Ngôn ngữ học Xã hội Trung Taic [3]
Khu tự trị Vân Sơn, Trung Quốc (I)
Eric
C. Johnson, 王明富 Wang Mingfu
Người dịch: Hà Hữu Nga
Giới
thiệu
Người Tráng là dân tộc thiểu số (DTTS) lớn nhất ở nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa, với số dân là 16 triệu người theo tổng điều tra dân số năm
2000 (National Bureau of Statistics 2003 - Tổng cục Thống kê Quốc gia 2003). Trong
đó có khoảng 1/3 số người nói các phương ngữ “Nam Tráng”, có nghĩa là các
phương ngữ Trung Taic [3], 2/3 còn lại nói tiếng “Bắc Tráng”, hoặc các các
phương ngữ Bắc Taic. Có hơn 1,1 triệu người Tráng sống tại tỉnh Vân Nam, và hơn
một nửa dân số ấy nói các phương ngữ Trung Taic [3].
Mặc dù ngữ hệ Tai [3] với tư cách tổng thể, là một chủ đề của rất
nhiều công trình nghiên cứu tại Thái Lan, Trung Quốc và những nơi khác trong thế
kỷ qua, nhưng vẫn còn rất nhiều việc phải làm. Trước khi mất vào năm 1987, nhà
ngôn ngữ học lớn người Mỹ gốc Trung Quốc 李方桂 Lý Phương Quế
[Li Fang kuei] đã viết:
Nhu cầu khảo sát ngôn ngữ học: Có những lĩnh vực quan trọng về các
ngôn ngữ Tai, nhưng chúng ta lại thiếu thông tin. Một số vùng chúng ta không thể
đến để khảo sát được, trong khi đó chúng ta lại rất cần các mô tả về nhiều ngôn
ngữ và phương ngữ chủ chốt. Tất nhiên ngày càng có nhiều công trình công bố về các
ngôn ngữ và phương ngữ này, nhưng chúng ta vẫn cần nhiều hơn nữa.
Việc nghiên cứu các ngôn ngữ Tai trước đây ít nhiều được định hướng
bởi các quan điểm về tiếng Xiêm, là ngôn ngữ chuẩn của Thái Lan. Trong khi đó
các ngôn ngữ Tai ở Trung Quốc vẫn thường được coi là các ngôn ngữ hoặc các
phương ngữ khác thường, và vẫn rất ít được biết về chúng, mặc dù mới đây đã có
những công trình nghiên cứu tốt. Việc nghiên cứu các ngôn ngữ Tai với tư cách
là một tổng thể phải đặt tư liệu ngôn ngữ học từ Trung Quốc ngang bằng với mức
độ tư liệu ngôn ngữ học Xiêm, Lào, hoặc Shan [Li 1992].
Chắc hẳn Lý sẽ rất vui khi biết rằng các công trình nghiên cứu mới
(và cả các công trình trước đây chưa được công bố) về các ngôn ngữ Taic Trung
Quốc đã được công bố trong hai thập kỷ qua; tuy nhiên, chúng ta vẫn rất cần phải
bổ sung tri thức về ngữ hệ Tai từ các ngôn ngữ còn ít được biết đến. Các ngôn
ngữ Trung Taic của Vân Nam vẫn còn lại một vài ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Tai ít được
nghiên cứu, vì vậy công trình nghiên cứu này sẽ nỗ lực công bố những dữ liệu sơ
bộ về các ngôn ngữ ấy.
Các dữ liệu nghiên cứu được trình bày ở đây là thành quả của dự án
hợp tác nghiên cứu chung giữa Hội Nghiên cứu Khu Tự trị Miêu – Tráng Vân Sơn,
và Uỷ ban Dân tộc với Nhóm Đông Á thuộc Viện Nghiên cứu Mùa hè về Ngôn ngữ Quốc
tế [SIL International’s East Asia Group]. Công trình nghiên cứu này được tiến
hành tại một số địa phương thuộc Khu Tự trị Miêu – Tráng Vân Sơn thuộc tỉnh Vân
Nam từ 2005 – 2007. Các nhà nghiên cứu chủ chốt gồm có Vương Minh Phú, nhà dân
tộc học thuộc Hội Nghiên cứu Khu Tự trị Miêu – Tráng Vân Sơn (là người trực tiếp nói ngôn ngữ Nông Tráng) và Uỷ ban Dân tộc, Eric và Susanne Johnson, hai
nhà ngôn ngữ học của SIL International’s East Asia Group. Các mục tiêu nghiên cứu
bước đầu bao gồm:
1. Xác định tính khả thi trong việc sử dụng ngôn ngữ Nông Tráng [1] (硯廣壯語南部方言– Nghiễn Quảng Tráng ngữ Nam bộ Phương ngôn) như là một phương ngữ tham chiếu để đáp ứng các nhu cầu phương ngữ của toàn bộ những người nói ngôn ngữ Trung Taic Vân Sơn (Nam Tráng, kể cả những người được gọi là 布泰 Bố Thái, 布土 Bố Thổ, 布儂 Bố Nông. [2]
1. Xác định tính khả thi trong việc sử dụng ngôn ngữ Nông Tráng [1] (硯廣壯語南部方言– Nghiễn Quảng Tráng ngữ Nam bộ Phương ngôn) như là một phương ngữ tham chiếu để đáp ứng các nhu cầu phương ngữ của toàn bộ những người nói ngôn ngữ Trung Taic Vân Sơn (Nam Tráng, kể cả những người được gọi là 布泰 Bố Thái, 布土 Bố Thổ, 布儂 Bố Nông. [2]
2. Hiểu được mức độ sinh tồn bản làng của hai phương ngữ Nam Tráng,
Vân Nam, sự quan tâm của người nói tiếng Nam Tráng ở Vân Nam đối với quá trình phát
triển của ngôn ngữ Tráng (chẳng hạn như mức độ biết đọc biết viết, việc giáo dục
song ngữ với các phương tiện truyền thông bằng ấn phẩm và không ấn phẩm bằng tiếng
Tráng) và khả năng phát triển ngôn ngữ Nam Tráng.
Để thực hiện được các mục tiêu này, chúng tôi đã sử dụng một số
công cụ: bảng hỏi về ngôn ngữ học xã hội, quan sát, thực nghiệm nghe hiểu, và khảo
sát danh mục từ. Các tiểu tiết khác về việc sử dụng ngôn ngữ, sức sống và mức độ
dễ hiểu của phương ngữ sẽ dựa vào dữ liệu tìm được bằng các công cụ này nhằm đạt
được các mục tiêu trên và trả lời được câu hỏi nghiên cứu: Các phương ngữ nào
thuộc nhóm Trung Taic Vân Sơn (Nam Tráng) là cơ sở cho việc tiếp tục phát triển
cốt để sử dụng các nguồn lực một cách hiệu quả nhất phục vụ được nhiều nhất những
người cần các nguồn lực thông qua các loại hình nói và viết ngôn ngữ của họ? (Các
dữ liệu thu thập được bằng khảo sát mục từ sẽ được phân tích trong một bài viết
riêng, Johnson 2010, sẽ công bố).
1.1.
Các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Taic
Nhóm các ngữ hệ Tai [3] trải dài từ đông bắc Ấn Độ ở phía Tây, xuống
đến Myanmar, Thái Lan, Lào, Việt Nam và ngược lên xuyên qua các tỉnh Vân Nam,
Quảng Tây, Quý Châu và Quảng Đông, Trung Quốc, và cả một số làng trên đảo Hải
Nam. Có hơn 80 triệu người nói các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Taic (Li and Solnit
2002), trong đó lớn nhất là nhóm nói ngôn ngữ Thái ở Trung Thái Lan. Ở Trung Quốc,
hầu hết những người thuộc các nhóm dân tộc Tráng, Thái và Bố Y nói các ngôn ngữ
thuộc ngữ hệ Taic.
Cấp phân loại cao hơn đối với các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Taic vẫn
còn là một chủ đề nghiên cứu với những lý thuyết khác nhau đã được đề xuất. Quan
điểm truyền thống quay lại với Lacouperie (1886), nhà ngôn ngữ học đầu tiên đã
đồng nhất các ngôn ngữ Tai thành một nhóm riêng biệt, có nghĩa là các ngôn ngữ
Taic bằng cách nào đó đã gắn liền với ngữ hệ Hán - Tạng. Trước tiên, đây là
quan điểm của nhà ngôn ngữ học lớn Lý Huệ Phương. Ông đã công bố công trình tái
cấu trúc Proto-Tai vào năm 1977, [4] và hầu hết các học giả trong giới ngôn
ngữ học Trung Quốc ngày nay vẫn giữ quan niệm chung nhất ấy, chẳng hạn như 羅美珍 La Mỹ Trân - Luo
Meizhen (1992); quan điểm này dựa trên một số lớn các từ cùng gốc trong một ngữ
vựng chủ chốt và dường như có sự phát triển tương đồng về ngữ âm. Năm 1942, Paul
Benedict đã làm rung chuyển trí tuệ truyền thống bằng đề xuất cho rằng ngôn ngữ
Tai gắn liền với các ngôn ngữ Nam Đảo, chẳng hạn như Indonesian, hơn là gắn với
tiếng Hán, cũng như một loạt các ngôn ngữ khác thuộc nam Trung Quốc được ông
nhóm lại dưới cái tên “Kadai”. Trong khi việc nhóm Tai với Kadai được chấp nhận
khá thuận lợi thì việc gắn với Indonesian lại không đơn giản như vậy. Một số
nhà ngôn ngữ học tin vào số lượng lớn các từ tương đồng của Benedict và vẫn tiếp
tục kết nối các nhóm khác vào ngữ hệ “Austro-T(h)ai”, chẳng hạn như Hmong-Mien và
Nhật Bản. Tuy nhiên, những người khác, chẳng hạn như Gedney (1977) vẫn không
tin khi dẫn những xuất phát điểm của Benedict bằng phương pháp so sánh lịch sử
đã được xác lập. Gedney cảm thấy rằng trong khi các ngôn ngữ Tai có thể được kết
nối một cách đáng tin cậy với các ngôn ngữ thuộc 侗水 Đồng – Thủy cũng như một vài ngôn ngữ thuộc đảo Hải Nam (chẳng hạn
như 臨高 Lâm
Cao/Be và 黎 Lê/Hlai)
bằng các thao tác phân loại so sánh vẫn được chấp nhận theo truyền thống, thì vẫn
chưa có đủ bằng chứng để phân loại ở cấp cao hơn. Bài viết cho Bách Khoa thư Encyclopedia
Britannica của Li và Solnit về các ngôn ngữ Tai tóm tắt mối quan hệ giữa Tai với
các ngữ hệ khác như sau:
“Trước đây người ta cho rằng Tai và các nhóm có liên quan đều thuộc
về ngữ hệ Sino-Tibetan vì sự tương đồng của các hệ thống âm vị học (nhất là tiếng
nói) và nhiều mục từ chung với chữ Hán. Nhưng nhiều mục từ lại không có họ hàng
gì với chữ Hán và, vì các mục từ này bao gồm cả sự ưu trội của vốn từ vựng cơ bản
nhất, mà một ngữ chi Sino-Tibetan không thể tồn tại được. Việc ganh đua đề xuất
đã kết nối Tai và các họ hàng của ngữ hệ này với Austronesian, nhưng sự kết nối
này vẫn không đứng vững được để làm thỏa mãn hầu hết các học giả. [Li and
Solnit 2004]
Bất kể các quan điểm của ai về các cấp độ phân loại cao hơn thì
người ta vẫn chấp nhận một cách rộng rãi rằng các ngôn ngữ Tai về phương diện lịch
sử đều có liên quan với nhóm 黔 Kiềm [Kam]
(侗 Đồng), 水
Thủy (侗 Đồng),
Be (臨高 Lâm
Cao), 黎 Lê
(Hlai), và có lẽ còn một nhóm thuộc các ngôn ngữ nhỏ hơn như Yang-Biao** hoặc Ge-Yang**
(Li Jinfang 1997), một nhóm bao gồm các ngôn ngữ nhỏ tại Quảng Tây, Vân Nam và
bắc Việt Nam như Ngật Lão, La Quả (Pu Péo), La Chí, Bố Ương, ...v.v. Các ngôn
ngữ này được gọi là ngữ hệ Kam-Tai hoặc Tai-Kadai. Một số người, chẳng hạn như Gordon
(2005) coi Kam-Tai bao gồm Kam – Sui (Kiềm - Thủy) và Be – Tai, cũng như một
vài nhóm bên ngoài như Lakkia, nhưng với tư cách là tập con của Tai – Kadai,
còn bao gồm cả nhóm Yang-Biao (Ge-Yang); vì vậy phân loại Nam Tráng của Gordon
là: Tai-Kadai, Kam-Tai, Be-Tai, Tai-Sek [石语 – Thạch ngữ],
Tai, Trung tâm.
Việc phân chi trong “ngữ hệ” Tai còn gây nhiều tranh cãi. Vào đầu
năm 1959, Li đã đề xuất chia thanh ba chi Taic gồm Tây Nam Taic, Trung Taic và
Bắc Taic (Li 1959, 1960). Trong khi đó vẫn có những tranh luận về việc liệu có
nên coi ba chi này có chiều sâu thời gian ngang bằng nhau hay không, với quan
niệm cho rằng mới đây đã có sự chia tách thêm giữa hai chi Nam và Bắc, chứ
không phải là chia tách với chi Tây Nam, vì mục đích thực tiễn, nên ba loại
hình này đã chứng tỏ là hữu dụng cho việc nhận thức về những tương đồng và khác
biệt về âm vị học và từ vựng. Tất nhiên một vấn đề lịch sử vẫn còn chưa được
làm sáng tỏ do những tình huống tiếp xúc phức tạp mà những nhóm người nói ba loại
hình ngôn ngữ này đã tự phát hiện ra thông qua hầu như toàn bộ lịch sử ngôn ngữ.
Hầu hết các ngôn ngữ Tây Nam Taic chịu ảnh hưởng nặng bởi các ngôn ngữ Phật
giáo, Pali và Sanskrit, và kết quả đã thấy rất rõ sự vay mượn trong những lĩnh
vực nhất định, cũng như việc sử dụng hệ thống chữ viết của ngôn ngữ Pali (Zhou
and Luo 1999:326ff.). Các ngôn ngữ Bắc Taic đã tiếp xúc với các ngôn ngữ Hán
trong hàng thiên niên kỷ khi đã có hầu hết các ngôn ngữ Taic, mặc dù một số
ngôn ngữ cũng đã tiếp xúc với ngôn ngữ Việt Nam. (Các văn hóa Bắc và Trung Taic
không bị ảnh hưởng nhiều của Phật giáo स्थविरवाद Theravada
上座部 Thượng
Tọa bộ], và vì vậy mà không sử dụng các hệ thống chữ viết dựa trên văn tự
Pali). Một số nhóm nói ngôn ngữ Bắc và Trung Taic vẫn tiếp xúc hàng ngày với
nhau (chẳng hạn như ở các huyện Quảng Nam và Phú Minh thuộc tỉnh Vân Nam, và dọc
theo sông 左江 Tả
Giang, 甬江 Dũng
Giang ở Tây Nam Quảng Tây) và tất nhiên
là nhiều ngôn ngữ cũng đã tiếp xúc với các ngôn ngữ Tạng Miến, Hmong Miến, và
Mon - Khmer. (Để biết các thảo luận chi tiết, xem Luo 1997; Edmondson and Solnit
1997.)
Từ cuối những năm 1950, ở Trung Quốc, những người nói hầu hết các
ngôn ngữ Trung Taic đều được nhóm lại thành dân tộc Tráng cùng các nhóm nói
ngôn ngữ Bắc Taic sống ở Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông và Hải Nam. Nhóm nói tiếng
Bắc Taic thuộc Quý Châu được xác định là một tộc người 布依 Bố Y riêng biệt, trong khi những người nói ngôn ngữ Nam Taic lại
là dân tộc 泰 Thái.
Trong các công trình bằng tiếng Trung Quốc, các ngôn ngữ Trung Taic còn được gọi
là “phương ngữ Nam Tráng” [5], ngược lại những người nói các ngôn ngữ Bắc Taic lại
được phân loại là “phương ngữ Bắc Tráng”.
Có một vài khác biệt nổi bật về ngữ âm học giữa “Nam Tráng”, có
nghĩa là các ngôn ngữ Taic Trung tâm và các ngôn ngữ ngày nay gọi là “Bắc Tráng”
và “Bố Y” (Bắc Taic). Các loại hình Nam Tráng vẫn duy trì một sự trái ngược giữa
các âm tắc của “h” bật hơi và “h” không bật hơi, ngược lại Bắc Tráng và Bố Y lại
kết hợp các âm tắc đó. [6] Nam Tráng cũng giữ lại một loại âm tắc ở miệng hoặc
âm tắc mũi cộng thêm các tập hợp các phụ âm nước, ngược lại ngôn ngữ Bắc Tráng
và Bố Y lại bỏ mất các âm tắc tiền-nước này (vì vậy mà các tập hợp nguyên-Taic
này thường được phát âm “giống r” chẳng hạn như [ɣ] trong các ngôn ngữ Taic Bắc
Tráng. Thêm vào các đổi mới âm vị học này còn có các từ vị cùng gốc được phát
hiện trong hai ngữ chi, nhưng có vẻ đã bị mất trong ngữ chi thứ ba.
Tuy nhiên chúng ta cũng cần phải cẩn thận để tránh phân chia quá
nhiều trong ba ngữ chi theo địa lý này, vì việc phân chia ấy chủ yếu dựa trên
các đặc điểm âm vị học và ngữ vựng. Như Lý đã thừa nhận “chưa hề cố thử giải
quyết vấn đề hình thái học hoặc cú pháp” (1977: xv). Lý đã chỉ ra rằng mặc dù
các ngôn ngữ Trung Taic và Tây Nam dường như thường tương tự với nhau về phương
diện âm vị học hơn so với các ngôn ngữ Bắc Taic, bằng cú pháp hạn chế, ông đã
nghiên cứu, thì đại diện Trung Taic, 龍州 Long Châu, hình như lại giống với
đại diện Bắc Taic, 剝隘 Bác Ải hơn là với đại diện Taic Tây Nam của ông là tiếng Xiêm
(Trung Thái Lan) (1977: xvi). Edmondson (1994:164) đã đồng nhất một vài mô thức
lịch sử biến đổi âm vị học dường như đã vận động cắt qua cả các phương ngữ Nam
Tráng và Bắc Tráng, để rồi ông đi đến kết luận rằng “việc phân chia nam – bắc
là một bức tranh quá đơn giản hóa lịch sử ngôn ngữ học Tráng”. Lý cũng nhận thấy
rằng những ngôn ngữ bất kỳ trong các vùng gần kề với ngữ chi Taic khác cho thấy
các loại hình ngữ vựng không điển hình do ngữ chi đó thể hiện, chẳng hạn nhóm
ngôn ngữ mà Lý gọi là “T’ienpao” (có lẽ là 天保
Thiên Bảo, 德保 huyện Đức Bảo, 央壯 Ương Tráng) được phân loại là Trung
Taic về phương diện âm vị học, có một số hình thái từ vựng thường chỉ được phát
hiện trong các ngôn ngữ Bắc Taic (1977: xiv).
Trương và cộng sự cũng nhận định rằng ngữ vựng Nam Tráng tương đồng
với ngữ vựng Thái, Lào và Tai hơn ngữ vựng các ngôn ngữ Bắc Tráng và Bố Y, có lẽ
vì ít ngữ vựng vay mượn từ các ngôn ngữ Hán. (Zhang et al. 1999:9) Tuy nhiên
các ngôn ngữ Nam Tráng cũng như các ngôn ngữ Bắc Tráng đã chịu ảnh hưởng lâu
dài của các phương ngữ Hán. Khi nói về các vấn đề cuộc sống hàng ngày, người
nói ngôn ngữ Tráng bình thường sử dụng 30-40% số từ vay mượn từ tiếng Hán; trong
lĩnh vực các vấn đề nhà nước hoặc các vấn đề kinh tế, thì tỷ lệ từ vay mượn lên
đến 80% (Zhang et al. 1999). Nhưng Edmondson lại cho rằng “Ngôn ngữ Bắc Tráng
cho thấy một mức độ tiếp xúc với ngôn ngữ Hán lớn hơn ngôn ngữ Nam Tráng. Trong
hầu hết các trường hợp thì các từ vay mượn từ chữ Hán [ở các ngôn ngữ Nam
Tráng] đã được bản địa hóa thành hệ thống âm giọng đã từ lâu” (Edmondson
1994:178).
Nói chung cả các phương ngữ Nam Tráng và Bắc Tráng đều theo nguyên
tắc chung của ngữ hệ Tai, mà về phương diện lịch sử các phụ âm đầu vô thanh hóa
sinh ra các giọng cao, ngược lại các phụ âm đầu hữu thanh hóa về phương diện lịch
sử lại sinh ra giọng thấp. Tuy nhiên Edmondson lưu ý rằng tại các địa phương
vùng cực tây nam, chẳng hạn như đông Vân Nam, có một khuynh hướng nào đó để
thay đổi ý kiến này (với các âm đầu vô thanh hóa về phương diện lịch sử sinh ra
các tập hợp giọng thấp). Mặc dù nhiều phương ngữ Nam Tráng theo cách chia tách
thấp giọng của tiếng Tai tiêu chuẩn, nhưng Edmondson đã đồng nhất các cách chia
tách bổ sung đã xuất hiện trong một số phương ngữ nào đó, chẳng hạn như các
phương ngữ 大新 Đại Tân, 邕南 Dũng
Nam, 隆安 Long An,
扶綏 Phù Tuy thường
tác động đến các âm tiết mở (hoặc “sống”) bao gồm các nguyên giọng A và B, cũng
như các âm tiết đóng (hoặc “chết”, các giọng DS (nguyên âm ngắn) và DL (nguyên
âm dài)) được điều kiện hóa một cách rõ ràng bởi tiếng hơi và tiền xát hóa (Edmondson
1994).
Trong tiếng Hán, những phương ngữ này được gọi là 壯語南部方言
Tráng ngữ Nam bộ Phương ngôn, và 壯語北部方言 Tráng
ngữ Bắc bộ Phương ngôn. [6] Các âm bật khẩu ngữ không bật hơi đã kết hợp với
các âm bật khẩu ngữ bật hơi tại Nam Tráng khi đứng trước một âm nước.
1.2 Các ngôn ngữ Trung Taic
Trong bài viết này, chúng tôi chủ yếu tập trung vào các ngôn ngữ
Trung Taic Vân Nam mà người nói được phân loại trong nhóm dân tộc Tráng. Ở các
thông tin sau đây dựa trên thử nghiệm về nghe hiểu và các so sánh âm vị học,
chúng tôi xác định được hai ngôn ngữ Trung Taic của người Tráng Vân Nam: 儂壯 Nông Tráng và 泰壯 Thái Tráng, và cũng giới thiệu một
ngôn ngữ nhỏ hơn nhiều, mới được phát hiện, 閩壯 Mân Tráng, có
vẻ cũng thuộc Trung Taic. Thêm vào ba ngôn ngữ riêng biệt này, có vẻ như tối
thiểu vẫn còn một ngôn ngữ Taic được một nhóm người xếp vào người Thái xa hơn về
phía Tây tại 紅河哈尼族,彞族自治州 [Hồng
Hà Ha Ni tộc, Di tộc Tự trị châu], và một vài nhóm ngôn ngữ Trung Taic biệt lập
ở huyện Phú Ninh về phía đông Vân Nam vẫn nói; các ngôn ngữ này có thể tương đồng
với các ngôn ngữ Trung Taic Ương Tráng, Tả giang Tráng và/ hoặc Dũng Nam Tráng
của Khu tự trị Tráng tộc Quảng Tây (từ đây gọi là “Quảng Tây”) nhiều hơn là với
các ngôn ngữ Trung Taic Vân Nam.
Các nhà ngôn ngữ học Trung Quốc, chẳng hạn Wei and Tan (1980);
Zhang et al. (1999) đã xác định hai ngôn ngữ Trung Taic ở Vân Nam là “Tiểu
phương ngữ” [7] Nam Tráng và đã đặt tên cho các tiểu phương ngữ này dựa vào tên
các huyện có các nhóm nói ngôn ngữ đó: 硯廣 Nghiễn Quảng,
廣南縣Quảng
Nam huyện, 硯山縣 Nghiễn Sơn huyện, 馬關縣 Mã
Quan huyện, 文山縣 Văn Sơn huyện, 西疇縣 Tây
Trù huyện, 麻栗坡縣 Ma Lật Pha huyện, 文麻 / 文馬Văn Ma hoặc Văn Mã huyện, có nhóm ở
nam 文山 縣 Văn Sơn huyện, nam 麻栗坡縣
Ma Lật Pha
huyện, đông 馬關縣 Mã Quan huyện, 中和營鎮 Trung
hòa Doanh trấn thuộc thị trấn 開遠 Khai Viễn.
Chúng ta sẽ đề cập chung đến một số loại ngôn ngữ theo tên gọi được
bản thân người nói sử dụng: Nông, Thái và Mân; dù chúng ta thường xuyên bổ sung
tên của cách phân loại dân tộc chính thức là “Tráng” để tránh lẫn lộn với ngôn
ngữ Tạng Miến của Myanmar và Tây Vân Nam mà Myanmar gọi là “Nung” (Anong, ISO
code [nun]) hoặc tên gọi chính thức của dân tộc Nùng ở Việt Nam (với các ngôn
ngữ được nhóm lại với ISO code [nut]), với tên gọi chính thức là dân tộc Thái của
Trung Quốc, mà đa số là những người nói các ngôn ngữ Taic Tây nam, hoặc với các
phương ngữ nói tiếng Hán ở tỉnh Phúc Kiến (cũng như Đài Loan và nơi khác) được
gọi là Mân (ISO codes [mnp], [cdo], [nan], [czo]). Cả ba ngôn ngữ này mới đây đều
được đăng ký với hệ thống đặt tên ngôn ngữ chuẩn [ISO 639-3] của tổ chức ISO [International
Standards Organization] với các tên gọi và mã sau: Zhuang, Nong [zhn], Zhuang,
Dai [zhd], and Zhuang, Minz [zgm]. [8]
Ngoài hai phương ngữ được sử dụng ở Vân Nam, các tác giả Zhang et
al. (1999) còn liệt kê ba phương ngữ Nam Tráng khác được sử dụng ở Quảng Tây:
“phương ngữ 邕南
Dũng Nam ở các huyện sau đây: nam 邕南 Dũng
Nam, 隆安
Long An, 扶绥
Phù Tuy, 上思
Thượng Tư, 钦州
Khâm Châu, và 防城 Phòng Thành. Ngôn ngữ này hiện được
đăng ký với chuẩn ISO 639-3 dưới tên gọi “Tráng, Dũng Nam” và với mã code
[zyn]. Zhuang et al. 1999 cung cấp số liệu về người nói là 1.460.000 vào năm
1982. Căn cứ vào cuộc tổng điều tra dân số năm 2000, chúng tôi ước tính số người
nói vào năm 2000 là 1.800.000.
Phương ngữ 左江 Tả Giang ở các huyện sau đây: 天等 Thiên
Đẳng, 大新 Đại
Tân, 崇左 Sùng Tả,
寧明 Ninh
Minh, 龍州 Long
Châu, và 憑祥 Bằng
Tường. Ngôn ngữ này hiện được đăng ký với
chuẩn ISO 639-3 dưới tên gọi “Tráng, Tả Giang” và với mã code [zzj]. Zhuang et
al. 1999 cung cấp số liệu về người nói là 1.384.000 vào năm 1982. Căn cứ vào cuộc
tổng điều tra dân số năm 2000, chúng tôi ước tính số người nói vào năm 2000 là
1.500.000.
Phương ngữ 德靖 Đức Tĩnh ở các huyện sau đây: 德保 Đức Bảo, 靖西
Tĩnh Tây, và 那坡
Na Pha. Ngôn ngữ này hiện được đăng ký với chuẩn ISO 639-3 dưới tên gọi “Tráng,
Ương” và với mã code [zyg]. Zhuang et al. 1999 cung cấp số liệu về người nói là
979.000 vào năm 1982. Căn cứ vào cuộc tổng điều tra dân số năm 2000, chúng tôi
ước tính số người nói vào năm 2000 là 870.000. [9]
Các thành viên khác của ngữ hệ Trung Tai gồm có ngôn ngữ E (ISO
code [eee]), được sử dụng ở 融水苗族自治縣
Dung Thủy Miêu tộc Tự trị huyện, thuộc Quảng Tây (xấp xỉ 30.000
người nói vào năm 1993, Gordon 2004), và một vài ngôn ngữ được sử dụng ở Bắc Việt
Nam Nùng (ISO code [nut]), Tày (ISO code [tyz]), Cao Lan (ISO code [mlc]) và có
lẽ cả Thuấn Lạo Ts’ün-Lao (ISO code
[tsl]). Số người nói các nhóm ngôn ngữ Trung Taic ở Việt Nam vào khoảng 2.000.000
[10] (Gordon 2004).
According to Zhang et al. (1999:47), Nông Tráng tương đối gần với
Ương Tráng (Đức Tĩnh) và Tráng Tả Giang. Mặt khác, Thái Tráng chỉ duy nhất có trong
các phương ngữ Nam Tráng. Phương ngữ này vẫn duy trì các phụ âm đầu hữu thanh,
còn nguyên âm thì cao và tròn tiếng, trong khi đó các âm tắc gốc biến mất.
Phương ngữ Vân Sơn của Thái Tráng được sử dụng ở 黑末鄉 Hắc Mạt hương, có thể có cấu trúc âm tiết hạn định của tất cả các phương
ngữ Tráng, có thể chỉ có 36 âm vận, ngược lại các
phương ngữ khác thường có từ 80 đến 100
âm vận.
___________________________________________
Nguồn:
Eric C. Johnson, 王明富
Mingfu Wang 2010. A Sociolinguistic Introduction to the
Central Taic Languages of Wenshan Prefecture, China. Wenshan Zhuang and
Miao Autonomous Prefecture Minority Affairs Commission Zhuang Studies
Association. SIL International 2010; SIL Electronic Survey Report 2010-027,
September 2010.
Ghi
chú của người dịch:
** Tác giả Weera Ostapirat (2000) chia chi ngôn ngữ Kra thành 7
ngôn ngữ được nhóm thành hai phân chi:
1. Kra Tây gọi là phân chi Ge-Chi gồm các ngôn ngữ [Ge lấy từ đầu
của Gelao; Chi lấy từ cuối của Lachi]: i)
仡佬
Gelao (Ngật Lão – Cờ Lao) có ở Việt Nam, Trung Quốc; ii) 拉哈 Laha (Việt Nam); iii)
拉基 Lachi (La Chí) có ở Việt Nam, Trung Quốc.
2. Kra Đông gọi là phân chi Yang – Biao gồm các ngôn ngữ [Yang lấy
từ sau của Buyang; Biao lấy từ sau của Pubiao]: i) Buyang
布央 Bố
Ương; ii) 巴哈 Ba Ha, 央連村 Ương Liên thôn, 廣南縣 Quảng
Nam huyện, Vân Nam; iii) 郎架 Lang Giá, 富寧縣, Phú Trữ huyện, Vân Nam; iv) 峨村
Nga Thôn, 富寧縣, Phú Ninh huyện, Vân Nam; v) 雅郎 Nhã
Lang, 榮屯 Vinh Truân, 那坡縣 Na Pha huyện, Quảng Tây; vi)
普标
Phổ Phiêu -
Pu Péo; vii) Nùng Vên (bắc
Việt Nam).
Chú
thích:
1.
Nông Tráng được chọn đề xuất trở thành tiêu chuẩn cho các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ
Thái Trung tâm Vân Sơn vì: i) trong thực tế nó đã được Đài Phát thanh Khu tự trị
Vân Sơn sử dụng làm tiêu chuẩn; ii) nhóm ngôn ngữ này có số người sử dụng vào
loại lớn nhất trong ngữ hệ Thái.
2.
Trong thời gian thiết kế dự án nghiên cứu và xác lập các mục tiêu nghiên cứu,
chúng tôi vẫn chưa hề biết đến sự tồn tại của nhóm 閩壯 Mân Tráng.
3. Vì loại hình ngữ âm bật hơi của chữ “h”, nên nói chung thuật ngữ “Thai” được hiểu là tên gọi cho các nhóm ngôn ngữ hoặc dân tộc Thái Lan, còn chữ “Tai” không có âm bật hơi “h” nhìn chung được sử dụng để gọi nhóm ngôn ngữ, mặc dù điều đó có thể gây nhầm lẫn với các ngôn ngữ Nam Taic và những người được xác định chính thức là dân tộc Dai [Thái] ở Trung Quốc, vì phụ âm “d” được dùng để phiên âm Latin hóa chữ Hán thể hiện một âm răng bật, vô thanh, không bật hơi. Vì các mục tiêu của công trình này nên “Tai” thể hiện nhóm ngôn ngữ hoặc ngữ hệ với tư cách là một tổng thể, còn “Dai” thể hiện tộc danh chính thức của họ ở Trung Quốc và “Dai Zhuang” thể hiện ngôn ngữ Trung Taic được sử dụng ở miền tây Khu tự trị Vân Sơn, mà các nhà ngôn ngữ học Trung Quốc gọi là “Nam Tráng Vân – Mã”.
4. Mặc dù trong Encyclopedia Britannica, bài viết được coi là của Li và David Solnit (2002), nhưng các ngôn ngữ Tai vẫn được coi là một “ngữ hệ có mối quan hệ gần gũi”, dường như họ không sử dụng thuật ngữ này để loại khả năng có mối quan hệ lịch sử đối với một ngữ hệ lớn hơn.
3. Vì loại hình ngữ âm bật hơi của chữ “h”, nên nói chung thuật ngữ “Thai” được hiểu là tên gọi cho các nhóm ngôn ngữ hoặc dân tộc Thái Lan, còn chữ “Tai” không có âm bật hơi “h” nhìn chung được sử dụng để gọi nhóm ngôn ngữ, mặc dù điều đó có thể gây nhầm lẫn với các ngôn ngữ Nam Taic và những người được xác định chính thức là dân tộc Dai [Thái] ở Trung Quốc, vì phụ âm “d” được dùng để phiên âm Latin hóa chữ Hán thể hiện một âm răng bật, vô thanh, không bật hơi. Vì các mục tiêu của công trình này nên “Tai” thể hiện nhóm ngôn ngữ hoặc ngữ hệ với tư cách là một tổng thể, còn “Dai” thể hiện tộc danh chính thức của họ ở Trung Quốc và “Dai Zhuang” thể hiện ngôn ngữ Trung Taic được sử dụng ở miền tây Khu tự trị Vân Sơn, mà các nhà ngôn ngữ học Trung Quốc gọi là “Nam Tráng Vân – Mã”.
4. Mặc dù trong Encyclopedia Britannica, bài viết được coi là của Li và David Solnit (2002), nhưng các ngôn ngữ Tai vẫn được coi là một “ngữ hệ có mối quan hệ gần gũi”, dường như họ không sử dụng thuật ngữ này để loại khả năng có mối quan hệ lịch sử đối với một ngữ hệ lớn hơn.
5. Tiếng Hán gọi là “Tráng ngữ Nam bộ Phương ngôn 壯語南部方言” và “Tráng ngữ Bắc bộ Phương ngôn 壯語北部方言”.
6. Các âm bật khẩu ngữ không bật hơi đã hợp nhất với các âm bật khẩu ngữ bật hơi tại nhóm Nam Tráng khi đứng trước một âm nước.
7.
Wei and Qin (1980) đã sử dụng từ 土語, thổ ngữ, có thể dịch là tiểu
phương ngữ.
8. Tên các ngôn ngữ được đề cập, thuộc các nhóm ISO 639-3 và các bảng
mã mô tả có trong: http://www.sil.org/iso639-3/codes.asp.
9.
Rất ngạc nhiên là số liệu điều tra dân số năm 2000 của nhóm này lại nhỏ hơn số
liệu dân số năm 1982 mà Zhang et al. 1999 đã cung cấp. Chúng tôi đã goomptoanf
bộ các nhóm dân tộc tráng trong ba huyện德保 Đức Bảo, 靖西
Tĩnh Tây, và 那坡
Na Pha, ngoại trừ 26.000 người nói ngôn ngữ này ở Long An, Tĩnh Tây (Edmondson,
Gregerson and Nguyen 2000), công thêm 20,000 người có thể nói các phương ngữ Ương
liên quan (chẳng hạn Thiên Bảo) ở huyện Phú Ninh, Vân Nam, để đạt tới con số khả
thể 870.000 người nói.
Tài liệu dẫn
Works
which do not identify author or editor are listed alphabetically by title.
Longer editorial committee names or titles are referenced in the text by the
portion of the editorial committee name or title listed here in bold. Family
names are listed in bold. Chinese names are also listed in Chinese characters
in parenthesis, when known. All Chinese names are listed by family name
preceding personal name. Translations of Chinese publication titles which are
not in square brackets are those which appear on the cover of the Chinese work.
Abadie, Maurice. (Walter E. J. Tips,
translator.) 2001 [1924]. Minorities of the Sino-Vietnamese Borderland with Special
Reference to Thai Tribes. Bangkok: White Lotus Press. (Originally published
in 1924 as Les Races du Haut-Tonkin de Phong-Tho à Lang-Son. Paris:
Société d’Éditions Géographiques, Maritimes et Coloniales.)
Allen, Bryan (艾磊).
2004. Bai Dialect Resarch / Baiyu Fangyan Yanjiu. Kunming: Yunnan
Nationalities Publishing House (bilingual English/Chinese).
Barlow, Jeffrey G. 1987. The Zhuang
minority of the Sino-Vietnamese frontier in the Song period. Journal of Southeast
Asia Studies, Vol. 18, No. 2 (Sept 1987:250–269.
Barlow, Jeffrey G. 1989. The Zhuang
minority in the Ming era. Ming Studies, Vol. 28:15–41.
Barlow, Jeffrey G. 2000. The Zhuang:
Ethnogenesis. Unpublished manuscript, accessed online at: mcel.pacificu.edu/as/resources/zhuang/zhuangintro.htm
.
Benedict, P. K. 1942. Thai, Kadai, and
Indonesian: A New Alignment in Southeastern Asia. American Anthropologist 44:
576–601.
Bennett, Fraser. (no date). Using
historical tonology. Unpublished article.
Bergman, T. D., compiler. 1990. Survey
Reference Manual. Dallas: SIL International.
Bird, Steven and Gary Simons. 2003. Seven Dimensions of
Portability for Language Documentation and Description. In Language 79(3).
Blair, Frank. 1990. Survey on a
Shoestring: A Manual for Small-Scale Language Surveys. Dallas: SIL
International.
Boone, Douglas. 2003. Guidelines on the
choice of major protocols for oral comprehension testing. Unpublished manuscript.
Bradley, David and Maya Bradley, editors. 2002. Language
Endangerment and Language Maintenance. London: RoutledgeCurzon.
Cantoni, Gina, ed. 1996. Revised 2007. Stabilizing
Indigenous Languages. Flagstaff: Northern Arizona University.
Casad, Eugene H. 1974. Dialect
Intelligibility Testing. Dallas: SIL International.
CASS (Chinese Academy of Social
Sciences, Ethnic Research Institute, and National Ethnic Affairs Commission, Office
of Cultural Dissemination), editors. 1994. Zhongguo Shaoshu Minzu Yuyan
Shiyong Qingkuang [The Language Use Situation of China’s Minority
Nationalities]. Beijing: Tibetan Studies Press of China.
Ceng Zhaofu (曾昭富).
2006. Gouding yu Guangnan [Gouding and Guangnan]. Beijing: Culture and
History Press of China.
Compton, Carol J. and John F. Hartmann, editors. Papers on Tai
Languages, Linguistics, and Literatures: In Honor of William H. Gedney on his
77th Birthday. Northern Illinois University, Center for Southeast Asian Studies,
Monograph Series on Southeast Asia, Occasional Paper No. 16. Illinois: 1992.
Cooper, Doug (webmaster). 2008. “Thai
Lexicography Resources: Proto-Tai'o'Matic” (website) Bangkok: Center for
Research in Computational Linguistics, sealang.net/crcl/proto/. (Accessed 4
July 2009.)
Dai Guanglu (戴光禄),
general editor. 2004. Zhuangzu Wenhua [The Culture of the Zhuang]. Yunnan
Zhuangzu Wenhua Congshu [Yunnan Zhuang Nationality Culture Series]. Kunming:
Yunnan People’s Publishing House.
Dai Guanglu (戴光禄)
and He Zhengting (何正廷).
2006. Meng Lao Xi Ni Gu: Zhuang Zu Wenhua Gaikuang/“Meng Lao Ship Ni Gu”:
The General Introduction to the Culture of the Zhuang People. Kunming: Yunnan
Fine Arts Publishing House.
Dai Yong (戴勇).
1996. Tantan Zhuangyu Wenma tuyu mei~6 de yuyi ji yongfa [Discussion of the
semantic range and usage of mei6 in the Wenma Zhuang dialect]. Minzu
Yuwen, No. 6.
Dodd, William Clifton. 1996 [1923]. The
Tai Race: Elder Brother of the Chinese. Bangkok: White Lotus Press. (Originally
published in 1923 by The Torch Press, Cedar Rapids, Iowa.)
Edmondson, Jerold A. 1994. Change and
variation in Zhuang. Papers from the Second Annual Meeting of the Southeast
Asian Linguistic Society, edited by K. L. Adams and T. J. Hudak, 147–85. Tempe,
AZ: Program for Southeast Asian Studies, Arizona State University.
Edmondson, Jerold A. David B. Solnit, eds. 1997. Comparative
Kadai: The Tai Branch. Dallas: SIL International.
Edmondson, Jerold A., Kenneth J. Gregerson, and Nguyen Van Loi. 2000. Lesser Known Languages of Vietnam. (websites
accessed 4 July 2009: ling.uta.edu/~jerry/research/ and www.vny2k.com/VN2020/VNY2K_LesserKnownLanguages.htm
Fine, Cathryn. 2005. Variation within
Southern Zhuang. Unpublished manuscript.
Fishman, Joshua. 1991. Reversing
Language Shift: Theoretical and Empirical Foundations of Assistance to Threatened
Languages. Clevedon, England: Multilingual Matters.
Fishman, Joshua. 1996. What do you lose
when you lose your language? In Cantoni 1996.
Fowler, Floyd J., Jr. 1995. Improving
Survey Questions. California: Sage Publications.
Funing Xian Di Ming Zhi [Funing
County Geographical Name Gazetteer]. 1986. (Edited by committee).
Funing: The People’s Government.
Gao Fayuan (高发元),
editor. 2001. Yunnan Minzu Cunzhai
Diaocha: Zhuangzu—Wenshan Panzhihua Zhen Jiupingbashangzhai. [Yunnan Ethnic
Village Research: the Zhuang—Panzhihua
Township’s Jiupingbashangzhai Village in Wenshan County]. Kunming: Yunnan
University Press.
Gedney, William J. 1966. Linguistic diversity among Tai dialects in
southern Kwangsi. Paper originally presented at the 41st Annual Meeting of
the Linguistic Society of America, New York, New York, 28–30 December 1966.
Reprinted in Hudak 1995.
Gedney, William J. 1972. A check list for determining tones in Tai
dialects. Studies in Linguistics
in Honor of George L. Trager. The Hague: Mouton, 423–437.
Gedney, William J. 1977. An areal vowel change in Tai dialects in
Kwangsi and Kweichow. Paper originally presented at the 10th International
Conference on Sino-Tibetan Languages and Linguistics, Georgetown University,
October 1977. Reprinted in Hudak 1995.
Giersch, C. Patterson. 2006.
Asian Borderlands: The Transformation of Qing China's Yunnan Frontier. Cambridge,
Massachusetts: Harvard University Press.
Gordon, Raymond G., Jr. (ed.), 2005. Ethnologue:
Languages of the World, Fifteenth Edition. Dallas, Tex.: SIL International.
Online version: www.ethnologue.com.
Grimes, Joseph. 1997. Correlations
between vocabulary similarity and intelligibility. Windows on Bilingualism, edited
by Eugene Casad. Dallas: SIL International.
Guangnan Xian Di Ming Zhi [Guangnan
County Geographical Names Gazetteer]. 1986. (Edited by committee). Guangnan:
The People’s Government.
He Zhengting (何正廷),
editor. 1998. Yunnan Zhuangzu: Huace [Yunnan Zhuang Nationality: Picture
Book]. Beijing: Ethnic Publishing House.
He Zhengting (何正廷),
chief editor, Lu Baocheng (陆宝成),
editor, and Meng Simu (蒙斯牧),
editor. 2004. Zhuangzu Jingshi Yizhu [Annotated Translations of Zhuang Epic
Poetry]. Yunnan Zhuang Culture Series. Kunming: Yunnan Nationalities
Publishing House.
Huang Changli (黄昌礼) and Wang Mingfu (王明富). 2000. Babao
Fengqing Yu Chuanshuo [Babao Customs and Legends]. Kunming: Yunnan
Nationalities Publishing House.
Huang Changli (黄昌礼), chief editor, Wang Mingfu
(王明富), editor, Long Fu (龙符), editor, and Wang Jianguo (王建国),
editor. 2003. Nong Zhigao Wenti Lunwen Ziliao Ji [A Collection of Essays and
Information on the Problem of Nong Zhigao]. Wenshan: Communist Party of
Wenshan Prefecture, United Front Bureau.
Hudak, Thomas John, editor. 1995. William
J. Gedney’s Central Tai Dialects: Glossaries, Texts, and Translations. Michigan
Papers on South and Southeast Asia, Center for South and Southeast Asian
Studies, University of Michigan.
International Standards Organization. 2008
“ISO 639 Code Tables” www.sil.org/iso639-3/codes.asp (Accessed 4 July 2009.)
Johnson, Eric. 2010. A Lexical and
Phonological Comparison of the Central Tai languages of Wenshan Prefecture, China.
SIL Electronic Working Papers 2010.
Kaup, Katherine Palmer. 2000. Creating
the Zhuang. Boulder: Lynne Rienner Publishers.
Kluge, Angela. 2005. RTT retelling
method. Unpublished manuscript.
Kullavanijaya, Pranee and L-Thongkum, Theraphan. 1998. Linguistic criteria for determining
Tai ethnic groups: case studies on Central and south-western Tais. Proceedings
[of] the International Conference on Tai Studies, July 29–31, 1998, Bangkok.
L-Thongkum, Theraphan. 1997. Proto-Voiced
plosives and fricatives in Dai Tho. In Edmondson and Solnit, eds.
Lã Văn Lô and Đặng Nghiêm Vạn. 1968. Sơ Lược Giới
Thiệu Các Nhóm Dân Tộc Tày, Nùng, Thái ở Viẹt-nam [An Introduction to the Tày,
Nùng and Tai groups of Vietnam.] Hanoi: Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội.
Landweer, M. Lynn. 2005. Indicators of
ethnolinguistic vitality. Notes on Sociolinguistics, 5.1.5–22.
(Available online at: http://www.sil.org/sociolx/ndg-lg-indicators.html)
Lebar, Frank M, Gerald C. Hickey, John K. Musgrave. 1964. Ethnic Groups of
Mainland Southeast Asia. New Haven: Human Relations Area Files Press.
Li Fang Kuei (李方桂).
1959. Classification by vocabulary: Tai dialects. Anthropological
Linguistics. Vol. 1.2:15–21.
Li Fang Kuei (李方桂).
1960. A tentative classification of Tai dialects. In Diamond, Stanley, ed.
1960. Culture in History: Essays in Honor of Paul Radin. New York:
Columbia University Press. (951–959)
Li Fang Kuei (李方桂).
1977. A Handbook of Comparative Tai. Oceanic Linguistics Special
Publications, No. 15. Honolulu: University Press of Hawaii.
Li Fang Kuei (李方桂).
1992. The Tai languages. In Compton and Hartmann 1992.
Li Fang Kuei (李方桂)
and David B. Solnit. 2002. Tai
languages. In Encyclopædia Britannica, 15th edition. Vol. 22:713–715
London: Encyclopædia Britannica, Inc.
Li Fuchun (李富春),
responsible editor. 1998. Wenshan shaoshu minzu fengqing jiqu [Interesting
characteristics of Wenshan’s ethnic minorities]. Kunming: Yunnan Nationalities
Publishing House.
Li Jinfang (李锦芳).
1996a. Buyangyu gaikuang [Overview of the Buyang Language]. Zhongyang Minzu
Daxue Xuebao, [Working papers of the Central University of Nationalities],
vol. 1.
Li Jinfang (李锦芳).
1996b. The sound system of Baha Buyang. Proceedings of the Fourth
International Symposium on Language and Linguistics, Vol. 1.
Li Jinfang (李锦芳).
1996c. Bugan: A new Mon-Khmer language of Yunnan Province, China. Mon-Khmer
Studies. Vol. 26:135–159.
Li Jinfang (李锦芳).
1997. Buyangyu Yanjiu [Buyang Language Research]. Beijing: Central
Nationalities University Press.
Li Jinfang (李锦芳)
and Zhou Guayan. 1998.
Diachronic evolution of initial consonants in Buyang. Mon-Khmer Studies.
Vol. 28.
Li Xulian and Huang Quanxi. 2004. The introduction and development of the Zhuang
writing system. Zhou, M. (ed.),
Language Policy in the People's Republic of China: Theory and Practice since
1949. Kluwer Academic Publishers. pp. 239–256.
Li Yunbing (李云兵).
2000. Laji Yu Yanjiu [Laji Language Research]. China's Recently
Discovered Languages Research Series. Beijing: Central Nationalities University
Press.
Liang Min (梁敏).
1990. The Buyang Language. Kadai, vol. 2. (Chinese version: “Buyang yu”
republished in 2004 in: Yunnan Teshu Yuyan Yanjiu [Research Into the
Special Languages of Yunnan], edited by the Yunnan Guiding Commission for
Minority Nationality Language and Literature Work and SIL International. Kunming:
Yunnan Nationalities Publishing House. Pp. 1–20.
Lu Zhengyuan (吕正元)
and Nong Lansheng (农览生),
chief editors. 1998. Funing Xian Minzu Zhi [Funing County Nationalities
Almanac]. Kunming: Yunnan Nationalities Publishing House.
Luo Liming (罗黎明), editor-in-chief. 2005. Zhuang—Han—Ying Cidian / Cuengh Gun Yingh Swzdenj / Zhuang—Chinese—English Dictionary. Beijing: Nationalities Publishing House (Bilingual Chinese/English).
Luo Liming (罗黎明), editor-in-chief. 2005. Zhuang—Han—Ying Cidian / Cuengh Gun Yingh Swzdenj / Zhuang—Chinese—English Dictionary. Beijing: Nationalities Publishing House (Bilingual Chinese/English).
Luo Meizhen. 1992. A Second Discussion
of the Genetic Classification of the Kam-Tai Languages: A Reply to Benedict. IN
Compton and Hartmann 1992:44–51.
Luo Yongxian. 1997. The Subgroup
Structure of the Tai Languages: A Historical-Comparative Study. Berkeley: Journal
of Chinese Linguistics (Monograph Series Number 12).
Luu Hung, with Đặng Nghiêm Vạn and Chu Thai Son. 1986. Les Ethnies
Minoritaires du Vietnam. Hanoi: Editions en Langues Etrangères (Foreign
Language Publications).
Maguan Xian Diming Zhi [Maguan
County Geographical Name Gazetteer]. 1988. (Edited by committee.) Maguan:
The People’s Government.
Malipo Xian Diming Zhi [Malipo
County Geographical Name Gazetteer]. 1987. (Edited by committee.)
Malipo: The People’s Government.
Mann, Noel. 2004. Mainland
Southeast Asia Comparative Wordlist. Chiang Mai: Payap University.
Mann, Noel. 2005. Syllostatistics.
Unpublished manuscript.
Mao Zongwu (毛宗武).
1990. Guangxi Napo Rongtun “Tu Yao” Yu ji Xishu [The “Tu Yao” language of Napo county’s
Rongtun village in Guangxi and its classification]. Guangxi Minzu Yanjiu
[Guangxi Nationalities Research], vol. 3.
Matisoff, James A. 1991. Endangered Languages of Mainland Southeast Asia. In Robert H. Robins and Eugenius M. Uhlenbeck, eds. Endangered Languages. Oxford: Berg Publishers Limited.
Matisoff, James A. 1991. Endangered Languages of Mainland Southeast Asia. In Robert H. Robins and Eugenius M. Uhlenbeck, eds. Endangered Languages. Oxford: Berg Publishers Limited.
Mengzi Xian Zhi [Mengzi
County Gazetteer]. 1995. (Edited by committee.) Beijing: Zhonghua Press.
Milliken, Margaret E. and Stuart R. Milliken. 1996. System relations in assessing dialect intelligibility. Notes on Linguistics, No. 72. Dallas:
SIL International.
Milliken, Stuart R. and Margaret E. Milliken. 2003. A Proposed Standard Word List for Tai Languages in China. Unpublished
Manuscript.
Mufwene, Salikoko S. 2002a. Colonisation, Globalisation and the Future
of Languages in the Twenty-first Century. International Journal on Multicultural Studies. Vol. 4, No. 2.
Mufwene, Salikoko S. 2002b. Language endangerment: what have pride and
prestige got to do with it? In: Brian Joseph, Johanna DeStefano, Neil G.
Jacobs and Ilse Lehiste, eds., When Languages Collide. Columbus, Ohio State
University Press.
Mufwene, Salikoko S. 2004. Language Birth and Death. Annual Review of Anthropology.
National Bureau of Statistics,
Office of Population and Social Science Statistics and the National Ethnic
Affairs Commission, Office of Economic Development, editors. 2003. 2000 Nian
Renkou Pucha Zhongguo Minzu Renkou Ziliao. [Year 2000 Population Census Data
for China’s Ethnic Groups]. Beijing: The Ethnic Publishing House.
Nicolson, Beth. (no date) The Nùng
dialects of Lạng Sơn Province. Unpublished manuscript.
Pelkey, Jamin, Wang Mingfu (王明富) and Eric Johnson. 2005. Language contact and areal diffusion in rural Yunnan:
A comparative case study on Azha Yi and Nong Zhuang. Unpublished manuscript. Pingbian Miaozu Zizhi Xian Zhi [Pingbian
Miao Autonomous County Gazetteer]. 1990. (edited by committee). Kunming:
Yunnan Nationalities Publishing House. Qiubei Xian Diming Zhi [Qiubei County Geographical Name
Gazetteer]. 1988. (Edited by committee.) Qiubei: The People’s Government.
Radloff, Carla. 1993a. Post-RTT questions
for interpreting RTT scores. Unpublished manuscript.
Radloff, Carla. 1993b. Reported dialect similarities and word list counts. Unpublished manuscript.
Radloff, Carla. 1993b. Reported dialect similarities and word list counts. Unpublished manuscript.
Ross, Peter A. 1996. Dao Ngan Tay: A
B-language in Vietnam. In Mon-Khmer Studies 25:133–139.
Saul, Janice E. and Nancy Freiberger Wilson. 1980. Nung Grammar.
Summer Institute of Linguistics Publications in Linguistics No. 62. Dallas:
Summer Institute of Linguistics and University of Texas at Arlington.
Savina, F. M. Dictionnaire
Étymologique Français-Nùng-Chinois [French-Nung-Chinese Etymological Dictionary].
Hong Kong: Imprimerie de la Société des Mission Étrangères. 1924.
Schaeffer, Sheldon. 2003. Language
Development and Language Revitalisation: An Educational Imperative in Asia.
Paper presented at Conference on Language Development, Language Revitalization,
and Multilingual Education in Minority Communities in Asia. November 6–8, 2003,
Bangkok, Thailand.
Showalter, Catherine J. 1991. Getting what
you ask for: A study of sociolinguistic survey questionnaires. Proceedings Of
The Summer Institute of Linguistics International Language Assessment
Conference, Horsleys Green, 23–31 May 1989, edited by Gloria E. Kindell.
Dallas: SIL International.
Simons, Gary F. 1979. Language
Variation and Limits to Communication. Ithaca, NY: Cornell University, Department
of Modem Languages and Linguistics. Reissued by the SIL International, Dallas,
1983.
SIL MSEAG (SIL International, Mainland
Southeast Asia Group). 2002. Southeast Asia 436 Word List. (Available online
through the David Thomas Library, Bangkok:
http://msea-ling.info/dt-library/libronline.shtml).
Strecker, David. 1985. The classification of
the Caolan languages. Southeast Asian Linguistic Studies presented to André-G.
Haudricourt, edited by Suriya Ratanakul, David Thomas and Suwilai
Premsrirat. Bangkok: Mahidol University.
Sun Hongkai (孙宏开).
2001. Guanyu Binwei Yuyan wenti [Concerning the Problem of Endangered
Languages]. Yuyan Jiaoxue yu Yanjiu [Language Education and Research],
2001, No. 1.
Tan Qixiang (谭其骧),
editor. 1987. Zhongguo Lishi Ditu Ji, Di Ba Ce: Qing Shiqi [The Historical
Atlas of China, Volume VIII: the Qing Dynasty period]. Beijing: China
Cartographic Publishing House.
Tan Shengmin (覃圣敏),
chief editor. 2003. Zhuang-Thai Minzu Chuantong Wenhua Bijiao Yanjiu [Comparative
Research into the Traditional Cultures of Taic Peoples]. Vol. 2. Nanning:
Guangxi The People’s Publishing House.
Tang Dabin, Zhou Bing, Lou Zichang
and Li Junming, editors. 2004
[1828]. Kaihua Fuzhi Dianzhu [Selections from the Gazetteer of the Kaihua
Prefecture Government]. Lanzhou: Lanzhou University Press.
UNESCO Ad Hoc Expert Group on Endangered
Languages. 2003. Language vitality and endangerment. (Approved 31 March 2003 by
the Participants of the International Expert Meeting on the UNESCO Programme Safeguarding
of Endangered Language, Paris, 10–12 March 2003.) Available online at: portal.unesco.org/
culture/ en/ ev.php URL_ID=9105&URL_DO=DO_TOPIC&URL_SECTION=201.html. (Accessed
4 July 2009.)
Wang Jun (王均),
editor. 1984. Zhuang-Dong Yuzu Yuyan Jianzhi [A Brief Overview of the Taic
Languages]. Beijing: The People’s Publishing House.
Wang Mingfu (王明富)
and Eric Johnson. 2008. Yunnan
Sheng Wenshan Zhuang Zu Miao Zu Zizhi Zhou Zhuang Zu Wenhua Yichan Ji Zhuang Yu
Yanjiu / Zhuang Cultural and Lingustic Heritage. Kunming: Yunnan Nationalities
Publishing House. (Bilingual Chinese / English.)
Wei Qingwen (韦庆稳) and Tan Guosheng (覃国生), eds. 1980. Zhuangyu
Jianzhi [Brief Overview of the Zhuang Language]. Zhongguo shaoshu minzu
yuyan jianzhi congshu [Chinese minority languages brief overview series].
Beijing: The People’s Publishing House.
Wen Nong Nian Fu 1 Biao [Wenshan
Rural Yearbook Table No. 1]. 2005. Wenshan: Wenshan Prefecture
People’s Government.
Wenshan Min-Zong Wei (Wenshan
Zhuang Zu Miao Zu Zizhi Zhou Minzu Zhongjiao Shiwu Weiyuan Hui [Wenshan Zhuang
and Miao Autonomous Prefecture Minority and Religious Affairs Commission]),
editor. 2005. Wenshan Zhuang Zu Miao Zu Zizhi Zhou Minzu Zhi [Gazetteer of
Wenshan Zhuang and Miao Autonomous Prefecture’s Ethnic Groups]. Kunming:
Yunnan Nationalities Publishing House.
Wenshan Xian Di Ming Zhi [Wenshan
County Geographical Name Gazetteer]. (edited by committee). 1988. Wenshan:
The People’s Government.
Wenshan Xian Zhi [Wenshan
County Gazetteer]. (Edited by committee.) 1999. Kunming: Yunnan Nationalities Press.
Wenshan Zhou Zhuang Zu Chuantong Wenhua Diaocha [Wenshan
Prefecture Zhuang Nationality Traditional Culture Research]. 2004.
Wenshan: Wenshan Prefecture Nationalities Commission Ancient Manuscripts Bureau.
Wenshan Zhou Zhuang Zu Chuantong Wenhua Diaocha [Wenshan
Prefecture Zhuang Traditional Culture Research]. 2004.
Wenshan: Wenshan Prefecture Ethnic and Religious Affairs Commission Ancient Manuscripts
Bureau Wenshan Zhuang Zu Miaozu
Zizhizhou Gaikuang [Wenshan Zhuang and Miao Autonomous Prefecture Overview].
1986. Zhongguo Shaoshu Minzu Zizhi Difang Gaikuang Congshu. [Chinese
Autonomous Minority Areas of China Series]. Kunming: Yunnan Nationalities
Publishing House.
Wu Zili. 2004. Bengan Yu [The Bengan
Language] In: Yunnan Shaoshu Minzu Yuwen Zhidao Gongzuo Weiyuan Hui [Yunnan
Province Minority Ethnicities Language and Litterature Guiding Comission] and
SIL International, editors. Yunnan Teshu Yuyan Yanjiu. [Research into
Unique Languages of Yunnan] Kunming, China: Yunnan Nationalities Publishing
House.
Wurm, Stephen A. 1991. Language death
and disappearance: causes and circumstances. In Robert H. Robins and Eugenius
M. Uhlenbeck, eds. Endangered Languages. Oxford: Berg Publishers
Limited.
Xichou Xian Diming Zhi [Xichou
County Geographical Name Gazetteer]. 1987. (Edited by committee.)
Xichou: The People’s Government.
Yan Shangyue (颜上月),
editor. 1959, 1994. Zhuangyu Fangyan Tuyu Yinxi [Phonologies of
Zhuang Dialects and Subdialects]. Nanning: Guangxi Ethnic Publishing House.
Yanshan Xian Diming Zhi [Yanshan
County Geographical Name Gazetteer]. 1990. (Edited by committee.) Yanshan:
The People’s Government.
Yu Shijie (玉时阶).
2004. Zhuangzu Minjian ZongjiaoWenhua [The Folk Religion and Culture of the
Zhuang]. Bejing: The People’s Publishing House.
Yunnan Province, Bureau of Cartography, editor.
1986. Wenshan Zhuangzu Miaozu Zizhi Zhou Ditu. [Wenshan Zhuang and Miao
Autonomous Prefecture Map]. Kunming: Yunnan Provincial Cartography Bureau.
Yunnan Province, Bureau of Statistics, editor.
2004. Yunnan Tongji Nianjian [Yunnan Statistical Yearbook], No. 20.
Bejing: China Statistics Press.
Yunnan Sheng Zhi:
Shaoshu Minzu Yuyan Wenzi Zhi [Yunnan Province Gazetteer: Minority Languages
and Writing Systems]. 1998. Kunming: Yunnan
Nationalities Press.
Yunnan Wenshan Zhuang Wen Fangan [Yunnan
Wenshan Zhuang Orthography Proposal]. 1984. Unpublished manuscript.
Zhang Bo, editor. 2000. Wenshan
Zhuangzu Miaozu Zizhi Zhou Zhi, Di Yi Juan. [Wenshan Zhuang and Miao Autonomous
Prefecture Gazetteer, Volume One.], Kunming: Yunnan Peoples' Press.
Zhang Junru (张均如).
1987. Zhuangyu Wenma tuyu de yinlei yanbian [The phonological development of
Wenma Zhuang]. Minzu Yuwen, No. 5:10–18.
Zhang Junru (张均如), Liang Min (梁敏), Ouyang Jueya (欧阳觉亚), Zheng Yiqing (郑贻青), Li Xulian (李旭练), and Xie Jianyou (谢健猷), editors.
1999. Zhuangyu Fangyan Yanjiu [Zhuang Dialect Research].
Zhongguo
Shaoshu Minzu Yuyan Fangyan Yanjiu Congshu [Chinese Minority Language Dialect
Research Series]. Chengdu: Sichuan Ethnic Publishing House.
Zhang Yuansheng and Wei Xingyun. 1997. Regional variants
and vernaculars in Zhuang. In Edmondson and Solnit, eds.
Zhongguo Shaoshu Minzu [Minority
Nationalities of China]. 1981. (Edited by committee.)
Beijing: The People’s Publishing House.
Zhongguo Yuyanxue Dacidian. [An
Encyclopedic Dictionary of Chinese Linguistics]. 1991
Nanchang: Jiangxi Educational Press.
Zhou Yaowen (周耀文)
and Luo Meizhen (罗美珍),
editors. 1999. Dai Yu Fangyan Yanjiu [Dai Dialect Research]. Beijing: The
People’s Publishing House. 1999.
Zhuangzu Baike Cidian [Zhuang
Encyclopedic Dictionary]. 1993. (Edited by committee.)
Nanning: Guangxi People’s Publishing House.
Zhuangzu Mo Jing Buluotuo
Yingyin Yizhu [Annotated Selections from Zhuang Mo Scriptures about Buloktuo].
2004. Nanning: Guangxi Ethnic Publishing House.
Cháu cảm ơn Chú đã dịch ạ...
Trả lờiXóaCảm tạ bác Nga đã dịch bài này ! Em hơi bất ngờ là bác đã dịch trọn vẹn ! Xin bác bài này về blog em nhé.
Trả lờiXóaEm cho đăng lại ở đây nhé:
Xóahttp://giaovn.blogspot.jp/2014/09/ve-tho-ngu-van-son-van-nam-trong-phuong.html
OK, TS Giao, rất vui được chia sẻ.
XóaThân
Hà Hữu Nga