Powered By Blogger

Thứ Ba, 31 tháng 10, 2017

Em họ Nancy Ellicott



Em họ Nancy Ellicott

T. S. Eliot

Cô em họ Nacy Ellicott
Xăng xái xéo dầm biết bao gò đống,
Ngễu nghện cưỡi qua bầm dập vạt đồi, -
Vùng sơn nguyên New England trọc lốc -
Phóng ngựa
săn lùng
Dọc ngang nội cỏ.

Em họ Nancy đốt thuốc khói um
Quay cuồng thâu đêm các vũ điệu tân kỳ;
Bất chấp cô dì cảm nhận ra sao,
Họ chỉ đoan
chắc đó là hiện đại.

Trên
những kệ gương ngày đêm đứng gác
Matthew và Waldo, những
kẻ bảo vệ đức tin,
Thành một đội quân bất khoan luật pháp.

(Hà Lập Nhân dịch từ nguyên bản tiếng Anh)


Cousin Nancy

T. S. Eliot

MISS NANCY ELLICOTT

Strode across the hills and broke them,
Rode across the hills and broke them—
The barren New England hills—
Riding to hounds
Over the cow-pasture.

Miss Nancy Ellicott smoked
And danced all the modern dances;
And her aunts were not quite sure how they felt about it,
But they knew that it was modern.

Upon the glazen shelves kept watch
Matthew and Waldo, guardians of the faith,
The army of unalterable law.




Thứ Hai, 30 tháng 10, 2017

Thơ T.S. Eliot



Buổi sáng bên cửa sổ

T.S. Eliot

Lách cách tiếng bữa sáng trong căn bếp,
Dọc dài các rìa phố ngổn ngang đổ nát
Ủ rũ những linh hồn con sen giúp việc
Chán ngán chồi lên bên khuôn cổng rêu phong.

Đợt đợt sương nâu phả buốt giá
Những khuôn mặt xoắn từ đáy sâu đường phố,
Tả tơi những váy khố lấm bùn
Một
nụ cười ngu ngơ thoảng trong không khí
Vụt tan biến theo lớp lớp mái nhà.

(Hà Lập Nhân dịch từ nguyên bản tiếng Anh)


Morning at the Window

T.S. Eliot, 1888 - 1965

They are rattling breakfast plates in basement kitchens,          
And along the trampled edges of the street 
I am aware of the damp souls of housemaids             
Sprouting despondently at area gates.         

The brown waves of fog toss up to me                 
Twisted faces from the bottom of the street,             
And tear from a passer-by with muddy skirts             
An aimless smile that hovers in the air         
And vanishes along the level of the roofs.



Helen

T. S. Eliot

Cô giá Helen Slingsby thân thiết,
Trong ngôi nhà nhỏ cạnh trường đấu xảo
Mình cô với bốn người hầu.
Giờ đây cô
đã ra đi, thiên đường lặng thinh một nẻo
Lặng thing tận cuối con đường.
Cửa
đóng theo cài, phu mộ rửa chân
Hắn chợt nhớ ra một điều gì đó
chó được chăm chu đáo từng ly
Rồi con vẹt già ngày sau chết nốt
Trên lò sưởi kia chiếc đồng hồ Dresden vẫn kêu tích tắc
người hầu ngồi bên bàn ăn
Ôm chặt con sen trên đầu gối hắn
Hai kẻ nhân tình thỏa thê chủ vắng.

(Hà Lập Nhân dịch từ nguyên bản tiếng Anh)


Aunt Helen

T.S. Eliot, 1888 - 1965
  
MISS HELEN SLINGSBY was my maiden aunt,
And lived in a small house near a fashionable square
Cared for by servants to the number of four.
Now when she died there was silence in heaven
And silence at her end of the street.
The shutters were drawn and the undertaker wiped his feet—
He was aware that this sort of thing had occurred before.
The dogs were handsomely provided for,
But shortly afterwards the parrot died too.
The Dresden clock continued ticking on the mantelpiece,
And the footman sat upon the dining-table
Holding the second housemaid on his knees—
Who had always been so careful while her mistress lived.




Vài dòng về Ezra Pound




Vài dòng về Ezra Pound

Ezra Weston Loomis Pound (30 tháng 10 năm 1885 - 1 tháng 11 năm 1972) là một nhà thơ và nhà phê bình Mỹ sống xa xứ, một gương mặt quan trọng trong trào lưu hiện đại thời kỳ đầu. Sự đóng góp của ông cho thơ bắt đầu bằng việc phát triển trường phái hình tượng (Imagism), một trào lưu bắt nguồn từ thơ cổ điển Trung Quốc và Nhật Bản, nhấn mạnh sự rõ ràng, chính xác và kinh tế của ngôn ngữ. Tác phẩm của ông bao gồm Trả đũa (Ripostes) (1912), Hugh Selwyn Mauberley (1920) và tập sử thi 120 phần chưa hoàn thành, Thi khúc (The Cantos) (1917-1969). Hugh Selwyn Mauberley (1920) là một trường ca của Ezra Pound, được coi là một bước ngoặt trong sự nghiệp của Pound (theo F.R. Leavis và các tác giả khác), và nó đã được nhanh chóng hoàn thành khi ông rời khỏi nước Anh. Cái tên Selwyn có thể biểu hiện sự tôn kính đối với thành viên Câu lạc bộ RhymersSelwyn Image, và nó còn gợi nhớ đến nhân vật chính của T. S. Eliot trong Tình khúc của J. Alfred Prufrock.

Pound đã làm việc tại London vào đầu thế kỷ 20 với tư cách là biên tập viên nước ngoài của một số tạp chí văn học Mỹ và giúp khám phá và định hình các tác phẩm của những người đương thời như T.S Eliot, James Joyce, Robert Frost và Ernest Hemingway. Năm 1925, Ernest Hemingway viết: “Chúng ta có Pound, một nhà thơ lớn, có thể nói là, đã cống hiến một phần năm cuộc đời của ông cho thi ca. Phần đời còn lại, ông cố gắng thúc đẩy vận may, cả vật chất và nghệ thuật, cho bạn bè mình. Ông bảo vệ họ khi họ bị tấn công, đưa họ đến các tạp chí và đưa họ ra khỏi tù. Ông cho họ vay tiền. Ông bán các bức tranh của họ. Ông thu xếp các buổi hòa nhạc cho họ. Ông viết bài về họ. Ông giới thiệu họ với những phụ nữ giàu có. Ông đưa các nhà xuất bản đến để in sách cho họ. Ông ngồi thâu đêm với họ khi họ than van quyết chết và ông đã chứng kiến ý chí của họ. Ông trả cho họ các khoản chi phí bệnh viện và ngăn cản họ tự tử. Và cuối cùng một vài người trong số bạn bè đó đã cố kìm không bổ nhát dao chí tử xuống đầu ông ngay từ cơ hội đầu tiên  (Hemingway 2006. Homage to Ezra, In This Quarter, 1, Spring 1925, 221–225, in Hemingway (2006), 5–6). Căm giận cảnh tàn sát của Thế chiến I, Pound đã mất niềm tin vào nước Anh và đổ lỗi cho nguyên nhân của chiến tranh là do thực lợi và chủ nghĩa tư bản quốc tế. Ông chuyển đến Italy vào năm 1924, và suốt những năm 1930 và 1940, ông đã ôm ấp chủ nghĩa phát xít của Benito Mussolini, bày tỏ sự ủng hộ Adolf Hitler và chính trị gia phát xít người Anh Oswald Mosley. Trong Thế chiến II, ông đã được chính phủ Ý trả tiền để thực hiện hàng trăm chương trình phát thanh trên đài phát thanh chỉ trích Hoa Kỳ, Franklin D. Roosevelt và người Do Thái, do đó ông bị quân đội Hoa Kỳ bắt vào năm 1945 vì tội phản bội. Ông phải ở trong một trại giam của quân đội Hoa Kỳ ở Pisa vài tháng trời, trong đó có ba tuần bị nhốt trong chuồng cọp ngoài trời với kích thước 1,8 x 1,8 m, mà theo ông, điều đó đã gây ra sự suy sụp tinh thần cho Pound. Được cho là không đủ sức khỏe để ra tòa xét xử, ông đã bị giam trong bệnh viện tâm thần St. Elizabeths ở Washington, D.C., trong hơn 12 năm (The Pisan Cantos (80.665–67), Sieburth (2003), xiii.)

Trong khi bị giam tại Ý, Pound bắt đầu sáng tác các phần của Thi khúc. Những tác phẩm này được xuất bản dưới cái tên The Pisan Cantos (1948), do Thư viện Quốc hội Mỹ trao tặng giải thưởng Bollingen năm 1949, và đã gây tranh cãi nảy lửa. Chủ yếu nhờ chiến dịch vận động của các đồng nghiệp, ông được thả ra khỏi St. Elizabeths năm 1958 và trở lại sống ở Ý cho đến khi qua đời. Quan điểm chính trị của ông chắc chắn cho thấy hiện nay các tác phẩm của ông vẫn còn gây nhiều tranh cãi, hệt như đã xảy ra lúc sinh thời; vào năm 1933 Tạp chí Time gọi ông là con mèo , không được luyện để đi ỉa đái đúng chỗ và rất nguy hiểm cho trẻ em. Hemingway đã viết: “Phần hay nhất trong các tác phẩm của Pound - và đó là trong Thi khúc - sẽ sống mãi chừng nào vẫn còn có bất kỳ cái gì được gọi là văn học” (Books: Unpegged Pound. Time, 20 March 1933; Hemingway (2006), 25, from The Cantos of Ezra Pound: Some Testimonies by Ernest Hemingway, Ford Madox Ford, T. S. Eliot, Hugh Walpole, Archibald McLeish, James Joyce, and Others, Farrar & Rinehart, March 1933).