói” về các
công thức? Thông thường, các công thức số học cấp một “nói” về các số tự nhiên.
Để bắt các công thức này “nói” về bản thân chúng, chúng ta cần phải đưa ra một
cách thức mã số nào đó cho các công
thức.
Trước hết chúng ta hãy ấn định một cách liệt kê nào đó cho các
biểu tượng cơ bản của PA (chúng ta hãy tạo ra những cái tên biến số qua mô thức
sau: x, xa, xaa, xaaa…):
x
|
a
|
0
|
1
|
+
|
*
|
'=
|
(
|
)
|
¬
|
'∧'
|
'∨'
|
→
|
∃
|
∀
|
0
|
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10
|
11
|
12
|
13
|
14
|
Giờ đây mỗi công thức có thể được biểu hiện như là một dãy các
con số tự nhiên. Chẳng hạn công thức x=xa+1+1 có thể được thể hiện là 0, 6, 0,
1, 4, 3, 4, 3. Bằng cách sử dụng hàm beta Godel
β-function (Phần 3.3), mỗi dãy số tự nhiên có thể được thể hiện
bằng hai con số. Chẳng hạn mã của công thức x=xa+1+1 sẽ bao gồm hoặc hai số m,
n như sau:
β(m, n, 0)=10 (độ dài của công thức);
β(m, n, 1)=0; β(m, n, 2)=6; β(m,
n, 3)=7; β(m, n, 4)=0; β(m, n, 5)=1;
β(m, n, 6)=4; β(m, n, 7)=3; β(m,
n, 8)=7; β(m, n, 9)=4; β(m, n, 10)=3.
Từ Phần 3.3. chúng ta biết rằng vẫn tồn tại hai số. Như bước vừa
rồi, chúng ta có thể biểu diễn cặp (m, n) bằng một số đơn k, chẳng hạn bằng:
k = (m+n)2+m.
Bài tập
5.3. cho biết làm cách nào để khôi phục m
và n từ một k đã cho.
Vì vậy chúng ta có thể thể hiện mỗi PA-công thức F bằng một số tự
nhiên đơn. Chúng ta hãy biểu thị định bằng F
đậm thuật ngữ PA tương thích với con số này, và chúng ta hãy gọi nó là số Goedel của F. (Đó là ý tưởng của
Goedel dùng để thể hiện các công thức bằng các con số, vì vậy tạo ra khả năng
thảo luận về các công thức bằng ngôn ngữ số học). Khi có một công thức F, chúng
ta có thể tính được số Goedel F của
nó và khi có số F, chúng ta có thể
khôi phục được F.
Lưu ý: Ngày nay ý tưởng về việc mã
hóa các công thức bằng số dường như là hoàn toàn thông thường (chỉ là “một
cách mã hóa khác” trong nhiều cách được sử dụng trong computer mỗi giây). Tuy
nhiên vào năm 1930, khi Goedel lần đầu tiên sáng tạo ra cách mã hóa như vậy,
thì đó có lẽ là một trong những ý tưởng khó khăn nhất của cách chứng minh về
tính chất không hoàn hảo nổi tiếng của ông. Giờ đây chúng ta lấy
hai PA-công thức C(x) và B. Chúng ta có thể coi công thức C(B) như một xác
quyết “công thức B có thuộc tính C”. Nếu chúng ta có thể chứng minh bằng PA
rằng B ↔ C(B), thì chúng ta có thể nói rằng B “xác quyết” rằng nó có
thuộc tính C.
Bổ đề Tự qui chiếu: Nếu một PA-công thức C(x) chứa chính xác một biến số tự do, thì người
ta có thể xây dựng một PA-công thức B đóng đến mức: PA chứng minh: B ↔ C(B). Lưu ý: Trong các cuốn sách
giáo khoa, bổ đề này cũng được gọi là Bổ đề Chéo hóa hoặc là Bổ đề Điểm-Cố
định.
Chứng minh. Chúng ta hãy giới
thiệu cái gọi là hàm thay thế sub(x, y). Chúng ta xác định giá trị sub(x, y) nh
sau: nếu x là số Goedel của một công thức F(u, v, w,…) nào đó, thì chúng ta
thay thế thuật ngữ-số y cho tất cả những biến số tự do của F, tức là chúng ta
có được công thức F(y, y, y,…), thì chúng ta tính số Goedel n của nó, và đặt
sub(x, y) = n. Nếu x không phải là số Goedel của một công thức thì chúng ta đặt
sub(x, y) = 0.
Không nghi ngờ gì nữa, sub(x, y) là một hàm có thể tính toán. Cho
x và y, trước hết chúng ta xác định là số x của một công thức nào đó hoặc
không. Nếu không, hàm của chúng ta sẽ quay về 0. Nếu có thì chúng ta khôi phục được
công thức, thay thế y cho toàn bộ các biến số tự do của nó và quay trở về với
số của công thức đã đạt được. Không có vấn đề mã hóa chương trình này, chẳng
hạn, bằng Pascal (đó sẽ là một công việc mở rộng, nhưng không phải là một công
việc khó). Một công việc đôi chút buồn tẻ là mã hóa chương trình của sub(x, y)
cho một máy Turing. Chúng ta sẽ
không làm công việc này ở đây, bằng cách sử dụng luận đề Church thay thế: một hàm bất kỳ dường như có thể tính
toán có thể được mã hóa cho một máy Turing thích hợp.
Vì vậy chúng ta giả định rằng chúng ta đã có một máy Turing tính
sub(x, y). Bằng cách sử dụng thuật toán từ cách chứng minh của định lý Biểu
diễn (phần 3.3) chúng ta có hể xây dựng một PA-công thức SUB(x, y, z) sao cho
thay cho tất cả k, m, n: nếu sub(k, m) = n, thì
a) PA chứng minh cho SUB(k,
m, n), b) PA chứng minh cho: ¬(z=n) → ¬SUB(k, m, z).
Bước đầu tiên. Có hai công thức
SUB(x, y, z) và C(x) chúng ta hãy giới thiệu công thức sau C1(x):
C(sub(x, x)). Hoặc chính xác hơn (vì chúng ta không có biểu tượng hàm sub bằng
PA):
Az(SUB(x, x, z) → C(z)).
Ý tưởng chính ở đây là lặp x trong sub! Giờ đây cái gì được “xác
quyết” trong công thức C1(x)? Về nghĩa đen, đó là: “Hãy lấy số x,
phục hồi từ x công thức Fx(u, v, w,...) khi có số này, thay x (tức
là tự thân số Fx) cho tất cả các biến số tự do của Fx,
sau đó bạn sẽ có được công thức Fx (x, x, x,...) có thuộc tính C”.
Bước thứ hai. Chúng ta hãy cố áp
dụng thao tác này vào bản thân công thức C1(x)! Tức là nếu k là số
của C1(x) thì chúng ta hãy chỉ thị bằng B công thức C1(k). Cái gì là “xác quyết” của B? Nếu
bạn có được công thức khi có số k (tức là công thức C1(x)), và thay
số k của nó cho x, thì bạn sẽ có được một công thức (thực tế là công thức C1(k), tức là công thức B) có thuộc tính
C”. Vì vậy B xác quyết: “Tôi có thuộc tính C!”
Tuy nhiên không nên cố gắng đi
theo lập luận trên hơn hai lần. Nó có thể gây ra những vấn đề về sức khỏe – Bổ
đề Tự qui chiếu là một loại định lý điểm-cố định!. Giờ đây, để hoàn thành việc
chứng minh, chúng ta phải chứng minh bằng PA rằng B ↔ C(B).
1. Chúng ta hãy chứng minh bằng PA rằng B → C(B). Chúng
ta hãy giả sử B, tức là C1(k), hoặc
Az(SUB(k, k, z) → C(z)).
(1)
Vì sub(k, k)= B, nên:
PA chứng tỏ: SUB(k, k, B), và PA chứng tỏ: ¬(z=k) → ¬SUB(k, k, z). (2)
Vì vậy, z trong (1) bằng B, và chúng ta đạt được C(B). Định lý Diễn dịch thực hiện phần còn lại: PA chứng tỏ: B → C(B).
2. Chúng ta hãy chứng tỏ bằng PA rằng C(B) → B. Chúng ta
hãy giả định C(B). Sau đó chúng ta có SUB(k, k, B) →
C(B). Thêm (2) vào đó, và bạn sẽ có Az(SUB(k, k, z) →
C(z)), và đây chính xác là công thức B. Định lý Diễn dịch làm nốt phần còn lại:
PA chứng tỏ: C(B) → B.
Vậy là đối với một thuộc tính bất kỳ nào của các công thức chúng
ta đều có thể xây dựng một công thức “xác quyết” cái mà nó có thuộc tính này.
Kurt Goedel đã sáng
tạo ra lập luận được sử dụng trong việc chứng minh Bổ đề Tự qui chiếu để chứng
minh định lý về tính chất không hoàn hảo nổi tiếng của ông vào năm 1930. Tuy
nhiên ông đã không hình thức hóa Bổ đề Tự qui chiếu như một phán đoán tổng
quát. Trong những ghi chú sau này, ông qui phán đoán đó vào Rudolf Carnap (xem
các bản copies tất cả những bài viết có liên quan trong Davis 1965).
Định lý về tính không hoàn hảo của Goedel
Hình như Bổ đề Tự qui chiếu cho phép
hình thức hóa nghịch lý Kẻ nói dối bằng PA. Bằng cách ấy, tính chất mâu thuẫn
của PA sẽ được chứng minh? Phiên bản hình thức
của nghịch lý Kẻ nói dối sẽ là một công thức L xác quyết “PA chứng minh ¬L”. Sau đó ¬L sẽ xác quyết "PA không chính minh ¬L". Vì vậy thay cho L chúng ta có thể sử dụng một
công thức G xác quyết “PA không thể chứng minh G” (tức là “Tôi không thể được
chứng minh bằng PA”). Phiên bản này của nghịch lý Kẻ nói dối đã được sử dụng
trong phép chứng minh nguyên gốc của Goedel. Vì vậy chúng ta hãy đi theo truyền
thống. Chúng ta có thể diễn đạt công thức của Goedel:
G: PA không thể chứng minh G
từ Bổ đề Tự qui chiếu, nếu chúng ta có một công thức PR(x) xác
quyết “công thức số x có thể được chứng minh bằng PA”. Thực tế, bằng cách áp
dụng bổ đề này vào công thức ¬PR(x) chúng ta sẽ đạt được
công thức G như sau
PA chứng minh: G ↔ ¬PR(G),
tức là G sẽ tương đương với “PA không thể chứng minh G”. Vậy thì
trước hết chúng ta hãy xây dựng công thức PR(x). Mỗi cách chứng minh (bằng PA)
là một dãy công thức. Thay thế toàn bộ các công thức bằng các số Goedel của
chúng, điều đó đảo ngược mỗi cách chứng minh thành một dãy các số tự nhiên.
Bạn có thể mã hóa dãy này bằng một số đơn (bằng cách sử dụng các kỹ thuật đã đề
cập). Chúng ta hãy gọi số này là số
chứng minh Goedel. Cho một số tự nhiên y, bạn có thể
a) Xác định xem y có phải là một số dãy công thức nào đó hay
không; b) Nếu có, thì bạn có thể khôi phục được dãy đó; c) Khi có dãy công thức
bạn có thể kiểm tra xem liệu đó có phải là một phép chứng minh bằng PA không.
Trong một PA-chứng minh mỗi công thức phải là một tiên đề của PA, hoặc một tiên
đề logic, hoặc nó phải được dẫn xuất từ những công thức nào đó trước của phép
chứng minh bằng cách sử dụng một trong những qui tắc suy luận logic. Vì vậy
điều khẳng định sau đây dường như có thể tính toán được:
prf(x, y) = "y là một số-chứng minh của công thức số x".
Theo luận đề của Church chúng ta có thể cấu trúc một máy Turing
kiểm tra chính xác giá trị chân của prf(x, y) cho x và y tùy ý. Sau đó theo
định lý Biểu diễn (phần 3.3) chúng ta có thể cấu trúc một PA-công thức PRF(x,
y) thể hiện hàm mệnh đề prf(x, y).
Giờ đây chúng ta lấy công thức ∃yPRF(x, y) làm công thức xác quyết “công thức số x có
thể được chứng minh bằng PA”. Bằng cách áp dụng Bổ đề Tự qui chiếu vào công thức
¬∃yPRF(x,
y), chúng ta được công thức G của Goedel như sau:
PA chứng minh: G ↔ ¬∃yPRF(G,
y). (1)
Tức là G có nghĩa "PA không chứng minh G".
Chúng ta hãy thử kiểm tra xem xác quyết của G là chân hay giả.
1. Trước hết chúng ta hãy giả định rằng PA chứng minh G, và k là
số của chứng minh này. Vậy là prf(G, k) là chân, và vì vậy
PA chứng minh: PRF(G, k),
PA chứng minh: EyPRF(G, y),
PA chứng minh: ¬G
(xem (1)). Vì vậy nếu chúng ta có một PA-chứng minh của G, thì chúng
ta có thể cũng xây dựng được một PA-chứng minh của ¬G, tức là PA sẽ là mâu thuẫn. Có phải PA không mâu
thuẫn? Tôi không biết. Tuy nhiên nếu nó không mâu thuẫn thì G không thể được
chứng minh bằng PA.
2. Giờ đây chúng ta hãy giả định rằng ngược lại - PA chứng minh ¬G. Thì PA cũng chứng minh ¬∃yPRF(G, y) (xem (1)). Về mặt trực giác, ¬∃yPRF(G, y) có nghĩa là có tồn tại PA-chứng minh của G, tức
là có vẻ là PA cũng mâu thuẫn trong trường hợp này?
Tuy nhiên chúng ta phải cẩn thận: nếu PA chứng minh ¬∃yPRF(G, y), vậy có phải là điều đó có nghĩa là bằng việc
thay thế cho y một bằng y một tất cả các số 0, 1, 2, 3,... , và kiểm tra mỗi trường
hợp, chúng ta sẽ tìm được cách chứng minh G?
Có lẽ chúng ta sẽ nghĩ như vậy, nhưng chúng ta không thể chứng
minh được rằng trường hợp này là như vậy. Nếu bằng phương pháp thay thế và
kiểm tra vừa đề cập ở trên, chúng ta sẽ thực sự tìm được một cách chứng minh
của G, sau đó PA sẽ được chứng minh là mâu thuẫn. Tuy nhiên sẽ là gì nếu chúng
ta không bao giờ tìm được một cách chứng minh của G? Sau đó chúng ta sẽ không
có mâu thuẫn trực tiếp trong PA. Tuy nhiên, chúng ta sẽ có một tình huống không
thỏa mãn: có một công thức C(y) (cụ thể là PRF(G, y)) như sau:
a) PA chứng minh: ∃yC(y),
b) Cho mỗi k, PA chứng minh: ¬C(k).
Đây không phải là một mâu thuẫn “trực tiếp” mà chúng ta phải chứng
minh ∀y¬C(y). Chúng ta có một
cách chứng minh tách biệt của ¬C(y) cho mỗi giá trị
đặc biệt của y. Vậy thì bạn có thể thay thế dãy vô tận này của PA-chứng minh
đặc biệt bằng một PA-chứng minh đơn (hữu hạn!) của ∀y¬C(y) không? Tôi thì
không. Và Goedel cũng không thể. Ông buộc phải đưa ra khái niệm w-mẫu thuẫn
(mâu thuẫn yếu hoặc omega-mâu thuẫn) để chỉ định tình huống không thỏa mãn
trên.
Định lý Bất hoàn hảo của Goedel (cho
PA).
Người ta có thể xây dựng một PA-công thức G đóng như sau: a) Nếu
PA chứng minh G, thì PA là mâu thuẫn; b) Nếu PA chứng minh ¬G, thì PA là mâu thuẫn yếu. Tại
sao định lý này lại được coi là một trong những kết quả cách mạng nhất trong
logic toán?
Hãy lấy F là một công thức đóng của một lý thuyết hình thức T nào
đó. Nếu không phải F cũng không phải ¬F có thể được chứng minh bằng cách sử dụng các tiên đề của T thì F
được gọi là không thể giải được bằng
T (hoặc T- không thể giải được). Tức là F tiên đoán một thuộc tính “tuyệt đối
xác định” nào đó của các “đối tượng” của T, nhưng tiên đoán này có thể không được
chứng minh, cũng không bị bác bỏ. Một lý thuyết bao gồm các công thức không thể
giải được thì được gọi là lý thuyết không hoàn hảo. Vì vậy thuật ngữ “định lý
không hoàn hảo” được thể hiện: nếu PA là mâu thuẫn yếu, thì PA là không hoàn
hảo.
Tuy nhiên không nên nghĩ rằng chúng ta đã chứng minh được tính
chất không hoàn hảo của PA. Chúng ta có thể chứng minh tính không thể giải được
của công thức G của Goedel chỉ sau khi chúng ta đã chứng minh được rằng PA là
không-mâu thuẫn yếu. Đến đây chúng ta mới chỉ chứng minh được rằng PA là không hoàn hảo: PA vừa là mâu thuẫn
yếu, hoặc không hoàn hảo. Tức là khi phát triển PA, chúng ta rõ ràng đụng chạm
phải một mâu thuẫn yếu, hoặc một vấn đề về số tự nhiên không thể giải quyết được
bằng cách sử dụng các tiên đề của PA. (Một trong những vấn đề như vậy có thể được
thể hiện bằng công thức G của Goedel. Nó chỉ có vẻ là G bận bịu với tính chất
có thể chứng minh của riêng nó, cuối cùng thì với tư cách một PA-công thức
đóng G xác quyết một thuộc tính nào đó của các số tự nhiên!)
Trong biên bản thảo luận của Carnap 15 tháng Giêng 1931 với nhóm
Schlick có ghi bằng tiếng Đức: "Gödel
stellt dem gegenüber fest, das die von ihm angegebene unentscheidbare Formel
wirklich konstruierbar ist. Ihr Inhalt ist finit wie der des Goldbachschen oder
Fermatschen Satzes." “Godel đã đưa ra một phản chứng, được bản thân
ông cụ thể hóa thành một công thức không thể xác định, thực sự lại mang tính
suy diễn. Nội dung của nó cũng hữu hạn chẳng khác gì nội dung của Goldbach hoặc
Định lý Cuối cùng của Fermat” (trích theo Mancosu [1999]).
Nếu các tiên đề của chúng ta không hoàn hảo, chúng ta có thể cố
cải thiện chúng. Có lẽ chúng ta đã đánh mất những tiên đề thiết yếu nào đó?
Chúng ta hãy thêm những tiên đề này vào PA, và chúng ta sẽ đạt được … một lý
thuyết hoàn hảo?
Thật không may là điều này lại không thể. Chứng minh của Goedel
vẫn có giá trị cho bất cứ sự khai triển nào của PA. Một sự khai triển của PA dù
chỉ là một lý thuyết hình thức T nào đó (bằng ngôn ngữ của PA). Tức là bằng
định nghĩa, hàm logic: prfT(x, y) = "y là một T-chứng minh-số
của công thức số x” phải là có thể tính toán được (một lý thuyết được gọi là
hình thức khi và chỉ khi chúng ta có một thao tác “cơ giới” cho việc kiểm tra
tính chất chính xác của phép chứng minh bằng lý thuyết này). Vì vậy chúng ta có
thể xây dựng một công thức PRFT(x, y) thể hiện hàm logic bằng PA.
Chúng ta hãy lại áp dụng Bổ đề Tự qui chiếu, và chúng ta sẽ có một công thức
đóng GT nh sau: PA chứng minh: GT ↔ ¬∃yPRFT (GT, y), tức là GT
"xác quyết" tính không thể chứng minh của riêng nó bằng T.
Hãy chứng minh rằng nếu T
là một mở rộng của PA (tức là nếu T có thể chứng minh toàn bộ các định lý của
PA), thì: a) Nếu T chứng minh GT, thì T là mâu thuẫn; b) Nếu T chứng
minh ¬GT, thì T
là mâu thuẫn yếu (w-inconsistent). Vì vậy phương pháp Goedel cho phép chứng
minh rằng một hệ tiên đề hoàn hảo của một số số học tự nhiên là không thể: bất
cứ hệ nào như vậy cũng đều mâu thuẫn yếu, hoặc là không đủ để giải quyết một
số vấn đề số tự nhiên.
_____________________________________
Nguồn: Podnieks, Karlis 1997. What is
Mathematics: Godel's Theorem and Around, University of Latvia, Institute of
Mathematics and Computer Science.
Tác giả: Tiến sĩ Kārlis Podnieks
nghiên cứu toán học tại Đại học Latvia 1966-71.
Năm 1979, ông nhận bằng tiến sĩ toán học, Trung tâm Tin học của Viện Hàn lâm
Khoa học Liên Xô ở
Moscow. Ban đầu,
ông chủ yếu quan tâm
nghiên cứu cơ sở của toán học. Năm 1980, ông chuyển sang các khía cạnh lý thuyết và thực
tiễn của việc tính toán, bao gồm lập
trình máy tính, thiết kế cơ sở dữ
liệu, hệ thống thông tin, phát
triển công cụ đồ họa để mô hình
hóa quá trình kinh doanh. Tuy
vậy, ông vẫn tiếp tục viết
về các cơ sở triết học của toán học, và tác phẩm của ông đều nổi tiếng vì cái nhìn sâu sắc, hài hước và độc đáo. Ông trở thành giáo sư công nghệ thông tin tại trường Đại học Latvia năm 2005.
Ghi chú của người dịch: Còn nhớ ngày xưa, từ Khoa sử ở Mễ Trì, lọ mọ lên Thượng Đình học
trộm toán của thầy Vinh, thầy Quốc, thầy Châu...v.v. Cuối những năm 1970 - đầu
1980, tuy đã ra trường, đi làm, nhưng thực chất là "thất nghiệp tại chỗ làm", đầu
quân với thầy Nguyễn Hoàng Phương, mỗi tháng đóng 1 đồng để thuê Hội trường Lê
Thánh Tông, cùng Dũng, Sinh, Thảo (Khoa Lý) học mót
toán, và nghe giảng miễn phí mấy thứ kinh hoàng khác của Thầy. Toán thì miễn
bàn, nhưng riêng về mấy thứ kinh hoàng thì mấy thằng bạn khoa Lý phê như chan
tương, còn mấy đứa khoa xã hội thì ca ngợi lên tận mây xanh.
* Lá đại số tiêu biểu với Folio của Descartes là một đường cong được xác định bằng phương trình x3 + y3 – 3 axy = 0. Phán đoán này có dạng lá kép ở gốc và đường tiệm cận x + y + a = 0. Dạng đối xứng là y = x. Nguyên lý Buridan Folio, Con lừa Buridan là dạng y = x.
* Lá đại số tiêu biểu với Folio của Descartes là một đường cong được xác định bằng phương trình x3 + y3 – 3 axy = 0. Phán đoán này có dạng lá kép ở gốc và đường tiệm cận x + y + a = 0. Dạng đối xứng là y = x. Nguyên lý Buridan Folio, Con lừa Buridan là dạng y = x.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét