Nhóm Bách Việt/Yue đầu tiên hay
cuối cùng?
Le Minh Khai
Người
dịch: Hà Hữu Nga
Vài tháng
trước một bạn đọc đề nghị tôi đáp lại một bài viết [1] có một luận điểm đã được
nhấn đi nhấn lại nhiều lần, cho rằng người Việt là nhóm người cuối cùng của
“Bách Việt” và họ đã thoát khỏi bị Hán hóa bằng cách di chuyển về phương nam và
giữ vững độc lập của mình.
Tác giả của
bài viết cho rằng người Việt luôn ý thức mình là Việt qua nhiều thế kỷ và họ
duy trì được di sản văn hóa Bách Việt, mặc dù tác giả không hề giải thích rõ
ràng cái gì tạo dựng nên di sản văn hóa đó.
Tôi đã bắt
đầu viết một bài trả lời [2] bằng cách chỉ ra rằng chúng ta không có bằng chứng
về việc là bất cứ nhóm người nào mà người “Trung Quốc” dán nhãn Bách Việt/Yue trong
thiên niên kỷ đầu tiên trước công nguyên cũng thực sự tự coi mình là “Việt/Yue”
(có lẽ với một trường hợp ngoại lệ là nhóm tinh hoa Nam Việt).
Cái mà chúng
ta có bằng chứng là trong nhiều thế kỷ từ cuối giai đoạn TCN đến khoảng 1000
năm SCN có những nhân vật tinh hoa Hán hóa (Triệu Đà*, Lý Bí**, Lâm Sĩ Hoằng [林士弘],
Phùng Áng [馮盎]...v.v) đã sử dụng khái niệm Việt/Yue
để gọi tên các chính thể mà họ thành lập.
Có phải điều
đó có nghĩa là họ đặt tên vương quốc của mình theo tên nhóm người sống ở đó?
Chúng ta không có bằng chứng về điều này. Có vẻ như họ chỉ đơn giản sử dụng một
cái tên có tính văn chương gắn liền với vùng đó của thế giới.
Một trong
những nguyên do tại sao cái tên Việt hình như không thuộc về một nhóm người
hoặc một “ý thức”, một “di sản văn hóa” trong thiên niên kỷ đầu tiên SCN là ở
chỗ chúng ta không có bằng chứng về một văn hóa mà cả những người bình dân và
nhóm tinh hoa đều chia sẻ.
Từ cái mà các
nhà nghiên cứu đã phát hiện về văn hóa Bách Việt/Yue, nó tương tự như cái thế
giới mà tôi gọi là “những người săn đầu người Đông Sơn” [3] hơn là thế giới của
Triệu Đà hoặc Lý Công Uẩn. Thế giới đó rõ ràng là đã biến mất.
Đây là vấn đề
mà nhiều sử gia đã thừa nhận. Chẳng hạn, trong những năm 1960, sử gia Nguyễn
Phương đã cho rằng Việt là Hán di cư đến vùng châu thổ sông Hồng vào thiên niên
kỷ đầu SCN [4] và đã thế chỗ các cư dân sớm hơn ở đó. Đây không phải là ý tưởng
gốc của ông. Thay vào đó là quan điểm cho rằng các nhà nghiên cứu Việt Nam đã
bắt đầu nói về điều này ngay từ đầu thế kỷ XX khi lần đầu tiên họ bộc lộ về
quan điểm chủng tộc.
Ý tưởng cho
rằng có một số lớn di dân đã làm thay đổi cơ bản văn hóa châu thổ sông Hồng đã
không được các bằng chứng sử học và khảo cổ học ủng hộ. Tuy nhiên, trong thực
tế không cần phải có một dân số lớn mới làm thay đổi đáng kể văn hóa và ngôn
ngữ.
Để hiểu được
điều này, chúng ta cần suy nghĩ về hai bài viết mà tôi đã đề cập trong blog này:
một bài viết về bài của Richard A. O’Conner [5], và bài khác viết về bài của John
Phan [6]
Như tôi đã
viết trước đây, John Phan cho rằng ngôn ngữ Việt Nam được tạo ra khi một số
người nói phương ngữ Trung Quốc chuyển sang nói một ngôn ngữ địa phương (giống
như người Normans ở Anh vậy) ở một nơi nào đó vào thế kỷ IX – X, còn Richard
O’Conner thì cho rằng những người như người “Việt” hình thành thông qua sự tham
gia vào nền nông nghiệp lúa nước. Đặc biệt ông còn cho rằng những người thuộc
các tộc người khác nhau dần dần hình thành một “nhóm tộc người” riêng biệt khi
họ bắt đầu theo cùng các loại nghi lễ và giao tiếp với các quan chức (khi sử
dụng ngôn ngữ “mới” mà John Phan đã xác định) là những người quản lý nguồn
nước, thu thuế, ...v.v.
Điều mà tôi
thấy là đây. Thay vì có một nhóm “Bách Việt” “sống sót”, thì điều có vẻ đã xảy
ra là trong giai đoạn cuối đời nhà Đường, có các thành viên của nhóm tinh hoa thuộc
khu vực mà ngày nay gọi là nam Trung Quốc và bắc Việt Nam bắt đầu tạo thành các
quyển ảnh hưởng riêng của họ và bắt đầu tạo ra một ý thức địa phương cho bản
thân họ (điều này trên thực tế đã xảy ra trên toàn bộ đế quốc Đường vào thời
gian đó).
Họ không thực
hiện điều đó bằng cách đồng nhất hóa với những người địa phương. Thực ra họ có
ý định coi nhiều nhóm người xung quanh là “man di”. Thay vào đó, họ sử dụng một
số thông tin tồn tại trong các văn liệu (chẳng hạn các ghi chép về nước Nam
Việt của Triệu Đà) để tạo ra các tước vị cho các chính thể địa phương và để kết
nối các lĩnh địa mới của họ với nguồn thông tin trong các văn bản cổ.
Trong một môi
trường như vậy, nó tạo ra một ý thức mà những người như Lý Công Uẩn có thể đã
đem đến từ các vùng của cái gọi là Phúc Kiến ngày nay và kết thúc sự thống trị trên
một vương quốc thuộc vùng châu thổ sông Hồng. Họ có thể làm được như vậy vì
nhóm tinh hoa trên khắp vùng này đều có chung một văn hóa tinh hoa.
Ngày nay
nhiều người có tham vọng phân biệt về phương diện tộc thuộc một số nhóm người sống
trong thời kỳ đó. Có những người muốn coi Nùng Trí Cao là “Tày Thái”, trong khi
đó lại có người cho Phùng Áng là “Hán”, ...v.v.
Trong thực tế
thì nhóm tinh hoa trên khắp vùng này đều có chung các tương đồng văn hóa với
nhau hơn là với những người mà họ cai trị. Không có lý do gì cho bất cứ một
chính thể nhỏ bé nào trong thời gian đó phải bị thống trị bởi những người đồng
nhất về phương diện tộc thuộc, vì họ đã được thống nhất bởi một văn hóa tinh
hoa, và có lẽ không phải là nhóm tinh hoa ở bất cứ nơi nào thuộc các vùng này cũng
đều đồng nhất về phương diện tộc thuộc.
Nếu Lý Công
Uẩn thực sự là người Phúc Kiến, thì có lẽ không phải là tất cả mọi người trong
cung đình của ông đều giống ông về phương diện tộc thuộc. Cái đã thống nhất
nhóm tinh hoa thống trị lại chính là họ có chung một văn hóa, và họ giao tiếp
bằng một ngôn ngữ chung (rõ ràng là một ngôn ngữ thứ hai đối với một số người).
Và nếu John
Phan đúng thì ngôn ngữ được nhóm tinh hoa vùng châu thổ sông Hồng sử dụng trong
thời Lý Công Uẩn nắm quyền vẫn còn là một ngôn ngữ hoàn toàn mới. Hơn nữa, nếu
ngôn ngữ này được hình thành khi những người nói một phương ngữ Trung Quốc “chuyển
hướng” sang nói một ngôn ngữ địa phương và trong quá trình đó đã đem đến nhiều
ngữ vựng mới thì có lẽ đã không có gì quá khó khăn đối với những người đã Hán
hóa từ Phúc Kiến đến để học ngôn ngữ đó, khi nó có lẽ có nhiều từ chung với
ngôn ngữ riêng của ông ta.
Cùng với thời
gian, toàn bộ những điều đó đều thay đổi khi văn hóa tinh hoa này dần dần phổ
biến đến người bình dân. Điều đó đã diễn ra như thế nào? Một phần thông qua các
quá trình mà O’Connor đã đề cập. Bằng việc tuân thủ trật tự của giới tinh hoa
trong việc cam kết với nghề nông làm lúa nước, bằng việc thực hành các lễ thức
mà nhóm tinh hoa đã thiết lập, bằng việc lắng nghe các tích truyện về các thần
linh địa phương mà nhóm tinh hoa tạo ra nhằm đưa các thần này (mà bản thân người địa
phương cũng tin tưởng) vào hệ thống quyền uy của mình, và bằng việc giao tiếp
với nhóm tinh hoa bằng ngôn ngữ mà nhóm tinh hoa sử dụng, những người bình dân
dần dần thay đổi (tất nhiên quá trình đó không hoàn toàn là con đường một
chiều, nhưng tôi lại cho rằng ảnh hướng
của nhóm tinh hoa đối với các nhóm không phải tinh hoa là rất lớn – như các trường hợp đã xảy ra mọi
nơi trên toàn thế giới.
Quá trình này
diễn ra trong nhiều thế kỷ, và trong thực tế nó vẫn còn đang tiếp diễn. Ngày
nay ở Việt Nam vẫn còn những người đang tiếp tục trở thành người Việt.
Vì vậy điều
mà tôi muốn nói là không phải người Việt là những “người cuối cùng của Bách
Việt” , mà thay vào đó họ là những “người đầu tiên của Bách việt”, vì cái văn
hóa và ngôn ngữ ngày nay được thừa nhận là “Việt” chỉ bắt đầu hình thành vào
gần cuối thiên niên kỷ I SCN, và thông qua quá trình này mà một nhóm người bắt
đầu tự coi mình là “Việt” (chứ không phải là được dán nhãn bởi người bên ngoài
bằng cái tên đó, như trường hợp thiên niên kỷ I TCN Bách Việt được đề cập đến
trong các nguồn sử liệu thời gian đó), và tự hình dung mình là một nhóm hậu duệ
của “Bách Việt”.
Khi tạo ra
văn hóa này, nhóm tinh hoa đã sử dụng nguồn thông tin được ghi lại về vùng
đó của thế giới trong quá khứ (đó là nguồn của một số thông tin trong các văn
bản như Lĩnh Nam Chích quái chẳng hạn) và việc sử dụng tên gọi “Việt”, mãi sau
này mới biết, là một trong những mẩu thông tin quan trọng nhất của quá khứ mà
họ đã khai thác.
Nhưng đó chính
là một tên gọi mà họ đã phát hiện, chứ không phải là tên gọi mà họ đã được thừa
hưởng. Vì những người mà “người Hán” coi là “Việt/Yue” thì lại không hề biết
rằng họ là “Việt/Yue”. Chúng ta không hề biết họ tự coi mình là ai, đối với
trường hợp những người săn đầu người Đông Sơn và toàn bộ những nhóm người khác
nhau sống trên toàn bộ khu vực ngày nay được gọi là nam Trung Quốc – và di sản
văn hóa của họ đã biến mất từ lâu trước khi Lý Công Uẩn xuất hiện trên chính
trường.
_____________________________________________
Ghi chú của người dịch: *,** “...những nhân vật tinh hoa
Hán hóa (Triệu Đà, Lý Bí)” Tôi không rõ ý của Le Minh Khai trong các trường hợp
này? Mong anh ấy giải thích kỹ hơn; nếu có thể, thì cả trường hợp Lâm Sĩ Hoằng
[林士弘], và Phùng Áng [馮盎]...v.v) nữa.
Tài liệu dẫn
Tài liệu dẫn
1. Nguyễn Xuân Phước, Bách Việt Trong Lòng Đại Việt, Bài viết được đăng trên trang http://www.anviettoancau.net/anviettc/
2. Le Minh Khai, The Problem of the Term “Việt” In a National History, bài viết được công bố trên trang leminhkhai.wordpress.com/06Sep12
3. Le Minh Khai, Đông Sơn Headhunters, leminhkhai.wordpress.com/27Nov12
4. Le Minh Khai, Nguyễn Phương on the Origins of the Vietnamese Nation, Bài viết được công bố trên trang leminhkhai.wordpress.com/ 08Mar12
6. John Phan 2010. Re-Imagining ‘Annam’: A New Analysis of
Sino-Viet-Muong Linguistic Contact. Chinese
Southern Diaspora Studies, Volume
4, 2010 [南方華裔研究雑志第四卷
Nam Phương Hoa duệ Nghiên cứu Tạp chí đệ tứ quyển].
Thú thật bác lemimhkhai này có nhiều bài hay và cũng lắm bài mang tính áp đặt, tự suy tự diễn rất ngây ngô
Trả lờiXóa