Khai
quật Óc Eo (I)
Louis
Malleret
Người dịch: Hà Hữu Nga
Di chỉ Óc Eo nằm ở ven biển châu thổ Mê Kông trên bờ vịnh Thái Lan
(PI.V), và là một phần trong tập hợp di chỉ là thuộc Phù Nam, chủ yếu được phát
hiện tại vùng Transbassac năm 1944 [1]. Di chỉ phân bố ở làng Mỹ Lâm, tổng Kiên
Hảo, thuộc ranh giới hai tỉnh Long Xuyên và Rạch Giá, ở tọa độ 10012’32’’
Bắc và 10509’17’’ [2] Đông (tọa độ các gò đất ở giữa khu di chỉ).
Tôi đã đến đây lần đầu tiên vào ngày 1 tháng Tư năm 1942 và đã thông báo về một
dãy gò đống nổi bật trên vùng đồng bằng lầy lội trải từ Phnom Ba Thê đến biển. Việc
phát hiện tình cờ về một đồ trang sức bằng vàng đã thu hút vô số kẻ săn vàng
kéo đến. Hoàn cảnh chiến tranh không cho phép tổ chức ngay một cuộc khai quật,
và một phần phụ thuộc vào các chu cấp hành chính, các phương tiện bảo vệ, nên
tôi đã kết hợp mua lại được một số lượng lớn các đồ vật mà những người săn cổ vật
thu được.
Đầu năm 1944, ông George Coedès,
sau đó là Giám đốc trường Viễn đông Bác cổ đã tin tưởng chính thức giao
cho tôi nhiệm vụ tiến hành một chiến dịch khai quật với sự cộng tác của ông Manikus, phụ trách nhiếp ảnh và ông Trần Huy
Bá, phụ trách phần đo vẽ. Trong chiến dịch khai quật còn có một vị thư ký của Bảo tàng Blanchard de la Brosse, ông Đặng Văn Minh và một
người đổ khuôn thạch cao của Trường Mỹ nghệ Biên Hòa, ông Nguyễn Văn Yên. Hai
mươi thanh niên trợ giúp khai quật trong tháng đầu. Mười cảnh sát được cử ra
canh giữ đảm bảo an ninh cho di chỉ và vùng xung quanh. Một y tá được tỉnh
Long Xuyên và Rạch Giá bố trí chăm sóc sức khỏe cho đoàn trong toàn bộ đợt khai
quật, còn các bác sỹ của hai tỉnh có trách nhiệm thường xuyên đến chăm sóc y tế.
Trước đó, bác sỹ Delbove thuộc Viện Pasteur cũng
đã tiến hành một đợt nghiên cứu về bệnh sốt rét trong vùng, và bác sỹ-nhà bào
chế thuốc Vialard-Goudou, cán bộ Viện
Pasteur đã phân tích các mẫu nước giếng ăn tại đây. Nước ăn hàng ngày được lấy
từ Núi Sập, Long Xuyên cách Óc Eo 15 km. Đoàn khai quật dựng trại với trạm lọc
nước giếng được thiết kế ngay tại sân đình làng Vọng Thê để rửa ráy, không sử dụng
cho ăn uống. Các nguyên tắc kỷ luật về y tế và sức khỏe được thiết lập một
cách nghiêm nhặt. Các hoạt động phòng ngừa sốt rét đã rất có hiệu quả. Tuy
nhiên vẫn có sáu ca bị mắc bệnh lỵ, nhưng đã được điều trị tại địa phương, hoặc
đưa bệnh nhân về trung tâm y tế Long Xuyên cách đó 40 km bằng thuyền hoặc xuồng
máy. Thời gian dự kiến tiến hành khai quật là vào mùa khô, từ tháng Hai đến
tháng Tư, khi vùng đất quanh năm ngập nước trong khu châu thổ Bassac trở nên
khá chắc, và địa tầng không bị xáo trộn hoặc bị ngập trong nước gần như suốt cả
năm.
Di chỉ cách biển 25km và
cách sườn dốc tây nam núi Phnom Bat Sâmner hoặc Núi Ba Thê 2,5km (Pl. VI,a), ở
đó đã phát hiện được một số công trình điêu khắc Khmer thuộc nghệ thuật tiền
Angkor. Các bức không ảnh trước đó chụp ở độ cao lớn trong điều kiện không thuận
lợi vẫn cho thấy con đường mòn bao quanh có hình vuông hoặc chữ nhật, rõ ràng
trên ba cạnh thuộc hướng tây nam và hướng đông, có vẻ như một cạnh dài hơn hai
cạnh kia. Trong giả thuyết đầu tiên, di chỉ chiếm một diện tích là 225 ha,
trong giả thuyết thứ hai là hơn 400 ha. Không phải đợi đến cuối cuộc Thế chiến
II thì vấn đề mới được giải quyết. Năm 1946, việc phục hồi các bức không ảnh đã
giúp tôi có được một cái nhìn rõ ràng hơn về cái hình chữ nhật một cạnh 1500m, và
cạnh kia 3000m theo hướng bắc-bắc- đông & nam-nam-tây, bao gồm diện tích 450
ha, bằng khoảng một nửa Angkor Thom. Nhưng các gò đống và các di tích trên bề mặt
phân bố dày đặc trên diện tích 330 ha, chủ yếu ở phía bắc, vì vậy có thể tiến
hành nghiên cứu trên một dải đất rộng, phù hợp với một diện tích đô thị tương đối
chắc chắn ở đó.
Đối với người quan sát trên mặt đất, thì đường nét của phạm vi đó
không còn được thể hiện bởi một chuỗi các bờ dốc và các hố trũng khó nhận ra vì
những đám cỏ và lau sậy mọc rậm um tùm nữa. Di chỉ hiện ra nhờ hàng loạt di động
nhẹ của đất pha cát cùng các môm đống mà
dân cư địa phương gọi là Tuôl hoặc gò, bằng tiếng Khmer và tiếng Việt. Di
chỉ bị phân cắt bởi các hố trũng, đôi khi là đầm lầy trải dài theo các bậc cấp,
đôi khi lại cắt nhau thành tuyến. Đây là các lung, có vẻ như là từ tiếng Việt bị
biến đổi từ mlóng trong tiếng Khmer.
Số lượng gò đống lên tới 35 cái, nhìn chung không dễ nhận thấy. Hầu hết chỉ cao
khoảng vài décimètres (dm) so với bề mặt ruộng
xung quanh. Người dân địa phương gọi đó là các gò đá hoặc gò đất, tùy thuộc vào
việc các mô đất đó có hay không có các tảng đá granite phủ bên trên thành một
hình gần như tròn (Pl. VI, b). Sau đó tôi tiếp tục công việc, và phát hiện
được hai hiện vật trong đó có một mukhaliṅga
bằng đá cát và một nửa bức tượng đàn ông Ấn còn đến háng, trong khi liṅga dáng vẻ rất tự nhiên được phát hiện
trong một hố trũng. Gò đất đôi khi có nguồn gốc hiện đại, một số cư dân sống ở
đây không còn cách nào khác để tránh được ngập lụt hàng năm nên họ đã vượt đất
làm nền xây dựng nhà ở trên chính vùng đồng bằng này; nhưng các bờ dốc do con
người tạo ra thường được xác định dễ hơn, vì bên cạnh đó vẫn còn để lại một cái
hố đào lấy đất vượt nền. Các gò đất khác xa hơn nhiều về phía nam di chỉ thì rất
ít thay đổi, nhưng thường thấp hơn và ở chỗ lầy lội hơn. Có vẻ như các gò đó thuộc
về nhóm cư trú sớm hơn.
Trong số các hố trũng, khía cạnh
quan trọng nhất là theo trục thẳng đông bắc – tây nam mà hình chữ nhật trước đó
đã xác định tuyến đường. Tiếp giáp về phía đông có một dải cát trải từ làng Giồng
Cát ở gò Óc Eo lớn nhất, nhưng không phải là cao nhất và tên gò được dùng để gọi
tên toàn bộ di chỉ. Di chỉ trải từ phía nam có tên gọi Lung Lớn trở thành Lung
Giếng Đá trên các bản đồ, trong đó ông Pierre Paris đặc biệt chú ý đến cơ hội
nghiên cứu tiếp theo [3]. Một di chỉ mới có tên gọi là Tà Kèo được phát hiện ở
chỗ con kênh cổ giờ đã bị lấp, hình như đã có thông ra biển.
Một nhân viên địa bạ tỉnh Long Xuyên đã xây dựng sơ đồ tổng thể di chỉ Óc Eo theo các tuyến khảo sát của tôi. Chúng tôi cũng đã thực sự nghiên cứu các dữ liệu địa lý từ các tấm không ảnh. Để thuận tiện cho việc xác định vị trí trong khu vực đồng bằng không có các mốc thị giác, chúng tôi đã phân chia toàn bộ vùng đô thị như đã giả định thành các khu vực, ba khu vực đã được phân chia dọc theo hướng chính: khu phía bắc, khu trung tâm và khu phía nam, mỗi khu vực được chia ô theo hướng vuông góc với hai khu đầu tiên: khu tây và khu đông. Cách phân chia này không phải hoàn toàn võ đoán, mà dựa trên một nhận định cho rằng di tích Tuôl Dơm Tonleap hay còn gọi là Gò Cây Thị, là nơi để lại những di vật có ý nghĩa to lớn nhất, có thể cho thấy một khoảng cách tương đương từ hai cạnh ngắn của khu di chỉ, nếu người ta thừa nhận rằng đó là một hình chữ nhật, thực sự được thấy sau đây. Đó cũng chính là ranh giới lý thuyết của các khu bắc và khu trung tâm trùng với một lung đi ngang qua, vẫn còn để lại một đoạn. Chúng tôi cũng sử dụng cách chia khái quát này để nghiên cứu vô số mảnh gốm bị bọn đào trộm của để lại; các kết quả được liệt kê ở phần dưới.
Mức độ rộng lớn đã biết của di chỉ
và mùa khô ngắn ngủi cho phép đến được tất cả các hố trũng với chương trình mà
tôi đã thiết kế chỉ có thể đáng ứng được một phần rất khiêm tốn của tham vọng
nghiên cứu. Đó có thể là sân chơi cho bọn săn của trái phép, nhưng bằng một
nghiên cứu hệ thống về địa hình và địa tầng vẫn có thể xác định được các cấp độ
cư trú ở đây. Vì vậy trước tiên chúng tôi đề xuất tiến hành một loạt mặt cắt địa
tầng để quan sát chính xác một tập hợp các suy luận về mức độ đảm bảo an toàn.
Sau đó cần phải khảo sát số lượng các gò đống được lựa chọn trên toàn bộ di chỉ
để có được những hiểu biết nhất định về các di vật và xác định các mốc chuẩn cho
bình đồ của khu đô thị. Phương pháp này về sau đã chứng tỏ là vô giá vì nó là bất
khả thể kể từ các sự kiện người Nhật trở lại gần Óc Eo vào ngày 9 tháng Ba năm
1945. Sau đó di chỉ đã bị bỏ lại không hề có bất cứ sự kiểm soát nào đối với
hành động hỗn loạn của bọn săn của và phương pháp khảo sát không ảnh mà chúng
tôi đã thực hiện trên cánh đồng khô nẻ vào tháng Tư năm 1946, là bức ảnh về một
cảnh quan mờ nhạt thách đố người ta bằng những cái hố hoặc những hình phễu dày
đặc gợi nhớ về vùng Champagne hoang tàn trong Thế chiến
I, sau trận pháo kích kinh hoàng.
Các nghiên cứu đặc trưng địa tầng
tập trung vào 8 điểm phân bố ở khu phía bắc và khu trung tâm, khu vực phía nam vẫn
lầy lội trong suốt thời gian chúng tôi ở đó (Pl. VII, a và b). Bắt đầu từ ngày 10 tháng
Hai, các cuộc khai quật của chúng tôi đã phải chạm trán với nước ở độ sâu
khoảng 1m và cho đến độ sâu 2 m vẫn không giảm vào đầu tháng Tư, tại bất cứ một
điểm nào. Tình trạng thiếu thốn phương tiện đã cản trở đáng kể đến công việc
nghiên cứu. Tuy nhiên điều đó lại giúp chúng tôi nhận thấy rất rõ sự tồn tại
của hai lớp cư chiếm của con người nơi đây. Một lớp chồng lên nền cát đã được
phát hiện lác đác ở độ sâu trung bình từ 0.50m – 0.80m. Lớp thứ hai phân bố ở
độ sâu 1.80m – 2.20m. Có thể khẳng định rằng trong bất cứ trường hợp nào thì chúng
ta cũng không thể xác lập được một mặt cắt địa tầng có cả hai, đặc biệt là trật
tự niên đại, có thể có giai đoạn cư trú liên tục hoặc đứt quãng tại di chỉ. Nhưng
vì các hiện vật giống hệt nhau ở cả hai mức, và mức thứ hai xuất hiện ở rìa
Kênh Lớn, nên có thể được coi là một mô thức cư trú đồng đại được thiết lập lúc
thì trên nền đất chắc, đôi khi lại ở rìa của hố trũng.
Trong mỗi mức
chúng tôi đều gặp các cụm di vật. Đó là các mảnh gạch ngói, gốm và các di vật thường
có ở cả hai lớp. Lớp thứ hai bao gồm vô số mảnh vỡ, dấu vỏ sò, xương động vật nói
chung, có chỗ độ dày đạt tới 0.80m. Mức thứ nhất tương ứng với lớp cát có chứa
những miếng vàng nhỏ. Nhiều di vật có dạng hình sợi với các dải nhỏ, hoặc một
loại hợp chất nung chay hình giọt nước, tất cả đều có thể nhìn thấy rõ bằng mắt
thường. Đôi khi chúng lẫn lộn với các mảnh đồng đỏ hoặc đồng thiếc. Những mẫu
vật khác là bụi mịn có kích thước hạt lớn nhất chỉ là 1 hoặc 2/10 mm. Quan sát
bằng kính hiển vi, các mảnh vỡ được phân chia thành một trong các loại trên.
Nhìn chung, chúng đều có các vết rạn do gõ búa hoặc những đường rạch do một
loại công cụ để lại. Mặt khác, chúng tôi phân biệt các loại hiện vật bằng sự
khác nhau về màu sắc để xác định những tên gọi khác nhau. Trong mọi trường hợp,
chúng tôi đều nghiên cứu cấu trúc tinh thể của các hiện vật. Có vẻ như chúng ta
phải xem xét các mạt rũa của các xưởng làm đồ kim hoàn, hoặc các phế phẩm của
quá trình mạ vàng sản phẩm kim hoàn. Trong di chỉ còn phát hiện được một tượng
Phật nhỏ bằng đồng thiếc có lẽ được tráng bằng thủy ngân.
Ngoài ra
chúng tôi còn bắt gặp các hạt chuỗi bằng vàng giống hệt các hạt chuỗi mà
M.I.H.N.Evans đã phát hiện được ở Kuala Selingsing,
Malaysia mà ông gọi là hạt chuỗi mạ vàng. Có một hạt chuỗi để lộ một phần cấu
trúc bên trong cho thấy có một dải vàng mỏng giữa hai lớp thủy tinh. Có thể
những hạt chuỗi này cũng cùng một loại như vậy. Về phương diện khác, chúng tôi
cũng phát hiện được vài chiếc búa nhỏ, và những con trai hai mảnh vỏ làm đồ
trang sức bằng đá phiến sét. Có vẻ như đô thị này đã lưu giữ nhiều xưởng kim
hoàn, điều đó có lẽ giải thích cho sự tồn tại nhiều nén vàng nhỏ và đồ kim hoàn
phát hiện trong khu di chỉ. Các mẫu cát mà chúng tôi lấy từ các độ sâu khác
nhau đã được Marcel Aubert, Kỹ sư Nha khoáng sản Sài Gòn xét nghiệm. Các mẫu cát này đều
không chứa mảnh vụn vỏ nhuyễn thể, điều đó giúp loại trừ giả định về nguồn gốc
biển của chúng. Ở chỗ khác chúng tôi thấy rằng nền cát không hề xuất hiện thành
một mạng liên tục. Độ dày của các lớp nền này giao động từ vài cm đến vài dm. Nó
vẫn luôn luôn được nâng đỡ bởi một lớp sét mà mỗi năm được chồng lên một vỉa
phù sa do lũ. Trừ khi có thêm thông tin mới, còn đến bây giờ thì có vẻ không phải
nơi đây đã từng là một bãi biển cổ. Các mẫu vỏ nhuyễn thể và dấu vết vỏ nhuyễn
thể được ông Edmond Saurin thuộc Sở địa chất
Đông Dương xét nghiệm cho thấy trạng thái ưu trội của các loài nhuyễn thể nước
ngọt (Paludina sp.) hoặc các loài sống ở cả nước ngọt lẫn nước lợ (Cyrena sp.).
Một vài loài nhuyễn thể biển (Arca sp.), nhưng sự dồn đống của chúng với các
loài nhuyễn thể nước ngọt và một số lượng lớn xương động vật, chủ yếu là xương
bò và xương lợn non thì rõ ràng đó là vật thải của quá trình xử lý thực phẩm,
chứ không phải là sản phẩm của quần động vật tự nhiên bên bờ biển.
Có ba chiếc cột gỗ được phát hiện tập
trung ở một điểm, trong phạm vi khoảng một mét. Một chiếc cột được trang trí sơ
qua, nhưng vẫn còn thấy rõ. Nó gồm có hai vết lõm hình vòng tròn tạo thành một
đường uốn khúc, trong khi đó vết lõm tổ ong để lại dấu vết rất rõ trên nền sống
nổi của một bề mặt tám cạnh. Trên những di chỉ mới được phát
hiện ở toàn bộ vùng Transbassac, đôi khi vẫn còn thấy nhiều nhiều đầu cột mấp
mé trên mặt đất. Những chiếc cột ấy ở Óc Eo thể hiện mối quan hệ mật thiết với
các di vật tương tự được phát hiện năm 1936 ở Đồng Cây Sậy cùng với một tượng
Phật bằng gỗ [4]. Dường như trong thời cổ, việc sinh sống ở nhà sàn là duy nhất
khả thể đối với môi trường sống của người Óc Eo trên toàn bộ vùng Transbassac
và Đồng Cây Sậy.
Đặc biệt liên quan đến Óc Eo, có thể hình dung được rằng, các ngôi
nhà sàn đều được xây dựng trên hệ thống cột cao hoặc thấp, tùy thuộc vào tình
trạng không đồng mức của mặt bằng khu đô thị, bởi tác động của sự bồi lấp cho đến
ngày nay đã giảm đi rất nhiều. Những chiếc cột mà chúng ta còn nhận ra được chủ
yếu là ở rìa của hố trũng. Dường như chúng ta đang được chứng kiến sự hiện diện
của các khu cư trú tương tự như các khu cư trú nhà sàn hướng đến thiết lập mối
quan hệ giữa hai lớp khảo cổ học đồng đại bị tách ra bởi sự khác biệt của một lớp
đất dày một mét. Trong thực tế thì có thể cho rằng trong suốt một giai đoạn cư
trú lâu dài, các rác thải của quá trình nấu nướng và thực phẩm thải loại đã được
tích tụ lại trong nhà, đặc biệt là khi chúng lấp đầy một hố trũng, một đoạn
kênh mương hoặc một bàu nước. Sự tương đồng của đồ gốm giữa lớp này và lớp khác
có khuynh hướng khẳng định cho giả thuyết này, mặc dù công nghệ gốm rõ ràng là
một loại kỹ thuật tiến triển ít nhất. Chúng tôi phát hiện được dưới hố cột một chiếc bàn đập gốm bằng gỗ hoàn
toàn giống với những chiếc bàn đập mà những người thợ gốm Khmer vùng Ba Thê và ngày
nay chúng tôi cũng thu thập được các bàn miết láng gốm tương tự như vậy. Dẫu
sao thì chúng ta cũng có thể xem xét một thực tế chung là phương thức cư trú
trong nhà sàn. Nhưng nếu chúng ta nhớ rằng các mặt cắt địa tầng chỉ bắt gặp
riêng rẽ, ngoại trừ các trường hợp đáng ngờ là hai lớp khảo cổ, thì trước khi
đưa ra kết luận cuối cùng về sự khác biệt hoặc đồng đại của chúng, cần phải có
các nghiên cứu thêm, cho dù theo nghĩa rộng thì có thể coi đó là cách diễn đạt
thứ hai.
______________________________________
Nguồn:
Louis Malleret 1951. Les fouilles d'Oc-èo (1944). Rapport préliminaire, Bulletin de l'Ecole
française d'Extrême-Orient. Tome 45 N°1, 1951. pp. 75-88, par Louis Malleret, Directeur de l'École Française
d'Extrême-Orient.
Chú thích
1. Về các trường hợp nảy sinh từ các sự kiện hậu chiến, cho
đến nay chúng tôi vẫn chưa công bố được toàn bộ các nghiên cứu của mình về các
di chỉ tiền Angkor thuộc Phù Nam ở vùng châu thổ Mê Kông, bao gồm cả vùng
Transbassac là nơi có niên đại cổ hơn cả. Chúng tôi hy vọng trong những năm tới
sẽ tiến hành công bố toàn bộ các công trình này và nó sẽ giúp khôi phục lại tầm
quan trọng cao của khảo cổ học đối với các vùng đất phù sa nam Đông Dương. Cho
đến nay đặc biệt có bài viết của ông G.
Coedès, đầu đề là Fouilles en
Cochinchine. Le site de Gb Oc-èo, ancien port du royaume de Fou-Nan dans
Artibus Asiae, X-3, 1947, p. 19З-199 và hai bài viết của chúng tôi, một có đầu
đề là The buried town of Óc Eo and the Funanese
sites of Transbassac in Cochin-China, trong
Annual Bibl. of Indian Archeaology của
Institut Kern, Leyde, 1 9 5 о , XV, p. Li-LVi, và bài
khác là L'Art et la métallurgie de l'étain dans la
culture d'Oc-èo trong Artibus Asiae, XI-4, 1948,
pp. a 74-284. Trong báo cáo sơ bộ này chúng tôi giới hạn minh họa vào việc tổng
quan các khía cạnh của di chỉ và công việc nghiên cứu vào hai giai đoạn khác
nhau trong tiến trình. Trong các bài viết đã đề cập ở trên có trình bày một số
hiện vật đặc trưng cho Óc Eo.
2. Các tọa độ được hiệu chỉnh và báo cáo cho la
Carte Internationale du Monde [Bản đồ Quốc tế Toàn thế giới]. Theo đó di chỉ Óc
Eo ở 1 i g. 36 2 lat. N. et 1 14 g. з4з long. E. trên các bản đồ của Sở Địa lý
Đông Dương được dùng cho Kinh tuyến Paris – Cái tên Óc Eo được chúng tôi sử dụng
mở rộng cho toàn bộ di chỉ là một cái tên địa danh địa phương, là Cồn giữa.
3. Các kênh cổ được phát hiện trên không ảnh,
thuộc tỉnh Tà Keo, Châu Đốc, Long Xuyên, và Rạch Giá, BEFEO, XLI, p. З65-З72.
4. (Xem M BEFEO, XXXVII, 6o5, và Catalogue của
Musée Blanchard de la Brosse, vol. I, p. 79-80.
Cám ơn về bản dịch.
Trả lờiXóaCảm ơn bạn đọc Quang Toàn thường xuyên ghé thăm và động viên K.E. Đó thực sự là một món quà lớn.
XóaThân
Hà Hữu Nga