Powered By Blogger

Thứ Hai, 30 tháng 11, 2020

Bằng chứng và Viễn kiến Cấu trúc về Siêu hình học Hiện diện và Không hiện diện

Helena De Preester and Gertrudis van de Vijver

Người dịch: Hà Hữu Nga

Giới thiệu: Hiện diện, Vắng mặt và Chốn khác

Bài viết này thảo luận về các khái niệm bằng chứng và cấu trúc từ bên trong nhận thức luận được truyền cảm hứng về hiện tượng luận. Các khái niệm này được đặt định dựa trên hai nền tảng siêu hình, một siêu hình học hiện diện so với siêu hình học không hiện diện hoặc vắng mặt. Bài viết gồm ba phần, bắt đầu với phần giới thiệu về lý thuyết tri ​​thức của Husserl, trong đó bằng chứng đóng vai trò như một điểm lý tưởng tạo nên kho tri ​​thức và đóng vai trò như một chốn buông neo mang tính mục đích luận trong quá trình tri ​​thức. Theo tinh thần Derridean, quan điểm này được diễn giải dựa trên siêu hình học hiện diện, trong đó trò chơi cấu trúc được ổn định (một cách lý tưởng) bởi một điểm nguồn của bằng chứng.

Sau đó là việc xuất trình một phê phán Derridean về bằng chứng, bằng cách đối lập giữa siêu hình học hiện diện với siêu hình học không hiện diện hoặc vắng mặt. Theo Derrida, điều kiện khả tính của cấu trúc là vắng mặt. Trò chơi liên tục của các yếu tố bên trong một cấu trúc xuất hiện từ không hiện diện nguyên ủy, và vắng mặt này vượt khỏi việc vận hành cấu trúc cụ thể.

Cuối cùng, bài viết khảo sát xem liệu siêu hình học về vắng mặt có thể được diễn giải và hiện thực hóa một cách phù hợp từ bên trong tường trình của Merleau-Ponty, như được phát triển trong La structure du comportement - Cấu trúc Hành vi (1942) của ông hay không. Tường trình này liên quan đến các cấu trúc động, phân tầng, yêu cầu diễn giải chức năng xuất hiện từ bên ngoài bản thân cấu trúc. Phù hợp với Derrida, cần có một điểm vắng mặt để tạo ra vai trò của các yếu tố, và điểm vắng mặt này được thể hiện như một điểm rõ ràng nằm ngoài sự vận hành cấu trúc. Trong cách diễn giải được trình bày ở đây, sự vắng mặt được chỉ ra ở cấp độ tổ chức tức là cấp độ khác với cấp độ cấu trúc được đề cập. Từ chốn khác đó, một cấu trúc có thể được cấp cho ý nghĩa hoặc chức năng. Vì cấu trúc phải được bộc lộ với tư cách cấu trúc, nên cần phải có một chốn khác. Đây là cách thức mà vấn đề viễn kiến có thể được minh định về mặt nhận thức luận.

1. Bằng chứng làm Nền tảng cho Lý thuyết Tri thức của Husserl

1.1. Bằng chứng làm Cơ sở Biện minh

Trong hành trình tìm kiếm một nền tảng kiến ​​thức vững chắc, Husserl gặp phải vấn đề lý tính (Vernunft), tức là vấn đề tìm ra các điều kiện của các đối tượng thực sự tồn tại. Trong Trầm tư Descartes (1931), Husserl đề cập đến vấn đề này như một vấn đề Cartesian: “Làm thế nào mà bằng chứng (clara et distincta perceptio) lại có thể khẳng định hơn là một đặc tính của ý thức trong tôi? Bên cạnh sự loại trừ (có lẽ không phải không tối quan trọng) về việc chấp nhận thế giới là tồn tại, đó là vấn đề Descartes, được cho là đã được giải quyết bởi các veracitas chân lý thần thánh” (Husserl, 1960: 82–83).1

Khoảng cách giữa ý thức và chân lý đối với Descartes được lòng nhân từ của Đức Chúa Trời bắc cầu. Nhờ ơn Chúa mà một điều gì đó không thật sẽ không thể minh nhiên. Husserl, ngược lại, nhằm đạt được một lý thuyết bằng chứng về chân lý mà không viện đến Chúa như một sự đảm bảo cho chân lý. Quan niệm về bằng chứng sẽ vận hành như một công cụ loại bỏ sự hiện diện của Chúa; tự nó phải đảm bảo một cơ sở vững chắc cho tri ​​thức.

Husserl tin rằng nguồn gốc của vấn đề Descartes là hai phần. Trước hết, thực tế là Descartes đã không hiểu được ý nghĩa thực sự của quy giản siêu việt và quy giản thành bản ngã thuần túy. Thật vậy, bản ngã Descartes vẫn là một bản ngã trần tục, tức là một phần của thế giới, đối với Husserl, là một điều phi lý. Thứ hai, Husserl tin, ngược lại với Descartes, rằng cái cōgitātum (Latin, danh động từ cōgitō ‘tư duy’ - HHN), và không chỉ cōgitātō (cōgitātō ngôi thứ hai số ít trong mệnh lệnh thức chủ động tương lai của cōgitō; ngôi thứ ba số ít trong mệnh lệnh thức chủ động tương lai của cōgitō - HHN) là một phần của bằng chứng tuyệt đối. Điều này có nghĩa là khách thể không hoàn toàn bên ngoài chủ thể, và do đó, đối với Descartes, nó không đòi hỏi một nguồn thần thánh bảo đảm cho chân lý của nó.2

Ngay cả khi cách diễn đạt và các điểm trọng tâm khác nhau, Husserl vẫn sẽ bám vào trực giác này xuyên suốt từ Khảo sát Logic đến Ý tưởng.3 Bằng chứng là cơ sở biện minh cuối cùng trong lý thuyết kiến ​​thức của ông. Trong Khảo sát Logic, Husserl tuyên bố rằng nếu không có bằng chứng, thì chân lý vẫn nằm ngoài tầm với, ngay cả trong một tập hợp các phán đoán gắn kết nội tại. “Do đó, chúng tôi quan niệm ‘kiến ​​thức’ theo nghĩa rộng hơn, nhưng không hoàn toàn lỏng lẻo: chúng tôi tách nó ra khỏi ý kiến ​​ít cơ sở hơn, bằng cách chỉ vào một ‘dấu hiệu’ nào đó của tình trạng sự việc được giả định hoặc về tính đúng đắn của phán quyết mà chúng tôi đã thông qua. ‘Dấu hiệu’ hoàn hảo nhất của tính đúng đắn là bằng chứng bên trong, nó được coi là chỉ báo tức thời của bản thân chân lý” (Husserl, 2001, vol.1: 17).4

Trong khi đó, Husserl cũng thừa nhận rằng những điều hiển nhiên tức thời là tầm thường. Đây không phải là dự đoán từ phía ông về những gì hiển nhiên tức thời; kiến thức không đạt tới  được bất cứ thứ gì xa hơn bằng chứng đạt được. Tuy nhiên, bằng chứng chỉ dành cho một số trường hợp rất hạn chế, và do đó kiến ​​thức thông qua bằng chứng vẫn chưa phải là khoa học. Đối với khoa học, chúng ta cần một sự cố kết hệ thống, một tập văn bản có cấu trúc của các phán đoán, theo nghĩa lý thuyết. Do đó, dựa trên nền tảng của bằng chứng biện minh tối hậu, một lý thuyết tri ​​thức cũng phải nghiên cứu cách thức mà tính cố kết hệ thống là khả thể, và nó làm như vậy bằng cách khảo sát các mối quan hệ-tri thức giữa các bằng chứng đặt nền móng và các luận chứng (Begündung).

1.2. Bằng chứng là Khả tính Lý tưởng

Vì vậy, đối với Husserl, cái nhìn sâu sắc về chân lý phải đi kèm với bằng chứng. “Bằng chứng bên trong không là gì khác ngoài ‘kinh nghiệm’ của chân lý” (Husserl, 2001: 121).5 Tuy nhiên, khả tính của bằng chứng là lý tưởng. Trong trường hợp bằng chứng về mặt tâm lý là không thể, thì lý tưởng nhất vẫn là khả thể. Ví dụ, về mặt tâm lý bằng chứng là không thể nếu chúng ta gặp phải số lượng rất lớn; tuy nhiên, về mặt lý tưởng, nó vẫn là một trải nghiệm khả thể. Bằng chứng không chỉ - mà về bản chất của nó – mà còn tuân theo các quy luật lý tưởng. Mặc dù bằng chứng cũng tồn tại trong các điều kiện tâm lý, nhưng không có cách quy giản nó thành cảm giác bằng chứng. Điều này ngụ ý rằng tâm lý học khôngđủ tư cách để nói về một điều gì đó liên quan đến bản chất của bằng chứng. Tâm lý học chỉ có thể giải thích các điều kiện tự nhiên của nhận thức con người mà theo đó có sự xuất hiện hoặc không xuất hiện của kinh nghiệm bằng chứng. Tuy nhiên, không có gì để nói về bằng chứng như một khả tính lý tưởng, một khả tính cho ý thức thuần túy nói chung.

Trong Khảo sát Logic, Husserl coi kinh nghiệm về bằng chứng trong trường hợp phán đoán và trong trường hợp nhận thức là có cấu trúc tương tự. “Phán đoán hiển nhiên bên trong là (...) một kinh nghiệm về tính cho trước ban đầu: phán đoán không-hiển nhiên giữ vững vị trí võ đoán của một đối tượng trong trí tưởng tượng đến mức nhận thức được đầy đủ về nó. Một sự vật được nhận thức đầy đủ không phải là một sự vật chỉ đơn thuần có nghĩa theo cách này hay cách khác: mà nó là một sự vật chủ yếu được nắm bắt mà không có dư lượng ”(Husserl, 2001: 121).6

Vì vậy, bằng chứng không phải là một khái niệm tâm lý học, mà trước hết là một khái niệm nhận thức luận, và thậm chí là một khái niệm siêu hình. Nó là sự thỏa thuận giữa cái đơn thuần có nghĩa và cái có nghĩa trong sự hiện diện nguyên thủy của nó. Nói cách khác, nó là sự thống nhất giữa ý nghĩa (Sinn) của mệnh đề và ý nghĩa được đưa ra theo kiểu nguyên thủy (originär nguyên gốc). Nói một cách tổng quát hơn, trong tri thức dựa trên bằng chứng, bản thân đối tượng (có thể là hiện thực hoặc lý tưởng) hiện diện với chúng ta.

Ví dụ, trong nhận thức, giới hạn lý tưởng của sự thỏa thuận giữa ý định và trực giác là một trường hợp bằng chứng.7 Đối tượng hiện diện hoặc được đưa ra đúng như nó được dự định. Không có ý định bộ phận nào vẫn còn mà không có sự hoàn thành trực quan. Giới hạn lý tưởng là trường hợp tự ngã tuyệt đối của đối tượng hiện diện trong nhận thức, và điều này dành cho từng mặt và từng khía cạnh của đối tượng. Tuy nhiên, giới hạn này là lý tưởng và không bao giờ trải qua nhận thức thực sự bằng giác quan. Do đó, đối với mỗi đối tượng thực sự tồn tại tương ứng với Ý tưởng về một ý thức khả thể, trong đó đối tượng có thể nắm bắt được một cách nguyên bản và đầy đủ.

Cho dù Husserl giải quyết các phán đoán hay các nhận thức, thì đối với ông bằng chứng vẫn là nền tảng cuối cùng của tri thức, điểm lý tưởng đảm bảo giữ chặt các đối tượng thực sự tồn tại, nền tảng nhận thức luận đem lại kết thúc lý tưởng cho cấu trúc nhận thức và tri thức khoa học. Đó là giới hạn không-bao-giờ-đạt-tới của quá trình tri thức và vận hành như một cực thu hút mang tính mục đích luận của nó.

2. Cử chỉ Siêu hình về Bằng chứng: Phê phán Derridean

2.1. Hiện diện Ổn định của Trung tâm

Derrida (1967: 409ff)8 coi hiện tượng luận của Husserl, đặc biệt là trong Khảo sát Logic đầu tiên, là chỉ dấu của một cử chỉ siêu hình đặc trưng của truyền thống triết học và khoa học hay nhận thức phương Tây. Nó bao gồm việc vô hiệu hóa trò chơi cấu trúc của các yếu tố bằng cách cung cấp cho nó một trung tâm, một điểm hiện diện hoặc một nguồn cội cố định. Đối với cử chỉ siêu hình đó, Derrida muốn tạo ra sự khác biệt, hoặc ít nhất là muốn chỉ ra một “sự kiện” tiềm năng.

Đúng là trong tri thức phương Tây, khái niệm cấu trúc bao hàm cả sự vận hành hạn chế của các yếu tố và tác động qua lại năng động giữa các yếu tố trong chức năng của tổng thể cấu trúc. Các yếu tố vận hành khác nhau trong một cấu trúc. Chúng không vận hành một cách tự do hay ngẫu nhiên mà thay vào đó tuân theo các nguyên tắc liên quan đến tổ chức hoặc cấu trúc. Cũng đúng là việc giới thiệu một trung tâm hoặc một điểm cố định đã luôn kèm theo quan điểm kinh điển này một cách tự nhiên.9 Trung tâm là điểm cân bằng, định hướng và tổ chức một cấu trúc. Nó đưa cấu trúc vào trạng thái nghỉ ngơi bằng cách làm giảm hoặc trung hòa tính cấu trúc của cấu trúc. Điều này xảy ra bằng cách hạn chế cái mà Derrida gọi là trò chơi (jeu) của cấu trúc.

Tuy nhiên, bản thân trung tâm không trực tiếp tham gia trò chơi của cấu trúc: nếu tất cả các yếu tố trong một cấu trúc đều có thể thay thế được, thì trung tâm của cấu trúc lại không thể như vậy, điều này chỉ ra chính xác giới hạn của trò chơi thay thế. Trung tâm vừa đóng lại vừa mở ra hoặc tạo điều kiện cho trò chơi cấu trúc (Derrida, 1967: 409). Do đó, trung tâm của một cấu trúc có một vị thế đặc biệt. Nó vừa cài đặt vào cấu trúc mà nó điều khiển, vừa vô hiệu hóa tính cấu trúc của cấu trúc ấy. Theo nghĩa đó, nó là cả ở trong và ngoài cấu trúc. Derrida đề cập đến khái niệm cấu trúc tập trung như một trò chơi có cơ sở vững chắc, tức là một trò chơi được cấu thành bởi tính bất động làm nền móng và tính chắc chắn đáng yên lòng mà bản thân nó thì bị loại khỏi trò chơi (Derrida, 1967: 410).10 Trung tâm được đặt tên một cách hờ hững là bắt đầu và kết thúc, điểm hiện diện duy nhất có thể bộc lộ ý nghĩa lịch sử (cội nguồn và mục đích) của những lặp lại, thay thế và biến đổi của các yếu tố được neo chắc trong cấu trúc. Rõ ràng, một siêu hình học về sự hiện diện, ngụ ý một trung tâm giới hạn động thái không ngừng của các phần tử trong cấu trúc, đang vận hành trong lý thuyết tri thức của Husserl. Điểm hiện diện đặt định trong khái niệm bằng chứng của ông. Về điều này, Husserl công khai thừa nhận nguồn gốc và tham vọng Cartesian của mình. Ngay cả khi ông từ chối giải pháp Cartesian về phương diện là một Thượng đế bảo lãnh, ông vẫn tìm kiếm một điểm bảo đảm, cố định, một điểm đưa các quá trình tri ​​thức, phán đoán và nhận thức ngơi nghỉ, một điểm bên ngoài cấu trúc của tri thức cho phép và đảm bảo sự vận hành trung thành tối hậu của nó. Vị trí của sự hiện diện linh thánh bảo lãnh được thực hiện bởi giới hạn lý tưởng của bằng chứng. Cùng tuyến với Descartes, và với nhiều triết gia đã làm việc với cùng một lựa chọn siêu hình học, Husserl tìm kiếm tính chắc chắn, để làm chủ. Như Derrida đã nói một cách chính xác, cuối cùng nó liên quan đến việc làm chủ trạng thái xao xuyến, một trạng thái gắn liền với việc được ngụ ý và neo chắc trong trò chơi.

2.2. Siêu hình học về Vắng mặt

Đối lập với siêu hình học về hiện diện, Derrida tập trung vào các điều kiện khả tính của cấu trúc trong khuôn khổ vắng mặt. Cái khiến cho cấu trúc trở nên khả thể là cái thoát ra khỏi cấu trúc, cái không thể bị bắt giữ từ bên trong cấu trúc. Một cấu trúc không có trung tâm đặc quyền, không có chủ thể hoặc quy chiếu đặc quyền. “Do đó, người ta phải từ bỏ diễn ngôn khoa học hoặc triết học, nhận thức, vốn có như một yêu cầu tuyệt đối, đó là yêu cầu tuyệt đối để trở về cội nguồn, trung tâm, nền tảng, nguyên tắc, v.v.” (Derrida, 1967: 420, bản dịch của chúng tôi).11

Trò chơi của cấu trúc, với sự vận động vô tận của thay thế, lặp lại, biến đổi và hoán vị của các yếu tố, không còn nữa với tư cách chân trời của nó sự cạn kiệt khả thể và bất khả thể của một lĩnh vực. Ngược lại, nó chỉ ra sự vắng mặt của một trung tâm có thể dừng lại và tạo dựng trò chơi của những thay thế, và ngụ ý theo đúng nghĩa bản chất hoàn toàn khác của bản thân lĩnh vực đó. Về vấn đề này, Derrida tin rằng sự chuyển dịch siêu hình đã trở nên khả thể bởi sự phản ánh tiến bộ về quan niệm tính cấu trúc của cấu trúc, được khởi xướng vào cuối thế kỷ 19 và đạt đến đỉnh cao trong trào lưu cấu trúc luận.

Do đó, đúng là không gian siêu hình mở ra, liên quan đến cái mà Derrida gọi là một cuộc xâm nhập bằng ngôn ngữ của lĩnh vực tính phổ quát có vấn đề. Trong trường hợp vắng mặt trung tâm hiện diện, vắng mặt điểm cội nguồn hoặc mục đích, mọi thứ trở thành diễn ngôn, nghĩa là, một hệ thống trong đó cái được biểu đạt trung tâm (nguyên gốc hoặc siêu việt), không bao giờ hoàn toàn hiện diện bên ngoài một hệ thống của các khác biệt.

Điều hữu ích ở đây là lưu ý rằng sự vắng mặt của một trung tâm không có nghĩa là ở trung tâm của cấu trúc có một chỗ trống, hoặc trung tâm vẫn ở đó nhưng đã bị trống rỗng. Đúng hơn, cấu trúc chỉ khả thể từ một điểm trống, tức là từ một thứ gì đó thoát ra khỏi cấu trúc. Thật vậy, giải pháp mà Derrida đề xuất, không quá nhiều để ngăn chặn trò chơi vô tận của cấu trúc bằng cách bảo vệ nó thông qua một điểm hiện diện hoặc bằng cách đưa ra tính trống rỗng ở trung tâm của cấu trúc. Đó là xem xét bất kỳ câu trả lời nào cho việc vắng mặt điểm gốc cố định, không phải như một sự hoàn thành (một sự hiện diện), mà như một bổ sung trôi nổi, một bổ sung cục bộ và tạm thời, một cái gì đó xuất hiện trước hoặc thay cho, sự vắng mặt. “Không thể xác định trung tâm và làm cạn kiệt tổng thể hóa bởi vì dấu hiệu thay thế cho trung tâm, cung cấp cho nó, tiếp quản vị trí của nó trong sự vắng mặt của nó, dấu hiệu đó trên hết cũng như một bổ sung. Sự chuyển động của ý nghĩa bổ sung cho một cái gì đó, ngụ ý rằng luôn có nhiều hơn, nhưng sự bổ sung đó là trôi nổi bởi vì nó thay thế, nó cung cấp cho sự thiếu vắng bên cạnh cái được biểu đạt” (Derrida, 1967: 423, bản dịch của chúng tôi).12 Vì chuyển động cấu trúc luận, nên cái biểu đạt thường là những gì đã được coi là hoàn thành nhiệm vụ này. Bản thân nó là trống không, có thể diễn giải vô thời hạn, và vận hành như một bổ thể theo nghĩa có đó. Do đó, từ thời điểm cái bổ sung gia nhập nền cảnh, thì cái mà chúng tôi gọi ‘siêu hình học của sự vắng mặt’ của Derrida, phải được gọi một cách thích hợp hơn là ‘siêu hình học về sự trì hoãn’ hoặc ‘siêu hình học về sự hoãn lại’.13

Trong phần cuối cùng của bài viết, siêu hình học về sự vắng mặt này, liên quan đến ý tưởng về bổ thể, được cấp cho một loại “xác thịt” nào đó trên cơ sở quan điểm tổ chức, lấy cảm hứng từ Cấu trúc Hành vi của Merleau-Ponty (1942).

3. Merleau-Ponty: Cấu trúc và Ý nghĩa

Nếu chúng ta tiếp tục với ý tưởng của Derrida về một siêu hình học trì hoãn hay hoãn lại, thì vấn đề lớn là quan niệm về “vị trí khác” như một điều kiện chân thực của khả tính cấu trúc. Điều đó phải được thực hiện mà không viện vào một điểm hiện diện hoặc cố định, hoặc thậm chí không viện đến một vị trí trống không ở trung tâm của cấu trúc. “Vị trí khác” không chỉ ra sự vắng mặt cần được hoàn thành. Nó chỉ ra một vị trí mà từ đó cấu trúc với tư cách cấu trúc trở nên khả thể. Nói cách khác, nó là cái viễn kiến mà từ đó cấu trúc có thể được nhìn thấy. Điều đó sẽ được trình bày rõ ràng trong khuôn khổ “logic của sự dẻo dai" liên quan đến siêu hình học của sự chậm trễ. Vì vậy, một tài khoản hiện tượng học về các cấp độ tổ chức được trình bày dựa trên Merleau-Ponty (1942). Tài khoản đó đóng vai trò như một khuôn khổ để phác thảo ý tưởng về quan điểm, từ cả tài khoản tổ chức và “logic bổ thể”.

3.1. Tiếp cận Cấu trúc với Sinh thể

Trong tường trình cấu trúc của mình về sinh thể, Merleau-Ponty chỉ trích các quan điểm hoạt lực luận hoặc toàn luận, cũng như các quan điểm nguyên tử luận hoặc quy giản luận. Ông coi cả hai lựa chọn toàn luận và nguyên tử luận là hai mặt của cùng một đồng tiền. Thật vậy, theo quan điểm hoạt lực luận, thì nhất tính của sinh thể được thiết lập thông qua một nguyên tắc (entelechy - tính mục đích tự thân) thống nhất các cơ chế hoạt động riêng biệt. Nguyên tắc này không chỉ tạo ra hệ thống sống như một hệ thống có mục đích, được tổ chức có ý nghĩa. Từ cơ sở của nó còn có một hình ảnh cơ giới luận của một thực thể sống, tức là khối lượng vật chất partes extra partes - một bộ phận như một thứ bên ngoài đối với một bộ phận khác đòi hỏi một nguyên tắc thống nhất. Merleau-Ponty tin rằng toàn bộ sinh thể không chỉ là tổng cộng các bộ phận của nó. Nhưng ông cũng chống lại giải pháp hoạt lực luận, trong chừng mực nó gợi ra một nguyên tắc thống nhất bí ẩn. Chính xác thì giải pháp của ông là gì? Thứ nhất, ông thừa nhận rằng khi mô tả hành vi của các hệ thống sống, thì không thể thiết lập mối quan hệ giữa kích thích và phản ứng một cách tuyến tính. Không có mối quan hệ nhân quả tuyến tính nào giữa những gì nhạy cảm hay cách khác xuất hiện và các mô thức phản ứng mà sinh thể tạo ra. Thứ hai, để giải thích cho bất khả tính này, Merleau-Ponty đưa ra giả định về cấu trúc trong mối quan hệ với sinh thể.14 Chính vì bản chất cấu trúc của sinh thể mà kích thích và phản ứng không cặp đôi với nhau theo tuyến tính.

Thứ ba, giả định về cấu trúc đi đôi với cách giải thích chức năng. Vì bản thân tác nhân kích thích không quy định cách thức nó phải được tính đến, nên không thể tránh khỏi việc giải thích cái viễn kiến mà bên ngoài nó một kích thích có được ý nghĩa. Vấn đề viễn kiến là một vấn đề lớn liên quan đến các hệ thống sống, và có mối liên hệ chặt chẽ với vấn đề về tính chức năng.

Vấn đề này có hai khía cạnh. Một mặt, nó đề cập đến việc diễn giải một cách tích cực bản thân sinh vật có cấu trúc động. Mặt khác, nó đề cập đến một trường hợp diễn giải, một chủ thể nhận thức không thể không thừa nhận bản chất có mục đích, có ý nghĩa của các hệ thống sống.

Đối với Merleau-Ponty, không thể nghi ngờ rằng hành vi của sinh vật liên quan đến các mối quan hệ có ý nghĩa. Đối tượng của sinh học là không thể tưởng tượng được nếu không thừa nhận những nhất tính có ý nghĩa mà nó mở ra và đối tượng nhận thức gặp phải. Merleau-Ponty rất rõ ràng về một thực tế là điều này không dẫn đến một hình thức hoạt lực luận mới. “Không có câu hỏi - như chúng ta đã thường xuyên nói đến – về việc quay trở lại với bất kỳ hình thức nào của hoạt lực luận hay vật linh luận, mà chỉ đơn giản nhận ra rằng đối tượng sinh học không thể được nắm bắt nếu không có các nhất tính về ý nghĩa mà một ý thức tìm thấy và nhận ra mở ra trong đó” (Merleau-Ponty, 1998: 161).15

Tuy nhiên, điều gì sẽ đảm bảo sự thật rằng nó không phải là một giải pháp hoạt lực luận? Về vấn đề này, cần phải nói chính xác hơn các ý tưởng của Merleau-Ponty về cấu trúc và chức năng. Cuối cùng, chúng ta quay trở lại ý tưởng về viễn kiến.

Thứ nhất, chúng ta đã thấy rằng kích thích và phản ứng về bản chất, không liên quan tuyến tính với nhau vì việc diễn giải sống động, tích cực một cấu trúc có liên quan. Hàm ý của cấu trúc làm cho kích thích và phản ứng trở thành hai thời điểm của một quá trình tuần hoàn, theo đó hành vi của sinh thể không thể được nhận thức như một chức năng đơn giản của môi trường vật chất xung quanh. Sinh thể đóng góp vào cấu thành của “kích thích”; nó tạo ra hoặc thậm chí là viễn kiến mà kích thích có thể có tác động cụ thể và có thể thay thế cho mối quan hệ cụ thể với phản ứng. Do đó ý nghĩa nảy sinh từ sự trao đổi biện chứng lẫn nhau giữa sinh thể và môi trường. Nó không hiện diện một cách thụ động theo một trật tự bên ngoài và theo đúng nghĩa, được đồng hóa (xem hiện thực luận), cũng không phải là de novo bắt đầu được tạo dựng lại bởi óc sáng tạo (xem duy tâm luận). Vì vậy, quan hệ nhân quả vòng tròn vận hành trong sinh thể, nhưng cũng trong mối quan hệ giữa sinh thể và môi trường của nó.

Thứ hai, những hiện tượng cấu trúc đó liên quan đến kinh nghiệm của con người, là kinh nghiệm về vô số cấu trúc hoặc những tổng thể có ý nghĩa. Về vấn đề này, Merleau-Ponty khẳng định rằng cấu trúc của hành vi được trình bày rõ ràng trong khuôn khổ mối tương quan giữa nhận thức và hình thức. “Cấu trúc của hành vi như nó tự thể hiện trong trải nghiệm tri giác không phải là sự vật cũng không phải là ý thức; và chính điều này làm cho nó trở nên mờ đục đối với tâm trí. (….) hành vi không phải là một sự vật, nhưng cũng không phải là một ý tưởng. Nó không phải là vỏ bọc của một ý thức thuần túy và, với tư cách là nhân chứng của hành vi, tôi không phải là một ý thức thuần túy. Chính đây là điều mà chúng tôi muốn nói khi cho rằng hành vi là một hình thức” (Merleau-Ponty, 1998: 127).16 Trong những đoạn khác, Merleau-Ponty sử dụng thuật ngữ “ý nghĩa” và “ý thức”, thay vì “hình thức” và “nhận thức”. “Các hành vi quan trọng có một ý nghĩa; chúng không được định nghĩa, ngay cả trong khoa học, như là tổng cộng của các quá trình bên ngoài với nhau, mà là sự bộc lộ không gian và thời gian của một số nhất tính lý tưởng nhất định. (….) chỉ có thể nói rằng nó là một tổng thể có ý nghĩa đối với một ý thức biết nó, không phải là một sự vật nằm trong-chính-nó (en soi)” (Merleau-Ponty, 1998: 159).17 Sinh thể được nhận thức và biết đến như một nhất tính về ý nghĩa; nhất tính của nó không phải là vẻ ngoài, mà là một hiện tượng. Tuy nhiên, một hiện tượng chỉ được nhìn thấy từ một viễn kiến nhất định, trong trường hợp này là viễn kiến nhận thức của con người.

3.2. Chức năng và Viễn kiến bên trong Quan điểm Phân tầng

Ý tưởng của Merleau-Ponty về cấu trúc và viễn kiến phải được đặt định trong một quan điểm phân tầng. Cốt lõi của nó có thể được hệ thống hóa như sau. Trước hết, việc quan niệm hành vi của một sinh thể về mặt cấu trúc, bao hàm ý tưởng về phép biện chứng giữa một thứ gì đó vận hành ở một cấp độ tổ chức nhất định và một thứ gì đó nằm bên ngoài nó, ở một cấp độ tổ chức khác. Cụ thể hơn, nó luôn luôn là cấp độ tổ chức được đặt định trên cấp độ cấu trúc tập trung thực hiện việc diễn giải.

Hay nói cách khác, việc diễn giải luôn đòi hỏi một cấp độ mà từ đó một cái gì đó được coi là có ý nghĩa. Không thể thừa nhận ý nghĩa từ bên trong cấp độ trọng tâm, vì cấp độ trên được đòi hỏi để nhận ra việc diễn giải là có ý nghĩa. Theo cách này, Merleau-Ponty tuyên bố rằng giải phẫu học vay mượn từ sinh lý học, và sinh lý học vay mượn từ sinh học. Môn sinh lý học chỉ đơn thuần nói và giải thích từ cấp độ riêng của nó là không thể. Một sinh lý học vay mượn từ sinh học thay vào đó là một sinh lý học giải thích, am tường, có thể nhận ra ý nghĩa của các quá trình sinh lý. Do đó, quan điểm tổ chức phân tầng này thể hiện khá tự nhiên ý tưởng về một vị trí khác, tức là vị trí rõ ràng là bên ngoài cấp độ tổ chức mà từ đó việc giải thích được khởi xướng.

Thứ hai, cách giải thích phân tầng chắc chắn liên quan đến quan điểm chức năng luận. Một cái gì đó ở cấp độ sinh lý chỉ có thể có một chức năng nếu nó liên quan đến cấp độ sinh học nằm trên nó. Trong cùng một mạch, chức năng được ưu tiên hơn giải phẫu, còn tổ chức thì hơn việc xếp đặt cạnh nhau. Do đó, chính tác động diễn giải của cấp độ tổ chức rõ ràng nằm trên cấp độ cấu trúc làm cho chức năng có thể thấy được hoặc có thể hình dung được. Hơn nữa, quan điểm chức năng luận về sinh thể tương quan với các giá trị sinh học của sinh thể.

Thứ ba, Merleau-Ponty gợi ý một bức tranh thứ bậc trong đó ý thức của con người hoặc nhận thức của con người vận hành như một ví dụ diễn giải tối hậu, lớp tổ chức tối hậu mà từ đó ý nghĩa của các lớp khác có thể được bộc lộ.

Ba điểm đó cho thấy rằng các tường trình cấu trúc liên quan đến ý tưởng về sự phân tầng, bao hàm ý tưởng về phép biện chứng giữa một cái gì đó vận hành ở một cấp độ tổ chức nhất định và một cái gì đó nằm bên ngoài nó. Chính ở lớp tổ chức rõ ràng nằm bên ngoài so với cấp độ, mà cuối cùng viễn kiến nhận thức luận gia nhập bối cảnh. Viễn kiến đó về bản chất là mang tính diễn giải và có tính chức năng luận.

3.3. Viễn kiến Diễn giải: Hiện diện hay Bổ thể?

Như Merleau-Ponty gợi ý một bức tranh thứ bậc trong đó trường hợp diễn giải cuối cùng là ý thức hoặc nhận thức của con người, thì điều quan trọng là phải chính xác nhất có thể về vị trí của trường hợp đó. Liệu ý thức hoặc nhận thức có vận hành trong bối cảnh siêu hình của sự hiện diện, như trong lý thuyết bằng chứng của Husserl về tri thức không? Hay thay vào đó là một trường hợp cung cấp chính xác cho tình trạng thiếu hụt hoặc sự vắng mặt của cái được biểu đạt trung tâm?

Về vấn đề này, đối với Merleau-Ponty, cái đầu tiên cần nhấn mạnh là ý thức không phải là vấn đề trung tâm, mà là nhận thức. Nhận thức là yếu tố không thể quy giản được trong hiện tượng luận của Merleau-Ponty, và tương đương như vậy, cấu trúc cũng không thể quy giản được. Đầu tiên là lĩnh vực nhận thức cũng như những cái cho trước mang tính hiện tượng, và chúng không thể được giải thích trên cơ sở sinh lý học. “Sinh lý học sống của hệ thần kinh chỉ có thể được hiểu bằng cách bắt đầu từ những cái cho trước mang tính hiện tượng” (Merleau-Ponty, 1998: 88).18

Điều quan trọng thứ hai, và được kết nối chặt chẽ với điều đầu tiên, là vấn đề cơ bản của Merleau-Ponty không phải là ý nghĩa, mà là cấu trúc. Cấu trúc là một hình thức được tổ chức nên, và hình thức là một tổng thể có ý nghĩa. Cấu trúc là cách thức ngẫu nhiên mà vật chất tự thể hiện với chúng ta để có một ý nghĩa. Chính nhờ mối liên hệ đó với tồn tại (vật chất) mà Merleau-Ponty đã thoát khỏi duy tâm luận. Nghĩa hay ý nghĩa chỉ thuộc về trật tự của ý thức, trong khi cấu trúc không thể tách rời khỏi sự tích hợp vật chất của nó. Cấu trúc là cách thức mà vật chất có một ý nghĩa đối với chúng ta. Nó không thể tan biến thành ý tưởng về một tinh thần thuần túy. Do đó, cấu trúc là giới hạn của tư duy phê phán. Bởi vì nó không thể quy giản thành ý nghĩa, cái hiện thực gia nhập tư duy siêu việt. “Điều sâu xa trong khái niệm 'Gestalt' hình thức, mà từ đó chúng tôi bắt đầu, không phải là ý tưởng về ý nghĩa mà là ý tưởng về cấu trúc, sự kết hợp của một ý tưởng và một tồn tại không thể phân biệt được, sự sắp xếp ngẫu nhiên mà các chất liệu bắt đầu có ý nghĩa trong sự hiện diện của chúng ta, tính dễ hiểu ở trạng thái sơ sinh” (Merleau-Ponty, 1998: 206–207).19

Do đó Merleau-Ponty công nhận quyền của cả siêu việt luận và hiện thực luận. Một mặt, ông bác bỏ các khía cạnh duy tâm và duy lý trí của siêu việt luận. Hiện thực luận cho thấy rằng hiện thực không mở ra cho một ý thức cấu thành, mà trái ngược, còn chống lại nó. Mặt khác, Merleau-Ponty bác bỏ ý tưởng hiện thực luận cho rằng mọi thứ ở thế giới bên ngoài đều được tiền-cấu thành. Quan niệm cấu trúc thể hiện chính xác cái ngã tư đường giữa siêu việt luận và hiện thực luận: đó là cách thức mà vật chất có ý nghĩa đối với kẻ nhận thức.

Kết quả là, ý thức hay nhận thức không chỉ phải đối phó với ý nghĩa thuần túy (xem Husserl và vấn đề hoàn thiện trong trực giác), mà còn phải đối mặt với sự phản kháng của thế giới được nhận thức. Sự phản kháng như vậy làm xáo trộn sự hiện diện của một điểm bằng chứng. Thế giới không còn trong suốt đối với ý thức, mà như được nhận thức, là một vấn đề diễn giải liên tục từ một viễn kiến nhất định. Điều đó xảy ra theo cách thức của bổ thể liên tục vì sự vắng mặt của ý nghĩa thuần túy hay cái được biểu đạt trung tâm. Cấu trúc và nhận thức chỉ có thể được coi là dự phòng, hoặc bị trì hoãn và hoãn lại khi liên quan đến những gì đã được cung cấp.

3.4. Hệ quả cho các Điều kiện Khả tính Siêu việt

Merleau-Ponty, thông qua tường trình cấu trúc của mình, nhận ra một sự thay đổi căn bản về vị thế của tính siêu việt và do đó góp phần vào sự thay đổi “cử chỉ” siêu hình theo cách mà Derrida quan niệm về nó. Tuy nhiên, cái siêu nghiệm bắt nguồn từ cái thực nghiệm, nhưng không vỡ vụn thành một vấn đề thực nghiệm. Đối với Husserl, sự thay đổi vị thế của cái siêu việt này sẽ làm xuất hiện một phép nghịch hợp. Không chỉ vì lý thuyết bằng chứng về tri thức mà hiện tượng luận của ông ngụ ý về một siêu hình học hiện diện. Nó cũng dựa trên siêu hình học hiện diện ở mức độ mà nó liên quan đến một không gian trong đó các điều kiện của khả tính được phân biệt rõ ràng như những sản phẩm không thể chạm tới và không chạm tới được của một bản ngã có ý thức hoặc siêu việt cuối cùng hiện diện với chính nó (xem Derrida, 1967).

Merleau-Ponty nhằm mục đích tránh một thứ duy lý trí luận hoặc duy tâm luận không có cơ sở mà ông thấy được ngụ ý trong quan điểm đó về tính siêu việt. Trong đó, ông dựa nhiều hơn vào công trình di truyền-siêu việt của Husserl, nơi mà cơ thể và vấn đề liên chủ thể tính trở thành các nguồn thỏa thuận chính giữa cái siêu việt và cái thực nghiệm. Về vấn đề này, thuật ngữ “chủ nghĩa kinh nghiệm siêu việt” (N. Depraz, 2001) đã được giới thiệu, đề cập đến một hình thức siêu việt luận hủy hoại bất kỳ loại siêu việt luận thuần túy nào. Đối với Depraz, ý tưởng về một chủ nghĩa kinh nghiệm siêu việt thực sự mang tính Derridean, nó là nơi mà sự thuần khiết của phân tích siêu việt đối đầu với những bất tịnh (bắt nguồn từ thứ khác, thời gian, thế giới thực nghiệm) mà nhờ đó phân tích siêu việt được chăm bẵm một cách thích đáng. Theo nghĩa đó, nó là từ cuối cùng của hiện tượng luận Husserlian, và nó là điểm khởi đầu phân tích của Merleau-Ponty. Một quan điểm cấu trúc không còn có thể khẳng định tính thuần khiết của các điều kiện siêu việt như cách Husserl có. Từ thời điểm cấu trúc gia nhập vào bối cảnh, các điều kiện khả tính của viễn kiến pha trộn với cái thực nghiệm và với sự phản kháng của thế giới được nhận thức. Phản kháng đó đặc biệt rõ ràng trong trường hợp các sinh thể chống lại cách tiếp cận về nghĩa hoặc ý nghĩa thuần túy, và đòi hỏi một quan điểm có tính đến các giá trị nội tại của bản thân sinh thể. Viễn kiến chức năng luận không thể gắn bó các quyết định của sinh thể trên cơ sở bên ngoài hoàn toàn.

4. Kết luận

Sự khác biệt cốt lõi giữa hiện diện và bổ thể có thể được hình thành như sau. Trong trường hợp hiện diện, có một điểm neo ổn định tuyệt đối, cố định của cấu trúc, trong khi trong trường hợp bổ thể, một cái gì đó ở trên cùng như một phần tử nổi một phần và tạm thời ổn định động lực học. Do đó, việc đánh giá sự khác biệt giữa hai loại siêu hình học liên quan đến hai vấn đề.

Thứ nhất, sự phân biệt dựa trên sự khác biệt về tiềm năng ổn định. Chức năng ổn định của một bổ thể là tạm thời và cục bộ, trong khi chức năng ổn định của một điểm hiện diện là tuyệt đối và phổ biến. Do đó, vấn đề quan trọng nhất trở thành vấn đề tính ổn định và ổn định hóa. Khía cạnh của sự ổn định hóa nhiều hay ít khiến cho sự phân biệt giữa cả hai loại siêu hình học này là dần dần. Tuy nhiên, còn có một khía cạnh thứ hai.

Thứ hai, liệu điều đó có che đậy cái vắng mặt hay không, về cơ bản phụ thuộc vào việc liệu nó có được công nhận theo đúng nghĩa hay không, tức là liệu nó có được công nhận là kết quả từ một viễn kiến nào đó hay không. Do đó, vẫn còn tồn tại một sự khác biệt cơ bản, mang tính quyết định giữa cả hai loại siêu hình học ở chỗ siêu hình học hiện diện không đòi hỏi phải giải thích rõ ràng vấn đề viễn kiến, trong khi siêu hình về trì hoãn hay hoãn lại về thực chất lại đòi hỏi. Nói cách khác, siêu hình học không-hiện diện đánh thức vấn đề về viễn kiến. Do đó, nó bao gồm bản thân chủ thể nhận biết (ổn định-mất ổn định) vào quá trình động học. Mà quá trình động học lại có hậu quả về phương pháp luận cũng như đạo đức.

Siêu hình học hiện diện biệt lập ngay từ đầu khỏi tình trạng mất ổn định tiềm tàng liên quan đến bất kỳ quá trình tương tác nào, trong đó quá trình tri thức là một phần. Theo cách này, quan niệm về bằng chứng của Husserl rõ ràng nhằm mục đích loại trừ viễn kiến của người quan sát hoặc người biết ở trung tâm cấu trúc. Bằng chứng vận hành ở trung tâm của cấu trúc nhận thức và tri thức, vừa là nguồn gốc vừa là điểm hấp dẫn mục đích luận. Bằng chứng là chính bản thân sự vật bắt đầu được hiểu rõ.

Mặt khác, siêu hình học không-hiện diện lại mở ra vấn đề về viễn kiến diễn giải. Trong chừng mực một cấu trúc chỉ khả thể nếu có một điểm bên ngoài cấu trúc diễn giải cái cấu trúc đang được đề cập, thì một không gian chức năng luận được mở ra trong đó các điểm diễn giải cần phải được đặc biệt biện luận. Ở đây, sở thích, mục đích và các xao xuyến của chủ thể con người, cùng với sở thích, mục đích và các xao xuyến của những hiện hữu sống nói chung, được bộc lộ như những yếu tố có khả năng gây mất ổn định hoặc ổn định. Theo cách đó, phép siêu hình của sự trì hoãn hay hoãn lại tạo ra một không gian phong phú hơn trong đó các hiệu ứng ổn định và không ổn định của các hệ thống sống, ở các cấp độ tổ chức khác nhau, phải được tính đến.

_________________________________________

Nguồn: De Preester, Helena and Gertrudis van de Vijver (2005). Evidence and Structure Perspectives on the Metaphysics of Presence and Non-Presence, In T.Tymieniecka (ed.), Analecta Husserliana LXXXVIII, 277–292.© 2005 Springer. Printed in the Netherlands.

Tác giả

1. Helena De Preester học tại Đại học Ghent và Đại học Libre de Bruxelles trước khi hoàn thành luận án Tiến sĩ Triết học tại Đại học Ghent. Nghiên cứu trước đây của cô tập trung vào tính chủ định & hiện thân, siêu việt luận & tự nhiên luận từ quan điểm của hiện tượng luận và khoa học nhận thức. Hiện tại cô tập trung vào cách tiếp cận liên ngành về cơ thể chuyên sâu và nguồn gốc của quan điểm chủ quan, và các lý thuyết vận động của trí tưởng tượng. Cô hiện là nhà nghiên cứu sau tiến sĩ tại Khoa Mỹ thuật, Đại học College Ghent và là giáo sư nghiên cứu thỉnh giảng tại Khoa Triết học và Khoa học Đạo đức, Đại học Ghent.

2. Gertrudis Van de Vijver được đào tạo cả đại học và sau đại học tại Đại học Ghent, ngoại trừ một thời gian ngắn học tập tại Paris. Sau khi nhận bằng Tiến sĩ Triết học vào năm 1988, cô nghiên cứu sau tiến sĩ và giám đốc nghiên cứu tại Đại học Ghent cho đến khi trở thành giáo sư tại Đại học này vào năm 2000. Từ năm 2005 đến năm 2010, cô đã lãnh đạo một dự án nghiên cứu liên ngành có sự tham gia của các nhà triết học, nhà sinh học, kỹ sư sinh học và nhà khoa học truyền thông, và hiện đang điều hành cùng với Emiliano Acosta, nghiên cứu về tái tư duy Châu Âu, về triết học các vấn đề chính trị và pháp luật bao quanh Châu Âu và Liên minh Châu Âu. Nghiên cứu của cô chủ yếu liên quan đến các vấn đề tính phức tạp, tự tổ chức và mục đích luận trong khoa học đời sống, tâm lý học và nghiên cứu về nhận thức, nhờ đó cô đã phát triển một nhận thức luận siêu việt, tập trung vào ý tưởng về đồng-hình thành. Gần đây cô đã tham gia vào các cuộc tranh luận về các vấn đề pháp lý và chính trị liên quan đến chăm sóc sức khỏe tâm thần.

Ghi chú

1. “Wie kann die Evidenz (die clara et distincta perceptio) mehr beanspruchen, als ein Bewußtseinscharakter in mir zu sein? Es ist (unter Beiseitelegung der vielleicht nicht so gleichgultigen Ausschaltung der Seinsgeltung der Welt) das Cartesianische Problem, das durch die gottliche veracitas gelost werden sollte’’ (Husserl, 1931: 116).

2. “Or cette de´couverte a le sens d’un dépassement du cartésianisme, car Husserl a eu alors la révélation que le cogitatum, et non seulement la cogitatio, fait partie de la sphère de l’évidence absolue. Cela signifie que l’objet n’est pas totalement étranger au sujet, qu’il ne lui est pas absolument extérieur et qu’il ne requiert donc pas, comme c’est le cas chez Descartes, la garantie de la véracité divine” (F. Dastur, 1995: 42–43).

3. Independently from whether or not the transcendental reduction is explicitly operational.

4. The German original speaks in the first version of some ‘mark’ for the truth of the presumed state of affairs, and in the second version of the existence of the presumed state of affairs. “So fassen wir uberhaupt den Begriff des Wissens in einem weiteren, aber doch nicht ganz laxen Sinne; wir scheiden ihn ab von dem grundlosen Meinen und beziehen uns hierbei auf irgendwelche ‘Kennzeichen’ fur das Bestehen des angenommenen Sachverhalts, bzw. fur die Richtigkeit des gefallten Urteils. Das vollkommenste Kennzeichen der Richtigkeit ist die Evidenz, es gilt uns als unmittelbares Innewerden derWahrheit selbst” (Husserl, 1975: 29).

5. “Evidenz ist vielmehr nicht anderes als das ‘Erlebnis’ derWahrheit” (Husserl, 1975: 193).

6. “Das evidente Urteil (...) ist ein Bewußtsein originarer Gegebenheit. Zu ihm verhalt sich das nicht-evidente Urteil analog, wie sich die beliebige vorstellende Setzung eines Gegestandes zu seiner adaquaten Wahrnehmung verhalt. Das adaquat Wahrgenommene ist nicht bloß ein irgendwie Gemeintes, sondern, als was es gemeint ist, auch im Akte orginar gegeben, d.i. als selbst gegenwartig und restlos erfaßt” (Husserl, 1975: 193). The German quotes are again from Husserl’s revised edition.

7. We may also say that evidence is the experience of the agreement between intention and fulfilment, and thus the experience of truth. Husserl’s account involves an intimate connection

between truth and the experience of truth. The intimate connection between truth (as universal) and the experience of truth (as particular) is, however, problematic, as the instantiation of a universal is not necessarily also the experience of that instantiation. (Cf. G. Patzig, 1977)

8. Unless explicitly mentioned, all references to Derrida’s 1967 are to ‘La structure, le signe et le jeu dans le discours des sciences humaines’, pp. 409–428 in L’écriture et la différence. Derrida’s interpretation is neither a correct account nor a refutation of Husserl’s point of view, it is an inspiring reading of Husserl. The reason why we do not consider it to be a correct representation, has to do with the fact that Derrida pushes retention to the side of representation, in order to arrive at a purified source-point in the now-moment.

9. Recognizable, for instance, as eidos, arche, telos, energeia, ousia, aletheia, ...

10. “Le concept de structure centre´e est en effet le concept d’un jeu fondé, constitué depuis

une immobilité fondatrice et une certitude rassurante, elle-meme soustraite au jeu” (Derrida, 1967: 410).

11. “Il faut donc renoncer ici au discours scientifique ou philosophique, à l’épistéme qui a pour exigence absolue, qui est l’exigence absolue de remonter à la source, au centre, au fondement, au principe, etc.” (Derrida, 1967: 420).

12. “On ne peut déterminer le centre et épuiser la totalisation parce que le signe qui remplace le centre, qui le supplée, qui en tient lieu en son absence, ce signe s’ajoute, vient en sus, en supple’ment. Le mouvement de la signification ajoute quelque chose, ce qui fait qu’il y a toujours plus, mais cette addition est flottante parce qu’elle vient vicarier, suppléer un manque du côté du signifié” (Derrida, 1967: 423).

13. We are grateful to E. Evink for this suggestion. Cf. his Transcendentie en inscriptie – Jacques Derrida en de hubris van de metafysica (2002).

14. This is in fact the move Kant had already made in his third Critique, and indeed, it could be argued that T he Structure of Behavior is in many ways comparable to the second part of Kant’s third Critique. For a more detailed description of Kant’s solution, cf. G. Van de Vijver, 2004, G. Van de Vijver et al., 2003, G. Van de Vijver, 1999.

15. “Il n’est pas question, nous l’avons assez dit, de revenir à une forme quelconque de vitalisme ou d’animisme, mais simplement de reconnaıtre que l’objet de la biologie est impensable sans les unités de signification qu’une conscience y trouve et voit s’y déployer” (Merleau-Ponty, 1942: 174–175).

16. “La structure du comportement telle qu’elle s’offre a l’expérience perceptive, n’est ni chose ni conscience et c’est ce qui la rend opaque pour l’intelligence. (...) le comportement n’est pas une chose, mais il n’est pas davantage une ide´e, il n’est pas l’enveloppe d’une pure conscience et, comme te´moin d’un comportement, je ne suis pas une pure conscience. C’est justement ce que nous voulions dire en disant qu’il est une forme’’ (Merleau-Ponty, 1942: 138).

17. “Les actes vitaux ont un sens, ils ne se définissent pas, dans la science même, comme une somme de processus exterieurs les uns aux autres, mais comme le de´ploiement temporel et spatial de certaines unités idéales. (...) c’est dire seulement qu’il est un ensemble significatif pour une conscience qui le connait, non une chose qui repose en soi’’ (Merleau-Ponty, 1942: 172).

18. “On ne peut connaıtre la physiologie vivant du systeme nerveux qu’en partant des données phenomenales” (Merleau-Ponty, 1942: 97).

19. “Ce qu’il y a de profond dans la ‘Gestalt’ d’où nous sommes partis, ce n’est pas l’idée de signification, mais celle de structure, la jonction d’une ide´e et d’une existence indiscernables, l’arrangement contingent par lequel les mate´riaux se mettent devant nous a` avoir un sens, l’intelligibilité à l’état naissant” (Merleau-Ponty, 1942: 223).

Tài liệu dẫn

Dastur, F. Husserl, Des mathématiques à l’histoire. Paris: Presses Universitaires de France, 1995.

Depraz, N. L ucidite’ du corps (Phaenomenologica 160). Dordrecht/Boston/London: Kluwer Academic Publishers, 2001.

Derrida, J. L a voix et le phe’nome`ne. Paris: Presses Universitaires de France, 1967.

——. “‘Genèse et Structure’ et la phénoménologie.” In L’écriture et la différence. Paris: Seuil, 1967.

——. “La structure, le signe et le jeu dans le discours des sciences humaines.” In L’écriture et la différence. Paris: Seuil, 1967.

Evink E. Transcendentie en inscriptie – Jacques Derrida en de hubris van de metafysica. Delft: Eburon, 2000.

Husserl, E. Cartesianische Meditationen und Pariser Vortrage. The Hague: Martinus Nijhoff, 1973 (1931).

——. Cartesian Meditations – An Introduction to Phenomenology, D. Cairns (trans.). The Hague: Martinus Nijhoff, 1960.

——. Ideen zu einer reinen Phaenomenologie und phaenomenologischen Philosophie, Erstes Buch, Allgemeine Einfurung in die reine Phanomenologie. The Hague: Martinus Nijhoff, 1950 (1913).

——. Ideen zu einer reinen Phaenomenologie und phaenomenologischen Philosophie, Zweites

Buch: Phaenomenologische Untersuchungen zur Konstitution. The Hague: Martinus Nijhoff, 1952.

——. Logische Untersuchungen, Erster Band Prolegomena zur reinen Logik, herausgegeben von Elisabeth Stroker, Text nach Husserliana XVIII. Hamburg: Felix Meiner Verlag, 1975 (1900).

——. Logische Untersuchungen, Zweiter Band: Untersuchungen zur Phaenomenologie und Theorie der Erkenntnis, I. Teil (Untersuchung I-V), herausgegeben von Elisabeth Stroker, Text nach Husserliana XIX/1. Hamburg: Felix Meiner Verlag, 1975 (1900).

——. Logische Untersuchungen, Zweiter Band: Untersuchungen zur Phaenomenologie und Theorie der Erkenntnis, II. Teil (Untersuchung VI), herausgegeben von Elisabeth Stroker, Text nach Husserliana XIX/2. Hamburg: Felix Meiner Verlag, 1984 (1901).

——. Logical Investigations, Vol. 1, J. N. Findlay (trans.). London and New York: Routledge, 2001.

——. Logical Investigations, Vol. 2, J. N. Findlay (trans.). London and New York: Routledge, 2001.

Merleau-Ponty, M. La Structure du Comportement. Paris: Presses Universitaires de France, 2002 (1942).

——. The Structure of Behavior, A. L. Fisher (trans.). Pittsburgh: Duquesne University Press, 1998.

Patzig, G. “Husserl on Truth and Evidence.” In Readings on Edmund Husserl’s Logical Investigations, J. N. Mohanty (ed.). The Hague: Nijhoff, 1977, pp. 179–196.

Van de Vijver, G. “Kant et les intuitions de l’auto-organisation.” In Auto-organisation et émergence dans les sciences de la vie, B. Feltz, M. Crommelinck and Ph. Goujon (eds.). Brussels: Ousia, 1999.

Van de Vijver, G., L. Van Speybroeck, and W. Vandevyvere. Reflecting on Complexity of Biological Systems. Kant and Beyond? Acta Biotheoretica, 51(2) (2003): 101–140.

Van de Vijver, G. Auto-organisation, autonomie, identité: figures kantiennes. Auto-organisation, Autonomie, Identité, Numéro spécial de Revue Internationale de Philosophie, 228(2) (2004): 95–117.

 

Thứ Sáu, 13 tháng 11, 2020

Heidegger muốn nói gì với Siêu việt của Dasein? (II)

Dermot Moran

Người dịch: Hà Hữu Nga

Quan niệm của Husserl về Siêu việt Nội tại

Trong các tác phẩm cuối những năm 1920 của mình, Heidegger không cố gắng trình bày siêu việt bằng khuôn khổ suy đoán mà sau này thấy có. Đúng hơn, trọng tâm chính của ông là chỉ trích Husserl. Sau khi phát hiện ra epochē sự treo lại và phép quy giản vào năm 1905, Husserl luôn mô tả hiện tượng luận của mình bằng khuôn khổ siêu việt. Chẳng hạn, trong Ý tưởng I, ông khẳng định rằng hiện tượng luận chỉ có thể là triết học siêu việt và việc hiểu biết đúng đắn về epochē sự treo lại và phép quy giản là cần thiết để hiểu được việc chuyển sang cái siêu việt được bất kỳ “triết học đầu tiên” chân chính, tối hậu có cơ sở vững chắc nào đỏi hỏi.31 Khủng hoảng của Khoa học Châu ÂuHiện tượng luận Siêu việt thậm chí còn trình bày hiện tượng luận là “hình thức cuối cùng [Endform]” của triết học siêu việt.32 Khi mô tả lĩnh vực hiện tượng luận, Husserl cũng rất thường xuyên nói đến “siêu việt” và “nội tại”, và quả thực, ông thậm chí dường như có (chẳng khác nào một khẩu hiệu) ý tưởng rằng hiện tượng luận liên quan đến siêu việt trong nội tại. Quan niệm về “siêu việt trong nội tại” hay “siêu việt nội tại” khiến nó có thể xuất hiện lần đầu tiên trong các bài giảng về Ý tưởng hiện tượng luận năm 1907,33 của ông nhưng nó tiếp tục đóng vai trò trung tâm từ Ý tưởng I 34 đến Trầm tư Descartes35 và sau đó dường như biến mất trong các thảo luận sau này về “thế giới-sống” trong Khủng hoảng của Khoa học Châu ÂuHiện tượng luận Siêu việt. Trong Trầm tư Descartes Thứ nhất, Husserl nói về “siêu việt nội tại”.36

Ban đầu, như trong các bài giảng năm 1906/1907 của ông về logic và nhận thức luận, Husserl diễn giải vấn đề siêu việt trong khuôn khổ nhận thức luận. Ông nói về “con nhân sư tri ​​thức [Die Sphinx der Erkenntnis]”37 - khi chúng ta suy ngẫm về tri ​​thức, nó sẽ trở thành một thứ gì đó bí ẩn. Ông tiếp tục nói về “cái siêu việt của tri thức là điều khiến tôi bối rối”.38 Về vấn đề này, ông đặt câu hỏi: “nội tại là gì và “siêu việt” là gì?39 Ông hỏi: “Làm thế nào tri thức có thể, thông qua hành động cụ thể, một chuỗi hành động cụ thể, “vươn xa hơn” và nắm bắt, định vị, biết điều gì đó có giá trị độc lập với hành động cá nhân”.40 Không còn nghi ngờ gì nữa, mà chính Husserl đang nghĩ về Kant và vấn đề “trình hiện” (Vorstellung). Tâm trí vượt khỏi “nội tại” của chính nó - mối quan hệ nội tại của nó với các trạng thái tinh thần của chính nó và nội dung (trình hiện) của chúng - để đạt đến sự vật hoặc đối tượng được định nghĩa là nằm ngoài hoặc siêu việt đối với trạng thái tinh thần và nội dung của nó như thế nào? Trên thực tế, trong các bài giảng Ding und RaumSự vật và Không gian năm 1907 của mình,41 Husserl viện dẫn lá thư của Kant gửi cho Marcus Herz.42 Ông tin rằng câu hỏi này chỉ có thể được hiểu nếu phép quy giản hiện tượng luận được đưa vào vận hành.43 Phép quy giản này bỏ vào trong ngoặc cái bản chất và toàn bộ hiểu biết tự nhiên chủ nghĩa về quan hệ tâm-vật. Chúng ta phải khám phá bản chất của tri thức tự thân - không cần tham chiếu đến bản chất, giống như cách chúng ta có thể khám phá bản chất của tri giác bằng trí tưởng tượng. Vấn đề là “việc nắm giữa lập trường” mang tính tự nhiên và mang tính triết học đã trở nên lẫn lộn với nhau.44

Hơn hai mươi năm sau, trong Phần 41 của Trầm tư Descartes, Husserl nói về vấn đề được thể hiện trong bức thư năm 1772 của Kant gửi Marcus Herz là một vấn đề sai lầm đối với hiện tượng luận. Ông lưu ý: “Quá trình tự-khảo sát siêu việt của hiện tượng luận phải nói gì về điều này? Chẳng có có gì khác hơn là toàn bộ vấn đề là không nhất quán. Nó liên quan đến tính mâu thuẫn mà Descartes nhất thiết rơi vào, bởi vì ông đã mất ý nghĩa chân thực phép quy giản của ông thành cái không còn gì phải nghi ngờ mà chúng ta sắp nói: epoché treo lại mang tính siêu việt của ông và phép quy giản thành bản ngã thuần túy. Nhưng, chính vì hoàn toàn không quan tâm đến epoché treo lại của Descartes, mà lối tư duy hậu-Descartes thông thường này trở nên thô thiển hơn nhiều. Chúng ta phải hỏi: Vậy thì kẻ nào là Bản ngã để có thể đưa ra những câu hỏi “siêu việt” như vậy một cách chính xác? Là một con người tự nhiên, tôi có thể hỏi - một cách nghiêm túc và siêu việt - làm thế nào tôi thoát khỏi hòn đảo ý thức của mình và làm thế nào những gì tự thể hiện trong ý thức của tôi như một quá trình-bằng chứng chủ quan có thể có được ý nghĩa Khách quan? Khi tôi tự thống giác (Apperzeption) bản thân như một con người tự nhiên, tôi đã thống giác thế giới không gian và tự hiểu mình đang ở trong không gian, nơi tôi đã có một Tôi Bên ngoài.45

Đối với Husserl, cuộc sống tự nhiên thậm chí không thể đặt ra vấn đề siêu việt; chúng ta luôn ở ngoài kia trong thế giới. Chỉ có một cách tiếp cận nhận thức luận đặc biệt (và về cơ bản là hiện đại) mới có thể nêu ra câu hỏi này, và nó bỏ sót toàn bộ vấn đề.

Trong Ý tưởng I, Husserl bao gồm một số phần trong đó ông giải thích cách thức mà hiện tượng luận tiến hành trong nội tại và cái điều mà các hình thức siêu việt hoặc thực thể siêu việt khác nhau (‘các siêu việt tính [Tranzendenzen]’) phải bị loại trừ. Chúng bao gồm Thượng đế, bản ngã và đối tượng được hiểu là một phần hiện thực của trải nghiệm. Theo nghĩa này, cái là siêu việt chính là sự vật vật chất không phải là một phần hiện thực của bất kỳ Erlebnis kinh nghiệm nào. Ví dụ, ông lưu ý rằng “sự vật vật chất tự thân được cho là không đủ phẩm chất siêu việt”.46 Ông còn giải thích chi tiết: “Các xem xét của chúng tôi đã xác định rằng vật thể là siêu việt đối với nhận thức về nó và do đó đối với bất kỳ ý thức nào liên quan đến nó; nó là siêu việt không chỉ theo nghĩa là vật thể không thể được tìm thấy trên thực tế như một cấu phần thực sự cố hữu của ý thức; thay vào đó, toàn bộ tình huống là một đối tượng của cái nhìn có tính hình thức sâu sắc: “Với tính phổ quát và tính cần thiết tuyệt đối vô điều kiện, đó chính là một vật thể không thể được đưa ra bằng bất kỳ tri giác khả thể nào, bằng bất kỳ ý thức khả thể nào, như một thứ thực sự cố hữu nội tại.” 47

Theo Husserl, về cơ bản, vật thể về bản chất lờ mờ bằng các hình bóng của mọi hình thức nhận thức, và cái chân lý hình thức này thậm chí đúng cả với Chúa Trời. Mặt khác, Erlebnis kinh nghiệm luôn được đưa ra như nó vốn có, và đây là điều cho phép phản ánh hiện tượng luận nắm giữ một cái gì đó tuyệt đối và được ban cho một lần và mãi mãi. Theo Husserl, trong việc áp dụng phép quy giản, các loại “siêu việt tính” khác nhau phải được loại trừ bao gồm cả Chúa Trời và bản ngã: “Chúa Trời siêu việt tính bị loại trừ [Die Transzendenz Gottes ausgeschaltet]’48; và bản ngã được coi là “siêu việt tính trong nội tại” [eine Transzendenz in der Immanenz]49, vì nó dường như hiện diện trong mọi trải nghiệm nhưng cũng vượt ra ngoài trải nghiệm cụ thể đó khi nó hiện diện trong toàn bộ dòng kinh nghiệm. Ngay cả sau khi loại trừ các yếu tố này, thì Husserl vẫn tiếp tục loại trừ các bản chất khỏi trải nghiệm: “Đã loại trừ các thực tại riêng lẻ theo mọi nghĩa của từ này, giờ đây chúng tôi cố gắng loại trừ tất cả các loại khác của “siêu việt tính” [Transzendenzen]. Nỗ lực này liên quan đến tập hợp các “đối tượng phổ quát”, tập hợp các bản chất. Chúng cũng là “siêu việt” đối với ý thức thuần túy theo một cách nào đó; chúng không được thấy như thực sự vốn có bên trong nó. Tuy nhiên, chúng ta không thể tiếp tục loại trừ các siêu việt tính mà không có giới hạn; thanh lọc siêu việt không thể có nghĩa là loại trừ tất cả các siêu việt tính vì nếu không thì mặc dù ý thức thuần túy sẽ thực sự vẫn còn, tuy nhiên, sẽ không còn lại bất kỳ khả tính nào của một khoa học về ý thức thuần túy. ”50

Những quá trình loại trừ này tiếp tục được tìm thấy trong các tác phẩm sau này của Husserl, đặc biệt là Trầm tư Descartes. Nhưng Husserl không có cách nào rõ ràng để trình bày chính xác những gì ông muốn nói bằng cách thức mà các loại đối tượng có chủ ý khác nhau siêu vượt các trải nghiệm sống có chủ ý định hướng vào chúng.

Ý thức Nội tại là Bản thể Tuyệt đối trong Ý tưởng I của Husserl

Thủ tục quy giản nhằm loại trừ các đối tượng thực sự siêu việt theo nghĩa cũ và mang lại một cách xem xét mới về những thứ đặt ra câu hỏi làm thế nào chúng có thể được cấu thành với những đặc điểm siêu việt từ bên trong ý thức. Điều này dường như là hiểm họa cận kề với việc định dạng lại vấn đề của Herz trong hiện tượng luận. Husserl quan niệm về phép quy giản hiện tượng luận theo một nghĩa nào đó là sự quy giản thành nội tại, và hơn nữa, bên trong phạm vi nội tại được quy giản về phương diện hiện tượng luận này, bằng cách nào đó chúng ta khám phá ra các cội rễ của thế giới siêu việt. Husserl viết rằng “bên trong ‘lĩnh vực ban đầu’này (lĩnh vực của tự- sao chép nguyên bản), chúng ta cũng tìm thấy một “thế giới siêu việt”.51

Trong Trầm tư Descartes và những công trình khác, Husserl tuyên bố hiện tượng luận vận hành trong một khuôn khổ hoàn toàn mới của sự tương phản giữa cái nội tại và cái siêu việt - một công thức mới không nợ nần gì truyền thống siêu hình. Về vấn đề này, cả Husserl và Heidegger đều đang tìm kiếm một cách hiểu mới về cái siêu việt. Husserl viết trong tác phẩm Trầm tư Descartes: “Khái niệm về cái có tính siêu việt và mối tương quan của nó, khái niệm về cái siêu việt, phải được bắt nguồn hoàn toàn từ hoàn cảnh suy tư về mặt triết học của chúng ta… Hệt như Bản ngã quy giản không phải là một mẩu của thế giới, do đó, ngược lại không phải thế giới cũng không phải bất kỳ Vật thể trần thế nào là một mẩu Bản ngã của tôi, phải được tìm thấy trong đời sống ý thức của tôi như một phần thực sự cố hữu của nó, như một phức hợp dữ liệu về cảm giác hoặc phức hợp hành vi. “Siêu việt” này là một phần của ý nghĩa nội tại của bất cứ thứ gì thuộc thế gian, mặc dù thực tế là bất cứ thứ gì thuộc thế gian nhất thiết phải có được toàn bộ ý nghĩa xác định nó, cùng với vị thế hiện sinh của nó, chỉ từ trải nghiệm của tôi, khách quan hóa, tư duy, đánh giá hoặc hành động của tôi, tại những thời điểm đặc biệt đáng chú ý là vị thế của một hữu thể rõ ràng hợp lệ là cái vị thế mà nó chỉ có thể có được từ những bằng chứng của riêng tôi, những hành vi làm căn cứ của tôi. Nếu cái “siêu việt” này, bao gồm cái không thực sự được bao gồm, là một phần của ý thức nội tại về thế giới, thì ngược lại, bản thân Bản ngã, kẻ mang trong mình cái thế giới như một ý thức được chấp nhận và kẻ, đến lượt mình, nhất thiết phải được giả định trước theo nghĩa này, được gọi một cách hợp thức là có tính siêu việt, theo nghĩa hiện tượng luận. Theo đó, những vấn đề triết học nảy sinh từ mối tương quan này được gọi là triết học-siêu việt.52

Siêu việt là một phần nội tại của bất cứ thứ gì thuộc về thế gian. Điều đó ít nhất là đối với Husserl, dường như có nghĩa là bất cứ điều gì khác ngoài các quá trình có ý thức, bản thân chúng được đưa ra trong các lát cắt, về cơ bản là không đầy đủ và được gặp trong một chân trời của hàm ý có chủ ý (và do đó là “phi hiện thực”). Husserl tiếp tục phân biệt giữa các hình thức siêu việt khác nhau - đặc biệt, phân biệt giữa siêu việt ‘thứ nhất’ của vật thể và siêu việt ‘thứ hai’ của con người. Ông giải thích khái niệm hiện tượng luận về siêu việt trong khuôn khổ cấu thành có chủ ý và bằng cách nào đó được tạo ra ‘bên trong bản ngã’: “Siêu việt trong mọi hình thức là một ý thức-hữu thể tự cấu thành bên trong bản ngã. Mọi ý thức có thể tưởng tượng được, mọi hữu thể có thể tưởng tượng được, cho dù sau này được gọi là nội tại hay siêu việt, đều nằm trong phạm vi của chủ thể tính siêu việt, như là chủ thể tính cấu thành nên ý thức và hữu thể.”53

Husserl nhấn mạnh vào điểm này: không có hữu thể hay ý thức nào khả thể bên ngoài lĩnh vực được cấu thành bởi chủ thể tính siêu việt. Ông lưu ý: “Tính siêu việt trong mọi hình thức là một đặc tính tồn tại nội tại, được cấu thành bên trong bản ngã. Mọi ý thức có thể tưởng tượng được, mọi hữu thể có thể tưởng tượng được, cho dù hữu thể này được gọi là nội tại hay siêu việt, đều nằm trong phạm vi của chủ thể tính siêu việt, là chủ thể tính cấu thành ý thức và hữu thể. Nỗ lực quan niệm vũ trụ của hữu thể chân thực như một cái gì đó nằm bên ngoài vũ trụ của ý thức khả thể, tri thức khả thể, bằng chứng khả thể, cả hai đều liên hệ với nhau chỉ đơn thuần bên ngoài bởi một quy luật cứng nhắc, là vô nghĩa. Về cơ bản, chúng thuộc về nhau; và, về cơ bản khi thuộc về nhau, chúng cũng cụ thể là một hữu thể, một hữu thể trong sự cụ thể tuyệt đối duy nhất: chủ thể tính siêu việt. Nếu chủ thể tính siêu việt là vũ trụ của ý thức khả thể, thì bên ngoài chính xác là vô nghĩa.”54

Chủ thể tính siêu việt là “vũ trụ của ý thức khả thể”. Không thể định đề hóa một cái gì đó ngoài nó. Mọi khách tính đều là những gì nó là chính xác thông qua cấu thành của chủ thể tính siêu việt. Husserl đang diễn giải rõ ràng cái siêu việt trong khuôn khổ của duy tâm luận siêu việt.

Heidegger không thoải mái với những công thức duy tâm luận này, dường như nó lại rơi vào cái bẫy mà hiện tượng luận đã cố thoát ra. Heidegger cũng vậy - và điều này thể hiện rất rõ trong “Thư về ‘Chủ nghĩa nhân văn”’ - cố gắng chống lại ấn tượng là bằng cách nào đó Dasein làm cho sự vật xuất hiện và kiểm soát cách xuất hiện của chúng. Điều này đối với Heidegger là một hiểu biết quá chủ thể luận về cái siêu việt đặc biệt của Dasein. Heidegger cũng chỉ trích Husserl vì đã không suy nghĩ thấu đáo một quan niệm đúng đắn về tiếp thế (tiếp cận Thế giới). Trong Vom Wesen des Grundes – Về Bản chất của các Căn nguyên, Heidegger thảo luận về vấn đề “tiếp thế” (tiếp cận thế giới) bằng cách đặt nó vào vấn đề về khải lộ chân lý, và sau đó tiếp tục nói rằng hiểu chân lý là đặt ra câu hỏi về siêu việt: “câu hỏi về bản chất của tiếp thế trở thành vấn đề siêu việt” (VWG, 135). Nhưng Husserl đã cố gắng đưa ra một cách tường trình siêu việt mới về tính tiếp thế và việc tiếp thế thực tồn của thế giới. Vì vậy, trong Erste PhilosophieTriết học Đầu tiên (1923/24), trong một bài tiểu luận có tựa đề Cuộc cách mạng Copernic của Kant và Nhận thức về Bước ngoặt chung của Copernic, ông viết như sau: “Câu hỏi về phần hiện hữu người sống bằng thái độ tự nhiên liên quan đến tiếp thế thực tế của thế giới này, bằng thái độ nội tại siêu việt, trở thành câu hỏi về việc tiếp thế của hiện hữu của những chủ thể tính thực tồn này và cấu thành của thế giới diễn ra trong chúng một cách thực tồn, bao gồm tất cả những điều kiện hoàn thành thực tồn về khả tính của các cấu thành đó. Ở đây, khái niệm ‘tiếp thế’ đang bị đe dọa có thể có có ý nghĩa gì và nó có thể là gì khiến chúng ta không yên tâm với thực tế này, đó là một câu hỏi mới, chỉ ra một cấp độ nghiên cứu siêu việt cao hơn.”55

Hệt như bộc lộ luôn đi kèm với che giấu, nên cũng vậy, cái cách quan niệm của Heidegger về “căn nguyên” luôn kết nối nó với khái niệm “vực thẳm” (VWG, 174). Hơn nữa, cách thức để hiểu được cái siêu việt thời tính của Dasein phải thay đổi tùy thuộc vào việc liệu chúng ta đang tiếp cận phương thức hiện hữu của nó từ quan điểm con người (das Man) hay quan điểm thân phận đích thực.

Heidegger Phê phán Husserl về Siêu việt

Trong các bài giảng ở Marburg vào những năm 1920, Heidegger đã chỉ trích cách hiểu của Husserl về nội tại và siêu việt. Do đó, trong thảo luận về Ý tưởng I của Husserl ở bài giảng năm 1925 Prolegomena zur Geschichte des Zeitbegriffs Nhập đề về Lịch sử Thời tính cụ thể, Heidegger đã phê phán bốn xác định của Husserl về ý thức (GA 20, § 11), mà ông coi là tiếp tục nuôi dưỡng những định kiến ​​siêu hình học bất chấp những tuyên bố chính thức của Husserl. Bốn xác định này về ý thức là: (1) Ý thức là hữu thể nội tại; (2) Ý thức là hữu thể tuyệt đối theo nghĩa tuyệt đối cho sẵn; (3) Ý thức được ban cho một cách tuyệt đối theo nghĩa chỉ có thứ duy nhất cần cho sự tồn tại của nó (nulla re indiget ad existendum - das einzige, was es für seine Existenz braucht); (4) Ý thức là bản thể thuần túy. Heidegger nhận thấy rằng tất cả những xác định này có thể bắt nguồn từ Descartes, và ông phê phán: “Việc xây dựng ý thức thuần túy như một lĩnh vực chuyên đề của hiện tượng luận, về phương diện hiện tượng luận không được bắt nguồn bằng cách quay trở lại [Rückgang] với bản thân các vấn đề mà bằng cách quay trở lại tư tưởng triết học truyền thống.” (GA 20, tr. 147)

Trong các bài giảng của Prolegomena zur Geschichte des Zeitbegriffs Nhập đề về Lịch sử Thời tính cụ thể năm 1925 này, Heidegger đặc biệt chỉ trích quan niệm của Husserl về nội tại. Ông diễn giải nội tại là ý nghĩa hiện-hữu-trong-một-cái-gì-đó khác: “nội tại ngụ ý… ở trong một cái khác [in einem anderen sein]” (GA 20, tr. 142). Hơn nữa, đối với Husserl, nội tại được hiểu là mối quan hệ khả thể giữa bản thân các trải nghiệm đã sống, giữa hành động phản ánh và hành động được phản ánh (GA 20, §11a, tr. 142-43). Vấn đề là - loại quan hệ nào có liên quan ở đây? Khái niệm cái ‘nội tại’ thực sự là khái niệm về một cái gì đó có liên quan, nhưng bản chất của mối quan hệ này chưa được làm rõ.

Sau đó Heidegger đưa ra giải pháp của mình: tính chủ ý phải được hiểu không phải là mối quan hệ bên trong-bên ngoài (giữ lại tất cả các vấn đề của phương thức Descartes và cả quan niệm của Brentano về Inexistenz – phi tồn tại) mà dựa vào siêu việt của Dasein. Dasein đã siêu vượt hướng về thế giới. Trong các bài giảng năm 1925 của mình, Heidegger đưa ra những nhận xét thú vị về bản chất của ‘hiện hữu-ở’ và ‘hiện hữu-với’ [Sein-bei]. Ông nói về cách mà con ốc ở trong vỏ của nó. Khi con ốc sên thò đầu ra khỏi vỏ, không phải bây giờ nó mới gia nhập vào thế giới, như thể trước đây nó không thuộc về cái thế giới ấy vậy. Ngay cả trong chiếc vỏ của mình, nó vẫn hoàn toàn ở trong thế giới (GA 20, tr. 223).

Thảo luận năm 1925 trong Prolegomena zur Geschichte des Zeitbegriffs Nhập đề về Lịch sử Thời tính cụ thể năm 1925 đã tạo tiền đề cho những tuyên bố táo bạo được tìm thấy trong Hữu thể và Thời gian, § 69, có tựa đề Die Zeitlichkeit des In-der-Welt-seins und das Problem der Transzendenz der Welt – Thời tính của tồn tại-trong-thế giới và vấn đề sự siêu việt của thế giới. Heidegger diễn giải tính chủ ý theo nghĩa siêu việt nhưng sau đó lại xem siêu việt được bao hàm sâu sắc trong cá nhân tính của Dasein. Cá nhân tính này phải được tạo ra hoặc cấu thành thông qua cách thức mà mỗi Dasein sống trong tồn tại thời tính của nó. Cần phải ghi lại cái cước chú bí ẩn sau mà Heidegger đã viết trong bản sao của mình và được các biên tập viên chèn vào ấn bản Gesamtausgabe – Bản hoàn chỉnh của Hữu thể và Thời gian: ‘transcendens freilich nicht – trotz alles metaphysischen Anklangs – scholastisch und griechisch-platonisch κοινόν, sondern Transzendenz als das Ekstatische – Zeitlichkeit – Temporalität; aber “Horizont”! Seyn hat Seyendes “überdacht.” Transzendenz aber von Wahrheit des Seyns her: das Ereignis’ (GA 2, § 7, p. 51n.2).56 “các siêu việt tính phải thừa nhận không phải là - bất chấp mọi hấp dẫn siêu hình học – κοινόν liên minh học thuật kinh viện và Platonic-Hy Lạp, mà siêu việt là cái mê đắm - thời tính hóa - thời tính, đúng hơn là “chân trời”! Hữu thể đã che đậy hiện hữu. Tuy nhiên, siêu việt từ chân lý của Hữu thể: Sự kiện” (GA 2, § 7, tr. 51n. 2). Heidegger đúc kết lại vấn đề siêu việt như một vấn đề về cách Dasein vừa thuộc về thế giới theo một ý nghĩa rất đặc biệt và cũng sống qua tồn tại cá nhân của nó: “Không thể làm cho ‘vấn đề siêu việt’ thay đổi theo câu hỏi làm thế nào mà một chủ thể xuất hiện với một đối tượng, nơi tập hợp các đối tượng được đồng nhất với ý tưởng về thế giới. Thay vào đó, chúng ta phải đặt câu hỏi: điều gì làm cho các thực thể về phương diện hữu thể luận có thể được gặp trong-thế-giới và được đối tượng hóa như đã được gặp như vậy? Điều này có thể được trả lời bằng cách nhờ đến sự siêu việt của thế giới - siêu việt với nền tảng mê đắm-chân trời”. (SZ § 69c, tr. 417–18, 366)

Không thể nói rằng Heidegger đã trả lời câu hỏi về cá nhân tính của Dasein một cách thỏa đáng trong Hữu thể và Thời gian. Nỗ lực của Heidegger nhằm liên hệ tính chủ ý, chủ thể tính và siêu việt tiếp tục ngay sau Hữu thể và Thời gian. Do đó, trong Vom Wesen des GrundesVề Bản chất của các Căn nguyên, ông tuyên bố rõ ràng rằng ‘trở thành một chủ thể có nghĩa là ở trong và như là siêu việt’ (VWG, 138). Ở đây, ông ít nhiều lặp lại cái lập trường mà ông đã thể hiện trong Vấn đề Cơ bản của Hiện tượng luận, trong đó ông viết: ‘tính chủ ý là ratio cognoscendi nền tảng tri thức của siêu việt. Siêu việt là ratio essendi cơ sở tồn tại của tính chủ ý trong các phương thức đa dạng của nó '(GA 24, § 9, trang 91). Và trong Cơ sở Siêu hình học của Logic, Heidegger cũng tuyên bố rằng ‘trở thành một chủ thể có nghĩa là siêu việt’ (GA 26, § 11, tr. 211).

Nhưng một lần nữa, chúng ta nên rõ ràng - và có lẽ điều này dần dần được hé lộ đối với Heidegger – cách diễn giải tính chủ ý này trong khuôn khổ siêu việt vẫn gần với Husserl. Trong Logic Siêu việt và Hình thức (1929) 57 cùng thời gian với các bài viết của Heidegger về chủ đề này, Husserl cũng nói về tính chủ ý liên quan đến siêu việt: “Đó là lý tưởng phổ quát của tất cả các nhất tính có chủ ý trái ngược với tính đa bội cấu thành chúng. Trong nó bao gồm tính ‘siêu việt’ thuộc về tất cả các loại khách tính trái ngược với ý thức về chúng (và theo một cách thức đã được thay đổi một cách thích hợp nhưng tương ứng, cái siêu việt thuộc về bản ngã này hoặc bản ngã khác của ý thức, được hiểu là cực-chủ thể của ý thức.) Mặc dù vậy, nếu chúng ta vẫn tách nội tại khỏi các đối tượng siêu việt, thì điều đó chỉ có thể liên quan đến sự khác biệt trong khái niệm siêu việt rộng nhất này. Không có bất kỳ khía cạnh nào, có thể thay đổi được một thực tế là tương tự như vậy, siêu việt thuộc về cái hiện thực (cái khách quan theo nghĩa ưu việt hơn) được cấu thành đối với hiện hữu và ý thức của nó chỉ trong lĩnh vực nội tại, lĩnh vực đa bội của ý thức, và cái siêu việt thuộc về cái hiện thực theo đúng nghĩa, là một hình thái đặc biệt của ‘tính lý tưởng’ hoặc đúng hơn, của một tính phi hiện thực về mặt tâm linh; tính phi hiện thực của một cái gì đó mà bản thân nó, với tất cả những gì thuộc về nó trong bản chất của nó, thực sự hoặc khả thể xuất hiện trong lĩnh vực hiện tượng luận thuần túy của ý thức và theo cách mà nó rõ ràng không phải là phần hiện thực của khoảnh khắc ý thức, không phải là luận cứ tâm linh hiện thực.58

Nhưng - như Becker nhận ra trong bài viết năm 1937 của mình - Heidegger bắt đầu liên kết cái siêu việt của Dasein ngày càng nhiều hơn với ‘hư vô’ và với việc tiếp thế được hiểu là vực thẳm. Do đó, trong bài giảng năm 1929 Was ist Metaphysik? Siêu hình học là gì? (GA 9, 115, Pathmarks, tr.91), ông tuyên bố: “Dasein có nghĩa là: bị giam cầm trong hư không [Hineingehaltenheit in das Nichts]. Khi giam mình trong hư không, Dasein trong mỗi trường hợp đều đã vượt ra ngoài mọi hiện hữu như một tổng thể. Chúng ta gọi cái hữu thể vượt ra ngoài các hiện hữu này là siêu việt [Dieses Hinaussein über das Seiende nennen wir Transzendenz]. Nếu trong căn nguyên của bản chất của nó, Dasein không siêu việt, thì giờ đây điều đó có nghĩa là, nếu trước đó nó không giam mình vào hư không, thì nó không bao giờ có thể liên quan đến các hiện hữu và thậm chí cũng không liên quan đến bản thân nó. Không có biểu hiện ban đầu của cái hư không, không có tự-hữu [Selbstsein] và không có tự do.

Siêu việt của Dasein có nghĩa là nó đang giữ mình trong cái ‘hư không’ – việc tiếp thế của nó được giải phóng để tiếp thế. Loại siêu việt mà Dasein sở hữu chính là “tự do tiếp thế” (VWG, 165). Về mặt gần gũi với Jaspers, nếu con người không có mối quan hệ này với hư không thì họ sẽ không thể có ‘tự-hữu’ (Selbstsein). Một cái gì đó chỉ có thể là chính nó nếu nó được mở ra cho sự tiếp thế của nó, đó thực sự là hư vô siêu việt. Heidegger kết nối sự giải phóng hướng tới cú tiếp thế đó với tự do. Trong Vom Wesen des Grundes – Về Bản chất của các Căn nguyên, Heidegger chỉ trích cách hiểu của Husserl về tính được tiếp thế của chủ thể tính người. Ở đây, ông kết nối ‘siêu việt’ với tính chủ ý: “Nếu người ta mô tả toàn bộ cách ứng xử đối với các hiện hữu là có chủ ý, thì tính chủ ý chỉ có thể thực hiện được nhờ các cú tiếp thế của siêu việt. Tuy nhiên, tính chủ ý không đồng nhất với siêu việt và ngược lại, bản thân nó cũng không làm cho siêu việt trở nên khả thể.” (VWG, 135)

Dasein siêu việt hướng đến “thế giới”. Tính siêu việt về cơ bản đặc trưng cho Dasein là hiện hữu-trong-thế giới. Làm thế nào để tính trần thế tự biểu hiện? Siêu việt có đặc trưng “mê đắm” thời tính: “Nhất tính mê đắm của thời tính - đó chính là nhất tính của cái “bên-ngoài-của-tự-thân” [trong tương lai, quá khứ, hiện tại] là điều kiện cho khả tính có thể có một thực thể tồn tại như là “có đó” của nó (SZ, § 69, tr. 350). Đối với Heidegger, siêu việt luôn hướng tới thế giới, nhưng thế giới không bao giờ là một vật thể, hoặc thậm chí một thứ gì đó có thể nói là tồn tại. “Thế giới”, trong cụm từ khét tiếng của Heidegger, là “các thế giới” [Welt ist nie, sondem weltet] (VWG, 164).

Một chủ đề hằng xuyên khác là siêu việt không thể được hiểu theo bất kỳ ý nghĩa tôn giáo-Kitô giáo-Platonic nào như hướng tới một lĩnh vực phi giác quan khác hoặc liên quan đến bất kỳ sự phủ nhận hay từ bỏ thế giới nào. Toàn bộ siêu việt được ông gọi là ‘siêu việt hữu hạn’. Heidegger cũng muốn diễn đạt cái siêu việt hữu hạn này trong khuôn khổ cú “liệng vào” [Geworfenheit] và “dự phóng” [Entwurf]. Dasein tồn tại với tư cách “liệng vào” (SZ § 29, tr. 134–40). Trong những năm cuối đời của ông, đặc biệt là trong Beiträge zur Philosophie (Vom Ereignis), khái niệm siêu việt đã lùi sâu vào hậu cảnh. Heidegger tiếp tục trình bày rõ ràng (giờ đây được Nietzsche truyền cảm hứng nhiều hơn) sự bác bỏ lý thuyết hai thế giới của Cơ đốc giáo Platon hóa. Do đó, Heidegger viết: “Ngay cả khi ‘siêu việt’ được hiểu theo cách khác so với cho đến nay, cụ thể là lướt qua chứ không phải siêu-giác như một hiện hữu, thì ngay cả khi đó, xác định này cũng dễ dàng che đậy những gì là cái thuộc về Dasein. Bởi vì, ngay cả theo cách này, thì siêu việt vẫn giả định trước bên dưới và bên này [Unten und Diesseits] và có nguy cơ vẫn bị diễn giải sai là hành động của một cái ‘Tôi’ và chủ thể. Và cuối cùng, ngay cả khái niệm siêu việt này vẫn tiếp tục bị mắc kẹt trong triết học Platonism”. (Heidegger 1989, GA 65, §199, tr.322)

Trong Beiträge zur Philosophie (Vom Ereignis), Heidegger cũng thừa nhận rằng việc ông nói về ‘Dasein của con người’ trong Hữu thể và Thời gian và những nơi khác đã gây hiểu lầm - vì nó gợi ý rằng có thể có một loại Dasein khác, ví dụ, Dasein động vật hoặc thực vật. Trên thực tế, chỉ hiện hữu người mới có thể là Dasein: “Dasein – hiện hữu phân biệt con người trong khả tính của nó; do đó Dasein sau nó không cần bổ sung “con người” (GA 65, § 176, tr. 301). Ông cũng cố gắng diễn giải lại bài nói chuyện của mình trong Hữu thể và Thời gian về “nhận thức Hữu thể” theo một cách nào đó không làm cho hiện hữu trở thành “chủ quan”: “Thật vậy, nó [nhận thức về Hữu thể] vượt qua toàn bộ “chủ thể tính” và chuyển con người thành khải tính của hiện hữu, đặt anh ta như một kẻ được bộc lộ cho các hiện hữu (và trước đó là bộc lộ cho chân lý của hiện hữu)”. (GA 65, tr. 303)

Trong những năm sau đó, Heidegger đã tìm cách xóa bỏ “chủ thể luận” mà ông cảm thấy vẫn tiếp tục ám ảnh Hữu thể và Thời gian. Kehre hay “bước ngoặt” của ông cũng là một sự đảo ngược, từ các hiện hữu thành Hữu thể, từ tính cố ý của con người thành “chuyển đi của Hữu thể”. Giờ đây Dasein được cho là “mở ra trong cú liệng vào của Hữu thể” (BH, 327). Thân phận của nó giờ đây là một cái gì đó dường như đến từ nơi khác và tuyệt đối không phải từ một loại tự cấu thành nào đó của bản ngã, như ở Husserl, hay từ tự-biết về chủ thể tính tuyệt đối, như ở Hegel. Tuy nhiên, vấn đề vẫn còn ở chỗ Heidegger không cung cấp cho chúng ta ngôn ngữ mới nào để trình bày quan niệm mới này về chủ thể tính được cho là ông đang ủng hộ. Ở Heidegger sau này, cũng như trước đó, có một ý thức mạnh mẽ rằng ngôn ngữ - không chỉ là ngôn ngữ của siêu hình học mà là ngôn ngữ của tư duy - đã làm ông thất bại.59

Phần kết luận

Tóm lại, chúng ta có thể nhận ra rằng Heidegger tự coi mình là người suy nghĩ lại triệt để về bản chất của tính chủ ý trong khuôn khổ siêu việt của Dasein. Ông cố gắng nói rõ khái niệm “siêu việt” này theo nhiều cách khác nhau nhưng cuối cùng đã từ bỏ ngôn từ này. Trên thực tế, như chúng ta đã trình bày, Heidegger hoàn toàn không vượt ra ngoài nhận thức của chính Husserl về kiểu “siêu việt nội tại” đặc trưng cho bản chất của mối quan hệ có chủ ý. Cả hai đều thừa nhận rằng tính chủ ý chỉ khả thể khi dựa vào một nền tảng của một thế giới luôn được giả định nhưng không bao giờ được trình bày như một đối tượng của kinh nghiệm. Mối quan hệ giữa các quan niệm của Heidegger và Husserl về thế giới vẫn còn phải được khám phá.

______________________________________

Nguồn: Moran, Dermot (2014). What Does Heidegger Mean by the Transcendence of Dasein?

In International Journal of Philosophical Studies, 2014, Vol. 22, No. 4, 491–514,

Tác giả: Dermot Moran là một nhà triết học người Ireland chuyên về hiện tượng học và triết học thời trung cổ. Ông hiện là Chủ nhiệm khoa Triết học Công giáo tại Trường Đại học Boston; là thành viên của Học viện Hoàng gia Ireland và là Biên tập viên sáng lập của Tạp chí Nghiên cứu Triết học Quốc tế. Dermot Moran sinh ra ở Stillorgan, Dublin, Ireland. Ông đã được trao Huy chương vàng Higgins về Hóa học ở đó vào năm 1968, cũng như Huy chương Vàng về Hóa học của Viện Hóa học Ireland năm 1970. Ông là một nhà thơ đã xuất bản và đã được trao giải thưởng văn học Viết tiếng Ailen Mới của Báo chí Ireland. Từng học toán, toán ứng dụng, vật lý và hóa học để thi Chứng chỉ Tốt nghiệp, học ngôn ngữ và văn học ở trường đại học. Ông nhập học Đại học Dublin năm 1970 và hoàn thành chương trình Cử nhân năm 1973, tốt nghiệp với Bằng Danh dự Hạng nhất về Văn học Anh và Triết học. Ông là người nhận được Học bổng Wilmarth Lewis đến Đại học Yale để nghiên cứu sau đại học. Ông tốt nghiệp Đại học Yale với các bằng Thạc sĩ (1974), và Tiến sĩ (1986) về Triết học. Sau đó, ông trở lại Ireland để nhận một vị trí tại Đại học Queen's Belfast. Năm 1989, ông được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm khoa Triết học (Siêu hình học và Logic học) tại University College Dublin. Năm 1992–1993, ông là Giáo sư thỉnh giảng xuất sắc tại Đại học Connecticut, và vào mùa Thu năm 2003 và mùa xuân năm 2006, ông là Giáo sư Nhân văn Lynette S. Autry tại Đại học Rice. Năm 2007, ông là Giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Northwestern, Evanston, Illinois. Ông là giáo sư thỉnh giảng tại các học viện khác trên thế giới, bao gồm Sorbonne, Đại học Albany, SUNY, Đại học Công giáo Leuven, Cao đẳng Trinity Dublin, và Đại học Ludwig Maximilian của Munich. Ông là Biên tập viên sáng lập của Tạp chí Nghiên cứu Triết học Quốc tế, được thành lập vào năm 1993 và được xuất bản bởi Routledge, đồng thời là đồng biên tập của bộ sách Đóng góp cho Hiện tượng học do Springer xuất bản.

Notes

31. Husserl adopted from Descartes (and of course originally from Aristotle) the idea of an ultimate grounding science which is called prima philosophia or ‘first philosophy’. Husserl insists that fully clarified transcendental phenomenology (which includes even the ‘phenomenology of phenomenology’) is the ultimate first philosophy.

32. Husserl, 1976a, § 14. For the English translation, see Husserl, 1970, § 14.

33. Husserl, 1973a. For the English translation, Husserl, 1999.

34. Husserl, 1995. For the English translation, see Husserl, 1982.

35. Husserl, 1931. The German text was not published until 1950. See Husserl, 1950. For the English translation, see Husserl, 1960.

36. Husserl, 1960, § 47; Husserl, 1950, p. 134.

37. Husserl, 1984, p. 396.

38. Ibid., p. 398.

39. Ibid.

40. Ibid.; Husserl, 2008, p. 398.

41. Husserl, 1973b. For the English translation, see Husserl, 1998.

42. Especially in various writings from the period 1906/07, Husserl frequently invokes Kant’s Letter to Herz. See for example, Husserl, 1973b, p. 139. He often alludes to Kant’s formulation in this letter in his mature works. See, for instance, Husserl, 1987.

43. Husserl, 1984, p. 400.

44. Ibid., p. 402.

45. Husserl, 1950, p. 116. Husserl, 1960, § 41, 83.

46. Husserl, 1976b, p. 77; Husserl, 1982, § 42, 90.

47. Husserl, 1976b, p. 77; Husserl, 1982, § 42, 89.

48. Husserl, 1976b, § 58, 124; Husserl, 1982, § 58, 133.

49. Husserl, 1976b § 57, 124; Husserl, 1982, § 57, 133.

50. Husserl, 1976b, § 59, 111–12; Husserl, 1982, § 59, 135.

51. Husserl, 1950, p. 135.; Husserl, 1960, § 47, 104–05.

52 Husserl, 1950, p. 65; Husserl, 1960, § 11, 26.

53. Husserl, 1950, p. 117; Husserl, 1960, § 41, 83–4. Translation modified.

54. Husserl, 1950, p. 117; Husserl, 1960, § 41, 83–4.

55. Husserl, 1956, p. 220.

56. The full text of the note reads: ‘transcendens freilich nicht – trotz alles metaphysischen Anklangs – scholastisch und griechisch-platonisch κοινόν, sondern Transzendenz als das Ekstatische – Zeitlichkeit – Temporalität; aber “Horizont”! Seyn hat Seyendes “überdacht.” Transzendenz aber von Wahrheit des Seyns her: das Ereignis’ (GA 2, § 7, p. 51n.2).

57. Husserl, 1974. For the English translation, see Husserl, 1969.

58. Husserl, 1974, § 62, 148; Husserl, 1969, § 62, 165–6.

59. In his ‘Letter on “Humanism”’, Heidegger explains that the third division of Part One of Being and Time was held back because ‘thinking failed in the adequate saying of this turning and did not succeed with the help of the language of metaphysics’ (BH, pp. 327–8). However, the ‘other thinking’ of the later Heidegger does not appear to have any adequate way of expressing the meaning of Dasein’s self-being either.

 

References

 

Becker, Oskar (1937) ‘Transcendenz und Paratranszendenz’, in Raymond Bayer (ed.) Travaux du IXe congrés international de philosophie. Volume 8. Analyse réflexive et transcendance, Paris: Hermann, 97–104.

———. (1943) ‘Para-Existenz: Menschliches Dasein und Dawesen’, Blätter für Deutsche Philosophie 17: 62–95.

Biemel, Walter, and Hans Saner (eds) (2003) The Heidegger-Jaspers Correspondence (1920–1963), Amherst, NY: Humanity Books.

Christof, Landmesser, and Andreas Großmann (eds) (2009) Rudolf Bultmann/Martin Heidegger: Briefwechsel 1925–1975, Tübingen: Mohr Siebeck.

Dahlstrom, Daniel O. (2005) ‘Heidegger’s Transcendentalism’, Research in Phenomenology 35: 29–54.

Farber, Marvin (1951) ‘Experience and Transcendence’, Philosophy and Phenomenological Research 12(1): 1–23.

Heidegger, Martin (1976a) ‘Von Wesen des Grundes’, in Wegmarken, ed. Friedrich-Wilhelm von Herrmann, Frankfurt am Main: Vittorio Klostermann, 123–75.

———. (1976b) ‘Brief über den “Humanismus”’, in Friedrich-Wilhelm von Herrmann (ed.) Wegmarken, Frankfurt am Main: Vittorio Klostermann, 1976), 313–64.

——— (1977a) Kant und das Problem der Metaphysik (1929), ed. F.-W. von Herrmann, GA 3, Frankfurt: Klostermann.

———. (1977b) Sein und Zeit, ed. F.-W. Hermann, Frankfurt am Main: Vittorio Klostermann.

———. (1978) Metaphysische Anfangsgründe der Logik im Ausgang von Leibniz (Summer semester 1928), ed. Klaus Held, GA 26, Frankfurt: Klostermann.

———. (1979) Prolegomena zur Geschichte des Zeitbegriffs, ed. Petra Jaeger, Gesamtausgabe 20, Frankfurt am Main: Vittorio Klostermann.

———. (1980) Hegels Phänomenologie des Geistes (Wintersemester 1930/31), ed. Ingtraut Görland, GA 32, Frankfurt: Klostermann, 3rd edn. 1997.

———. (1984) The Metaphysical Foundations of Logic, trans. M. Heim, Bloomington: Indiana University Press.

———. (1985a) History of the Concept of Time. Prolegomena, trans. T. Kisiel, Bloomington: Indiana University Press.

———. (1985b) Phänomenologische Interpretation zu Aristoteles. Einführung in die phänomenologische Forschung, ed. Walter Bröcker and Käte Bröcker-Oltmanns, Gesamtausgabe 61, Frankfurt am Main: Vittorio Klostermann.

———. (1989) Beiträge zur Philosophie (Vom Ereignis), ed. Friedrich-Wilhelm von Herrmann, Gesamtausgabe 65, Frankfurt am Main: Vittorio Klostermann.

———. (1990) Kant and the Problem of Metaphysics, 4th edn., trans. Richard Taft, Bloomington: Indiana University Press.

———. (1997) Der deutsche Idealismus (Fichte, Schelling, Hegel) und die philosophische Problemlage der Gegenwart (Sommersemester 1929), ed. Claudius Strube, GA 28, Frankfurt: Vittorio Klostermann.

———. (1998) Heidegger, Pathmarks, Cambridge: Cambridge University Press.

———. (2006) Sein und Zeit, 19th edn. Tübingen: Max Niemeyer Verlag.

Husserl, Edmund (1931) Méditations cartésiennes: introduction à la phénoménologie, trans, Emmanuel Levinas and Gabrielle Peiffer, Paris: Almand Colin.

———. (1950) Cartesianische Meditationen und Pariser Vorträge, Husserliana: Edmund Husserl – Gesammelte Werke, Band 1, The Hague: Martinus Nijhoff.

———. (1956) Erste Philosophie (1923/24). Erster Teil: Kritische Ideengeschichte, Husserliana: Edmund Husserl – Gesammelte Werke, Band 7, The Hague: Martinus Nijhoff.

———. (1960) Cartesian Meditations: An Introduction to Phenomenology, trans. Dorion Cairns, The Hague: Martinus Nijhoff.

———. (1969) Formal and Transcendental Logic, trans. Dorion Cairns, The Hague: Martinus Nijhoff.

———. (1970) The Crisis of European Sciences and Transcendental Phenomenology, trans, David Carr, Evanston: Northwestern University Press.

———. (1973a) Die Idee der Phänomenologie. Fünf Vorlesungen, Husserliana: Edmund Husserl –Gesammelte Werke, Band 2, The Hague: Martinus Nijhoff.

———. (1973b) Ding und Raum. Vorlesungen 1907, Husserliana: Edmund Husserl – Gesammelte Werke, Band 16, The Hague: Martinus Nijhoff.

———. (1974) Formale und transzendentale Logik. Versuch einer Kritik der logischen Vernunft, Husserliana: Edmund Husserl – Gesammelte Werke, Band 17, The Hague: Martinus Nijhoff.

———. (1976a) Die Krisis der Europäischen Wissenschaften und die Transzendentale Phänomenologie, Husserliana: Edmund Husserl – Gesammelte Werke, Band 6, The Hague: Martinus Nijhoff.

———. (1976b) Ideen zu Einer Reinen Phänomenologie und Phänomenologischen Philosophie. Erstes Buch: Allgemeine Einführung in die Reine Phänomenologie, 2. Halbband: Ergänzende Texte (1912–1929), Husserliana: Edmund Husserl – Gesammelte Werke, Band 3-2, The Hague: Martinus Nijhoff.

———. (1982) Ideas Pertaining to a Pure Phenomenology and to a Phenomenological Philosophy. First Book. General Introduction to a Pure Phenomenology, trans. F. Kersten, Husserliana: Edmund Husserl – Collected Works, Volume 2, The Hague: Martinus Nijhoff.

———. (1984) Einleitung in der Logik und Erkenntnistheorie. Vorlesungen 1906/07, Husserliana: Edmund Husserl – Gesammelte Werke, Band 24, The Hague: Martinus Nijhoff.

———. (1987) ’Phänomenologie und Erkenntnistheorie (1917)’, in H. R. Sepp and Thomas Nenon (eds) Aufsätze und Vorträge 1911–1921, Dordrecht: Kluwer Academic.

——— (1995) Ideen zu einer Reinen Phänomenologie und Phänomenologischen Philosophie. Erstes Buch: Allgemeine Einführung in die Reine Phänomenologie, Husserliana: Edmund Husserl – Gesammelte Werke, Band 3-1, The Hague: Martinus Nijhoff.

———. (1998) Thing and Space: Lectures of 1907, trans. Richard Rojcewicz, Husserliana:

Edmund Husserl – Collected Works, Volume 7. Dordrecht: Kluwer Academic.

———. (1999) The Idea of Phenomenology, trans. L. Hardy, Husserliana: Edmund Husserl – Collected Works, Volume 8, Dordrecht: Kluwer Academic.

———. (2008) Introduction to Logic and the Theory of Knowledge. Lectures 1906/07, trans. C. Ortiz Hill, Husserliana: Edmund Husserl – Collected Works, Volume 13. Dordrecht: Springer. Jaspers, Karl (1932) Philosophie. 3 Bände (I. Philosophische Weltorientierung; II. Existenzerhellung; III. Metaphysik), Berlin: Springer.

———. (1938) Existenzphilosophie, Berlin: de Gruyter.

———. (1970) Philosophy, Volume 2, trans. E. B. Ashton, Philosophy: 3 Volumes, Chicago, IL: University of Chicago Press.

———. (1971) Philosophy of Existence, trans. R. F. Grabau, Philadelphia, PA: University of Pennsylvania Press.

Kisiel, Theodore (1993) The Genesis of Heidegger’s Being and Time, Berkeley: University of California Press.

Plato (2006) The Republic: Books 1–5, trans, Paul Shorey, Cambridge, MA: Harvard University Press.

Pöggeler, Otto (2009) Philosophie und hermeneutische Theologie: Heidegger, Bultmann und die Folgen, München: Wilhelm Fink.

Scheler, Max (1928) Die Stellung des Menschen im Kosmos, Darmstadt: Otto Reichl Verlag.

———. (2009) The Human Place in the Cosmos, trans. M. Frings, Evanston: Northwestern University Press.