Powered By Blogger

Thứ Năm, 30 tháng 4, 2020

Kỷ niệm 50 năm Khảo cổ học phân tích của David Clarke (I)


Stephen J. Lycett và Stephen J. Shennan

Người dịch: Hà Hữu Nga


Tóm tắt 

Cuốn Khảo cổ học phân tích (Analytical Archaeology) của David Clarke, (1968) đã được coi là một công trình chủ chốt xuất hiện khi những ý tưởng và phương pháp tiếp cận mới đang góp phần tạo dựng khảo cổ học thành một ngành học. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng một số ý tưởng cốt lõi của nó chỉ được lựa chọn và xem xét kỹ hơn trong những năm gần đây. Tại lễ kỷ niệm 50 năm xuất bản công trình này, chúng tôi phác thảo các tưởng trọng yếu được thảo luận trong Khảo cổ học phân tích và đánh giá vai trò của nó trong các cuộc thảo luận đang diễn ra. Chúng tôi kết luận rằng dưới ánh sáng của các công trình gần đây, có thể được coi là xem xét lại một số chủ đề trung tâm của nó, có nhiều điều sẽ đạt được trong cuộc thảo luận khảo cổ học đương đại bằng cách xem lại cuốn sách của Clarke.


Bình luận về một cuốn sách đã tồn tại nửa thế kỷ có lẽ cần một sbiện minh nào đó. Một số người có thể chỉ ra một cách rõ ràng nhất thực tế Khảo cổ học phân tích của David Clarke (sau đây là gọi tắt là AA) được công nhận rộng rãi là một ấn phẩm nòng cốt trong khảo cổ học thế kỷ 20, đặc biệt là góp phần khai sinh ra Khảo cổ học 'Mới' hoặc Khảo cổ học 'Quá trình' (chẳng hạn xem: Trigger 1989; Johnson 1999). Tuy nhiên, trong một thời đại mà việc thảo luận về ‘các học phái’, có lẽ ít thời thượng hơn trước đây, ai đó cũng có thể thấy điều này giống như việc hạ giá một sản phẩm đã một thời nổi tiếng thành một loại phụ phẩm trong lịch sử ngành học. Hơn nữa, cái chết của Lewis Binford năm 2011 có thể cũng nhắc nhở chúng ta về nhiều thứ mà cái chết không đúng lúc của David Clarke đã cướp đi của ông ấy (và cả giới khảo cổ học) một thứ thuộc loại khánh lễ 'sinh mạng tận đầu' (tiệc mừng chết) việc đánh giá về công trình của một nhà tư tưởng lớn vẫn luôn xuất hiện cùng với sự ra đi của họ. Tất nhiên, ở một mức độ nào đó, một số đánh giá như vậy đã xuất hiện không lâu sau khi ông qua đời năm 1976 (Hammond et al. 1979; Hodder et al. 1981). Tuy nhiên, về tổng thể, đối với Clarke, cái viễn cảnh năm mươi năm chín muồi đã bị mất đi không theo cung cách như với Binford.

Mặc dù những biện minh trên có vẻ hợp lý, nhưng động lực của chúng tôi để viết bình luận này không chỉ đơn thuần là nỗi nhớ. Vài năm trước, đã xuất hiện một bài bình luận (Shennan 1989) đánh giá những đóng góp của cả AA của Clarke lẫn New Perspectives – Những viễn cảnh mới của Sally và Lewis Binford, được xuất bản cùng năm (Binford and Binford 1968). Bài bình luận này đã thừa nhận tầm ảnh hưởng to lớn của cuốn sách đã được biên tập của Binfords về lĩnh vực này và cho rằng nhiều bài học nổi bật nhất của nó phần lớn đã được tiếp thụ. Việc đánh giá cuốn sách Clarke có phần khác biệt: “Hơn nữa, Khảo cổ học Phân tích vẫn còn là một sự tò mò và hầu như không có bất cứ ảnh hưởng nào” (Shennan 1989: 831). Bài viết tiếp tục cho rằng có ít nghiên cứu thực sự vận hành các tưởng trọng tâm của cuốn sách (Shennan 1989: 833).

Chúng tôi nghĩ rằng
giờ là lúc thích hợp để đánh giá lại các khẳng định này, đặc biệt là trong bối cảnh các công trình gần đây thuộc lĩnh vực này có thể được xem là quay trở lại một số vấn đề cốt yếu đã được bàn đến trong AA. Trước tiên, chúng tôi xem xét một số ý tưởng trung tâm của AA, đặc biệt là những ý tưởng mà theo Shennan (1989) đã xuất hiện để lại công việc còn dang dở. Nhiều tưởng của Clarke đã có thể thấy cuộc thảo luận ngày hôm nay càng trọng đại hơn. Tuy nhiên, liệu đây có phải là ảnh hưởng trực tiếp thay vì phát minh lại hoặc nguồn cảm hứng từ các nguồn khác thì vẫn còn là câu hỏi. Theo đó, chúng tôi cho rằng có thể có lợi cho một thế hệ các nhà khảo cổ trẻ tuổi khi xem lại nguyên bản để có được cái nhìn sâu sắc mới.

Một khảo cổ học phân tích về hình thái học văn hóa quá khứ

Cái thâm thúy đặc trưng thách thức của thuật ngữ, ngôn ngữ và tưởng được trình bày trong AA đã được bình thảo rộng rãi (ví dụ: Chapman 1979: 109; Sherratt 1979: 197; OBrien 2010: 317). Trong nhiều khía cạnh, cấu trúc của cuốn sách tưởng là đơn giản. Nó bắt đầu với một phác thảo về một số tuyên bố và tiền đề chính của nó, trong phần giới thiệu mà chính tác giả của nó đã mô tả là “có tính bút chiến” (polemic) (Clarke 1968: 3). Sau đó, cuốn sách phác thảo lý thuyết hệ thống (chương 2), bản chất của văn hóa là thông tin (chương 3), phân loại phân cấp dữ liệu khảo cổ bao gồm các thuộc tính, hiện vật, loại hình, tập hợp, nhóm văn hóa và các phức hợp công nghệ (chương 4- 8), thảo luận về cách thức mà dữ liệu dân tộc học có thể và không liên quan đến các thực thể có thể quan sát về phương diện khảo cổ học (chương 9), tiếp theo là xem xét thêm về các quá trình mà các thực thể khảo cổ học nắm được, bị mất đi và biến đổi theo thời gian và không gian (chương 10). Phần thứ hai của cuốn sách (có tiêu đề Phương pháp) liên quan đến phân loại bằng số và thao tác thống kê, phương pháp máy tính và nghiên cứu trường hợp, mang tính chất tiên phong của khung tổng thể, chắc chắn không phải lúc nào cũng phù hợp với mục đích của ông (chương 11-13 ). Cuốn sách kết thúc với một chương (14) có tiêu đề hấp dẫn Tóm tắt và kết luận.

Một cấu trúc như vậy gây nhầm lẫn về tính phức tạp và mật độ của các tưởng được ních đầy trong 664 trang sách. Việc Clarke đã dùng hơn 226 trang để mô tả cách thức ghi chép khảo cổ bao gồm các thuộc tính, hiện vật, loại hình, tập hợp và những kết hợp rườm rà hơn nữa, có lđã chỉ ra còn thêm một điều gì đó hiện diện. Điều này có lẽ, một phần, là hậu quả của mật độ và sự phong phú của các tưởng lan tỏa lần đầu tiên được bộc lộ bởi một con người (có lẽ vô cùng đáng hồi tưởng) chỉ mới 30 tuổi lúc viết ra chúng. Đôi khi AA chắc cũng có thể gây bực dọc. trang 182, Clarke đã trình bày một sơ đồ được sao chép rộng rãi có tên là Cách thức đưa mô hình vào hệ thống, với nhận thức muộn có thể được coi là một nỗ lực ban đầu để mô hình hóa học tập xã hội trong bối cảnh biến đổi thuộc tính nhân tạo nội tại xuyên suốt các quần thể hiện vật. Sơ đồ này được kết nối (thông qua chú thích) với hai sơ đồ khác, một ở trang 639 và một ở trang 650, gần như ở cuối cuốn sách. Trong sơ đồ này, ông cũng giới thiệu các thuật ngữ là chìa khóa để hiểu các ý tưởng rộng lớn hơn, như ‘Designata, Conceptat và ‘Percepta. Tuy nhiên, cho đến trang 649 các thuật ngữ này vẫn không thực sự được định nghĩa. Tương tự, các đơn vị đa hợp (polythetic) (không rời rạc) được thảo luận đầu tiên với độ dài ở các trang 37-38, một sơ đồ minh họa các khía cạnh liên quan đến vấn đề này được thể hin trang 56, được minh họa và tái mở rộng ở trang 246, liên quan đến các khái niệm trước đó, lại được minh họa và mở rộng lại ở trang 300, và cuối cùng tiếp tục được thảo luận và minh họa lại ở trang 367 trong bối cảnh các ví dụ tộc chí học. Tất nhiên, điều này trong một chừng mực nào đó có thể được sử dụng như một bằng chứng về các chủ đề và mạch tư duy mạnh mẽ chạy qua các phần mở rộng của cuốn sách dày 664 trang, và điều đó chắc sẽ đúng. Tuy nhiên, sự phân cách giữa các yếu tố có thể và chỉ nên được hiểu trong mối quan hệ với nhau trở thành một đặc tính cũng đặc trưng cho AA. Điều này đặc biệt có vấn đề làm thành chướng ngại vật cho các yếu tố thấu đáo và kích thích xuất hiện trong các trang ở giữa khiến người đọc phải vất vả hơn để duy trì cảm giác kết nối. Ở một mức độ nào đó, AA có thể được tiếp cận một cách hữu ích không phải với tư cách là một lối tự sự đơn lẻ, mà như những cuốn sổ tay được xuất bản của một nhà tư tưởng sâu sắc và đầy khơi gợi. Chúng tôi hối hả nhấn mạnh rằng chúng tôi không hoàn toàn có ý ám chỉ đóthực chất của AA, là thứ sẽ báo hại cho cấu trúc của cuốn sách Clarke áp đặt cũng như các tự sự và chủ đề bao quát xuyên suốt văn bản. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng một lối tư duy như vậy có thể giúp chuẩn bị cho người đọc, cả về bản chất của nhiệm vụ trước mắt họ, cũng như để thực hiện được nhiệm vụ đó.

Trớ trêu thay, với những gì chúng ta vừa nói, phần lớn AA về cơ bản có thể được coi là một đối số [1] để đạt được độ chính xác [2] (Clarke 1968: 19). Đó là, độ chính xác trong các quy mô mô tả khảo cổ học; trong thuật ngữ được sử dụng để mô tả các quá trình văn hóa xã hội có thể liên quan đến dữ liệu khảo cổ học; và độ chính xác của logic, quy trình và phương pháp. Như đã được bình luận rộng rãi trong những năm qua, phần lớn các bình luận sau này tập trung vào vai trò của dữ liệu định lượng và phương pháp thống kê. Tất nhiên, các quy trình phương pháp, tính toán và thống kê trong nghiên cứu khảo cổ học đã tăng lên và đa dạng theo nhiều cách khác nhau trong những thập kỷ gần đây, như đã thấy trong tất cả mọi thứ từ việc sử dụng dữ liệu hệ gene [3] cổ xưa cho đến các chương trình xác định niên đại carbon phóng xạ thống kê quy mô lớn (Griffiths 2017). Tuy nhiên, Clarke nhấn mạnh sự cần thiết phải có độ chính xác về mặt thuật ngữ, logic và lý thuyết, ít nhất phải bằng độ chính xác của phương pháp.

Ngoài ra, cuốn sách cũng đã tung ra thêm một số thông điệp. Chúng bao gồm bản chất hệ thống của các hệ thống văn hóa và đặc tính vượt thời gian của chúng; văn hóa (chủ yếu) là một hệ thống thông tin mà mọi người chia sẻ xuyên thời gian và không gian; các thực thể văn hóa là đa hợp (tức là, giao nhau trong ít nhất một số thuộc tính và về cơ bản không rời rạc); các đơn vị và các thức được xác định trong không gian và thời gian không ít ‘thực và không ít ‘áp đặt’ so với các đơn vị và mô thức mà các nhà dân tộc học quan sát được, chúng chỉ đơn giản là khác nhau. Hơn nữa, mặc dù không trực tiếp thể hiện nó, nhưng Clarke xác định rằng các hệ thống văn hóa và dữ liệu khảo cổ học phát sinh từ chúng, mang các thuộc tính và h quả thiết yếu của một hệ thống tiến hóa có nguồn gốc biến đổi. Để làm cho những vấn đề này trở nên có nghĩa, AA không nao núng tung thêm một thông điệp nữa. Tuy nhiên, hầu hết khảo cổ học có thể và nên dựa vào các chuyên ngành khác để có được các nguồn ý tưởng, phương pháp và khái niệm giúp nhận thức được các hệ thống văn hóa của con người, lĩnh vực khảo cổ học sở hữu “nguồn dữ liệu đặc biệt liên quan đến mục đích cuối cùng của nó (AA: 14). Những dữ liệu đặc biệt này – hiện vật, các thuộc tính, sự biến đổi và phân tán của chúng theo thời gian và không gian - làm cho khảo cổ học trở thành một môn học đặc quyền của nó (AA: 13). Trái ngược với Binford (1962), đi theo Willey và Phillips (1958: 2) tuyên bố rằng khảo cổ học là nhân học hoặc không cả”, Clarke nhấn mạnh khi kết luận rằng khảo cổ học là khảo cổ học, là khảo cổ học.” (AA: 13). Khẳng quyết này đã đặt ‘chất liệu’ vật chất vào trung tâm của mọi nỗ lực khảo cổ học và nhấn mạnh các khía cạnh hình thức không gian và thời gian duy nhất (thay đổi và ổn định) là thế mạnh quyết định của nó. Khảo cổ học có liên quan đến, và phải kết nối với các ngành khác, nhưng dữ liệu và đóng góp của nó là duy nhất,  là cách tiếp cận bắt buộc.

Xin được bình luận thêm về một số khía cạnh trong những vấn đề này. Clarke không chỉ đơn giản hài lòng với thực tế các mô thức khảo cổ học có thể không cùng kiểu loại hoặc là thứ  giống như những gì các nhà nhân học quan sát được các dân tộc đang sống bằng cách trực tiếp nghiên cứu hành vi của con người. Đối với Clarke (AA: 372), các mô thức khảo cổ học có thể được xác định theo thời gian và không gian, “tuyệt đối không phải là một yếu tố không đáng kể so với các tập mô thức bộ lạc, ngôn ngữ học hoặc lịch sử - chúng chỉ khác nhau mà thôi”. Clarke đã nhận thấy những điều này theo một số ý nghĩa đánh dấu các điểm tương tác xã hội, khi cho rằng các mô thức không–thời gian khảo cổ học tạo thành một thực thể thực sự tồn tại đánh dấu sự kết nối thực sự mà tình trạng thiếu kết nối với các thực thể ngôn ngữ tộc người không làm cho nó trở nên kém thực hoặc ít quan trọng hơn (AA : 364). Điều đó không có nghĩa là các vấn đề dân tộc học hay nhân học không phải là mối quan thiết trọng tâm đối với các nhà khảo cổ học, vì chương 9 của AA đã nói rất rõ. Thay vào đó, các nhận xét này cần được nhìn nhận trong bối cảnh cuốn sách nhấn mạnh vào việc phân định các mô thứccác thực thể khảo cổ học – trong khuôn khổ khảo cổ học (nghĩa là vật chất) và vận hành ở các cấp độ khác nhau – nhưng đều quan thiết đến các vấn đề nhân học rộng hơn .

Clarke đã đề cập đến một số ý tưởng trung tâm của mình về việc phân tích cấu trúc của hồ sơ
hiện vật với tư cách hình thái học văn hóa - cultural morphology (AA: 83). Có thể sử dụng một cụm từ hay hơn là "hình thái học của văn hóa" (the morphology of culture), đặc biệt là nếu người ta nỗ lực để hiểu điều mà Clarke muốn nói bằng văn hóa với tư cách là hệ thống thông tin được chia sẻ, còn hình thái học thì đề cập đến kết quả vật chất không-thời gian của như đã thấy về phương diện khảo cổ học, và được đo bằng các quy mô khác nhau. Đối với Clarke, văn hóa là một hệ thống thông tin, bao gồm các ý tưởng và các phương thức hành vi học được cũng như các biểu hiện vật chất của nó, về phương diện xã hội được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và từ một xã hội hoặc cá nhân này sang một xã hội và cá nhân khác (AA: 19). Cấu phần thiết yếu này chính cái mà cuốn sách bám chặt.

Mối liên hệ này với văn hóa, với tư cách là thông tin truyền tải về phương diện xã hội và có thể đo lường được về mặt khảo cổ khi thay đổi các thức không-thời gian, đã trực tiếp kết nối AA với các thế hệ nhà khảo cổ trước đây thuộc truyền thống lịch sử văn hóa. Như Shennan (1989: 834) từng viết Clarke đã tiếp cận văn hóa tương tự như cách tiếp cận truyền thống [tức là, lịch sử văn hóa] đã làm, còn Khảo cổ học Mới thì không. Nói một cách công bằng, như Sherratt (1979: 197) đã lưu ý, về phương diện này, AA đồng thời nhìn cả về quá khứ lẫn tương lai. Việc Clarke tìm được một nguồn cảm hứng nào đó đối với các khía cạnh thống kê và phương pháp luận của AA từ các công trình gần đây được các nhà khảo cổ học Bắc Mỹ thực hiện, đã được ghi nhận trong một thời gian (Chapman 1979: 124). Tương tự, các gợi ý cho rằng AA kết nối theo một số cách với truyền thống tri thức bắt nguồn từ Gordon Childe cũng đã được đưa ra (Chapman 1979: 123; Shennan 1989: 833). Tuy nhiên, về mặt triết học, thậm chí các gắn kết mạnh mẽ hơn với các ý tưởng từ các nhà nhân học người Mỹ trước đó như Alfred Kroeber (bốn công trình của ông được AA trích dẫn so với chỉ một công trình duy nhất của Childe) cũng dễ dàng nhận ra trong suốt cuốn sách. Đặc biệt là trường hợp liên quan đến việc truyền tải và truyền bá văn hóa quan sát được về mặt khảo cổ học trong các mô thức tạo tác qua thời gian và không gian. Với một số trường hợp ngoại lệ hiếm gặp, chẳng hạn như Mời tham gia Khảo cổ học (Invitation to Archaeology) của Deetz (được xuất bản chỉ vài tháng trước đó và có một số điểm tương đồng về các từ viết tắt với AA), điều này trái ngược với chính sách tiêu thổ của Khảo cổ học Mới. Theo đó, yếu tố triết học Clarke này đã gây nên sự chỉ trích mạnh mẽ của Binford (1972). Trong những năm sau đó, vai trò trung tâm của văn hóa với tư cách là hệ thống thông tin và mối quan hệ của với hiện vật tạo tác, các đặc điểm của chúng và các mô hình không gian và thời gian rộng hơn chính là khía cạnh chưa hề được AA khám phá (Shennan 1989). Mặc dù thành công trong việc giải quyết các vấn đề khác, nhưng ‘Khảo cổ học Quá trình đã đưa ra hầu hết cái thứ không hợp thời này, nếu không làm cho thấm nhuần quan niệm về ‘lịch sử văn hóa như là một từ dơ dáy, cổ lỗ, nghèo thông tin lý thuyết và, do đó, không thích đáng.

Trong khi AA có thể được coi là nhấn mạnh việc
xem xét các dạng mô thức theo không gian và thời gian phù hợp với các cách tiếp cận trước đó (xem, ví dụ, Lyman et al. 1997), Clarke rõ ràng kêu gọi tăng độ chính xác và tinh vi bằng cách sử dụng các mô thức khảo cổ học và các quá trình liên quan đến sự hình thành của chúng được thụ nhận, mô tả, định lượng và phân tích một cách logic. Liên quan đến sự phê phán của ông về một số cung cách trước kia, trong đó điều này đã được thực hiện về mặt khảo cổ, thì bản thân Clarke không thể bị buộc tội là e rè được (AA: xiii, 131; 1973).

Khảo cổ học phân tích và khảo cổ học văn hóa - tiến hóa: một hậu duệ gần đây?
Các quá trình chính yếu là những quá trình biến đổi không thể tránh khỏi, sự phát triển đa tuyến [phân nhánh các dòng truyền tải văn hóa], phát minh, truyền bá và lựa chọn văn hóa. Kết hợp trong nhiều hoán vị và trạng huống, các quá trình này tạo ra các quá trình phức tạp như sự tích hợp văn hóa, tăng trưởng văn hóa, phân rã và tan rã. (D.L. Clarke, AA: 22)

Với nhiều điều đã nói ở trên, sự trùng lặp giữa một số nguyên lý trung tâm của
cách tiếp cận Clarke, như được mô tả trong AAcác công trình gần đây đôi khi được dán nhãn ‘khảo cổ học tiến hóa. Thật vậy, những người sử dụng khuôn khổ rộng lớn ấy thường dễ dàng thừa nhận mối liên hệ này ở một mức độ nào đó (ví dụ: O’Brien and Lyman 2000; Shennan 2002, 2004; Lycett 2015). Các cách tiếp cận đương đại đối với tiến hóa văn hóa, trong đó khảo cổ học tiến hóa là một phần, theo Darwin khi nhấn mạnh rằng tiến hóa là một quá trình ‘truyền lại bằng sự biến đổi dựa trên biến thể có thể di truyền và sự sao chép khác biệt của biến thể đó theo thời gian và không gian. Những nguyên tắc như vậy cũng là cốt lõi của AA. Clarke (AA: 152) đã lưu ý cách thức mà “b[iến] thể không thể tránh khỏi trong số các hiện vật cũng như các thuộc tính của chúng, và sự thay đổi mức độ dân số là cơ sở của sự thay đổi phát triển.Đối với Clarke (AA: 161), một số biến thể không thể tránh khỏi này là kết quả của đức tài khéo và sáng tạo của con người, như trích dẫn ở đầu phần này nhấn mạnh, nhưng quan trọng , một số kết quả thuộc lĩnh vực này còn do các nhân tố ngẫu nhiên từ sự bất lực của con người sao chép lặp đi lặp lại và chính xác ngay cả khi mong muốn sao chép chính xác. Trong khi đó, thông qua học tập xã hội, thực thể dân số có 'tính di truyền' - và quỹ đạo tiền lệ” (AA: 134) nhưng cái “biến thể không thể tránh khỏi lại chính là cơ sở của sự thay đổi phát triển, cung cấp cơ chế theo đó một loại hình hiện vật hoặc tập hợp hiện vật phát triển thành một loại hình hoặc tập hợp khác (AA: 161).

Trong những năm gần đây, các tiếp cận văn hóa - tiến hóa đã tích cực theo đuổi nhiều tuyến tư tưởng ấy. Không gian ngăn chặn bất cứ thứ gì giống như một đánh giá đầy đủ (xem Shennan 2011; Mesoudi 2011; Lycett 2015; để biết một loạt các ví dụ có liên quan xuất hiện trong vòng 20 năm qua). Tuy nhiên, các nhà khảo cổ học tiến hóa đã thể hiện mối quan thiết được làm mới lại trong việc lần theo tuyến trao truyền xã hội và những tác động vật chất của nó (chẳng hạn, Lipo et al. 1997; Bettinger and Eerkens 1999; Kohler et al. 2004; Buchanan and Hamilton 2009; Shennan et al. 2015), xem xét các tuyến trao truyền và phân rẽ, phát tán và hội tụ của chúng (ví dụ: O'Brien và cộng sự 2001; Harmon et al. 2006; Lipo et al. 2006; VanPool et al. 2008; Jennings và Waters 2014; Prentiss et al. 2015), xem xét biến thể không-thời gian trong các hiện vật bằng cách sử dụng các mô hình và nguyên tắc tiến hóa (ví dụ: Neiman 1995; Lyman et al. 2009; Lipo et al. 2010; Okumura và Araujo 2014; Eren et al. 2015; Buchanan et al. 2016), nghiên cứu sự thay đổi trong bối cảnh trôi dạt và chọn lọc (ví dụ, Shennan và Wilkinson 2001; Lycett 2008; Brantingham và Perreault 2010; Cochrane et al. 2013) và sử dụng các bộ dữ liệu dân tộc học và dân tộc học lịch sử để thông báo mức độ hiểu biết về biến thể hiện vật và hành vi của nó khi phụ thuộc vào các lực lượng tiến hóa (Jordan và Shennan 2003; Rogers và cộng sự. 2009; Tehrani et al. 2010; Jordan 2015; Lycett 2017). Mô phỏng máy tính, một cách tiếp cận mà Clarke thừa nhận giá trị tương lai của cũng đã được sử dụng để mô hình hóa các vấn đề cốt lõi của cách tiếp cận được phác thảo trong AA (ví dụ: Neiman 1995; Crema et al. 2014; Rorabaugh 2014) và vai trò của lỗi sao chép trong các truyền thống tạo tác hiện vật ngày càng được chú ý nhiều hơn (ví dụ, Eerkens 2000; Eerkens và Lipo 2005; Hamilton và Buchanan 2009; Kempe et al. 2012; Schillinger et al. 2016). Tóm lại, ở đây có nhiều điều mà chúng ta có thể thừa nhận là có liên quan đến các yếu tố chủ chốt trong mối quan thiết của Clarke như được mô tả trong AA.
___________________________________________

Còn nữa…

Nguồn: Lycett, Stephen J. and Stephen J. Shennan (2018). David Clarke’s Analytical Archaeology at 50, Journal World Archaeology, Volume 50, 2018 - Issue 2: The Archaeology of Celebrations.

Tác giả: 

1. Tiến sĩ Stephen J. Lycett là một nhà nhân chủng học tiến hóa và nhà khảo cổ nhân học, chuyên khảo sát các tương tác giữa các khía cạnh văn hóa và sinh học trong quá trình tiến hóa của chúng ta. Trọng tâm nghiên cứu của ông là trao truyền văn hóa, học tập xã hội các thức mà các nhân tố này tác động đến các mô thức trong các dữ liệu văn hóa. Ông là Giám đốc Phòng thí nghiệm Nhân học Tiến hóa và Khảo cổ Nhân học, và là Phó Tổng biên tập Tạp chí Khoa học Khảo cổ học, Tạp chí Tiến hóa Người và Nhân học Tiến hóa. 

 2. Giáo sư Viện sĩ Stephen J. Shennan là một nhà khảo cổ học và học thuật người Anh, Từ năm 1996, ông là GS. khảo cổ học lý thuyết. Ông là giám đốc ViệnKhảo cổ học tại Đại học College London từ năm 2005 đến 2014. Shenan tập trung vào tiến hóa văn hóa và khảo cổ học theo thuyết Darwin, áp dụng các lý thuyết sinh thái học tiến hóa và cây phát sinh chủng loại vào Khảo cổ học. Vào tháng 7 năm 2006 Shenan được bầu là Viện sĩ Viện Hàn lâm Anh quốc.

Ghi chú của người dịch:

[1] Đối số: Trong toán học, đối số của một hàm là một giá trị phải để có được kết quả của hàm, còn được gọi là một biến độc lập. Ví dụ, hàm nhị phân f (x, y) = (x2 + y2) có hai đối số, x và y, trong một cặp có thứ tự (x, y). Hàm siêu bội là một ví dụ về hàm bốn đối số; số lượng đối số mà một hàm được gọi là số đối số (arity) của hàm. Một hàm lấy một đối số duy nhất làm đầu vào, chẳng hạn như hàm f (x) = x2 thì được gọi là hàm đơn phân (unary function); hàm có hai hoặc nhiều biến thì được coi là có một miền bao gồm các cặp theo thứ tự hoặc bộ dữ liệu của các giá trị đối số; đối số của hàm vòng là một góc; đối số của hàm giải tích hyperbol là góc hyperbol. Một hàm toán học có một hoặc nhiều đối số dưới dạng các biến độc lập, cũng có thể chứa các tham số; các biến độc lập được đề cập trong danh mục các đối số mà hàm có được, trong khi các tham số thì không [Ơn Giời, ngày xưa từ Khoa sử Mễ Trì mò lên Thượng Đình học trộm toán của thầy Vinh, thầy Quốc, và sau này khi đi làm ở Viện Khảo cổ có lê la học thêm thầy Hoàng Phương ở Hàng Chuối nên còn ghi chép và nhớ được tí tẹo]. 

[2] Độ chính xác (precision): liên quan đến lượng thông tin được truyền đạt bởi số các chữ số; nó cho thấy mức độ gần sát của hai hoặc nhiều phép đo với nhau. Chẳng hạn nếu nhà khảo cổ học cân một chiếc chopper năm lần và mỗi lần được số đo là 1,321 kg thì phép đo của họ là rất chính xác. Độ chính xác chính là một giá trị bằng số thập phân sau số nguyên và nó không liên quan đến mức chính xác (accuracy) là mức độ tin cậy của một kết quả đo hay quan trắc thường được đo bằng sai số, tức là độ sai lệch so với giá trị “thực” của kết quả đo hay quan trắc đó. Các khái niệm về độ chính xác (precision) mức chính xác (accuracy) gần như liên quan với nhau, và rất dễ bị nhầm lẫn. Độ chính xác là một số hiển thị một lượng các chữ số, và nó thể hiện giá trị của số đó. Ví dụ giá trị thích hợp của số pi là 3,14 và xấp xỉ chính xác của nó. Nhưng chữ số đo độ chính xác của nó là 3,14159265358…v.v.

[3] Dữ liệu hệ gene thuộc Genomics – Hệ gen học - người Trung Quốc gọi là Cơ nhân tố học, 基因, là một lĩnh vực sinh học liên ngành tập trung vào cấu trúc, chức năng, tiến hóa, lập bản đồ và chỉnh sửa bộ gen. Bộ gen là bộ DNA hoàn chỉnh của một sinh vật, bao gồm tất cả các gen của nó. Trái ngược với di truyền học, nghiên cứu về các gen riêng lẻ và vai trò của chúng trong di truyền, Genomics nhắm vào đặc tính tập thể và định lượng của tất cả các gen của một sinh vật, mối liên hệ và ảnh hưởng của chúng đối với sinh vật. Các gen có thể điều khiển việc sản xuất protein với sự hỗ trợ của các enzyme và các phân tử truyền tin. Đổi lại, protein tạo nên các cấu trúc cơ thể như các cơ quan, các mô cũng như kiểm soát các phản ứng hóa học và mang tín hiệu giữa các tế bào. Genomics cũng liên quan đến giải trình tự và phân tích bộ gene thông qua việc sử dụng trình tự DNA và tin sinh học thông lượng cao để lắp ráp và phân tích chức năng và cấu trúc của toàn bộ bộ gen. Những tiến bộ trong nghiên cứu bộ gene đã tạo ra một cuộc cách mạng trong sinh học hệ thốngnghiên cứu khám phá để tạo điều kiện cho sự hiểu biết về cả các hệ thống sinh học phức tạp nhất như bộ não. Lĩnh vực này cũng bao gồm các nghiên cứu về hiện tượng liên gene (trong bộ gen) như tính át gene, tính đa tính trạng, ưu thế lai và các tương tác khác giữa vị trí gene trên nhiễm sắc thể và alen (thành tố của 1 cặp hoặc chuỗi chứa đựng thông tin di truyền, nằm ở một vị trí nhất định trên nhiễm sắc thể tương đồng và nó bị chia tách trong sự hình thành các giao tử) trong bộ gene.

References

Bettinger, R.L. and Eerkens, J. 1999. Point typologies, cultural transmission, and the spread of bow-andarrow technology in the prehistoric Great Basin. American Antiquity, 64: 231-242.
Binford, L.R. 1962. Archaeology as anthropology. American Antiquity, 28: 217-225.
Binford, L.R. 1972. Contemporary model building: paradigms and the current state of Palaeolithic research. In Models in Archaeology (ed D.L. Clarke). London: Methuen, pp.109-166.
Binford, S.R. and Binford, L.R. (ed.). 1968. New Perspectives in Archaeology. Chicago: Aldine.
Bortolini, E., Paganim, L., Crema, E.R., Sarno, S., Barbieri, C., Boattini, A., Sazzini, M., da Silva, S.G.,
Martini, G., Mespalu, M., Pettener, D., Luiselli, D., Tehrani, J.J. 2017. Inferring patterns of folktale diffusion using genomic data. Proceedings of the National Academy of Science USA doi: 10.1073/pnas.1614395114.
Boyd, R. and Richerson, P.J. 1985. Culture and the Evolutionary Process. Chicago: University of Chicago Press.
Brantingham, P.J. and Perreault, C. 2010. Detecting the effects of selection and stochastic forces in archaeological assemblages. Journal Archaeological Science, 37: 3211-3225.
Buchanan, B. and Hamilton, M. 2009. A formal test of the origin of variation in North American early Paleoindian projectile points. American Antiquity, 74: 279-298.
Buchanan, B., Hamilton, M.J., Kilby, J.D. and Gingerich, J.A. 2016. Lithic networks reveal early regionalization in late Pleistocene North America. Journal of Archaeological Science, 65: 114-121.
Cavalli-Sforza, L.L. and Feldman, M.W. 1981. Cultural Transmission and Evolution: A Quantitative Approach. Princeton, NJ: Princeton University Press.
Chapman, R. 1979. ‘Analytical Archaeology’ and after. In Hammond, N., Isaac, G., Chapman, R., Sherratt, and Shennan, S. (Eds.), Analytical Archaeologist: London: Academic Press, pp.109-144.
Clarke, D.L. 1968. Analytical Archaeology. London: Methuen.
Clarke, D.L. 1973. Archaeology: the loss of innocence. Antiquity, 47: 6-18.
Cochrane, E.E., Rieth, T.M. and Dickinson, W.R. 2013. Plainware ceramics from Sāmoa: insights into ceramic chronology, cultural transmission, and selection among colonizing populations. Journal of Anthropological Archaeology, 32: 499-510.
Crema, E.R., Kerig, T. and Shennan, S. 2014. Culture, space, and metapopulation: a simulation-based study for evaluating signals of blending and branching. Journal of Archaeological Science, 43: 289-298.
Deetz, J. 1967. Invitation to Archaeology. New York: The Natural History Press.
Eerkens, J.W. 2000. Practice makes within 5% of perfect: visual perception, motor skills, and memory in artifact variation. Current Anthropology, 41: 663-668.
Eerkens, J.W. and Lipo, C.P. 2005. Cultural transmission, copying errors, and the generation of variation in material culture and the archaeological record. Journal of Anthropological Archaeology, 24: 316-334.
Eerkens, J.W. and Lipo, C.P. 2007. Cultural transmission theory and the archaeological record: context to understanding variation and temporal changes in material culture. Journal of Archaeological Research, 15: 239-274.
Eren, M.J., Buchanan, B. and O’Brien, M.J. 2015. Social learning and technological evolution during the Clovis colonization of the New World. Journal of Human Evolution, 80: 159-170.
Griffiths, S. 2017. We’re all cultural historians now: revolutions in understanding archaeological theory and scientific dating. Radiocarbon, 59: 1347-1357.
Hamilton, M.J. and Buchanan, B. 2009. The accumulation of stochastic copying errors causes drift in culturally transmitted technologies: quantifying Clovis evolutionary dynamics. Journal of Anthropological Archaeology, 28: 55-69.
Hammond, N., Isaac, G., Chapman, R., Sherratt, A. and Shennan, S. (Eds.) 1979. Analytical Archaeologist: Collected Papers of David L. Clarke. London: Academic Press.
Harmon, M.J., Van Pool, T.L., Leonard, R.D., Van Pool, C.S., and Salter, L.A. 2006. Reconstructing the flow of information across time and space: a phylogenetic analysis of ceramic traditions from pre Hispanic western and northern Mexico and the American southwest. In Mapping Our Ancestors: Phylogenetic Approaches in Anthropology and Prehistory (eds C.P. Lipo, M.J. O'Brien, M. Collard, S. Shennan). New Brunswick: Aldine Transaction, pp. 209-229.
Hodder, I. 1991. Reading the Past. Cambridge: Cambridge University Press.
Hodder, I., Isaac, G. and Hammond, N. 1981. Pattern of the Past: Studies in Honour of David Clarke. Cambridge: Cambridge University Press.
Jennings, T.A. and Waters, M.R. 2014. Pre-Clovis lithic technology at the Debra L. Friedkin site, Texas: Comparisons to Clovis through site-level behavior, technological trait-list, and cladistic analyses. American Antiquity 79: 25-44.
Johnson, M. 1999. Archaeological Theory: An Introduction. Oxford: Blackwell.
Jordan, P. 2015. Technology as Human Social Tradition: Cultural Transmission among Hunter-Gatherers. Berkeley: University of California Press.
Jordan, P. and Shennan, S. 2003. Cultural transmission, language, and basketry traditions amongst the California Indians. Journal of Anthropological Archaeology, 22: 42-74.
Kempe, M., Lycett, S.J. and Mesoudi, A. 2012. An experimental test of the accumulated copying error model of cultural mutation for Acheulean handaxe size. PLoS One, 7: e48333.
Kohler, T.A., Van Buskirk, S. and Ruscavage-Barz, S. 2004. Vessels and villages: evidence for conformist transmission in early village aggregations on the Pajarito Plateau, New Mexico. Journal of Anthropological Archaeology, 23: 100-118.
Leonard, R.D. 2001. Evolutionary archaeology. In Archaeological Theory Today (ed I. Hodder), Oxford: Polity/Blackwell, pp.65-97.
Lipo, C.P., Madsen, M.E., Dunnell, R.C. and Hunt, T. 1997. Population structure, cultural transmission, and frequency seriation. Journal of Anthropological Archaeology, 16: 301-333.
Lipo, C.P., O'Brien, M.J., Collard, M. and Shennan, S. 2006. Cultural phylogenies and explanation: why historical methods matter. In Mapping Our Ancestors: Phylogenetic Approaches in Anthropology and Prehistory (Eds Lipo, C.P., O'Brien, M.J., Collard, M., Shennan, S.). New Brunswick: Aldine Transaction, pp. 3-16.
Lipo, C.P., Hunt, T.L. and Hundtoft, B. 2010. Stylistic variability of stemmed obsidian tools (mata’a), frequency seriation, and the scale of social interaction on Rapa Nui (Easter Island). Journal of Archaeological Science, 37: 2551-2561.
Lycett, S.J. 2008. Acheulean variation and selection: does handaxe symmetry fit neutral expectations? Journal of Archaeological Science, 35: 2640-2648.
Lycett, S.J. 2015. Cultural evolutionary approaches to artifact variation over time and space: basis, progress, and prospects. Journal of Archaeological Science, 56: 21-31.
Lycett, S.J. 2017. Cultural patterns within and outside of the post-contact Great Plains as revealed by parfleche characteristics: Implications for areal arrangements in artifactual data. Journal of Anthropological Archaeology, 48: 87-101.
Lyman, R.L., O’Brien, M.J. and Dunnell, R.C. 1997. Americanist Culture History: Fundamentals of Time, Space, and Form. New York: Plenum Press.
Lyman, R.L., Vanpool, T.L. and O’Brien, M.J.. 2009. The diversity of North American projectile-point types, before and after the bow and arrow. Journal of Anthropological Archaeology, 28: 1-13.
Mesoudi, A. 2011. Cultural Evolution: How Darwinian Theory can Explain Human Culture and Synthesize the Social Sciences. Chicago University Press, Chicago.
Mesoudi, A. 2017. Pursuing Darwin’s curious parallel: prospects for a science of cultural evolution. Proceedings of the National Academy of Sciences, 114: 7853-7860.
Neiman, F.D. 1995. Stylistic variation in evolutionary perspective: inferences from decorative diversity and interassemblage distance in Illinois Woodland ceramic assemblages. American Antiquity, 60: 7-36.
O’Brien, M.J. 2010. The future of Paleolithic studies: A view from the New World. In New Perspectives on Old Stones: Analytical Approaches to Paleolithic Technologies (eds S.J. Lycett and P.R. Chauhan). New York: Springer, pp. 311-334.
O’Brien, M.J. and Lyman, R.L. 2000. Applying Evolutionary Archaeology: A Systematic Approach. Plenum, New York.
O’Brien, M.J., Darwent, J. and Lyman, R.L. 2001. Cladistics is useful for reconstructing archaeological phylogenies: Palaeoindian points from the southeastern United States. Journal of Archaeological Science, 28: 1115-1136.
Okumura, M. and Araujo, A.G. 2014. Long-term cultural stability in hunter–gatherers: a case study using traditional and geometric morphometric analysis of lithic stemmed bifacial points from Southern Brazil. Journal of Archaeological Science, 45: 59-71.
Parker-Pearson, M. 1998. The beginning of wisdom. Antiquity, 72: 680-686.
Prentiss, A.M., Walsh, M.J., Foor T.A. and Barnett, K.D.. 2015. Cultural macroevolution among high latitude hunter–gatherers: a phylogenetic study of the Arctic Small Tool tradition. Journal of Archaeological Science, 59: 64-79.
Rogers, D.S., Feldman, M.W. and Ehrlich, P.R. 2009. Inferring population histories using cultural data. Proceedings of the Royal Society B, 276: 3835-3843.
Rorabaugh, A.N. 2014. Impacts of drift and population bottlenecks on the cultural transmission of a neutral continuous trait: an agent based model. Journal of Archaeological Science, 49: 255-264.
Schillinger, K., Mesoudi, A. and Lycett, S.J. 2016. Copying error, evolution, and phylogenetic signal in artifactual traditions: an experimental approach using “model artifacts.” Journal of Archaeological Science, 70: 23-34.
Shennan, S.J. 1989. Archaeology as archaeology or as anthropology? Clarke’s Analytical Archaeology and the Binfords’ New Perspectives in Archaeology 21 years on. Antiquity, 63: 831-835.
Shennan, S.J. 2002. Genes, Memes and Human History: Darwinian Archaeology and Cultural Evolution. London: Thames and Hudson.
Shennan, S.J. 2004. Analytical archaeology. In A Companion to Archaeology (ed J. Bintliff). Oxford: Blackwell, pp. 3-20.
Shennan, S.J. 2011. Descent with modification and the archaeological record. Philosophical Transactions of the Royal Society B, 366: 1070-1079.
Shennan, S.J. and Wilkinson, J.R. 2001. Ceramic style change and neutral evolution: a case study from Neolithic Europe. American Antiquity, 66: 577-593.
Shennan, S.J., Crema, E. and Kerig, T. 2015. Isolation-by-distance, homophily, and ‘core’ vs. ‘package’ cultural evolution models in Neolithic Europe. Evolution and Human Behavior, 36: 103-109.
Sherratt, A. 1976. Obituary: David Clarke. Nature, 262: 634.
Sherratt, A. 1979. Problems in European prehistory. In Analytical Archaeologist (eds N. Hammond, G. Isaac, R. Chapman, Sherratt, A. and S. Shennan). London: Academic Press, pp.193-206.
Small, H.G. Cited documents as concept symbols. Social Studies of Science, 8: 327-340.
Sinclair, A. 2016. The intellectual base of archaeological research 2004-2013: a visualisation and analysis of its disciplinary links, networks of authors and conceptual language. Internet Archaeology 42 https://doi.org/10.11141/ia.42.8
Stark, M.T., Bowser, B.J. and Horne, L. 2008. Cultural Transmission and Material Culture: Breaking Down Boundaries. Tucson: University of Arizona Press.
Sommerhoff, G. 1950. Analytical Biology. Oxford: Oxford University Press.
Tehrani, J.J., Collard, M. and Shennan, S.J. 2010. The co-phylogeny of populations and cultures: reconstructing the evolution of Iranian tribal craft traditions using trees and jungles. Philosophical Transactions of the Royal Society B, 365: 3865-3874.
Trigger, B.G. 1989. A History of Archaeological Thought. Cambridge: Cambridge University Press.
Vanpool, T.L., Palmer, C.T. and Vanpool, C.S.. 2008. Horned serpents, tradition, and the tapestry of culture. In Cultural Transmission and Archaeology: Issues and Case Studies (ed M.J. O’Brien).
Washington, D.C.: Society for American Archaeology Press, pp. 77-90.
Willey, G.R. and Phillips, P. 1958. Method and Theory in Archaeology. Chicago: University of Chicago Press.