L. Braver* (ed.)
Người dịch: Hà Hữu Nga
Nhiều người - có thể là hầu hết các nhà
diễn giải đều phản ứng với một
thực tế là Hiện
hữu và Thời gian chỉ đơn thuần là một bức
tượng 'bán
thân'
– công việc dở dang [1] bằng cách đặt
sang một bên 'Câu hỏi về Hữu thể'. Thay vào đó, họ bắt đầu tước bỏ phần thân thể vì những gì có thể chứng minh là tài sản trong bối cảnh của một số dự án hoặc
của riêng họ. Ngược lại, John Haugeland mạnh dạn khẳng định rằng Vạn hữu trong Hiện hữu và
Thời gian đều liên quan đến câu hỏi về hiện hữu... [Chẳng hạn [c]ác khái niệm tồn tại
được đưa
ra vì lý do này và chỉ
vì lý do này mà thôi. Nhiệm
vụ của chúng ta với tư cách độc giả là phải hiểu cách thức thực hiện (Haugeland 2000, 66). Tôi thú nhận rằng điều này đã làm
tôi sửng sốt như một hành động
thuần khiết của đức tin về phía Haugeland. Tôi đã từng cho rằng chúng ta có nhiều lý do để tự hỏi liệu
điểm quy chiếu tốt nhất để hiểu suy nghĩ ban đầu của Heidegger là 'Câu hỏi về Hữu
thể' và, với nó, 'cái
dự án Hữu
thể và Thời gian' — như tôi
sẽ gọi nó — cái dự án to lớn hơn so với những gì mà cuốn sách đã xuất bản được khẳng định là có đóng góp. [2] Dự án đó chỉ là một số 'cái
khung' mà Heidegger đặt quanh tác phẩm của ông vào
những năm 1920 và thứ ông từ bỏ sau một vài năm xuất bản cuốn
sách. [3]
Có vẻ như ông không hài lòng với những nỗ lực của bản thân để khiến nó khai hoa kết trái. Một trường hợp có thể được đưa ra để thảo luận là chúng ta có nhiều tài liệu có thể đã tạo nên Phần thứ hai của cuốn sách đã hoàn thành. Nhưng có rất ít lý do để lạc quan như vậy đối với Hợp phần 3 thuộc Phần I. Nhìn lại phía sau, Heidegger nói về hợp phần đó là 'do dự' (LH 231), và ngay từ năm 1929 (EG 105 n. b) – ông đã xác định tập bài giảng Các vấn đề Cơ bản về Hiện tượng học năm 1927 như là một 'công việc soạn thảo mới của Hợp phần 3 thuộc Phần I của Hữu thể và Thời gian (BP 1). Những nhận xét này cho thấy rằng, về bản chất, công việc đã được thực hiện nhưng chưa bao giờ đạt tới được hình thức có thể xuất bản mà Heidegger mong muốn; và điều đó dường như được xác nhận bởi thông báo của Heidegger vào năm 1941 - thông qua các cuộc trò chuyện với Jaspers vào tháng 12 năm 1926 và tháng 1 năm 1927 - ‘đối với tôi, rõ ràng là việc xây dựng tất cả các Hợp phần quan trọng này (I, 3) được soạn thảo cho đến thời điểm đó thực sự là không thể hiểu được”. [4] Nhưng cũng trong chính bức thư đó, ông viết tiếp: “Tất nhiên, vào thời điểm tôi nghĩ rằng trong suốt cả năm này, tất cả mọi thứ có thể được nói rõ ràng hơn. Đó là một ảo tưởng”.
Vì vậy, quan điểm của Heidegger vào năm 1941 cho rằng ông đã chẳng viết được gì kể từ khi Hữu thể và Thời gian - Vấn đề Cơ bản bao gồm trong đó – hoàn toàn được bổ sung thêm vào Hợp phần thiếu khuyết. [5]
Khi nói tất cả những điều trên, tôi cũng đã từng
cho rằng những khả tính đáng chú ý vẫn có thể mở ra nếu chúng ta coi trọng 'Câu hỏi về Hữu
thể' và cái
khung hình cụ thể về tư tưởng ban đầu của Heidegger mà chúng ta
tìm thấy trong Hữu
thể và Thời gian. Đặc biệt, tôi đã xuất trình một cách giải thích về cái dự án mà cuốn sách đó đã dành
cho, công việc còn lại cho Hợp
phần 3, tuy
nhiên tầm quan trọng của công
việc đó, cùng với lý do để nghĩ rằng có thể có vấn đề về nguyên tắc cản
trở hoàn thành
công việc. [6] Theo cách
giải thích đó, Heidegger đã
hình dung
cái dự án Hữu thể và Thời gian là
giải quyết một vấn đề mà
Aristotle đã khai lộ và những hiểu biết sâu sắc riêng của Heidegger - về các hình thức đa dạng mà Hữu thể của các thực thể có – càng trở
nên sâu sắc hơn. Vấn đề là có
lý do để nghĩ rằng khả tính của lĩnh vực chuyên môn hữu thể luận giả định rằng ý tưởng
‘Hữu thể nói chung’ là có ý nghĩa và cũng có lý do để nghĩ rằng một ý nghĩa như vậy là không hề có. Điều mà tôi muốn làm ở đây là gợi ý một cách
thức mà lối
giải thích đã được xuất trình của tôi có thể được khuyếch trương thêm, đặc biệt, bằng cách phác thảo một cách thức
thảo luận về tính xác thực trong Hữu
thể và Thời gian có thể có ý nghĩa về mặt cấu trúc cho dự án trên.
1. Hiện tượng luận, hữu thể luận, và
tính đa dạng
Trong
Hữu thể và Thời gian, Heidegger đã tạo ra ảnh hưởng đáng kể về
“tính ưu trội của Vorhanden hiện diện
trong tầm tay trong hữu thể luận truyền thống” (SZ 147), “sự thống trị hữu thể
luận của cái 'bản chất'” (SZ 320 n. xix). [7] Ông lập luận rằng thay vào đó
chúng ta phải nhận ra các dạng khác nhau của Hữu thể, bằng cách phân biệt, chẳng
hạn, Vorhandenheit – có trong tầm tay
với Zuhandenheit – có sẵn trong tay),
với phương thức Hữu thể của thế giới trong đó các loại thực thể này được tìm thấy,
và với loại thực thể mà họ chạm trán trong thế giới đó, Dasein. [8]
Heidegger
cho rằng "tính ưu trội" của Vorhanden
tồn tại trong một mối quan hệ cộng sinh với "tính ưu trội" xấu tương
ứng và tương đồng của "suy niệm thuần túy [puren Anschauen]" (SZ 147); vì lý do này, sự công nhận các hình
thức đa dạng mà nhận thức của chúng ta về các thực thể có được cũng có thể giúp
phá vỡ định kiến về 'các đối tượng' của nhận thức đó, một loại phản ánh hiện tượng
luận về cách thức mà các vật thể đó được nắm bắt bằng cách khải lộ những hình thức
hữu thể luận mà chúng có được [9]. Vì vậy, chẳng hạn, mặc dù chúng ta có thể hiểu
được Vorhanden thông qua "suy niệm
thuần túy", thì chúng ta hiểu được Zuhanden
bằng cách "[10]chiếm lĩnh nó khi sử dụng nó" (HCT 191) và Dasein khác
thông qua "hiện hữu-với" (SZ 113) ); và nhận ra tính đa dạng này – trong
cái mà Heidegger đã có lúc gọi là 'tương quan chủ thể' [Subjektkorrelate] '[11] - giúp chúng ta mở rộng ý tưởng về khách thể tính”, mà "khách thể tính" lại được thể hiện trong nội dung
của nó trong việc khảo sát trực giác tương ứng” ( HCT 72). Chúng ta có khuynh
hướng bỏ qua tính đa dạng đến mức độ 'trực giác' — 'tương quan chủ thể' — cũng bị
bỏ qua, nhưng bằng cách khắc phục tình trạng Verstehensvergessenheit – lãng quên nhận thức này, thì chúng ta có
thể phơi bày tình trạng Seinsvergessenheit
– lãng quên Hữu thể liên quan một cách cộng sinh. [12]
Có
vẻ như có một vòng tròn trong cách tiếp cận này: có vẻ như cần nắm bắt Zuhandenheit – tính có sẵn trong tay, chẳng
hạn, nếu người ta xác định phương cách nhận thức của chúng ta là sự nhận thức về
Zuhanden – có sẵn trong tay. Nhưng
Heidegger tin rằng dẫu sao đi nữa chúng ta cũng có cách nắm bắt như vậy: “Hữu
thể không bao giờ xa lạ mà luôn luôn thân thuộc, ‘của chúng ta’”(MFL 147). Vấn
đề là — theo nghĩa nào đó — chúng ta 'quên' nó. Với tư cách là Dasein, phương thức tồn tại của chúng ta
là phương cách “nhận thức Hữu thể” (SZ 12). Nhưng sự hiểu biết đó — là biểu hiện
trong các xử lý tinh thông hàng ngày của chúng ta với nhiều thực thể khác nhau
mà chúng ta gặp phải — không thông tin được các phản ánh của chúng ta về các thực
thể như vậy và sự hiểu biết ấy. Thay vào đó, chúng ta quyến luyến với các thực
thể sở hữu bằng một phương thức đặc biệt của Hữu thể - 'cái có tính bản chất' —
và 'chủ thể tương quan' của nó - ‘suy niệm thuần túy’. Lời đáp hiện tượng luận
được mô tả ở trên là một kỹ thuật để hỗ trợ 'hồi ức' của các phương cách nhận
thức khác và, thông qua đó, của các phương thức Hữu thể khác. [13]
Một
ví dụ đầu tiên về sự phản chiếu hồi tưởng này bằng hành động có thể được tìm thấy
trong các bài giảng của Heidegger về Thánh Paul và Thánh Augustine. Ở đó
Heidegger tiếp cận với "cái nhiệm vụ...xác định ý nghĩa của điều kiện hiện
hữu của Thiên Chúa" (PRL 67) - "[c]ái ý nghĩa Hữu thể của Thiên
Chúa" (PRL 84) – bằng cách bắt đầu "từ các phương thức tiếp cận",
từ một sự đánh giá đúng đắn về "vùng đời sống nguôn gốc và sự thực thi của
ý thức (hoặc cảm giác), trong đó tôn giáo một mình tự nhận ra mình như là một
hình thức kinh nghiệm nhất định" (PRL 222, 243). Bằng cách đặt một
"tương quan chủ thể" như vậy trước tiên trong suy nghĩ của chúng ta,
chúng ta có thể vứt bỏ sự cám dỗ để tĩnh tâm về Thiên Chúa "bằng cách ngoại
suy bằng cái có tính lý thuyết và sự cấu thành của đối tượng nhận thức", một
sự cám dỗ làm méo mó thái độ ứng xử mang tính kinh nghiệm của chúng ta đối với Thiên
Chúa” thành một loại “suy niệm-như-chân lý” và Thiên Chúa đơn giản thành “một khách
thể đặc biệt” (PRL 232, 149). Bằng cách phản ánh thay vào Thiên Chúa là “tương
quan của đặc trưng hành vi 'đức tin'” (PRL 252) —như người nhận lời cầu nguyện,
tình yêu và sự phục vụ [14] - chúng ta chống lại sự đồng hóa hữu thể học tương ứng
và mở ra khả tính nhận biết Thiên Chúa là “Khách thể tính [Objectität] cội nguồn”(PRL
252). [15]
Trong
khi công trình buổi đầu của ông nhấn mạnh tính đa dạng như vậy, nhưng Heidegger
cũng nhấn mạnh rằng "câu hỏi xác
định cách suy nghĩ của [ông]" “cái gì là cái xác định đơn giản, đơn nhất của
Hữu thể thấm nhập vào toàn bộ các ý nghĩa đa dạng của nó?" (LR x) Việc "truy
vấn" về một câu trả lời cho câu hỏi này đã trở thành - như Heidegger hồi
tưởng về nó - "cái động lực
không ngừng cho luận đề Hữu thể và Thời
gian " (CV 9); "[C]âu hỏi về tính
vô số khả thể của Hữu thể và điều
đó đồng thời với tính thống nhất của khái
niệm "Hữu thể nói chung" đối với ông là "khẩn thiết", "đòi h[ỏi] phải được đưa ra" (BP
120, 282). Tại sao lai như vậy?
2. Tính đa dạng và phân mảnh
Trong
loạt bài giảng năm 1924-25 về tác phẩm Sophist
của Plato, Heidegger tuyên dương công thức ‘nguyên tắc dường như tầm thường’,
‘hiện hữu là’ (PS 303) của Parmenides. Điều này, Heidegger đề xuất, đại
diện cho "chính sự khởi đầu quyết định của hữu thể luận" (PS 307):
“Người
xưa đã cố gắng làm sáng tỏ và tạo ra những hiện hữu dễ hiểu… - những gì đã có đó
- bằng cách suy luận chúng từ những hiện hữu cụ thể. [Nhưng] Parmenides ... xem
xét các hiện hữu theo nghĩa đen, tức là, ông gác lại cái toàn thể của các hiện
hữu theo nghĩa hữu thể ὄντος và nói rằng
'chúng là'”. (PS 302)
Bước
đột phá của Parmenides là cố gắng "bước vào chiều kích của Hữu thể của các hiện hữu" (PS 305),
— vì vậy có thể nói - để sờ nắm được một loại khái niệm 'Hữu thể', sờ nắm được
một 'kỳ tích' hoặc đặc tính mà tất cả các thực thể đều đơn giản có được, nhờ
vào thực tế 'chúng là'. Nhưng những người thừa kế của ông đã nhận ra cái thực
khó của hành động táo bạo đó, Plato khăng khăng rằng 'phải có Hữu thể vô số' (PS 307) còn Aristotle thì
nhất quyết ‘Hữu thể được nói theo nhiều cách’ (Aristotle, Metaphysics, Γ
2 1003a33). Cái thực khó không chỉ đơn thuần là tính đa dạng bản thể luận như vậy
dường như kêu gọi một lý thuyết hữu thể luận tổng quát về độ phức tạp lớn hơn;
nó còn có vẻ gây ngờ về chính khả tính của một lý thuyết như vậy, bằng cách gây
ngờ về việc liệu có một chủ đề duy nhất cho bất kỳ lý thuyết nào như vậy để giải
quyết hay không.
Heidegger
thông báo rằng ông đã tìm ra câu hỏi "khẩn thiết" về "tính thống nhất của khái niệm Hữu thể nói
chung" được "che dấu" trong các tác phẩm của Aristotle (LR
x); [16] và có một số cách mà trong đó tư tưởng của Aristotle có thể làm tăng sự
nghi ngờ trên. G. E. L. Owen đã giải thích rõ ràng về điều đó. [17]
Trong
quan điểm của [Aristotle], là (to be) là một cái này hay một cái khác: để có một
ngưỡng, ông nói, 'là' có nghĩa là “có một vị trí thế này thế nọ,” đối với băng
nó có nghĩa là “đã cố kết bằng cách này cách kia”. Và ở cấp độ tổng quát lớn nhất,
là (to be) phải vừa là một loại chất nào đó hoặc một mối quan hệ hay một phẩm
chất hay một thành viên của một thể loại nào đó khác. Không có ý nghĩa chung để
khẳng định rằng một cái gì đó tồn tại vượt khỏi và bên trên một trong những ý
nghĩa cụ thể. (Owen 1986, 181)
Nếu
không ý nghĩa chung đến mức gộp cả các cái đặc thù lại - và do đó “không có lớp
các sự vật hiện tồn bao gồm cả con
người, các dặm dài và đức khiêm tốn” (Owen năm 1986, 216) -thì “một khoa học khái
quát duy nhất của vạn vật đang tồn tại” (Owen 1986 , 278) dường như thiếu mất một
chủ đề.
Sự
căng thẳng của bản thân về tính đa dạng hữu thể luận của Heidegger khiến nỗi lo
âu như vậy về “sự rã hủy [Zerfall]” của
Hữu thể (AM 23) vẫn còn sống động hơn. Khi người ta nói có một loại zuhanden
- có sẵn trong tay - tồn tại, một loại vorhanden
– trong tầm tay - tồn tại và một Dasein
khác tồn tại, thì người ta nói - nói đại khái – về một cái gì đó có thể sử dụng
được cho mục đích nào đó, về một cái gì đó chiếm lĩnh một không gian nhất định,
và chúng ta có chung hiểu biết về thế giới với ai. Nhưng điều gì cho phép chúng ta nghĩ rằng [18]
đây là những biến thể trong một “thành tích” hay “kỳ tích” duy nhất - “tồn tại”,
“Hữu thể”? Ngay cả khi "nhiệm vụ" ấn tượng nhất đối với hữu thể luận
là "phân loại cái toàn thể của Hữu thể thành các khu vực" (PRL 41) -
"bằng cách phân chi[a] tổng thể tính của các hiện hữu " (PRL 39) – thì
vẫn phải có một "tổng thể tính" như vậy - một "toàn thể"
như vậy [19] – nếu cách phân chia như vậy phải là một đóng góp cho một cái gì
đó xứng đáng với cái tên "hữu thể luận" - "một khoa học ... [ng]hiên
cứu vạn vật mà vạn vật qua với tư
cách là hiện hữu (là)" (Aristotle, Metaphysics, Γ 2 1003b 15-16). Nếu
không có bất kỳ khái niệm thống nhất duy nhất nào về Hữu thể nói chung, là cái biện
minh cho việc gọi những cách khác nhau này của Hữu thể” (BP 176), mà bất kỳ sự phân biệt nào chúng ta có thể đánh
dấu, thì chúng cũng sẽ không được quyền gắn nhãn ‘các khác biệt hữu thể luận'.
Âu
lo này có thể xuất hiện theo những cách khác: ví dụ, như lo lắng về quan điểm
mà từ đó nhà hữu thể luận có thể rút ra những phân biệt của kẻ đó. Nếu chúng ta
nắm chắc được Vorhanden thông qua
"suy niệm thuần túy " và Zuhanden
bằng cách "chiếm lĩnh nó bằng việc sử dụng nó", qua "tương quan
chủ thể" có thể thì liệu có sự khác biệt giữa các thực thể như vậy trong ý
nghĩ không? Chúng ta có thể lo rằng không có khái niệm thống nhất duy nhất về
'hiểu' hoặc 'nắm bắt' các thực thể có thể biện minh cho việc gọi 'suy niệm thuần
túy' và 'bị chiếm lĩnh bằng cái gì đó' là ‘những cách hiểu hay nắm bắt', hoặc bất
kỳ quan điểm nào mà từ đó sự khác biệt giữa các thực thể này – ‘những cách hiểu
hay nắm bắt' như vậy hiểu hoặc nắm bắt được — có thể được hiểu hay được nắm bắt.
Theo
Polt 'Heidegger giả định' rằng, mặc dù "Hữu thể có nhiều hình thức khác
nhau", "tất cả các trạng thái khác nhau đó của Hữu thể cố kết lại,...đến
mức chúng ta có thể hỏi nó có nghĩa là gì nói chung" (Polt 2005, 2). Có lẽ
sẽ công bằng hơn khi nói rằng Heidegger không đưa ra giả thiết này, mà đúng hơn
là ông tin rằng tất cả chúng ta đều tạo ra giả định này - 'nếu chúng ta quan niệm
nhận thức triết học như một điều gì đó khả thể và cần thiết' (SZ 16) - và đây
là giả định về cái mà chúng ta phải chỉ ra chúng ta có quyền. [20]
3. Dự án Hữu thể và Thời gian
Aristotle xuất trình một cách để đáp ứng nhu cầu thứ hai, bằng
cách cho rằng, mặc dù “có nhiều ý
nghĩa mà trong đó một điều
được nói là,… nhưng tất cả đều quy về một khởi điểm”: “[N]hững thứ được nói là, vì chúng là những bản
chất, những thứ
được nói khác bởi vì chúng
là những
xúc cảm về
bản chất, những thứ
được nói khác
nữa bởi vì chúng
là một quá trình hướng tới
bản chất, hoặc những
rã hủy hoặc tình trạng thiếu khuyết hay các phẩm chất của bản chất, hoặc sản xuất hoặc tạo
sinh của bản
chất, hoặc những thứ liên
quan đến bản chất, hoặc những phủ định của một trong những điều này hoặc của tự
thân bản chất. (Metaphysics
Γ 2 1003b 5-18) ”
Như Owen giải thích quan điểm này, “c[ái] ý nghĩa nguyên khởi của 'Hữu thể' “là cái mà các bản chất…tồn tại trong đó” còn “những ý nghĩa khác…đều mang tính phái sinh khác nhau”, trong đó khái niệm về bản
chất “tái xuất hiệ[n] như một yếu tố chung trong các phân tích của chúng ta về thứ tồn tại của những cái
phi bản chất chẳng hạn như màu sắc, thời gian hay kích cỡ.”
(Owen 1986, 217) [21]
Nhưng đối với Heidegger, cách nhìn này thể hiện chính xác
“thế
ưu trội của
loại hữu thể luận của cái 'bản chất'”. Cái dự án liên quan đến Hữu
thể và Thời gian ấy đã phải góp phần đưa ra một lời đáp thay thế: một cái gì đó nữa phải sắm
loại vai trò mà bản
chất sắm đối với Aristotle, cụ thể là, thời gian. “Mục tiêu tạm thời” của
Heidegger trong Hữu
thể và Thời gian là
“việc diễn giải thời gian như là chân
trời khả thể cho bất kỳ sự hiểu biết nào về Hữu thể” (SZ 1): “[t]rong cái chân trời
thời
gian đó việc
dự phóng một ý nghĩa của Hữu
thể nói chung có thể được hoàn thành ”(SZ 235,
in nghiêng được bổ sung). Nếu vậy, thời
gian "cho ph[ép]...việc diễn giải theo chủ đề của Hữu
thể và diễn
giải việc khớp nối của nó cùng nhiều cách”, "do đó làm cho hữu thể luận trở nên khả thể" (BP
228).
Nhưng chúng ta không thể nhảy thẳng đến kết
luận này - không kém phần quan trọng, bởi vì chúng ta không thể yêu
sách để biết được nó
có ý nghĩa gì một khi Heidegger đã cảnh báo chúng ta rằng cái
“thời gian” trong câu hỏi
không phải là thời gian như nó đã được “nhận thức theo
cách thông thường” (SZ 17). Quả
thực Heidegger thấy loại thời gian này vẫn như là một biểu hiện khác của “sự thống trị hữu thể luận của cái 'bản chất’”: thông qua một quá trình “khựng
lại”, chính
bản thân thời gian hoàn
trả một chuỗi 'bây
gờ’ mà
các bây giờ đó lại
chính là “vorhanden
– trong tầm tay -
bằng cách nào đó” (SZ)
422, 423). Việc xem xét Hữu thể
nói chung là gì lại đối mặt với những định kiến tương tự với những gì bưng bít chúng ta về thực chất của Zuhanden,
Dasein, thế giới vv… Vì vậy, ngay cả khi chúng ta có sự tinh tế để nghĩ rằng Hữu
thể nói chung có một
cái gì đó liên quan đến thời
gian – thì có lẽ trong việc công nhận thời gian đã có hành động xuyên suốt lịch sử triết học như
là một "chỉ số" cho sự phân biệt và phân định các lĩnh vực của
Hữu thể theo nghĩa đen "(HCT 5) - ở
đó "sự thống trị của cái 'bản chất'" đang chờ đợi cất cánh
bay trong
hình thức 'quan niệm bình
thường về thời gian'.
Vậy thì chúng ta phải tiến hành như thế nào? Tôi muốn
gợi ý thêm
rằng ở
đây Heidegger cũng
sử dụng cách tiếp cận mà Mục. 1 (Sec.1) đã phác thảo. Chúng ta đã thấy cung
cách Heidegger tìm kiếm
để phá vỡ các định kiến hữu
thể luận của chúng ta thông qua việc
quy giản hiện tượng luận
– theo
nghĩa đen, quay trở lại - vào những cách thức mà các thực thể tự thể hiện với chúng ta. Cách tiếp cận này giải phóng cái
hữu thể luận về
x của chúng ta bằng cách hỏi việc nhận thức x 'là như thế nào’ – cái chủ thể dự kiến x phải
như thế nào. Chúng ta thấy
điều này trong sự phản ánh của Hữu
thể và Thời gian về cách chúng ta nắm bắt Zuhanden, Vorhanden và
Dasein khác; và ở đây tôi
muốn gợi ý là cái
bao quát toàn bộ dự án Hữu
thể và Thời gian có lẽ được xem là mở rộng việc xử lý này đối với trường hợp cụ thể và quyết
định về phương diện siêu hình học
về Hữu thể nói chung: nó sẽ
giải phóng tầm nhìn của chúng ta về Hữu thể nói chung bằng cách hỏi việc
nhận thức Hữu thể nói chung 'phải như thế nào', chủ thể dự định Hữu
thể nói chung phải như thế nào. Mặc dù, theo một nghĩa nào đó, toàn
bộ Dasein nắm
bắt Hữu thể nói chung một
cách hằng xuyên, tôi muốn
gợi ý rằng - đối với
Heidegger - chúng ta chỉ thấy điều này thực sự có nghĩa là gì khi chúng ta xem xét các yêu cầu về tính xác
thực: có thêm một ý nghĩa trong đó một điều kiện mà Dasein
thừa nhận Hữu
thể như là một tổng thể chính
là Dasein đã đạt được một loại tổng thể tính tự
thân, một tổng
thể tính mà chỉ có
cái xác thực mới đạt được.
________________________________________
Nguồn: Braver L. (ed.) On Being as a whole and Being-a-whole.
Forthcoming in L. Braver (ed.) Division
III of Being and Time: Heidegger's Unanswered Question of Being, Cambridge, Mass.: MIT Press.
* Lee Braver là Giáo sư Triết
học tại Đại học Nam Florida. Các mối quan
tâm chính của
ông là triết học lục địa (đặc biệt là Heidegger và Foucault), Wittgenstein, chủ
nghĩa hiện thực và đối thoại giữa triết học lục địa và triết học phân tích. Ông là tác giả của cuốn Một vấn đề của Thế giới này: Lịch sử Phản-chủ
thuyết hiện thực Lục địa - A Thing of This World: A
History of Continental Anti-Realism (Northwestern, 2007), Những bài viết sau này của Heidegger: Một hướng dẫn của
người đọc - Heidegger’s Later Writings: A Reader’s Guide
(Bloomsbury, 2009), Các nền tảng không nền tảng: Nghiên cứu về Wittgenstein
and Heidegger - Groundless Grounds: A Study
of Wittgenstein and Heidegger (MIT, 2012), Heidegger:
Suy tư về Hữu thể - Heidegger: Thinking of Being
(Polity, 2014), và là chủ biên cuốn Hợp phần III của Hữu thể và Thời gian: Câu
hỏi không lời đáp của Heidegger về Hữu thể - Division III of Being and
Time: Heidegger’s Unanswered Question of Being (MIT, 2015), cũng như một số bài báo
và chương sách khác.
Chú thích
1. Đây là mô tả nổi tiếng của Spiegelberg, được trích dẫn
trong, ví dụ: Kisiel 2005: 189.
2. Xem. McManus 2012: ch. 9.
3. Vì hai bản dịch đã
có của Sein und Zeit – Hữu thể và Thời gian - cũng có phân trang của bản gốc tiếng Đức, nên tôi sẽ đưa các tài
liệu dẫn về
bản gốc, mặc dù tôi chủ yếu theo bản dịch của
Macquarrie và Robinson (Oxford: Blackwell, 1962). Tôi
sử dụng các bản dịch đã có của các tác phẩm của
Heidegger trong hầu hết các trường hợp, nhưng thỉnh thoảng có khác biệt.
4. Bản dịch được trích dẫn từ Kisiel 1993, 486
5. Cũng có những dấu hiệu rõ ràng trong chính BP mà ông cảm thấy cái nhiệm vụ mà ông tự đặt ra ở đó vẫn chưa hoàn thành. Cf, ví dụ: BP 308.
6. Xem. McManus 2013b.
7. Phương trình về Vorhanden với các bản chất thường được thực hiện - xem ví dụ: Guignon 1983: 101 và 144, và Dreyfus 1991: 71 — nhưng có vấn đề. McManus 2012: ch. 3 thảo luận về những lo lắng này nhưng ở đây tôi gác các thảo luận đó lại.
8. Các hình thức khác của Hữu thể là thứ mà Heidegger dường như để giải trí nhưng là điều mà ông không thảo luận ở bất kỳ đoạn nào trong Hữu thể và Thời gian lại bao gồm những hình thức được tạo ra bởi động vật, Thiên Chúa và chân lý. Tôi thảo luận về vấn đề thứ hai một cách vắn tắt trong một thời khắc và vấn đề thứ ba ở Sec. 8.
9. Hoặc vì vậy mà tôi tranh luận trong
McManus 2012.
10. Đối với các vấn đề phức tạp, ở đây tôi sẽ không thảo luận những gì liên quan đến hiểu biết của Heidegger về cách chúng ta nắm bắt Vorhanden, xem McManus 2012: chs. 3 và 8.
11. Xem, ví dụ: IPPW 37, PRL 240, 241, v.v.
12. Mối liên hệ giữa hiện tượng luận và hữu thể luận mà tôi phác họa ở đây
còn lỏng lẻo hơn cái mà Heidegger dường như bảo vệ trong SZ. (Cf.,
ví dụ: SZ 35 và 38, và để giải thích, hãy xem Braver, giới thiệu về tập này.)
Nhưng ở đây tôi sẽ gắc lại vấn
đề đó.
13. Để thảo luận thêm, xem McManus 2012, sec. 1,1, và của khái niệm này về "hồi ức" đặc biệt, McManus 2013c.
14. Xem PRL 79, 107, 234 và 254.
15. Để thảo luận thêm về ví dụ này, xem McManus 2012: sec.1.2 và, chi tiết hơn, 2013a.
16. Xem LR x, CV 9 và TB 74 về điều này và vai trò quan trọng trong công trình nghiên cứu của Brentano về Aristotle (Brentano 1975) trong việc khải lộ sự hiện diện của câu hỏi đó với Heidegger.
17. McManus 2013b: sec. 3 giải thích khác.
18. Xem BP về cách thức mà một hạng mục Zuhanden được cá thể hóa không phải bởi 'vị trí không- thời gian' mà bởi 'tính chất thiết bị và bối cảnh thiết bị': 'tính chức năng' 'chính xác là cái tạo nên một thứ [như vậy] mà nó là' (BP 292, 164). '[T]ồn tại', đó là phương thức đặc biệt về Hữu thể của Dasein, mặt khác, 'về cơ bản là…hiểu' (BP 276).
19
Tôi sẽ xử lý các cách biểu hiện, "Hữu thể nói chung" và "Hữu thể
như một tổng thể", mà ở đây có thể hoán đổi cho nhau. Mặc dù có thể có vấn
đề ở đây, nhưng lưu ý của Heidegger đối với SZ 37 (được xuất bản trong bản dịch
Stambaugh của SZ) dường như đồng ý điều này.
20.
Một cách suy nghĩ khác về tầm quan trọng của việc xác định một nghĩa thống nhất
nảy sinh từ mô tả của Heidegger về tình trạng hỗn loạn triết học khi chúng ta sử
dụng những từ ngữ có nghĩa là "tính trống rỗng không xác định" (HCT
269). Hệt như Heidegger lo lắng - ví dụ - về việc liệu (và, nếu vậy, làm thế
nào) “khả tính của bản thân hiện hữu”
được “chứng thực” trong nghiệm sống của Dasein,
vì vậy người ta có thể tự hỏi liệu 'Hữu thể nói chung' có một “ý nghĩa có thể chứng
minh được không” (SZ 23, 59). Vậy thì "các khái niệm cơ bản của siêu hình
học" có thể "không có nghĩa gì khác hơn là sở hữu các từ", có
"một nội dung trung tính, mờ nhạt" do không "xuất hi[ện] ngay từ
đầu" từ “bất kỳ” “phạm vi kinh nghiệm xác định nào” (PRL 246, IPR 7). (Để
thảo luận, xem McManus 2013c.) Để trả lời, việc giải thích dưới đây sẽ xác định
— ‘được chứng thực’ trong cuộc đời của Dasein
— một 'kinh nghiệm' mà từ đó một ý tưởng về 'Hữu thể nói chung' có thể 'phát
sinh'.
Additional Abbreviations [we will
remove this later]
CTR
- The Concept of Time, trans. I. Farin with A. Skinner, London:
Continuum, 2011.
CV
- “Curriculum Vitae.” Translated by T. Kisiel, T. Sheehan, and H. Siegfried. In
M. Heidegger, Becoming Heidegger, 5-10.
EG
- ‘On the Essence of Ground’, trans. W. McNeill in Pathmarks, 97-135.
EP
- Einleitung in die Philosophie. Frankfurt am Main: Vittorio Klostermann, 1996.
LR
- “Letter to William J. Richardson, April 1962.” Translated by W. J.
Richardson. In W. J. Richardson, Through Phenomenology to Thought, viii-xxiii.
The Hague: Martinus Nijhoff, 1963.
OET
- ‘On the Essence of Truth’, trans. J. Sallis, in Pathmarks, pp. 136–54.
WM-
“What is Metaphysics?” Translated by D. F. Krell. In M. Heidegger, Pathmarks, 82-96.
WDR
- “Wilhelm Dilthey’s Research and the Struggle for a Historical Worldview.” Translated
by T. Kisiel. In M. Heidegger, Becoming Heidegger, 238-74.
Bibliography
Aristotle.
1928. Metaphysics. Translated by W. D. Ross. Oxford: Oxford University Press.
Blattner,
W. D. 1995. ‘Decontextualisation, Standardisation, and Dewey Science’, Man
and World 28: 321-39.
Brentano,
Franz. 1975. On the Several Senses of Being in Aristotle. Translated by
R. George. Berkeley: University of California Press.
Dreyfus,
Hubert. L. 1991. Being-in-the-World. Cambridge, Mass.: The MIT Press.
Fleischer,
M. 1991. Die Zeit Analysen in Heideggers Sein und Zeit: Aporien, Probleme
and ein Ausblick. Würzburg: Königshausen and Neumann.
Haugeland,
John. 2000. “Truth and Finitude: Heidegger’s Transcendental Existentialism.” In
Heidegger, Authenticity and Modernity, ed. M. A. Wrathall, and J.
Malpas, 43-77. Cambridge, Mass.: The MIT Press.
Guignon,
Charles. 1983. Heidegger and the Problem of Knowledge. Indianapolis: Hackett
Publishing Company.
--
2000. “Philosophy and Authenticity: Heidegger’s Search for a Ground for Philosophizing.”
In Heidegger, Authenticity and Modernity, ed. M. A. Wrathall, and J. Malpas,
79-101. Cambridge, Mass.: The MIT Press.
James,
William. 1956. “The Will to Believe.” In his The Will to Believe and Other Essays
in Popular Philosophy, 1-31. New York: Dover.
Kisiel,
Theodore. 1993. The Genesis of Heidegger’s Being and Time. Berkeley, California:
University of California Press.
--
2005. “The Demise of Being and Time: 1927-30.” In Heidegger’s Being
and Time, ed. R. Polt, 189-214. Lanham, Mayland: Rowman and Littlefield.
McManus,
Denis. 2012. Heidegger and the Measure of Truth. Oxford: Oxford University
Press.
--
2013a. “Heidegger, Wittgenstein and St Paul on the Last Judgment: On the Roots and
Significance of the ‘Theoretical Attitude’.” British Journal for the History
of Philosophy 21: 143-64.
--
2013b. “Ontological Pluralism and the Being and Time Project.” Journal of
the History of Philosophy 51: 651-674.
--
2013c. “The Provocation to Look and See: Appropriation, Recollection and Formal
Indication.” In Wittgenstein and Heidegger, ed. D. Egan, S. Reynolds and
A. Wendland, 50-65. London: Routledge.
--
2015 . “Anxiety, Choice and Responsibility in Heidegger’s Account of Authenticity.”
In Heidegger, Authenticity and the Self, ed. D. McManus. London:
Routledge.
--
Forthcoming. ‘Being-towards-death and Owning One’s Judgment’, Philosophy and
Phenomenological Research.
Owen,
G. E. L. 1986. Logic, Science and Dialectic. Ithaca, New York: Cornell University
Press.
Polt,
Richard. 1999. Heidegger: An Introduction, London: UCL Press.
--
2005. Heidegger’s Being and Time: Critical Essays, Lanham: Rowman
and Littlefield.]
Rouse,
J. 1985 ‘Science and the Theoretical “Discovery” of the Present-at-Hand’, in D.Ihde
and H.J.Silverman (eds.) Descriptions, Albany: State University of New
York Press.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét