Powered By Blogger

Thứ Năm, 25 tháng 2, 2021

Nghiên cứu Ứng dụng Tri thức Bản địa vào Phát triển Bền vững Quảng Ngãi

Hà Hữu Nga

Khoa học ứng dụng là việc ứng dụng các tri thức khoa học vào những lĩnh vực hoạt động thực tiễn nào đó, bao gồm cả việc kiểm nghiệm một mô hình lý thuyết thông qua việc sử dụng khoa học hình thức hoặc giải quyết một vấn đề thực tiễn thông qua việc sử dụng khoa học tự nhiên. Ngày nay mọi khía cạnh thuộc lĩnh vực phát triển đều gắn liền với khoa học ứng dụng. Khoa học ứng dụng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc phát triển công nghệ. Việc sử dụng khoa học ứng dụng vào môi trường công nghệ thường được hiểu là nghiên cứu và triển khai (R&D - Research and Development).

Theo nghĩa rộng, nghiên cứu ứng dụng tri thức bản địa (IK – Indigenous Knowledge) hay còn gọi là tri thức địa phương, tri thức truyền thống thuộc lĩnh vực nghiên cứu phát triển (Development Studies). Đó là việc ứng dụng các phương pháp và lý thuyết phát triển vào việc phân tích và tìm ra giải pháp cho các vấn đề thực tiễn. Trong đó có nhân học ứng dụng (Applied Anthropology), một ngành của khoa học xã hội liên quan đến việc nghiên cứu và ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào việc phân tích và giải quyết các vấn đề thực tiễn phát triển hiện tại. Một số người coi nhân học ứng dụng là phụ bộ môn thứ năm của nhân học, là một phụ bộ môn ứng dụng các quan điểm, lý thuyết, các phương pháp và dữ liệu nhân học vào việc xác định, đánh giá và giải quyết các vấn đề xã hội hiện tại. Các nhà nhân học ứng dụng thường thực hiện các hợp đồng công việc với các khách hàng không thuộc lĩnh vực nghiên cứu hàn lâm, chẳng hạn như các cơ quan chính phủ, các cơ quan phát triển, các tổ chức phi chính phủ, các chương trình, dự án phát triển, các nhóm lợi ích, các cơ quan giáo dục, dịch vụ xã hội và các doanh nghiệp. Thực địa dân tộc học và quan sát tham dự là các công cụ nghiên cứu chính của nhà nhân học ứng dụng. Bên cạnh đó các nhà nhân học ứng dụng còn sử dụng phương pháp phân tích văn bản, nghiên cứu khảo sát và nhiều phương pháp nghiên cứu kinh nghiệm khác. [Benthall, Jonathan 2002].

1. Định nghĩa tri thức bản địa

Tri thức bản địa là các truyền thống lâu đời, các kinh nghiệm, thực tiễn sống của một cộng đồng liên quan đến môi trường tự nhiên, xã hội, đời sống, tư duy của cộng đồng đó. Tri thức bản địa bao gồm các loại trí khôn, kinh nghiệm, phong tục, lề thói ứng xử, các bài học của một cộng đồng. Tri thức bản địa được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, từ người này qua người khác, thông qua truyện kể, huyền thoại, văn học dân gian, các nghi lễ, lễ thức, tập quán, lề thói, quy định, luật tục, v.v….

Tri thức bản địa là loại tri thức truyền thống duy nhất của mỗi địa phương tồn tại và phát triển trong các điều kiện, bối cảnh đặc hữu của người dân địa phương của một khu vực địa lý nhất định. Việc phát triển các hệ thống tri thức bản địa bao gồm toàn bộ các khía cạnh của đời sống, trong đó có cả hoạt động quản lý môi trường tự nhiên là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với những con người đã sáng tạo ra hệ thống tri thức này. Các hệ thống tri thức bản địa được tích luỹ, đại diện cho kinh nghiệm, sự quan sát tinh tế, và phép thử sai của biết bao thế hệ người tiếp nối nhau liên tục. Các hệ thống tri thức bản địa cũng không ngừng biến đổi, tri thức mới liên tục được bổ sung. Các hệ thống tri thức ấy không ngừng được đổi mới từ bên trong và các kinh nghiệm, tri thức học hỏi được từ bên ngoài không ngừng được nội tại hoá, được sử dụng, thích ứng với điều kiện địa phương. Tất cả các thành viên của một cộng đồng đều có những hiểu biết rất chi tiết về điều kiện sinh thái truyền thống của mình, bất kể đó là người già, đàn ông, đàn bà, thanh niên, hay trẻ em. Số lượng và chất lượng của tri thức bản địa mà các cá nhân nắm được có khác biệt nhau tuỳ thuộc vào giới, tuổi tác, mức độ được dạy dỗ, vị thế kinh tế, xã hội, mức độ trải nghiệm cuộc sống hàng ngày, các tác động từ bên ngoài, vai trò, trách nhiệm trong gia đình, cộng đồng, năng lực nghề nghiệp chuyên môn, quỹ thời gian, trí thông minh, năng lực trí tuệ, mức độ ham hiểu biết và năng khiếu quan sát, khả năng di động, trình độ tự chủ, năng lực kiểm soát các nguồn tài nguyên thiên nhiên [Grenier 1997].

Tri thức bản địa được lưu giữ trong ký ức, trong các hoạt động, thao tác và được thể hiện trong các truyện kể, các bài hát dân gian, các tri thức dân gian, các câu tục ngữ, các điệu múa, các truyện thần thoại, các giá trị văn hoá, các niềm tin, các nghi lễ, lễ thức, các luật tục của cộng đồng, trong ngôn ngữ, trong hệ thống phân loại sự vật, hiện tượng của địa phương, trong thực tiễn canh tác, trong các vật dụng, phương tiện, chất liệu, trong các loài động thực vật mà người dân địa phương hiểu biết và sử dụng. Tri thức bản địa được chia sẻ và truyền bá thông qua ngôn ngữ nói, bằng các ví dụ cụ thể và thông qua luật tục, tập quán, văn hoá của cộng đồng. Các hình thức giao tiếp và tổ chức của cộng đồng có ý nghĩa sống còn đối với các quá trình ra quyết định ở cấp độ địa phương; có ý nghĩa sống còn đối với việc bảo tồn, phát triển và phổ biến các tri thức bản địa.

2. Khoa học hiện đại và tri thức bản địa

Có rất nhiều thách thức trong việc nghiên cứu ứng dụng tri thức bản địa liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến mối quan hệ giữa việc nghiên cứu một hệ thống tri thức không chính thống (tri thức bản địa) bằng cách sử dụng hệ thống tri thức thống trị (tri thức khoa học hiện đại). Trong khi đó thì thực ra hai hệ thống tri thức này lại rất gần gũi với nhau so với sự khác biệt về hình thức của chúng. Những tương đồng tri thức thể hiện xuyên suốt toàn bộ hai lĩnh vực, còn các khác biệt thì chỉ thể hiện trong từng lĩnh vực mà thôi. Sự khác biệt rõ rệt nhất giữa tri thức bản địa và tri thức khoa học hiện đại lại thể hiện ở mối quan hệ của hai loại tri thức này với quyền lực thực thi phát triển, chứ không phải là người nắm giữ tri thức bản địa thường khi vẫn đứng ngoài quá trình phát triển [Agrawal 1996].

Một số học giả và nhiều dân tộc bản địa đã cho rằng việc chia tách tri thức bản địa khỏi khoa học hiện đại là không có ý nghĩa. Tuy nhiên tri thức bản địa chỉ thực sự có được vị thế chính thống khi nó được biến đổi thích ứng với lý thuyết và thực tiễn tri thức hiện đại phương Tây. Ngay cả khi các nhà khoa học và các viên chức thúc đẩy tri thức bản địa thì họ cũng thường sử dụng các phạm trù và các phương pháp khoa học để thu thập, phân biệt và định giá trị cho nó [Johnson 1992]. Một vấn đề có liên quan là cộng đồng khoa học thích xử lý các dữ liệu định lượng hơn là phỏng vấn hoặc các dữ liệu định tính đặc trưng cho tri thức bản địa, việc nghiên cứu tri thức bản địa và một số khoa học xã hội khác [Sallevave 1994].

Nhìn chung các vấn đề dưới đây xác định bối cảnh hiện thời của việc nghiên cứu tri thức bản địa trong một thế giới do khoa học hiện đại phương Tây đặt định các luật tắc: i) Tri thức bản địa thiếu vị thế chính thống và được nhận thức là nằm ngoài phương pháp tìm hiểu khoa shọc truyền thống. Nhiều nhà khoa học môi trường coi tri thức truyền thống là lỗi thời, phi phương pháp, phi định lượng, và mang tính giai thoại; những người khác thì lại cho rằng tri thức bản địa thiếu tính khách quan và tính nghiêm nhặt khoa học. Liên quan đến vấn đề này là những người nắm giữ tri thức bản địa nhìn nhận tri thức của mình như thế nào. Một số người dân địa phương có thể coi tri thức của riêng họ là ‘lạc hậu”; ii) Trong xã hội vẫn có quan niệm phổ biến cho rằng những người được đào tạo chính thức theo khoa học hiện đại vẫn đáng tin cậy hơn các chuyên gia tri thức bản địa [Thrupp 1989, trích theo Wickham 1993]; iii) Khoa học phương Tây hiện đại là “quy giản luận” có nghĩa là các hệ thống chỉ được thừa nhận và hiểu được bằng từng phần biệt lập của chúng. Nó phân chia các đặc tính theo trật tự cao thấp, kiểm soát, vận hành các hợp phần này một cách riêng rẽ và chia tách thế giới tự nhiên khỏi thế giới của con người. Trong hệ thống khoa học hiện đại phương Tây thì nông nghiệp bị tách khỏi lâm nghiệp; việc quản lý các nguồn động vật hoang dã bị tách rời khỏi việc quản lý đất, và nước là môi trường sống của chúng, và các nhà quản lý bị tách biệt khỏi những người khai thác. Tri thức bản địa nhấn mạnh cách tiếp cận tổng thể dựa trên quan niệm cho rằng các hệ thống chứ không phải là những bộ phận tách biệt mới là thực chất của thế giới. Phương thức luân canh là một chiến lược kiếm sống không tách rời nông nghiệp khỏi lâm nghiệp; tất cả mọi người dân địa phương đều tham gia vào công việc quản lý và khai thác sản phẩm. Các nền văn hoá bản địa không bao giờ tách rời con người khỏi tự nhiên; Đấng Tạo hoá thường được các nền văn hoá bản địa coi là người có trách nhiệm đảm bảo duy trì trật tự vĩnh hằng của vũ trụ. Điều đó chứng tỏ rằng tri thức bản địa hơn hẳn khoa học về phương diện nhận thức luận; và tri thức bản địa luôn luôn được lồng ghép trong văn hoá. iv) Các kết quả của các dự án tham gia dựa trên cơ sở tri thức bản địa ngày càng nhiều thêm và thực chất mang tính định tính, làm cho việc đo lường mức độ thành công không phải lúc nào cũng dễ dàng, nếu như cần phải đo lường mức độ thành công bằng cách sử dụng các chỉ báo định lượng thường được ưu tiên sử dụng [Thrupp 1989, trích theo Wickham 1993].

Khoa học hiện đại phương Tây luôn luôn biến đổi, và mọi huấn điều của nó đều phải chịu sự thách thức, bao gồm cả duy lý luận, khách quan luận, quy giản luận, và thực chứng luận, là thứ khẳng định rằng chỉ có những gì có thể kiểm tra và quan sát được bằng thực nghiệm mới thực sự là khoa học [Hempel Carl G. 1950]. Nhiều học giả và người làm thực tiễn phát triển đang cố gắng đưa các quan niệm tổng thể vào các lĩnh vực của mình nhằm cải thiện tính tương tác của các hiện tượng sinh học, tâm lý, xã hội [Johnson 1992]. Nhưng hiện nay người ta có thể cho rằng việc sử dụng cách tiếp cận khoa học để nghiên cứu tri thức bản địa vẫn là một khiếm khuyết. Các phương pháp khoa học hiện đại tự thân chúng là quá đơn giản khó mà nắm bắt được tính chất phức tạp của một hệ thống tri thức bản địa. Việc nghiên cứu tri thức bản địa đòi hỏi phải nắm bắt được cả cái hữu hình lẫn cái vô hình.

Mặc dù hiện có rất nhiều thách thức về mặt phương pháp luận đối với việc nghiên cứu tri thức bản địa, nhưng lại vẫn chí có rất ít người quan tâm đến các yêu cầu riêng đối với việc nghiên cứu tri thức bản địa. Whelan [trao đổi riêng với Louise Grenier 1997] đã nắm bắt được những giá trị cốt lõi gắn liền với các hoạt động nghiên cứu tri thức bản địa trong khuôn khổ 3Rs bao gồm: respect (tương kính), reciprocity (tương nhượng), relationship (tương liên). Còn những người khác thì nhấn mạnh 4 nguyên tắc sau:

i) Thái độ thích hợp: Người nghiên cứu tri thức bản địa đòi hỏi phải có thái độ tự phê và phải nhận rõ sự thiên vị của mình đối với tri thức công nghệ cao, đô thị và khoa học hình thức. Trách nhiệm của người nghiên cứu tri thức bản địa là phải ghi nhớ rằng các hệ thống tri thức bản địa cũng có thể thực sự giá trị, hữu ích và giải pháp công nghệ thấp nhiều khi lại có tính thích hợp cao; ii) Phương pháp thích hợp: Người nghiên cứu tri thức bản địa phải đảm bảo rằng các phương pháp nghiên cứu phải thích hợp với các văn hoá, năng lực, và các yêu cầu cũng như phải thể hiện một cách hiệu quả các quan điểm của người dân địa phương; iii) Đa phương pháp: Công việc nghiên cứu tri thức bản địa đòi hỏi sự kết hợp các kỹ thuật khác nhau nhằm tạo thuận lợi cho việc thu thập các loại dữ liệu khác nhau và giúp khẳng định hoặc phủ định các phát hiện nghiên cứu bằng các quá trình kiểm tra chéo hoặc phương pháp tam giác đạc. Việc kết hợp tốt các phương pháp có thể giúp người nghiên cứu tiếp cận được với nguồn tri thức bị ẩn giấu trong các chuẩn mực văn hoá hoặc các nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội, thể chế khác nhau; iv) Tham gia rộng rãi: Tham gia có nghĩa là công việc cuốn hút được sự cộng tác, giúp đỡ của cả đàn ông, đàn bà, người già, trẻ em thuộc mọi tầng lớp khác nhau và đòi hỏi cả người nghiên cứu lẫn người cung cấp thông tin nỗ lực và nhiệt tình đóng góp cho công việc chứ không chỉ đơn thuần là tham dự và trả lời các câu hỏi. Cách thức hiệu quả nhất để tìm kiếm được tri thức tri thức bản địa của một cộng đồng là lôi cuốn được người dân tham gia rộng rãi và nhiệt tình vào công việc của người nghiên cứu [Wickham 1993].  

3. Các hạn chế của tri thức bản địa

Tất cả mọi hệ thống tri thức đều có các giới hạn và những điểm yếu, và tri thức bản địa cũng không phải là ngoại lệ. Cả tri thức bản địa lẫn tri thức khoa học hiện đại đều không thể thích hợp và chính xác cho mọi hoàn cảnh. Việc chấp nhận một cách vô điều kiện khoa học hiện đại (chẳng hạn như công nghệ cách mạng xanh) không phải là một thái độ khôn ngoan. Cũng hệt như vậy, việc chấp nhận mọi tri thức truyền thống áp dụng vào thực tiễn cũng không phải là một thái độ khôn ngoan. Đôi khi các dân tộc bản địa cũng mắc sai lầm trong việc quản lý và sử dụng các nguồn của mình. Chẳng hạn theo Gadgil và cộng sự [Gadgil et al. 1993], thì những người săn bắn và hái lượm du mục không gắn bó chặt chẽ với một địa bàn cụ thể nào, trong lối sống của họ có thể không phát triển đạo lý bảo vệ môi trường sinh thái. Trong thực tế, có một số thực hành IK không hiệu quả bằng các công nghệ hiện đại. Tri thức bản địa có thể không chính xác bằng khoa học hiện đại khi đo đếm hoặc thống kê các hiện tượng đòi hỏi tính chính xác cao. Các thực nghiệm của nông dân bản địa thường không thể nào được thiết kế một cách chi tiết và chính xác bằng công nghệ hiện đại. Các hoạt động thường bắt đầu trong điều kiện mật độ dân số thấp thì giờ đây có thể không còn phù hợp nữa. Các tri thức bản địa có thể không hoàn thiện hoặc không chính xác [McCorkle 1989, dẫn theo Wickham 1993].

Johanne [1993] cho rằng một số văn hoá bản địa phát triển rất phong phú các đạo lý bảo tồn môi trường sinh thái truyền thống; có những văn hoá khác thì có rất ít hoặc không có mối quan hệ giữa các hoạt động của họ với hiện trạng môi trường của mình; còn những văn hoá khác lại có đạo lý bảo tồn truyền thống, còn những văn hoá khác thì lại bị tổn thương bởi những tác động từ bên ngoài. Như đã nói rõ ở phần đầu, phương pháp luận nghiên cứu tri thức bản địa đã vay mượn và được hưởng lợi từ đầu vào của một số chuyên ngành khoa học. 

4. Vai trò của tri thức bản địa trong phát triển

Mối quan tâm của “những người bên ngoài” vào nguồn vốn tri thức “cũ” này xuất hiện gần đây theo thứ tự của quá trình chính trị hoá các nhóm bản địa và các phong trào về các quyền của người bản địa. Nhiều dân tộc bản địa đang đòi hỏi quyền được lắng nghe trong các quyết định phát triển. Phong trào này thường bao gồm cả đòi hỏi về việc thừa nhận chính thức về các quyền đối với đất đai và các nguồn tài nguyên khác. Đồng thời hệ thống chính trị quốc tế và nhiều nhà nước dân tộc cũng đã tỏ rõ thiện chí lằng nghe các nhóm dân tộc bản địa. Về phương diện này, điều đó đã cải thiện khí hậu chính trị hỗ trợ cho các cuộc đối thoại về tri thức bản địa. Một số chính phủ (Úc, Canada, Greenland, Mỹ) đã có các cơ chế chẳng hạn như giải quyết các yêu sách về đất đai và thành lập các bộ phận đồng quản lý các nguồn tài nguyên hỗ trợ cho các hệ thống tri thức bản địa bằng cách hỗ trợ cho các chính quyền tự quản và quản lý chung các nguồn tài nguyên thiên nhiên. (Mặc dù việc giải quyết các yêu sách về đất đai và các quyền bản địa khác được coi là các phương diện chủ chốt của việc thừa nhận và chính thống hoá tri thức bản địa, nhưng các sức ép của chính quyền tự trị và việc cung ứng tài chính cho chính quyền đó đã gây khó khăn cho các chính quyền tự trị của người bản địa nhằm phát triển khả năng sử dụng logic và trí tuệ bản địa của riêng họ [Tester F.J. 1997. School of Social Work, the University of British Columbia, Vancouver, BC, Canada, personal communication, 1997)].

Ngoài ra “công nghiệp đời sống” (các ngành công nghiệp thu lợi từ việc sử dụng các cơ thể sống – công nghiệp nông hoá, dược, thực phẩm, và công nghiệp giống) và các nhà phê bình về công nghiệp sống đã làm được rất nhiều việc nhằm làm rõ các giá trị của tri thức bản địa trong quá khứ, hiện tại, và tương lai và những vấn đề có liên quan đối với các dân tộc bản địa có hành vi ăn trộm tri thức bản địa không có kiểm soát ở các nước đang phát triển. Sau đó tri thức bản địa còn được tán dương là “một loại trí khôn tập thế thay thế đáp ứng được hàng loạt vấn đề trong thời điểm mà các giá trị, chuẩn mực và luật tắc hiện tồn ngày càng trở nên có vấn đề” [Beckes 1993, p.7]. Nhu cầu về một loại hình trí khôn tập thể trong các sáng kiến phát triển còn được hỗ trợ bởi các quan sát sau: i) Công nghệ cách mạng xanh gắn liền với quá trình xuống cấp sinh thái, suy thoái kinh tế (ở cấp độ địa phương) và các thành phần dinh dưỡng trong bữa ăn ngày càng nghèo đi vì hậu quả của hành động diệt trừ các loại thực phẩm truyền thống hoặc thay thế bằng các thực phẩm phi truyền thống; ii) Qúa trình phát triển được kế hoạch hoá và được thực hiện trong vòng 30 năm qua đã gây ra những áp lực chưa từng thấy lên đất đai, các nguồn nước, các cánh rừng, và toàn bộ các nguồn tài nguyên khác của hành tinh; iii) Một số giải pháp phát triển từ bên ngoài đều dựa vào những giả định không chính xác và không khả thi về phương diện kinh tế, hoặc không thể chấp nhận được về phương diện văn hoá, và thường xuyên bị chối bỏ (chẳng hạn các kỹ thuật quá phức tạp hoặc đòi hỏi phải bảo dưỡng quá nhiều); iv) Một số giải pháp kỹ thuật được đưa vào để giải quyết vấn đề đã không được cấp địa phương chấp nhận và thường bị chối từ; v) Các can thiệp phát triển có khuynh hướng đem lại lợi ích cho một số ít người từ các nhóm vốn đã tương đối xung túc; vi)Một số quan điểm phê phán còn nhận ra rằng các cộng đồng tiếp nhận sự trợ giúp phát triển được điều khiển từ bên ngoài đã trở nên ít có khả năng xử lý được các vấn đề của nội bộ cộng đồng mình; vii) Quy trình lập kế hoạch từ trên xuống đã thất bại trong việc thúc đẩy quản lý hiệu quả các nguồn tài nguyên ở cấp địa phương.

Nói tóm lại, kế hoạch hoá phát triển đã thất bại trong việc thực hiện khát vọng phát triển bền vững. Trong một số trường hợp, “những kiểu phụ thuộc do thế giới bên ngoài tạo ra bằng trật tự và mệnh lệnh (thông qua các đạo luật và các định chế về tài nguyên) đã không thực sự đóng góp được cho phát triển. Các cộng đồng nhận trợ giúp thường bị bỏ lại để tự lo các phương kế cho mình” [de Vreede 1996]. Những ý định phát triển bỏ qua hoàn cảnh, công nghệ, và các hệ thống tri thức địa phương đều đã phung phí các nguồn lực khổng lồ về thời gian, của cải, và công sức con người. So với nhiều công nghệ hiện đại thì các kỹ thuật truyền thống đã từng trải qua thử thách và kiểm nghiệm đều chứng tỏ là hiệu quả, chi phí thấp, có sẵn tại địa phương, và tương thích về phương diện văn hoá; và trong nhiều trường hợp thì đều có cơ sở bảo tồn và xây dựng dựa trên các mô thức và các qui trình của tự nhiên. Các cách tiếp cận khoa học công nghệ phương Tây tự thân chúng là những phản ứng khiếm khuyết đối với một mạng thách thức vô cùng phức tạp về các phương diện kinh tế, xã hội, môi trường, chính trị, văn hoá, v.v…của ngày hôm nay. Hệ mẫu hỗ trợ “một công nghệ hoặc một hệ thống tri thức thích hợp cho tất cả” đã trở nên mất thế. Các hệ thống tri thức bản địa đem đến cho chúng ta những cách tiếp cận khác để giải quyết vấn đề. Mặc dù khoa học phương Tây cố gắng tách biệt từng vấn đề riêng rẽ ra để thanh toán mối tương liên của nó với nhiều nhân tố khác và để quy giản vấn đề vào một vài thông số nhỏ hơn có thể kiểm soát được – nhưng các phương pháp tiếp cận truyền thống thì lại thường xác định các vấn đề trong tính toàn thể của nó bao gồm tất cả các mối tương liên và tính chất phức tạp của nó [Shankar 1996]. Chẳng hạn những người làm trong lĩnh vực y học đang ngày càng thừa nhận tầm quan trọng của việc làm cho toàn bộ các yêu tố vật chất, tinh thần, văn hoá – xã hội và tâm lý của một con người trở nên mạnh khoẻ, hoàn thiện khi đề cập đến vấn đề y tế và chăm sóc sức khoẻ. Mặc dù đây là một quan niệm khá mới mẻ đối với y học hiện đại, nhưng cách tiếp cận tổng thể này lại rất quen thuộc và là cơ sở của các hệ thống tri thức bản địa [Grenier 1997].

Càng ngày các chuyên gia trong lĩnh vực phát triển càng đồng ý rằng việc chú ý vào các hệ thống tri thức bản địa sẽ có thể: i) Tạo ra được sự tôn trọng lẫn nhau, khuyến khích sự tham gia của địa phương, và xây dựng được mối quan hệ đối tác nhằm giải quyết các vấn đề chung; ii) Tạo thuận lợi cho việc thiết kế và thực hiện các chương trình phát triển thích hợp về phương diện văn hoá, tránh được chi phí tốn kém; iii) Xác định được các kỹ thuật nào có thể và cần phải chuyển giao cho các vùng khác; iv) Giúp xác định các hoạt động thích hợp với việc tìm tòi, thích ứng, và thực hiện các hoạt động phát triển; v) Giúp xây dựng một tương lai bền vững hơn. 

5. Tri thức bản địa sử dụng cho phát triển bền vững

Phát triển bền vững là “Phát triển đáp ứng được các nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai” [WCED 1987, p. 43]. Phát triển nông lâm nghiệp và các nguồn tài nguyên bền vững có nghĩa là “sử dụng, quản lý và bảo vệ cơ sở các nguồn tài nguyên và định hướng thay đổi công nghệ nhằm đảm bảo đạt được và thoả mãn các nhu cầu không ngừng tăng lên của con người, chẳng hạn như về thực phẩm, nhà ở, quần áo, chất đốt, v.v…- cho các thế hệ hiện tại và tương lai” [Titilola 1995]. Uỷ ban Môi trường và Phát triển Thế giới đã đề xuất 9 mục tiêu sau [WCED 1987]: i) Đảm bảo không ngừng tăng trưởng; ii) Thay đổi chất lượng tăng trưởng; iii) Đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu về việc làm, thực phẩm, năng lượng, nước sạch và vệ sinh; iv) Đảm bảo mức độ ổn định về dân số; v) Bảo tồn và làm tăng cơ sở các nguồn lực; vi) Tái định hướng công nghệ và quản lý rủi ro; vii) Lồng ghép các môi quan tâm môi trường và kinh tế vào quá trình ra quyết định; viii) Tái định hướng các quan hệ kinh tế quốc tế; ix) Làm tăng mức độ tham gia vào quá trình phát triển. Phát triển bền vững ở các cấp độ quốc gia và địa phương là sự vận hành của 5 biến số sau [Matowanyika 1991]: i) Các nguồn lực lý sinh và kinh tế xã hội; ii) Các nhân tố bên ngoài, chẳng hạn như các công nghệ sẵn có và các hệ tư tưởng phát triển; iii) Các nhân tố bên trong, bao gồm các hệ thống niềm tin văn hoá – xã hội và các cơ sở sản xuất và công nghệ địa phương; iv) Các nhân tố dân số dân cư; và v) Các nhân tố kinh tế và chính trị [Grenier 1997].

Bất cứ một chiến lược phát triển bền vững nào cũng phải tính đến toàn bộ các biến số trên và sẽ phải đưa vào các nhân tố lao động, học tập, và cùng thực nghiệm ở các cấp độ địa phương, vùng, quốc gia, và quốc tế. Trong khi đó thì ở cấp độ địa phương, trung tâm điểm của phát triển bền vững là phải tập trung vào các hoàn cảnh, tiềm năng, kinh nghiệm, và trí tuệ địa phương. Phát triển bền vững ở cấp địa phương là tuỳ thuộc vào việc thực hiện các cơ chế trao quyền ở cấp địa phương, và quốc gia. Ở cấp địa phương, chính quyền và  người dân cần có các nguồn bổ sung và cần có mức độ kiểm soát lớn hơn đối với các nguồn lực của địa phương. Người sử dụng đất cần phải có sự đảm bảo chắc chắn về đất và quyền sở hữu các nguồn lực - để khuyến khích các khoản tái đầu tư từ các khoản lợi nhuận – và các chính sách kinh tế cải thiện các điều khoản thương mại liên quan đến các thị trường ở phạm vi rộng lớn hơn. Người dân địa phương cũng cần phải tham gia và tác động ảnh hưởng đến các quá trình ra quyết định ảnh hưởng đến cuộc sống của bản thân và gia đình họ. Cần phát triển thể chế cấp thẩm quyền có liên quan từ phạm vi quốc gia – vùng - tỉnh - đến địa phương. Ở cấp quốc tế, cần tạo thuận lợi cho các mô thức thương mại và các thoả ước toàn cầu và giảm các gánh nặng nợ nước ngoài cho các quốc gia đang phát triển [Krugmann 1996].  

Cũng cần phải lưu ý rằng việc lồng ghép tri thức bản địa vào thực tiễn phát triển và áp dụng cho vấn đề phát triển bền vững thì không phải không có các rủi ro đối với các dân tộc bản địa. Thường có những khác biệt lớn giữa hiệu quả do người bản địa đạt được và người bên ngoài đạt được trong việc sử dụng tri thức bản địa. Tri thức bản địa có thể được áp dụng vào vấn đề phát triển bền vững hoặc vào hệ mẫu chủ đạo, bằng cách thúc đẩy các vấn đề không bền vững của thế giới thông qua việc các công ty xuyên quốc gia sử dụng (hoặc lạm dụng) tri thức bản địa [Tester, personal communication, 1997, tr.6].

6. Các lĩnh vực tri thức bản địa cần nghiên cứu ứng dụng

Mặc dù mỗi hệ thống tri thức bản địa bao gồm một tập hợp tri thức thống nhất, nhưng các nhà nghiên cứu vẫn quan tâm đến việc học hỏi nhiều hơn về các hệ thống tri thức truyền thống có khuynh hướng tập trung vào các khía cạnh cụ thể. Có rất nhiều đề tài được nghiên cứu dưới cái nhãn tri thức bản địa. Vì vậy việc chuyển tải các giá trị thực sự của tri thức bản địa cần quan tâm đến các lĩnh vực dưới đây:

- Các hệ thống học tập – các phương pháp phổ biến tri thức bản địa; các cách tiếp cận bản địa đối với quá trình đổi mới và thực nghiệm; các trò chơi bản địa; và các chuyên gia bản địa;

- Các tổ chức, cách thức kiểm soát và cưỡng bức bản địa – các thể chế truyền thống trong quản lý môi trường; các thực tiễn quản lý tài sản công; các quá trình ra quyết định truyền thống; các thực tiễn giải quyết xung đột; các luật tục, các quyền, các cấm kỵ, và nghi lễ truyền thống; cách thức kiểm soát cộng đồng đối với việc thu vén của cải, tài nguyên.

- Cách thức phân loại và lượng hoá bản địa – các định nghĩa và cách thức phân loại của một cộng đồng đối với các hiện tượng, các thảm thực vật, và quần động vật bản địa; và các phương pháp tính toán và định lượng truyền thống.

- Chăm sóc sức khoẻ - chế độ dinh dưỡng, các hệ thống phân loại bệnh tật của con người; các phương thuốc truyền thống và việc sử dụng cách cách chữa bệnh bằng thảo dược; các vị trí phân bố của cây thuốc, thời gian thu hái, các bộ phận hữu ích nhất trong các cây, con, chất liệu được sử dụng làm thuốc; các phương thức chế biến, bảo quản, cất giữ.

- Chăm sóc vật nuôi – các phương thức gây giống và phát triển vật nuôi; các loại cỏ lá và thức ăn cho gia súc, các cách thức sử dụng truyền thống các loại thức ăn cho gia súc; cách phân loại bệnh tật của gia súc; các bài thuốc thảo dược truyền thống;

- Nước – các cách thức quản lý và phân phối nước truyền thống; các hệ thống bảo quản, giữ gìn nước; các kỹ thuật thuỷ lợi truyền thống; việc bảo tồn các loại rừng, cây để bảo quản, giữ gìn nguồn nước; việc quản lý, bảo tồn các thuỷ vực khai thác thuỷ sản, đánh bắt cá;

- Đất – các phương thức bảo quản và chăm sóc đất đai; việc sử dụng các loài động thực vật để bảo quản và chăm sóc đất đai; các cách thức làm tăng độ màu mỡ của đất;

- Nông nghiệp – các chỉ báo bản địa xác định thời gian thích hợp để chuẩn bị, trồng trọt, chăm sóc và thu hoạch hoa màu; các phương thức chuẩn bị đất; các cách thức chọn, bảo quản, xử lý và nhân giống (phơi khô, gặt đập, làm sạch, phân loại), tỉa giống; các phương pháp bản địa trong gieo giống (vãi hạt, trồng xen; chuẩn bị và chăm sóc cây giống; các hệ thống canh tác, thu hoạch mùa màng, bảo quản sản phẩm, xử lý lương thực, bán ra thị trường, các hệ thống quản lý sâu bệnh và bảo vệ cây trồng.

- Lâm nghiệp và Nương rẫy – các kỹ thuật bản địa được sử dụng để tìm, chọn đất làm nương rẫy và các tiêu chí được sử dụng để lựa chọn đất; các tiêu chí và kỹ thuật được sử dụng để bỏ hoá đất rẫy; quản lý và sử dụng quá trình bỏ hoá; các phương thức bản địa hoá công nghệ thâm canh; các thay đổi thích nghi với quá trình luân canh nương rẫy; việc quản lý nương rẫy và sản phẩm nương rẫy; tri thức và phương pháp sử dụng các loại lâm thổ sản và cây con trên rừng; các mối tương liên giữa các loài cây cỏ với năng xuất hoa màu, độ phì nhiêu của đất.

- Các chủ đề khác - nghề dệt và các nghề thủ công truyền thống bản địa; vật liệu xây dựng; chất đốt; các công cụ, dụng cụ lao động; các biến đổi của các hệ thống tri thức, công nghệ, kỹ thuật bản địa theo thời gian [Grenier 1997].

7. Các thách thức đối với hệ thống tri thức bản địa

Do những người bên ngoài ngày càng hiểu rõ về giá trị của các hệ thống tri thức bản địa, cho nên người ta cho rằng các hệ thống tri thức bản địa, tính đa dạng sinh học và tính đa dạng văn hoá (ba hệ thống tương liên với nhau) đang có nguy cơ bị đe doạ tuyệt diệt. Tuy nhiên vẫn có một thực tế là một số loại tri thức bản địa cũng bị mai một theo thời gian một cách tự nhiên khi các kỹ thuật và công cụ đã bị cải biến hoặc không còn được sử dụng nữa; mức độ mai một của các hệ thống tri thức bản địa ngày càng tăng tốc cùng với quá trình phát triển nhanh chóng của dân số, sự nở rộ của hệ thống thị trường, các hệ thống giáo dục quốc tế, quá trình suy thoái môi trường, cùng với các quá trình phát triển, tạo ra các sức ép gắn liền với quá trình hiện đại hoá và đồng hoá văn hoá nhanh chóng. Dưới đây là một vài ví dụ minh hoạ cho các cơ chế làm sói mòn các hệ thống tri thức bản địa:

- Tốc độ tăng nhanh dân số thường phụ thuộc vào quá trình nhập cư hoặc các chương trình tái định cư của chính phủ trong các dự án phát triển ở quy mô lớn, chẳng hạn như xây các đập thuỷ điện – trong trường hợp đó mức sống của người dân có thể bị tổn thương. Trong tình trạng nghèo đói thì người ta dễ lựa chọn các cơ hội đạt được trong ngắn hạn để đánh đổi những mất mát lâu dài về phương diện môi trường. Với tình trạng nghèo đói ngày càng tăng thì những người nông dân cũng không có nhiều thời gian và các nguồn lực để duy trì, gìn giữ, bảo tồn các hệ thống tri thức bản địa thông qua các thử nghiệm và các quá trình đổi mới.

- Việc gia tăng các hoạt động nông lâm định hướng thị trường tập trung vào một số loại độc canh (cao su, cà phê, keo lai, v.v…) luôn luôn đi kèm với những mất mát của các hệ thống tri thức bản địa thông qua những mất mát về tính đa dạng sinh học và đa dạng văn hoá. Chẳng hạn các chính sách khuyến khích trồng các giống mới gồm lúa nước hoặc lúa mì đơn tính sẽ làm mất giá trị đa dạng của các loài đã thích nghi lâu dài với điều kiện địa phương.

- Tình trạng dư thừa các loại thực phẩm thương mại làm cho tính đa dạng sinh học của nhiều loài truyền thống trở nên không còn thích hợp nữa, nhất là các giống loài có các đặc tính được bảo lưu qua một thời gian dài lựa chọn.

- Trong ngắn hạn thì các loại đầu vào hoá học như phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, thuốc xử lý giống dường như đã làm suy giảm nhu cầu đa dạng giống loài thích ứng với các điều kiện ngày càng khó khăn, góp phần lưu truyền tính đa dạng giống loài của địa phương. (Tuy nhiên sự thất bại của công nghệ cách mạng xanh cũng cho thấy rất rõ rằng quá trình đơn nhất hoá cũng chính là một chiến lược nghèo nàn về dài hạn).

- Với việc phá rừng, nhiều loài thảo dược đã ngày càng trở nên khan hiếm và có nguy cơ bị tuyệt diệt (và tri thức hoặc văn hoá bản địa gắn với các loài thảo dược này cũng sẽ biến mất theo).

- Ngày càng có nhiều tri thức bản địa bị mất do những kênh giai tiếp truyền khẩu bị mai một. Cả trẻ em lẫn người lớn đều không còn bỏ nhiều thời gian cho các sinh hoạt truyền khẩu của cộng đồng nữa. Ngày nay các thế hệ lớn tuổi rất khó trao truyền tri thức của họ cho các thế hệ trẻ.

- Vì tri thức bản địa được lưu lại qua truyền khẩu nên nó rất dễ bị tổn thương vì những biến đổi nhanh chóng của môi trường - nhất là khi người ta thay đổi chỗ ở hoặc khi thế hệ trẻ mong muốn có những lối sống và các giá trị khác với tổ tiên mình.

- Người nông dân theo truyền thống thường bảo lưu nhiều loại hoa màu bằng phương pháp tích trữ hạt giống, cây con giống trong chính các hộ gia đình hoặc thông qua phương thức trao đổi trong mạng lưới cộng đồng hoặc ngoài cộng đồng. Ngày nay một số mạng truyền thống này đã bị mai một hoặc không còn tác dụng nữa.

Trong quá khứ, những người bên ngoài cộng đồng, chẳng hạn như các nhà khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, nông học, các nhà sinh học, các cường quốc thực dân) thường bỏ qua hoặc phỉ báng tri thức bản địa, cho đó là các quan niệm nguyên thuỷ, sơ giản, bất động, không phải là tri thức, hoặc chỉ mang tính dân gian. Sự hờ hững mang tính ịch sử đó (bất kể đó là nguyên nhân kỳ thị chủng tộc, dân tộc trung tâm, hoặc chủ nghĩa hiện đại, với niềm tin tuyệt đối vào phương pháp khoa học) đều góp phần làm mai một vốn tri thức bản địa vì không sử dụng hoặc không ứng dụng các hệ thống tri thức này. Di sản kỳ thị này vẫn còn tồn tại đến tận ngày nay, bằng chứng là nhiều nhà chuyên môn vẫn hoài nghi về các giá trị đích thực của vốn tri thức bản địa. Ở một số quốc gia người ta còn chính thức mô tả các văn hoá và phương pháp của tri thức bản địa là lạc hậu hoặc lỗi thời, đồng thời với việc cổ vũ cho việc thiết lập một văn hoá và ngôn ngữ quốc gia duy nhất với cái giá hy sinh các văn hoá thiểu số. Thông thường trong các nhà trường người ta vẫn tỏ thái độ tiêu cực đối với các giá trị bản địa. Các nhận thức của người bản địa (ngay cả hiểu nhầm) về các loài và về các hệ thống truyền thống riêng của các nhóm bản địa cũng có thể cần phải được phục dựng. Một số người dân và các cộng đồng địa phương đã đánh mất niền tin vào khả năng tự cứu và ngày càng trở nên phụ thuộc vào các giải pháp bên ngoài để giải quyết các vấn đề của cộng đồng mình [Grenier 1997].

8. Sử dụng một số công cụ nghiên cứu ứng dụng tri thức bản địa

Dưới đây sẽ mô tả một số kỹ thuật nghiên cứu tri thức bản địa được sử dụng nhiều nhất [Mascarenhas et al. 1991, dẫn theo Wickham 1993]. Các kỹ thuật này có thể được thích ứng với các hoàn cảnh nghiên cứu đặc biệt. Tập hợp kỹ thuật mà người ta chọn sử dụng cho hoạt động nghiên cứu cần phải đáp ứng được hai câu hỏi chủ chốt: - Con người thế nào? Hệ sinh thái ra sao? từ viễn cảnh quá khứ, hiện tại tới tương lai. Sự kết hợp các kỹ thuật thành nhóm được sử dụng để vượt qua được những hạn chế của phương pháp PRA (Participatory Rural Appraisal – Đánh giá nông thôn có sự tham gia). Hiện trạng thực địa sẽ giúp tạo hình và kiểm nghiệm các phương pháp và các công cụ nghiên cứu. Danh mục các kỹ thuật nghiên cứu còn rất phong phú và khi nhiều bộ môn khoa học tham gia thì sẽ góp phần phát triển thêm các kỹ thuật nghiên cứu mới. IIED [1994], IIRR [1996], Narayan [1996] đã mô tả tương đối kỹ từng kỹ thuật một. Dưới đây là một số kỹ thuật PRA thường được sử dụng: 

8.1. Kỹ thuật xây dựng sơ đồ tham gia

Kỹ thuật xây dựng sơ đồ tham gia được sử dụng trong hoạt động PRA không chỉ cung cấp cho các nhà nghiên cứu thông tin về các đặc trưng vật chất của cộng đồng mà còn giúp khám phá ra nhiều điều kiện kinh tế xã hội và cách thức hiểu biết về cộng đồng của chính những người tham gia. Các sơ đồ thường được một nhóm dân làng tham gia cùng vẽ bằng phấn lên bảng hoặc bằng bút nét đậm lên giấy khổ rộng. Các sơ đồ thể hiện nhiều chủ đề khác nhau dưới đây: i) Sơ đồ lịch sử: thể hiện những thay đổi xảy ra trong cộng đồng và có thể được sử dụng để giúp thúc đẩy việc thảo luận về các nguyên nhân và tác động của việc suy thoái môi trường địa phương; ii) Sơ đồ xã hội: minh hoạ các hộ cá thể làm thành các biểu tượng khác nhau của cộng đồng có thể được sử dụng để thể hiện các đặc trưng cấp hộ cụ thể về mức độ thịnh vượng, các cấp độ sử dụng các nguồn, số trẻ em ở độ tuổi đến trường đang đi học hoặc bỏ học, các thành viên của các nhóm cộng đồng khác nhau, v.v..; và iii) Sơ đồ cá nhân: do các cá nhân tự vẽ nhằm thể hiện các quan điểm về các bộ phận khác nhau của cộng đồng, chẳng hạn như nam khác với nữ, giàu khác với nghèo, trong khuôn khổ ranh giới cộng đồng, các vị trí quan trọng nhất đối với họ, hoặc quan điểm của họ về cách thức cải thiện đời sống cộng đồng.

Một số lưu ý khi vẽ sơ đồ tham gia: i) cùng người dân địa phương quyết định nên vẽ loại sơ đồ nào (lịch sử, xã hội, các nguồn tài nguyên thiên nhiên, v.v…); ii) vẽ cùng với những người am hiểu về địa phương, am hiểu về các chủ đề cần vẽ, và vẽ với những người sẵn sàng chia sẻ hiểu biết với bạn; iii) để cho những người tham gia tự lựa chọn các vị trí và đồ vật thích hợp (bảng, nền đất, giấy khổ rộng, que nhọn, hòn sỏi, các hạt ngũ cốc, bút vẽ) để vẽ sơ đồ; iii) giúp mọi người bắt đầu bằng cách để cho họ tự vẽ; cần phải kiên nhẫn và không nên ngắt quãng người vẽ, vì đó chính là sơ đồ của họ; iv) nên ngồi đó và xem mọi người vẽ về cái gì trước tiên, vẽ cái gì to nhất, những bộ phận nào của sơ đồ có thể gây ra tranh luận giữa người vẽ với nhau, và người vẽ với người quan sát; v) khi mọi người đã vẽ xong, nên hỏi xem họ vẽ về cái gì, và ghi chú các vấn đề cần cho các cuộc phỏng vấn tiếp theo; vi) cần ghi chép các phát hiện, các quan sát được, không được quên ghi tên những người đã tham gia vẽ sơ đồ. [DRCC 2008]. 

8.2. Cách thức tái hiện lược sử thôn buôn

Mục đích chính của hoạt động này là để làm quen, giới thiệu qua về mục tiêu của PRA cũng như về dự án, cũng như người dân có cơ hội để giới thiệu về thôn buôn của mình. Việc thu thập các thông tin chính xác về lược sử bản chỉ đóng vai trò phụ. Lúc này chúng ta chưa phân nhóm làm việc, toàn bộ đội cán bộ PRA (khoảng 6 người) và nông dân (khoảng 15 người) cùng tham gia hoạt động này. Quy trình: i) các cán bộ PRA và toàn bộ nhóm nông dân có thể ngồi quanh bàn hoặc trên sàn nhà. Không phân biệt vị trí và chỗ ngồi của cán bộ, trưởng thôn buôn hoặc bất kỳ một cá nhân nào; ii) trưởng thôn buôn có thể giới thiệu ngắn về nhóm công tác; iii) lần lượt mỗi cá nhân trong đoàn PRA và dân bản tự giới thiệu về mình theo vòng tay trái hoặc phải, không nên ưu tiên cán bộ dự án tự giới thiệu trước rồi mới đến dân bản hoặc ngược lại để tạo ra không khí bình đẳng. Mọi người giới thiệu có thể tự ghi tên mình lên một tờ giấy khổ lớn treo trên tường; nhóm cán bộ giới thiệụ mục đích của hoạt động. Cần nhớ các nguyên tắc và kỹ năng của các phương pháp PRA như tạo không khí vui vẻ hoà đồng như một cuộc trò truyện giữa những người bạn, tạo tính sở hữu của người dân cho hoạt động này v.v..    

Thu thập thông tin về lịch sử thôn buôn: Nói với nhóm dân bản tự thảo luận và đưa ra các sự kiện chính trong lịch sử thôn bản, bao gồm các thông tin chủ yếu sau: Thôn buôn được thành lập khi nào, khi đó có bao nhiêu hộ? thành lập Hợp tác xã khi nào? Thôn buôn có bao giờ bị thiên tai nghiêm trọng như ngập lụt, hạn hán, sâu bệnh, ảnh hưởng của thiên tai đó đến sản xuất nông nghiệp và kinh tế của bản như thế nào? Thôn buôn phải di chuyển mấy lần, vào thời gian nào ..vv. Khi người dân trả lời, cần hỏi một nông dân nào đó xem trong thời gian đó gia đình họ như thế nào? Số hộ trong bản qua các thời kỳ/các thời điểm mà người dân nêu ra? Trường học có từ khi nào? Trạm xá có từ khi nào? Ảnh hưởng của nó lên các hộ nghèo như thế nào? Đối với mỗi sự kiện như vậy, có thể hỏi người dân xem họ đối phó như thế nào? Người nghèo vào các nhóm dễ bị tổn thương (ví dụ người không nơi nương tựa) phản ứng như thế nào? Tác động của nó đối với người dân, đặc biệt là người nghèo. Toàn bộ các thông tin do người dân cung cấp cần được ghi chép lại đầy đủ ngay tại hiện trường [DRCC, 2008]. 

8.3. Sử dụng công cụ sa bàn thôn buôn

Sa bàn là một công cụ rất hữu dụng trong phương pháp PRA, nó cho phép người dân thảo luận toàn cảnh trên địa bàn nghiên cứu và các hoạt động canh tác liên quan. Mục đích là thảo luận và thu thập thông tin về thành phần, hiện trạng, tiềm năng, khó khăn, nguyên nhân và giải pháp của các nguồn tài nguyên rừng, đất, nước và tác động của nó đến con người và các hoạt động sản xuất. Chọn một đám đất phẳng diện tích khoảng 3-4 m2, nếu trong nhà được thì càng tốt để tránh mưa nắng. Tiến hành đắp sa bàn, ghi lại các thông tin phù hợp mà người dân thảo luận trong khi đắp sa bàn. Trên sa bàn cần lưu ý thể hiện đầy đủ: Các loại rừng, đất trống đồi trọc, đất canh tác trên nương rẫy, các sông, suối (cả suối cạn và suối có nước). Sau khi đắp sa bàn xong, tiến hành thảo luận trên sa bàn. Thảo luận trên sa bàn sẽ do hai cán bộ PRA, nhóm lãnh đạo bản và ½ nhóm nữ, ½ nhóm hộ nghèo tiến hành. Khi thảo luận trên sa bàn cần hỏi người dân xem thôn buôn được hỏi tiếp giáp với những thôn buôn nào. Sau đó đi từng phần trên sa bàn, hỏi và khuyến khích người dân thảo luận xem: Có gì thiếu trên phần đó không (nhà cửa, rừng, suối, trường học, trạm xá...), nếu thiếu, nên làm bổ sung ngay thêm cho đủ? Hỏi các thông tin xem hiện có các tài nguyên lưu vực nào trên phần đó (rừng, đất, nước), trình trạng trước đây và hiện nay? Tiềm năng phát triển nâng cao thu nhập từ những tài nguyên này theo ý kiến dân bản? Hiện nay, liệu có thể có những khó khăn/vấn đề nào liên quan đến các tài nguyên này? Tác động của các khó khăn này lên các hoạt động sản xuất và đời sống của dân bản? Nguyên nhân của những khó khăn này? Đề xuất giải pháp? Sau khi kết thúc thảo luận, một nông dân sẽ vẽ lại sa bàn vào giấy khổ lớn. Đặc biệt lưu ý các phần đường đi, nơi có rừng, các loại đất. Cần hướng dẫn cho nông dân trước khi vẽ một số điểm như tên thôn buôn; ghi chú bằng các ký hiệu vào góc bản đồ (nhà, đường, suối, rừng...); ghi lại toàn bộ các thông tin của cuộc thảo luận.

 

8.4. Xây dựng được sơ đồ thể chế

Các sơ đồ thể chế còn được gọi là sơ đồ Venn hoặc biểu đồ Chapati là các biểu hiện thị giác của các nhóm và các tổ chức khác nhau trong một cộng đồng và các mối quan hệ và tầm quan trọng của họ trong việc ra các quyết định. Mục đích là tìm hiểu hoạt động của các cơ quan tổ chức và tác động của các cơ quan này đối với sản xuất và đời sống của người dân từ đó có thể hỗ trợ người dân tiếp cận với các dịch vụ của các cơ quan này tốt hơn. Cách tiếp cận: i) Hỏi người dân xem các tổ chức mà họ biết có liên quan đến bản (kể cả tổ chức bên ngoài và bên trong bản), ví dụ như Ngân hàng, Trạm khuyến nông huyện, Trạm thuỷ nông huyện, Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, các nhóm tự quản, nhóm phụ nữ, các câu lạc bộ...). Liệt kê các tổ chức này trên 1 giấy khổ lớn khác; ii) Đề nghị người dân cho biết tổ chức nào có ảnh hưởng quyết định nhất đến các hoạt động trong thôn bản; ghi tên tổ chức có ảnh hưởng quyết định nhất lên các tờ giấy màu (đã cắt theo hình tròn) lớn nhât; tổ chức nào có vai trò quyết định ít nhất thì ghi lên vòng tròn nhỏ; iii) Hỏi người dân xem tổ chức nào thường xuyên đến bản nhất; sau đó dán tên tổ chức đó lên gần vòng tròn có tên bản nhất; làm tương tự đối với tất cả các tổ chức còn lại. Khi sơ đồ đã được hoàn thành thì dùng nó để hỏi người tham gia về các vấn đề chẳng hạn như các thay đổi đã diễn ra như thế nào trong vòng 10 hoặc 20 năm trước; họ mong muốn có những cải thiện gì liên quan đến các thể chế và các cá nhân được thể hiện; và quy mô thành viên của các nhóm khác nhau. Ghi chép đầy đủ sơ đồ ấy cùng với tên của những người tham gia để giúp họ tiếp cận được với các nguồn như tín dụng chẳng hạn. [DRCC, 2008]

 

8.5. Sử dụng kỹ thuật xếp hạng vấn đề

Có thể sử dụng một số kỹ thuật khác nhau để khêu gợi nhận thức của người dân về những vấn đề quan trọng nhất mà họ gặp phải. Để thực hiện được mục đích đó, có thể sử dụng một phương pháp đơn giản là đề nghị những người tham gia liệt kê danh sách khoảng 6-7 vấn đề chủ yếu mà cộng đồng gặp phải, và sau đó đề nghị họ xếp hạng các vấn đề đó theo trật tự tầm quan trọng. Một kỹ thuật mang tính hệ thống được gọi là xếp hạng theo cặp sử dụng những tấm bìa để biểu hiện các vấn đề khác nhau. Người hướng dẫn đưa ra hai tấm bìa “vấn đề” một lúc và hỏi: “Vấn đề nào quan trọng hơn?”. Khi những người tham gia tiến hành so sánh thì cần phải ghi các kết quả vào một khung ma trận. Các kết quả cuối cùng được rút ra bằng cách đếm số lần mà mỗi vấn đề được đánh giá là quan trọng hơn các vấn đề khác và xếp chúng theo trật tự thích hợp.

Một số lưu ý khi vẽ sơ đồ thể chế: Chọn chủ đề để xếp hạng tuỳ thuộc vào chủ đề đánh giá PRA. Đề nghị những người tham gia (các cá nhân được phỏng vấn hoặc các thành viên tham gia thảo luận nhóm) lựa chọn khoảng 6-7 vấn đề quan trọng nhất có liên quan. Ghi từng vấn đề lên mỗi tấm bìa – nên sử dụng hình vẽ hoặc biểu tượng thay cho đoạn văn khi có thể. Đặt hai tấm bìa trước mặt người được phỏng vấn và yêu cầu người đó chọn vấn đề lớn hơn và đưa ra lý do cho sự lựa chọn đó. Đánh dấu câu trả lời vào ô thích hợp trong ma trận xếp hạng ưu tiên. Đưa ra từng cặp khác nhau và lặp lại việc so sánh. Lặp đi lặp lại cho đến khi đã kết hợp xong tất cả các cặp có thể (khi nào toàn bộ các ô đã được đánh dấu hết). Liệt kê các vấn đề theo trật tự mà người được phỏng vấn đã xếp hạng theo trật tự ưu tiên. Hỏi lại người được phỏng vấn xem có còn vấn đề quan trọng nào còn bị bỏ sót không. Nếu còn thì hãy đánh dấu vấn đề đó vào vị trí thích hợp trong bảng xếp hạng. Lặp lại cách đánh giá này cùng với các cá nhân khác và lập bảng kê các đánh giá của họ. Nếu thích hợp thì nên sử dụng phương pháp này để bắt đầu thảo luận về các giải pháp tiềm tàng đối với các vấn đề ưu tiên. [DRCC, 2008].

 

8.6. Sử dụng kỹ thuật xếp hạng ưu tiên

Tương tự với xếp hạng vấn đề, xếp hạng ưu tiên cuốn hút những người tham gia vào việc đánh giá các hạng mục hoặc các lựa chọn khác nhau bằng cách sử dụng các tiêu chí do chính người tham gia xác định. Chẳng hạn tiến hành PRA về các doanh nghiệp nhỏ có thể sử dụng phương pháp xếp hạng ưu tiên các hoạt động tạo thu nhập khác nhau trong một cộng đồng. Các ví dụ khác về các loại lựa chọn có thể được xếp hạng bao gồm các loại hoa màu, cây, cỏ, các nguồn tín dụng, các dịch vụ y tế khác nhau, v.v….Kỹ thuật này có thể được sử dụng một cách hiệu quả trong thảo luận nhóm vì nó có thể làm sáng tỏ các khác biệt thú vị giữa các thành viên trong nhóm. Những khác biệt này có thể được khai thác trong các cuộc thảo luận hoặc phỏng vấn tiếp theo với các cá nhân. Các khác biệt về giới cũng rất đáng được khai thác vì nam và nữ thường có những ưu tiên hoàn toàn khác nhau và các tiêu chí hoàn toàn khác nhau cho các ưu tiên đó.

Một số lưu ý khi sử dụng kỹ thuật xếp hạng ưu tiên: Chọn chủ đề xếp hạng tuỳ thuộc vào lĩnh vực xem xét, chẳng hạn các loại cây, các dịch vụ y tế, tín dụng, thu nhập, v.v…Yêu cầu người tham gia liệt kê khoảng 6-7 hạng mục lựa chọn thay thế thông thường nhất thuộc chủ đề này. Gợi ý các tiêu chí bằng cách hỏi về mỗi hạng mục: “Đối với hạng mục này thì cái gì là tốt?” “Còn gì thêm nữa?” (tiếp tục cho đến khi không còn câu trả lời nào nữa). Liệt kê toàn bộ các tiêu chí. Chuyển các thuộc tính tiêu cực thành các thuộc tính tích cực (chẳng hạn “dễ bị tổn thương vì sâu bọ” thành “kháng sâu bọ”. Giúp các bên tham gia xây dựng bảng ma trận với các tiêu chí được liệt kê ở dưới; hạn chế sử dụng văn bản, mà nên sử dụng các biểu tượng, hoặc các hình mẫu thật từ cuộc sống (chẳng hạn dung lá cây để so sánh). Đối với mỗi tiêu chí, đề nghị người tham gia chấm điểm từng hạng mục bằng cách sử dụng các hòn sỏi hoặc các hạt ngũ cốc vào các hạng mục tương ứng. Khi ma trận đã hoàn thành thì cần kiểm tra chéo các kết quả xếp hạng bằng cách hỏi “Nếu bạn chỉ được chọn một trong số này thì bạn chọn cái nào? Tại sao?” Các câu hỏi đó giúp làm sáng tỏ trọng lượng của tiêu chí đã đề xuất. Sử dụng các kết quả xếp hạng cho các cuộc thảo luận tiếp theo để khai thác các quan điểm khác nhau.  

 

8.7. Sử dụng kỹ thuật phân loại kinh tế hộ

 

Phân loại hộ gia đình cuốn hút các thành viên cộng đồng tham gia bằng cách xác định và phân tích các nhóm hộ khác nhau về kinh tế. Công cụ này giúp nhóm PRA hiểu rõ về thực trạng phân tầng kinh tế xã hội của người dân địa phương và các cách xác định cũng như các chỉ báo của họ liên quan đến các nhóm hộ gia đình khác nhau. Kỹ thuật phân loại hộ thu hút hàng loạt cá nhân thành nhóm thảo luận tập trung bằng cách phân loại toàn bộ cộng đồng hoặc một bộ phận đặc biệt nào đó của cộng đồng khi có quá nhiều hộ thì có thể phân loại khoảng 100 hộ. Các kết quả phân loại hộ có thể được sử dụng theo nhiều cách khác nhau. Những người hướng dẫn có thể sử dụng việc phân tầng làm cơ sở cho việc lấy mẫu hộ cho các cuộc phỏng vấn tiếp theo. Các kết quả cũng có thể được sử dụng để xác định nhóm đối tượng mục tiêu, chẳng hạn nhóm hộ cực nghèo. Ở bất cứ nơi nào có thể thì cũng nên kiểm tra chéo bằng cách đối sánh với các dữ liệu thứ cấp và bằng các cuộc phỏng vấn tiếp theo đối với những người cung cấp thông tin chủ chốt. Các kết quả phân loại hộ có thể được chuyển thành các điểm số cho từng hộ để giúp so sánh trực tiếp với cách phân loại của những người cung cấp thông tin chủ chốt, và để tính “điểm trung bình” cho toàn bộ kết quả phân loại. Mục tiêu là: i) để có một bức tranh chung về tình hình kinh tế của các hộ gia đình trong thôn bản, tạo điều kiện cho việc thực hiện các hoạt động hỗ trợ; ii) tìm ra được nguyên nhân dẫn đến một số hộ kinh tế đặc biệt khó khăn để có biện pháp giúp đỡ; và iii) tạo điều kiện cho thành lập các nhóm phát triển kinh tế trong tương lai . 

Một số lưu ý khi sử dụng kỹ thuật phân loại hộ: Cùng với những người tham gia lập bảng danh sách toàn bộ hộ gia đình cần phân loại. Viết tên từng hộ lên một tấm bìa riêng. Đề nghị người tham gia chia chia tập bìa thành vài cọc để biểu hiện các nhóm hộ theo mức giàu nghèo khác nhau. Để cho người tham gia tự quyết định xem cần chia thành bao nhiêu cọc bìa. Đối với những người không biết chữ thì phải giúp họ đọc tên hộ được ghi trong mối tấm bìa để họ phân loại. Khi những người tham gia phân chi các cọc bìa xong thì đề nghị họ quay trở lại kiểm tra các cọc bìa và tuỳ ý điều chỉnh các bìa đó. Khi những người tham gia đã bằng long với kết quả phân loại thì đề nghị họ xem xét các vấn đề về các yếu tố quyết định vị trí của một hộ trong bảng phân loại; điều gì khiến cho họ di chuyển một hộ từ nhóm này sang nhóm khác, v.v…Khi sử dụng kỹ thuật phân loại hộ làm cơ sở cho việc lấy mẫu PRA cần đề nghị người tham gia xác định hai hoặc ba hộ “điển hình” trong mỗi nhóm để các cán bộ PRA đến thăm vào giai đoạn sau. Ghi lại các kết quả phân loại theo đặc trưng của các hộ trong mỗi nhóm và nơi nào thích hợp thì ghi cả tên của các hộ đó nữa. Hỏi về các hộ kinh tế đặc biệt yếu trước, và đề nghị người dân cho biết tại sao lại cho đó là hộ kinh tế đặc biệt yếu để tìm ra tiêu chí phân loại kinh tế hộ trong bản. Hỏi tiếp đối với nhóm hộ kinh tế yếu, nhóm trung  bình, nhóm khá. Ghi lại vào bảng của mỗi nhóm hộ. Trong quá trình xác định tiêu chí nếu người dân thay đổi ý kiến về danh sách hộ thì có thể chuyển hộ giữa các nhóm. Bước tiếp theo là hỏi nguyên nhân dẫn đến tình trạng kinh tế của nhóm yếu nhất và nhóm khá nhất. Với nhóm khá hãy hỏi tại sao họ có kinh tế khá hơn các hộ khác: nguyên nhân có thể là có nhiều đất đai (hỏi tiếp tại sao lại có nhiều đất đai?), có nhiều lao động, có kinh nghiệm làm ăn (hỏi tiếp xem có kinh nghiệm gì?), có tài sản do cha mẹ để lại v.v.. Với nhóm kinh tế đặc biệt yếu hãy hỏi tại sao và ghi lại toàn bộ những gì thảo luận với người dân. Khi hỏi nguyên nhân dẫn đến tình trạng kinh tế hộ, hãy hỏi càng sâu càng tốt để tìm ra cội nguồn nguyên nhân dẫn đến tình trạng kinh tế đó. Ghi lại kết quả đã tham vấn.

 

8.8. Sử dụng kỹ thuật lịch mùa vụ

Các loại lịch mùa vụ do người dân địa phương xây dựng thường là những công cụ rất hữu dụng cung cấp các thông tin về các khuynh hướng mùa màng trong cộng đồng và xác định các giai đoạn đặc biệt căng thẳng và dễ bị tổn thương. Tất cả các biến số mùa vụ có thể được đưa vào trong một loại lịch mùa vụ để thể hiện một cái nhìn tổng quan về hiện trạng trong suốt một năm. Những biến số này có thể bao gồm lượng mưa, các thời vụ hoa màu, nhu cầu lao động, mức khả dụng của công việc có trả lương, di động lao động theo thời vụ, tỷ lệ mắc bệnh của người, các mức chi tiêu, v.v…Các giai đoạn quan trọng, chẳng hạn như mùa lễ hội cũng có thể được thể hiện trong lịch mùa vụ.

Một số lưu ý khi sử dụng kỹ thuật lịch mùa vụ: Đề nghị người tham gia đánh dấu năm bằng cách sử dụng lịch mùa vụ địa phương của họ, loại lịch này thường khác với dương lịch. Sử dụng bất cứ loại vật liệu nào có sẵn để thể hiện các xu hướng mùa vụ, chẳng hạn có thể sử dụng phấn màu để vẽ các biểu đồ; các đống hạt, viên sỏi, hạt đậu, thậm chí cả phân dê khô có kích cỡ khác nhau có thể được sử dụng để thể hiện những biến đổi mùa vụ; hoặc có thể sử dụng những đoạn cành cây nhỏ, bẻ gãy thành các đoạn dài ngắn khác nhau để mô tả tầm quan trọng tương ứng của các biến số mùa vụ. Kết hợp toàn bộ các mô thức mùa vụ vào một biểu đồ để mô tả các mối tương quan giữa các biến số và xác định bất cứ giai đoạn đặc biệt căng thẳng nào tương ứng với các mùa vụ xác định trong lịch địa phương.

Mục tiêu là: Thu thập các thông tin cần thiết liên quan đến thời tiết, khí hậu, bệnh tật và mùa vụ để phục vụ cho các hoạt động sản xuất trong bản. Tìm ra những khó khăn của dân bản liên quan đến sản xuất và đời sống. Tìm ra thời gian nông nhàn trong năm để bố trí các lớp tập huấn trong quá trình thực hiện dự án. Nhóm cán bộ giới thiệụ mục đích của hoạt động. Hãy nhớ các nguyên tắc và kỹ năng của các phương pháp có sự tham gia, như tạo không khí vui vẻ hoà đồng như một cuộc trò truyện giữa những người bạn, tạo tính sở hữu của người dân cho hoạt động này v.v.. Cán bộ PRA dùng phấn vẽ lên mặt sàn (hoặc dùng bút vẽ lên giấy khổ lớn) khung lịch mùa vụ. Tiến hành làm với biểu đồ thời tiết trước: hãy hỏi dân bản tháng nào lượng mưa nhiều nhất và coi đó là 100 %. Hỏi tiếp các tháng sau và vẽ thành biểu đồ. Kết quả của biểu đồ thời tiết có thể tham khảo bản ví dụ kèm theo. Quy trình hỏi về lịch cây trồng vật nuôi được thực hiện như sau: i) hỏi người dân về các loại cây trồng vật nuôi và ghi lại theo như thứ tự trên bảng (lâm nghiệp, cây ăn quả, cây nông nghiệp, chăn nuôi...). Cần ghi lại toàn bộ các hoạt động, chứ không phải riêng các hoạt động liên quan đến lĩnh vực đang hỏi; ii) hỏi và đánh dấu thời gian vào bảng mô tả các công đoạn liên quan đến loại cây trồng vật nuôi đó từ khi bắt đầu đến khi thu hoạch. Cần chú ý rằng các thông tin trên bảng không phải là duy nhất, với mỗi công đoạn cần hỏi thêm tất cả các thông tin liên quan.

 

8.9. Sử dụng phương pháp SARAR

SARAR là từ viết tắt của các từ tiếng Anh: Self-esteem (Tự trọng), Associative strength (Sức mạnh kết hợp), Resourcefulness (Tháo vát), Action planning (Kế hoạch hành động), và Responsibility (Trách nhiệm). SARAR được thừa nhận là một phương pháp đào tạo, tập huấn để làm việc với các bên tham gia ở các cấp độ khác nhau nhằm tăng cường năng lực sáng tạo tham gia vào lập kế hoạch và giải quyết vấn đề. Các cách tiếp cận tăng cường nguồn nhân lực về tâm lý và giáo dục được sử dụng trong: i) bối cảnh phát triển dựa trên cộng đồng nhằm tăng cường nhận thức về các vấn đề và tăng mức độ cam kết nhằm giải quyết các vấn đề đó; ii) bối cảnh tổ chức nhằm thúc đẩy các bên liên quan cùng tham gia phân tích vấn đề, giúp tái định hướng và tăng cường năng lực tiếp cận tham gia cho nhân viên trong các tương tác của họ với các bên liên quan khác. Phương pháp SARAR còn được sử dụng để giúp cộng đồng xây dựng các kế hoạch hành động của riêng họ với tư cách là một hợp phần của kế hoạch dự án, và giúp họ tổ chức thực hiện các kế hoạch đó một cách hiệu quả. Ngoài ra các kỹ thuật của SARAR còn có thể được sử dụng để đánh giá các hoạt động hiện tại ở cấp địa phương.

Các nguyên tắc chủ chốt của SARAR: Self-esteem - Tự trọng là tự coi mình như một cá nhân và một nguồn lực giá trị cho phát triển; Associative strength - Sức mạnh kết hợp là năng lực xác định và hành động hướng đến một tầm nhìn chung thông qua thái độ tôn trọng, tin tưởng lẫn nhau và nỗ lực hợp tác với nhau; Resourcefulness - Tháo vát là năng lực hình dung các giải pháp mới cho các vấn đề ngay cả khi bị chống đối mạnh mẽ, và mong muốn được trải nghiệm các thách thức và sẵn sàng chấp nhận rủi ro; Action planning - Kế hoạch hành động là việc kết hợp tư duy phê phán với tính sáng tạo để xây dựng được các kế hoạch mới, hiệu quả, dựa trên cơ sở thực tiễn trong đó mỗi người tham gia đều có một vai trò đầy đủ và hữu ích; Responsibility - Trách nhiệm là tuân thủ các cam kết và hoàn thành đầy đủ mọi trách nhiệm để đạt được các lợi ích mong muốn của dự án.

Các loại kỹ thuật chủ đạo của SARAR: Kỹ thuật khác nhau của SARAR có thể được chia thành năm loại chính: Kỹ thuật sáng tạo: nhằm thúc đẩy phát triển các quan điểm mới, các ý tưởng, các giải pháp mới, và xây dựng niềm tin cũng như năng lực tự thể hiện của mỗi người tham gia; Kỹ thuật điều tra: nhằm làm sáng tỏ việc tìm tòi, thu hút các bên liên quan tham gia vào hoạt động thu thập và xử lý dữ liệu và tăng cường năng lực kiểm soát thông tin của các bên liên quan địa phương; Kỹ thuật phân tích: nhằm đưa các bên liên quan tham gia vào việc đánh giá, xác định ưu tiên, và tìm kiếm các giải pháp cho các vấn đề được đặt ra; Kỹ thuật lập kế hoạch: nhằm phát triển các kỹ năng trong việc xây dựng kế hoạch hành động một cách hệ thống; trong việc giám sát đánh giá toàn diện, trong việc tăng cường năng lực sang tạo của nhóm; Kỹ thuật thông tin: nhằm thu thập thông tin bằng những cách thức thú vị, thoải mái và sử dụng các thông tin đó một cách hữu hiệu cho các quá trình ra quyết định.

Các công cụ SARAR thường sử dụng: i) Kỹ thuật giỏ phiếu hình (Pocket Chart) đó là các bảng, các biểu phiếu giỏ cho các cuộc thảo luận nhóm để thu thập và phân tích thông tin về hàng loạt chủ đề khác nhau. Trên một tấm pan nô lớn người ta gắn những chiếc giỏ được làm bằng vải, bằng giấy hoặc bìa cứng vào một khung (ma trận) theo các cột và các hàng. Người tham gia “bỏ phiếu” bằng cách đặt các tấm bìa biểu trưng vấn đề vào các giỏ khác nhau theo sự lựa chọn của họ, sau đó “kiểm phiếu”, lập bảng kê và phân tích kết quả. Bằng cách thay đổi các biểu trưng trên đầu khung ma trận, thì vẫn có thể dung các biểu phiếu đó để tham vấn về bất cứ vấn đề nào khác; ii) Kỹ thuật chia ba (Three Pile Sorting): được sử dụng để đánh giá hiểu biết và cách nhìn nhận của các bên liên quan về một vấn đề nào đó. Kỹ thuật này cần một tập mảnh bìa cứng có kích thước khoảng 13 x 18 cm thể hiện các hành vi hoặc các điều kiện của làng có thể được giải thích là tốt, xấu hoặc bình thường tuỳ vào các hoàn cảnh khác nhau. Ví dụ như vấn đề sức khoẻ cộng đồng những người tham gia đặt mỗi tấm bìa vào một trong ba cọc bìa: một cọc thể hiện điều kiện vệ sinh hoặc công tác chăm sóc sức khoẻ tốt; cọc thứ hai xấu; cọc thứ ba trung bình hoặc không rõ. Các hành vi thông thường được thể hiện trên các tấm bìa gồm có trẻ em đang chơi xung quanh một nguồn nước và quậy phá nguồn nước đó, các bàn tay đang giặt dính đầy bọt xà phòng, thức ăn thừa bỏ vương vãi, vòi nước để chảy tự do, tắm ngay dưới vòi nước, bơi trong ao nước bẩn, đốt rác, trồng cây, v.v…; iii) Kỹ thuật câu chuyện bỏ dở (Story with a Gap) được sử dụng để có được các giải pháp cho các vấn đề đã được phát hiện. Kỹ thuật này sử dụng một cặp hình vẽ minh hoạ một tình huống “trước” và một kịch bản “sau” đã được cải thiện. Chẳng hạn hình vẽ tình huống trước có thể mô tả một người mẹ đang ngăn đứa con nhỏ không cho nó vào nhà xí; còn kịch bản “sau” cũng vẫn bà mẹ đó lại đưa đứa trẻ đó vào nhà xí đã được dọn dẹp sạch sẽ. Sau đó những người tham gia sẽ thảo luận cả hai hình vẽ và hoàn thành câu chuyện còn bỏ dở bằng cách xác định các bước cần thiết để thể hiện tình huống đã được cải thiện. Có thể thu thập các phương án lý giải hoặc các gợi ý khác bằng cách chia những người tham gia thành một vài nhóm nhỏ thảo luận tập trung, chẳng hạn như các nhóm phụ nữ và nam giới, các nhóm thanh niên và người cao tuổi và đưa cho mỗi nhóm cùng tập hình vẽ đó. Sauk hi phân tích các hình vẽ các nhóm thảo luận tập trung có thể cùng xây dựng báo cáo về các cuộc thảo luận của họ và so sánh các quan điểm của họ với nhau.  

9. Lợi ích ứng dụng tri thức bản địa và các vấn đề liên quan  

Tri thức bản địa còn liên quan đến nhiều phương diện khác như: về việc bảo vệ rừng đầu nguồn, về kỹ thuật canh tác đất dốc, về việc bảo vệ các nguồn nước,  và các cách ứng dụng vào thực tiễn quy hoạch sử dụng, bảo tồn và phát triển nông thôn ngày nay. Tri thức bản địa về các lĩnh vực xã hội bao gồm việc xác định tri thức, kinh nghiệm bản địa về các mâu thuẫn, tranh chấp, xung đột liên quan đến đất đai; tri thức, kinh nghiệm bản địa về tình trạng nghèo đói và các vấn đề an ninh lương thực. Xác định tri thức, kinh nghiệm bản địa về các mâu thuẫn, tranh chấp, xung đột liên quan đến dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán. Xác định tri thức, kinh nghiệm bản địa về việc tổ chức hoà giải, lễ hội củng cố đoàn kết các dân tộc, các làng, các cộng đồng, các lễ thức cam kết bảo vệ rừng, nguồn nước, đất đai, các nguồn tài nguyên, không xâm phạm giữa các cá nhân, gia đình, cộng đồng, dân tộc, v.v…; Tiếp cận tham gia trong ứng dụng tri thức bản địa là cung cấp đầy đủ thông tin cho các bên liên quan. Các bên liên quan được tham vấn lựa chọn các phương án quy hoạch, được tham gia đóng góp ý kiến và ra quyết định; được tham gia thực hiện và giám sát đánh giá quy hoạch. Các bên liên quan hiểu rõ về hiện trạng sử dụng đất, các khuynh hướng diễn biến môi trường và các vấn đề tác động đến cộng đồng. 

Tiếp cận tham gia nâng cao nhận thức và tăng cường kiến thức về các vấn đề sử dụng đất, các vấn đề môi trường, và các biện pháp bảo vệ môi trường; nhằm đạt được các lựa chọn tốt nhất, cải thiện được chất lượng và lợi ích của bản quy hoạch; đạt được đồng  thuận cao và  tăng thêm tính  bền vững trong quy hoạch sử dụng đất. Việc xác định các bên liên quan bao gồm những người có thể tác động đến kết quả của bản quy hoạch sử dụng đất; người chịu tác động nhiều nhất hoặc chịu tác động tiêu cực bởi các thay đổi từ quy hoạch sử dụng đất; người được hưởng lợi từ những thay đổi của quy hoạch sử dụng đất; người có vẻ không thích các thay đổi được đề xuất; người bị giảm thu nhập và sinh kế gặp khó khăn khi thay đổi; người thuộc các nhóm đặc biệt dễ bị tổn thương và/hoặc các nhóm DTTS. Tất cả đều thuộc về lĩnh vực xác định các bên liên quan địa phương. Tất cả những người sống trong phạm vi tác động của quy hoạch; 

Tất cả những người sống trong phạm vi chịu tác động hoặc thay đổi của quy hoạch; Tất cả những người bị thu hồi đất; Tất cả những người bị giảm thu nhập do quy hoạch; Phân tích các nhóm liên quan theo: i) các đặc trưng (nghề nghiệp, thu nhập, giáo dục, tỷ lệ biết chữ, v.v…); ii) tri thức, niềm tin, thái độ liên quan đến quy hoạch và các thay đổi được đề xuất; iii) lợi ích và chi phí cho các bên liên quan; iv) hạ tầng thông tin và việc cung cấp thông tin cho các bên liên quan (các phương tiện, nguồn  lực, phương thức); v) khả năng tiếp cận thông tin, nguồn lực tài chính, tín dụng, thị trường. Tất cả những người phải  chịu tác động đến các giá trị và biểu tượng văn hoá, lịch sử và tôn giáo của họ. Tất cả những người phải  chịu thay đổi điều kiện sống (tiếng ồn, ô nhiễm đất, nước, không khí, ánh sáng, giao thông, v.v…). Có thể phân loại các bên liên quan thành các nhóm chính theo: Nghề nghiệp: i) làm nông; ii) thủ công; iii) buôn bán nhỏ; iv) cán bộ, viên chức; v) công nhân, v.v…; Khu vực: i) người sống cùng một vùng đồng bằng, thung lũng; ii) người sống dọc theo một con sông; iii) người sống trong cùng một làng, xã. Xã hội: i) hộ nghèo; ii) hộ trung bình; iii) hộ khá giả; iii) nhóm dân tộc thiểu số v.v…; 

Các bên liên quan cần làm là xác định các vấn đề chung, như: i) dân số và dân cư (Kinh, DTTS, người nhập cư); ii) Các sản phẩm và các khoản thu nhập (từ nông nghiệp, thủ công, làm thuê, lương, phụ cấp, kinh doanh, dịch vụ, v.v…). Xác định các vấn đề liên quan đến quy hoạch sử dụng đất (diện tích đất ở/hộ, các loại hoa màu, đất thổ cư, đất chăn thả, đất làm khu công nghiệp, đất công, đất ao hồ, đất khác, v.v…;.  Xác định các nguồn tài nguyên thiên nhiên: i) sử dụng hoặc phụ thuộc vào các nguồn sau: đầm hồ, rừng, đất trống chăn thả; các loại năng lượng, chất đốt dùng cho thắp sáng, đi lại, nấu nướng, sinh hoạt; ii) chất lượng và số lượng nước sạch đang sử dụng: có được cải thiện hay kém đi? Có bị thiếu hay đầy đủ? Tại sao?; iii) các vấn đề về nước thải, rác thải? xử lý thế nào? iv) có bị ảnh hưởng bởi các hoạt động công nghiệp, thủ công, kinh doanh, dịch vụ ở liền kề không? bị ảnh hưởng như thế nào (bụi bẩn, tiếng ồn, khói, mùi độc hại?). Xác định các vấn đề môi trường liên quan đến quy hoạch sử dụng đất? (gió bão, lụt lội, hạn hán, rét, nóng, sâu bệnh, lở đất, sa bồi, sói mòn, thoái hoá đất, sa mạc hoá, v.v…). Xác định các vấn đề xã hội và kinh tế: i) năng lực thị trường của người dân địa phương; hạ tầng cơ sở địa phương; ii) các tranh chấp, xung đột về sử dụng đất; iii) các mâu thuẫn, xung đột liên quan đến tôn giáo, dân tộc; iv) tình trạng nghèo khổ và an ninh lương thực; v) lao động, việc làm và thu nhập; vi) bất bình đẳng giới, bạo lực gia đình, và các tệ nạn xã hội; vii) chăm sóc y tế, giáo dục và các dịch vụ công; viii) khả năng tiếp cận tín dụng, cải thiện điều kiện sống; ix) phê bình, góp ý liên quan đến các vấn đề xã hội trong quy hoạch sử dụng đất? 

Sử dụng các công nghệ địa phương vào quy hoạch cảnh quan và sử dụng đất: Sử dụng các công nghệ địa phương vào quy hoạch cảnh quan và sử dụng đất như thế nào? (phương thức du canh; kỹ thuật bỏ hoá; đa dạng hoá cây trồng vật nuôi; kỹ năng thuỷ lợi bản địa truyền thống); công nghệ thu hoạch, bảo quản, chế biến nông sản; kỹ thuật canh tác trên đất dốc); Sử dụng các công nghệ thích ứng của địa phương như thế nào vào việc bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên (bảo vệ rừng đầu nguồn, bảo vệ đa dạng sinh học, bảo vệ, lưu giữ các nguồn gien quý hiếm). Sử dụng các tri thức xã hội địa phương vào quy hoạch cảnh quan và sử dụng đất như thế nào trong việc kiểm soát và giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp, xung đột về  sắc tộc, tôn giáo?; Sử dụng các tri thức xã hội địa phương vào quy hoạch cảnh quan và sử dụng đất như thế nào trong việc tổ chức hoà giải, lễ hội củng cố đoàn kết các dân tộc, các làng, các cộng đồng, các lễ thức cam kết bảo vệ rừng, nguồn nước, đất đai, các nguồn tài nguyên, không xâm phạm giữa các cá nhân, gia đình, cộng đồng, dân tộc.

__________________________________

Nguồn: Hà Hữu Nga (2009). Nghiên cứu Ứng dụng Tri thức Bản địa vào Phát triển Bền vững Quảng Ngãi, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học của Sở Khoa học và Công nghệ Quảng Ngãi Nghiên cứu một số giá trị tri thức bản địa, đề xuất các giải pháp bảo tồn và phát huy để góp phần phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ngãi, TP. Quảng Ngãi ngày 30 tháng 12 năm 2009.

Tài liệu tham khảo

Agrawal, A. 1993. Removing ropes, attaching strings: institutional arrangement to provide water. Indigenous Knowledge and Develoment Monitor.

Berkes, F. 1993. Traditional ecological knowledge in perspective. In Inglis, J., ed., Traditional Ecological Knowledge: Concepts and Cases. International Program on Traditional Ecological Knowledge; International Development Research Centre, Ottawa, ON, Canada.

Benthall, Jonathan 2002. The Best of Anthropology Today. London, New York: Routledge, 2002.

Brookfield, M. 1996. Indigenous Knowledge: a long history and an uncertain future: a sequel to   the debate. Indigenous Knowledge and Develoment Monitor.

de Vreede M. 1996. Identification of land degradation levels at the grassroots. In Hambly, H.; Onweng Angura, T., ed., Grassroots indicators for desertification: experience and perspective from eastern and southern Africa. International Development Research Centre, Ottawa, ON, Canada.   

Doubleday, N.C. 1993. Finding common ground: natural law and collective wisdom. In Inglis, J., ed., Traditional Ecological Knowledge: Concepts and Cases. International Program on Traditional Ecological Knowledge; International Development Research Centre, Ottawa, ON, Canada.

DRCC (Trung tâm Nghiên cứu và Tư vấn về Phát triển) 2008. Đánh giá xã hội dự án thuỷ điện Trung Sơn. Báo cáo cho Ngân hàng Thế giới, Hà Nội.

Emery A.R. 1997. Guidelines for environmental assessments and traditional knowledge. Canadian International Development Agency; Environment Canada; Alan R. Emery & Associates, Ottawa, ON, Canada. A report from the Centre for Traditional Knowledge to the World Council of Indigenous People. Prototype document.   

Gadgil M., Berkes, F., Folke C. 1993. Indigenous knowledge for biodiversity conservation,  Ambio, 22 (2-3), 151 – 156.

Grenier, Louise 1997. Working with Indigenous Knowledge – A Guide for Researchers. IDRC BOOKS. Ottawas – Cairo – Dakar – Johannesburg – Montevideo – Nairobi - New Delhi – Singapore.

Hempel Carl G. 1950. Problems and Changes in the Empiricist Criterion of Meaning. In Revue International de Philosophie 41 (1950), pages 41-63.

IIED (International Institute for Environment and Development) 1994. RRA notes. No.21: Special issue on participatory tools and methods in urban areas. Sustainable Agriculture Programme and Human Settlements Programme, IIED, London, UK.100p.

IIRR (International Institute of Rural Reconstruction) 1996. Recording and using indigenous knowledge: a manual, IRR, Cavite, Philippines, 211pp.  

Johannes R.E. 1993. Integrating traditional ecological knowledge and management with environment impact assessment. In Inglis, J., ed., Traditional Ecological Knowledge: Concepts and Cases. International Program on Traditional Ecological Knowledge; International Development Research Centre, Ottawa, ON, Canada.

Johnson M. 1992. Research on traditional environmental knowledge: its development and its role. In Johnson, M., ed., Lore: Capturing traditional environmental knowledge. Dene Cultural Institute; International Development Research Centre, Ottawa, ON, Canada. Pp.33-39.

Krugmann H. 1996. Toward improved indicators to measure desertification and monitor the implementation of the Desertification Conservation. In Hambly, H.; Onweng Angura, T., ed., Grassroots indicators for desertification: experience and perspective from eastern and southern Africa. International Development Research Centre, Ottawa, ON, Canada.  

Loevinsohn M. and L. Sperling 1995. Joining on-farm conservation to development. Using Diversity Workshop, New Delhi, India, 19-21 Jun 1995. Report.   

Matowanyika J.Z. 1991. Indigenous resource management and sustainability in rural Zimbabwe: an exploration of practices and concepts in commonlands. Development of Geography, University of Waterloo, Waterloo, ON, Canada. PH.D thesis.

Narayan D. 1996. Toward participatory research. World Bank, Washington, DC, USA. Technical Paper No.307., 265 pp.

Sallevave J. 1994. Giving traditional ecological knowledge its rightful place in environmental impact assessment. CARC – Northern Perspectives, 22 (1).

Shankar D. 1996. The epistemology of the indigenous medical knowledge systems of India. Indigenous Knowledge and Develoment Monitor.

Thrupp L.A. 1989. Legitimizing local knowledge: from displacement to empowerment for Third World people. Agriculture and Human Values, 6(3), 13-24.

Titilola T. 1995. IKS and sustainable agricultural development in Africa: essential linkages. Indigenous Knowledge and Develoment Monitor.

WCED (World Commission on Environment and Development) 1987. Our common future. Oxford University Press, New York, NY, USA., p. 43

Wickham T.W. 1993. Farmers ain’t no fools: exploring the role of participatory rural appraisal to access indigenous knowledge and enhance sustainable development research and planning. A case study of Dusun Pausan, Bali, Indonesia, Faculty of Environmental Studies, University of Waterloo, ON, Canada. Master’s thesis, 211 pp.