Powered By Blogger

Thứ Ba, 5 tháng 8, 2025

Nhân học Bản thể luận - Trì hoãn Phê phán (II)

Lucas Bessire và David Bond

Người dịch: Hà Hữu Nga

Vật chất Sống động và Bản chất của Hiện tại

Thời hiện đại chủ yếu là vấn đề hiểu sai về nature tự nhiên. Nhân học bản thể luận, quét sạch một hoặc hai tấm thảm thế hệ dân tộc học bị vấy bẩn, cung cấp cho các nhà nghiên cứu thực địa một cách để cuối cùng hiểu đúng về tự nhiên. Mặc dù vẫn chưa rõ kẻ nào trong mẻ nho rượu vang gần đây thực sự phụ thuộc vào thứ đơn-tự nhiên luận của thời hiện đại - tức là, nature sans scare quotes tự nhiên không có dấu ngoặc kép - nhưng bước ngoặt bản thể luận này lại đưa ra một bản mô tả dứt khoát về hướng đi tiếp theo của nhân học.12 Chương trình có kết quả kia đã phổ quát hóa những phát hiện của “một loại nhân học về sự sống” (Kohn 2007) đồng thời chuyển những địa điểm thú vị nhất của nó đến những thái cực vượt khỏi tầm nhìn khách quan hóa hiện đại. Lời hứa cơ bản là rất rõ ràng. Nhân học, từ lâu đã sa lầy trong những cuộc tranh luận ràng buộc tự nhiên với các cực chức năng hoặc diễn giải, mới bắt đầu nắm bắt được hơi thở sống động của thế giới tự nhiên, độc lập với sự quan tâm của chúng ta đối với nó. Sự thừa nhận về sức sống của những sự vật bình thường và những hiện hữu khác đã phơi bày những sai sót về mặt cấu trúc trong các vấn đề trước đây, cho thấy các nghiên cứu đó chẳng qua cũng chỉ là thứ mà dân tộc học nghĩ rằng nó đã để lại một cách an toàn: siêu hình học của thời hiện đại. Quay lưng lại với đống đổ nát của lý luận nhân học, ngày nay chúng ta có thể nắm bắt được điều mà thực hành trong phòng thí nghiệm và các vũ trụ luận bản địa đã biết từ lâu: Thực tại không phải là một trật tự nhất định mà được ban hành trong khối liên minh cẩn trọng với agency tác tố phân tán của vạn vật và vạn hữu.13 Hóa ra, tự nhiên lại hoàn toàn khác.

Thứ “duy vật luận sống động” này, như Jane Bennett (2010:vii) đã khéo léo, nói, hứa hẹn sẽ hiệu chỉnh lại và đổi mới nghiên cứu xã hội. Không còn nhiệm vụ giải thích các hoạt động của con người trên nền tảng của tự nhiên (hoặc ngược lại), các nhà khoa học thuộc mọi thể loại được tự do suy ngẫm về việc chúng ta lẫn lộn như thế nào trong cuộc sống của nhau (Fuentes 2010). Đây là một cái nhìn sâu sắc, kết nối những mối quan tâm giao thoa của lịch sử môi trường, sinh thái chính trị, STS [Science, Technology, and Society Khoa học Công nghệ Xã hội] và nghiên cứu đa loài.14 Trong một lĩnh vực nghiên cứu phức tạp như vậy, nhân học bản thể luận đã khẳng định place at the head of the table vị trí đầu bàn của mình. [Cấu trúc gia đình xưa có tính phân cấp và biểu tượng cao, với người cha đứng đầu gia đình; ông ta ngồi ở một đầu bàn ăn, được gọi là người đứng đầu; một chiếc ghế ăn thường lớn hơn những chiếc khác và có tay vịn dành riêng cho ông, và được đặt ở đầu bàn. HHN] Các nhà bản thể luận cho rằng, vấn đề không phải là chỉ trích việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách sai lầm mà là trút “gánh nặng lên sự sống của thế giới”, như Blaser (2012:2) đã nói. Bước chuyển này đòi hỏi phải điều chỉnh các công cụ và cảm quan của cách nghiên cứu duy vật. Những mối bận tâm trước đây về lịch sử và xung đột phải được loại bỏ để chúng ta có thể mô tả sự bùng phát của cuộc sống bằng con mắt tỉnh táo. “Chúng ta không còn biết cách nói, chứ đừng viện đến lắng nghe, về những gì nằm ngoài phạm vi con người”, Kohn viết (2012:136) vả chăng, một nhân học được điều chỉnh về phương diện bản thể luận vẫn trao quyền cho “thế giới phi-nhân để giải phóng tư duy của chúng ta” (2012:138). Trở về với một thế giới tự nhiên chưa bị vấy bẩn bởi những hiểu lầm trước đây về nó, việc quay trở lại với cái bản thể luận có thể giải thoát chúng ta khỏi chiếc lồng nhận thức luận khách quan đã hoàn toàn vỡ mộng.

Viveiros de Castro cho rằng, một quan điểm hiện đại luận được đánh dấu bằng cái nhìn thiên vị đối với “tính thống nhất của tự nhiên và tính đa nguyên của văn hóa” (1998:470). Văn hóa bao gồm những tái hiện tương đối của một thực tại nền tảng duy nhất: tự nhiên. Viveiros de Castro cho rằng, vũ trụ quan của người Mỹ bản địa hoàn toàn ngược lại. Thế giới tự nhiên là vô số và sống động. Thứ luận điểm multiple natures “đa tự nhiên” này đã đóng sầm cửa trước mặt cả các nhà nhân học, những kẻ coi diễn giải là phương pháp và đối tượng nghiên cứu, lẫn các nhà lý thuyết phê phán, bọn người chuyên khám phá các đường nét xã hội và cam kết về tri thức. Đối với Viveiros de Castro, phân tích thuyết phục nhất không tập trung vào những hiểu biết mang tính biểu tượng hay hiệu quả mà là vào những thế giới được lắp ghép. Ở bên rìa thời hiện đại, vẫn tồn tại một phương thức sống đan xen đầy tranh cãi, một phương thức không chỉ thừa nhận cõi cộng hưởng vật chất mà còn giúp duy trì nó. Những ví dụ về “sinh thái của kẻ khác” ấy, như Descola (2013b) đã nói, đem đến [tr.446] những đối điểm gắt gao với sự tách biệt mong manh giữa chủ thể và khách thể, vốn là nền tảng của các phương cách nhận thức hiện đại. Vật linh luận được đưa ra như một hình thức cứu chuộc bởi vì nó thừa nhận thế giới tự nhiên được cấu thành từ những chủ thể sinh sôi nảy nở và không liên tục (Descola 2013a). Thật vậy, Latour (2002) ca ngợi loại đa tự nhiên luận này như một quả ngư lôi cuối cùng có thể đánh chìm con tàu ma thời hiện đại. Về mặt này, nhân học bản thể luận tự nhận mình có một tái định giá hấp dẫn về tính vật chất.

Tuy nhiên, sức mạnh của tuyên bố này lại nằm ở tầm quan trọng ngày càng tăng của các mối quan hệ ngang hàng giữa các loài và vạn vật cũng như ở chính phạm vi thời gian và không gian cụ thể mà nhân học bản thể luận giới hạn tính quan hệ đó. Không phải ngẫu nhiên mà cảnh quan thiên nhiên của các vũ trụ luận bản địa lại trở thành địa điểm mẫu mực cho nhân học bản thể luận. Bỏ qua tính đặc thù lịch sử của các thế giới được tập hợp cũng như các mạng lợi ích rộng lớn hơn mà chúng có thể được điều chỉnh (hoặc tách biệt), thay vào đó nhân học bản thể luận đặt các hệ sinh thái thay thế trên đỉnh cao của những viễn cảnh đầy nhiệt huyết về chúng (Kohn 2013; Pedersen 2013; Viveiros de Castro 1998). Hoàn toàn trái ngược với những mối quan tâm song hành trong STS, nơi mà “thực hành xã hội-vật chất” hội tụ đã cấu hình nên loại bản thể luận của các vấn đề lâm sàng (Mol 2002:6; Latour 1988), trường phái nhân học này coi bản thể luận là một sức mạnh siêu việt của chân lý làm sống động tính vật chất liền kề (Holbraad 2012).15

Ở đây, những khải lộ mang tính ma thuật về thế giới tự nhiên được đưa ra để thể hiện cả sự sắp đặt của các hệ sinh thái địa phương lẫn tương lai cứu chuộc mà tất cả chúng ta phải nắm lấy. Trường hợp quá tải môi trường phơi bày những giới hạn chọn lọc thực nghiệm của tính vật chất hiếm hoi này trong nhân học bản thể luận. Việc xem xét nghiêm túc dispersed agency tác tố phân tán của thế giới tự nhiên không nên chỉ giới hạn ở những ví dụ thiện lành và những tha tính xa vời. Bệnh tật, ô nhiễm và thảm họa nhân lên với một sức mạnh không thể bị gán cho nhận thức luận sai lầm của thời hiện đại. Việc liên tục thay thế hiệu quả hydrocarbon bằng lao động cưỡng bức mang đến một bước ngoặt bi thảm cho phép phân tích của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Như nghiên cứu của David Bond (2013a) đã chứng minh, những căng thẳng đáng chú ý của thời đại chúng ta không chỉ được sắp xếp trật tự theo những mâu thuẫn của sản xuất mà còn phù hợp với sự co rút của cuộc sống, dù là tỷ lệ ung thư gia tăng hay mực nước biển dâng cao. Mọi con người trên trái đất và hầu hết các loài động vật hiện nay đều có đồng vị phóng xạ, thuốc trừ sâu hydrochloric và vô số thành phần công nghiệp khác như thủy ngân và chì được lưu trữ một cách không an toàn trong cơ thể. Trong khi chủng tộc và giai cấp trong các thành phố công nghiệp cung cấp tọa độ ban đầu phơi bày các chất độc hại (Bullard 1990; Checker 2005; Hurley 1995; Lerner 2010), ngày nay khi chúng ta tìm hiểu thêm về các tuyến di chuyển của chất độc và mức độ dễ dàng tích tụ trong cơ thể chúng ta, thì các vùng địa lý được phơi bày bổ sung lại luôn tự khẳng định chính mình. Từ chối phân chia tuyệt đối mà nhân học bản thể luận coi trọng - hiện đại và phi-hiện đại – thì càng ngày càng nhiều hậu quả gặm mòn của công nghiệp hóa đang diễn ra ở những khu vực từ lâu vẫn được cho là nguyên lành nhất. Cho dù ở các khu rừng phương bắc của Alberta, thượng nguồn lưu vực sông Amazon, vùng đất phủ tuyết của Bắc Cực, hay những khu rừng bụi bặm của Gran Chaco, thì vô số hình thức quá tải quen thuộc vẫn luôn hình thành vượt ngoài giới hạn của chăm sóc phân tán. 

Ở Ecuador, các hoạt động khoan và xử lý kém chất lượng đã gây nguy hiểm cho nhiều cộng đồng người bản địa và nông dân (Cepek 2012; Kimerling 1991; Sawyer 2004). Tại các cộng đồng ở Bắc Cực, sự tuần hoàn có quy luật của không khí và nước trên Trái Đất đang tích tụ PCB [Polychlorinated biphenyl là một nhóm các hợp chất nhân tạo được sử dụng rộng rãi trong các thiết bị điện nhưng chúng đã bị cấm vào cuối những năm 1970 ở nhiều nước bởi những nguy cơ gây hại cho môi trường và sức khỏe; tuy nhiên PCB là những hợp chất rất bền vững, hiện nay chúng vẫn còn tồn tại trong môi trường; có khoảng 130 trong 209 loại phân tử PCB từng được sử dụng cho mục đích thương mại. HHN] và DDT [DDT là tên viết tắt của hợp chất hóa học Dichloro-Diphenyl-Trichloroethane, một loại thuốc trừ sâu tổng hợp đã từng được sử dụng rộng rãi, nhưng sau đó bị cấm do những tác động tiêu cực đến môi trường và sức khỏe con người. HHN], khiến các quần thể động vật và con người ở phía bắc phải gánh chịu hậu quả nặng nề từ các hóa chất dầu mỏ tổng hợp mà họ chưa từng sử dụng (Cone 2005; Downie và Fenge 2003). Việc đổ bừa bãi chất thải tại mỏ Ok Tedi ở Papua New Guinea đã biến một thung lũng miền núi hẻo lánh thành một vũng bùn độc hại, gây ra hậu quả nghiêm trọng cho những người vẫn phụ thuộc vào sông ngòi và đất đai để kiếm sống (Golub 2014; Kirsch 2014).16

Thảm họa cũng tái phân bổ gánh nặng xã hội về rủi ro và trách nhiệm độc hại (Bond 2013b; Fortun 2001; Petryna 2002). Như nhà nhân học y khoa Paul Farmer (2001, 2005) và các nhà sử học công nghiệp Gerald Markowitz và David Rosner (2003, 2013) đã mạnh mẽ chỉ ra, nhiễm trùng và phơi nhiễm có thể đánh dấu những phân biệt ngẫu nhiên như giai cấp, giới tính và chủng tộc với những hình thức biến dạng lâu dài hơn. Javier Auyero và D'ebora Swistun (2009:18) lưu ý, sự phân bố của những đau khổ như vậy có những hậu quả nghiêm trọng đối với “sức khỏe hiện tại” và “năng lực tương lai” của các nhóm dân cư bị gạt ra bên lề. Ở đây, tác động tiêu cực của bệnh tật, ô nhiễm và thảm họa tạo ra cơ sở hạ tầng mới cho việc tự nhiên hóa bất bình đẳng hiện có. Loại định dạng ác ý này về sự khác biệt của con người đặc biệt rõ ràng ở những nơi độc hại được cho là vượt ra ngoài cái hiện đại. Những vấn đề như vậy tạo thành một “bạo lực chậm” (Nixon 2011) mà chủ nghĩa duy vật hăng say của nhân học bản thể luận không thể kịp vào số, chứ đừng nói đến việc chống lại.

Theo cách đó, nhân học bản thể luận không thể giải thích được những hiện hữu và sự vật gây rối loạn di chuyển giữa các loại bản thể luận. Ngày nay, không chỉ ô nhiễm mà cả khai thác gỗ, khai khoáng, nông nghiệp và khai thác dầu mỏ cũng thường xuyên tác động đến các vị thế hàng đầu của bản thể luận. Nhân học bản thể luận tránh thừa nhận những xung đột như vậy, một phần, bằng cách đẩy mọi phân tích về tính vật chất ngày càng sâu hơn vào các tư liệu linh thiêng (Holbraad 2012). Trong khi Viveiros de Castro (1998) ban đầu đặt mối quan hệ giữa cái đa dạng tự nhiên và khối thống nhất siêu việt trong tập tính, thì các chuyên khảo bản thể luận gần đây lại khẳng định cách gói gọn cơ bản hơn của ý nghĩa vào vật chất. Ở đây, ý nghĩa không phải là một cách sử dụng hay quan điểm cụ thể về sự vật mà là nội tại trong chính sự vật. Tự gọi mình là “chủ nghĩa bản chất triệt để”, một chuyên luận gần đây khẳng định rằng “mục đích của phương pháp này là xem xét ‘sự vật’ gặp phải trên thực địa như chúng tự thể hiện, thay vì ngay lập tức giả định rằng chúng biểu nghĩa, tái thể hiện hoặc đại diện cho một cái gì khác” (Henare và cộng sự 2007:3). Tương tự như vậy, [tr.447] Pedersen (2013:105) cho rằng việc hiểu được sự cam kết mang tính ma thuật với cảnh quan Mông Cổ đòi hỏi một sự hiểu biết “phi liên hệ” về thế giới tự nhiên, bởi vì việc đặt câu hỏi về các mối quan hệ đã được coi là một nhận thức luận hiện đại. Ở cái thế giới xa xôi ngoài kia, điều quan trọng chính là khái niệm.

Sự kết hợp ngày càng chặt chẽ giữa lý tưởng và vật chất củng cố sức mạnh của vạn vật bên trong một pháo đài của sự khác biệt cơ bản. Nhưng nỗi kinh ngạc về tha tính tạo ra chỉ tồn tại chừng nào nền tảng của bản thể luận được giữ cho sạch sẽ. Lon Coca-Cola, súng ngắn, bóng đá, biểu tượng truyền giáo, ô nhiễm hóa dầu, đồ trang sức cho khách du lịch và áo phông từ Grand Rapids—chỉ kể tên một vài thứ chúng ta đã gặp ở những ngôi làng bản địa xa xôi—bị gạt sang một bên, khi những giấc mơ của đàn chó và những bài thánh ca của các bô lão trở thành hình thức vật chất cấp bách nhất. Thứ đa tự nhiên luận tinh tế này chỉ được củng cố khi hình tượng bản thể luận chuyển sự chú ý từ các mối quan hệ gia đình hoặc công việc với thế giới tự nhiên sang những xác quyết thầy tu về nó. Do đó, nhiều người trong lĩnh vực bản thể luận cố gắng thuyết phục các nhà nhân học đồng nghiệp rằng những viễn kiến ma thuật về thực tại sống động chính là phiên bản duy nhất thực sự có giá trị. Sự phân biệt mới giữa thời hiện đại (đơn tự nhiên luận) và phần còn lại (đa tự nhiên luận) dường như bỏ qua những mô tả nhiều sắc thái hơn về tự nhiên trong thời hiện đại tư bản chủ nghĩa. Những suy ngẫm của Raymond Williams (1980) về những cuộc triển khai ào ào thác đổ, những logic chồng chéo và những biểu hiện không phù hợp của tự nhiên dường như lại hợp thời hơn bao giờ hết.17 Coi tính hiện đại là triết lý tồi, nhân học bản thể luận gán ghép những nghiên cứu xã hội khó chịu cho những kỳ vọng sai lầm của nó. Ngoài việc bác bỏ những sự kiện bất ngờ của đế chế, chủ nghĩa tư bản và nhà nước (cùng những người chỉ trích gay gắt nhất) như bóng ma của một sự hiểu lầm hiện đại, sự quay lưng lại với tất cả những gì đã có trước đó còn bỏ qua việc một số nhà nhân học từ lâu đã nhận ra những hạn chế phân tích của nhị nguyên luận tự nhiên-văn hóa18 và nhận thấy các tập hợp vật chất sống là một công nghệ thường nhật hơn nhiều để định hình tính đương đại của chúng ta.     

Ví dụ, Clifford Geertz (1963) và Sidney Mintz (1985) đã xem các hình thái lịch sử của hệ sinh thái trong nông nghiệp Java và các đồn điền Caribe không phải là những hành động cân bằng giữa môi trường và văn hóa mà là những tập hợp mới lạ của thực vật, con người và lợi nhuận với hệ quả ảnh hưởng sâu rộng. Vậy thì, chủ nghĩa hiện thực thực nghiệm không phải là hoạt động đặc thù của các nhà khoa học phòng thí nghiệm và vũ trụ luận bản địa. Nó cũng là một chiến lược then chốt của đế chế, chủ nghĩa tư bản và nhà nước. Việc gán cuộc bình định của tự nhiên cho siêu hình học của thời hiện đại đã bỏ qua những cách thức mà các đồn điền thuộc địa (Stoler 1995, 2002), các trang trại và nhà máy công nghiệp (Holmes 2013; Pachirat 2011), các phòng thí nghiệm hạt nhân (Masco 2006), các công ty công nghệ sinh học (Hayden 2003; Sunder Rajan 2006), viện trợ nhân đạo (Agier 2011; Weizman 2012), y học sinh sản (Ginsburg và Rapp 1995; Lock và Kaufert 1998), và phản ứng của nhà nước trước thảm họa (Das 1995; Petryna 2002) đã nỗ lực, theo những con đường sáng tạo và cưỡng chế, để quản lý vật chất sống. Các nhà triết học có thể chỉ tìm hiểu vấn đề, nhưng công nhân, nông dân, nhà khoa học, kỹ sư và chuyên gia y tế từ lâu đã nhận ra và đã thương thảo với dispersed agencies các tác tố phân tán của thế giới tự nhiên. Việc dễ dàng bác bỏ tính hiện đại như là đơn tự nhiên luận đã bỏ qua một loạt cách thức nguyện cầu dài mà lối định dạng cụ thể đó chưa bao giờ thực sự quan trọng trong quá trình hình thành hiện tại của chúng ta.

Vì vậy, càng trớ trêu hơn khi nhân học bản thể luận sử dụng hình tượng biến đổi khí hậu để thúc đẩy một chuyển đổi tổng quát hơn khỏi tính hiện đại và những cạm bẫy trí tuệ của nó. Chúng ta nên nhớ rằng, theo nghĩa cụ thể nhất, tính hiện đại không phá vỡ khí hậu hành tinh của chúng ta, mà chính hydrocarbon mới làm điều đó. Việc quá chú trọng vào hiện đại đã bỏ qua địa lý phức tạp và hệ trọng hơn nhiều của hydrocarbon trong những hạn chế đang diễn ra của hiện tại. Bond (2011, 2013a), khi theo dõi các phép đo kỹ thuật và ngưỡng chịu đựng được của độc tính dầu mỏ trong các nhà máy, thành phố, quốc gia, và bây giờ là hành tinh, cho thấy các vấn đề về hydrocarbon đã đóng vai trò quan trọng như thế nào trong việc làm cho các điều kiện sống trở nên hữu hình, thực tế và có thể vận hành về phương diện chính trị. Từ khói bụi đô thị đến mưa axit, thuốc trừ sâu hydrochloric đến biến đổi khí hậu, sự gián đoạn hydrocarbon liên tục làm thay đổi gần như mọi thứ mà nhà nước biết về môi trường.

Những hiểu biết sâu sắc này cho thấy môi trường được quản trị của các nhà nước-dân tộc không phải là một thuộc tính của một nhận thức luận hiện đại thống nhất. Thay vào đó, nó là một quá trình hỗn loạn, được tạo ra bởi những phân định và động lực mới bởi sự gián đoạn đỉnh cao của các “vòng đời sau của hydrocarbon”. [Cụm từ hydrocarbon afterlives “vòng đời sau của hydrocarbon” có thể ám chỉ số phận của hydrocarbon sau khi được sử dụng lần đầu, đặc biệt trong bối cảnh sản xuất năng lượng và tác động môi trường; hydrocarbon, thành phần chính của nhiên liệu hóa thạch, là nguồn năng lượng chính nhưng cũng góp phần gây ra các vấn đề môi trường như ô nhiễm không khí và nước; “Vòng đời sau” của chúng bao gồm sự phân hủy, chuyển hóa và tồn tại trong môi trường, bao gồm cả vai trò của chúng trong biến đổi khí hậu. HHN] Những cuộc đấu tranh lịch sử và cơ sở hạ tầng của nhiên liệu hóa thạch đòi hỏi một hình thức tham gia thận trọng hơn những gì mà ngành nhân học chịu ảnh hưởng bản thể luận này có thể tập hợp được.19 Các học giả phê phán quan tâm đến những cách thức mà tính vật chất của hydrocarbon định hình cấu hình của chính trị ngày nay (Barry 2013; Mitchell 2011) và triển khai các phương thức thống trị và bất mãn mới (Appel 2012; Ferguson 2005; Marriott và Minio-Paluello 2013) đưa ra một cách tiếp cận hiệu quả hơn nhiều đối với biến đổi khí hậu. Bên cạnh những vấn đề khác, chúng còn cung cấp một cách thức để tiến hành một nền chính trị kiên trì hơn trong hiện tại của chúng ta.

Vô ước tính Phóng chiếu của Khác biệt

Cách tiếp cận bản thể luận, và sự đột phá mạnh mẽ trong học thuật mà nó đòi hỏi, tuyên bố tái định nghĩa mối quan hệ giữa nhân học và triết học. “Dù chúng ta hân hoan hay chùn bước trước nó,” Viveiros de Castro viết, “thì triết học thực sự mới là cái đang bị đe dọa” (2013:20). Những tuyên bố này dựa trên luận điểm cho rằng vũ trụ luận bản địa là “một tiền thân đen tối” cho các nguyên lý của triết học Deleuze (Viveiros de Castro 2013:21). Như Peter Skafish đã nói, “Vũ trụ học của người Mỹ bản địa có thể được coi là thực tế mà các loại thực tại khác biệt, quan hệ được Deleuze chỉ coi là những thực thể ảo và mang tính hiện tượng” (2013:16). Trong lập luận này, nhân học là một loại “bản thể luận so sánh” [tr.448] thích hợp nhất, liên quan đến các tiềm năng nội tại của mọi hiện hữu và sự vật (Viveiros de Castro 2013:18; xem Stoler 2001 để xem xét về phép so sánh thách thức dự án này). Do đó, Blaser lưu ý, nhân học bản thể luận đưa ra một “lệnh truyền rõ ràng là không giải thích quá nhiều hoặc cố gắng hiện thực hóa các khả tính nội tại trong tư duy của kẻ khác mà thay vào đó là duy trì chúng như những khả tính” (2014). Ý nghĩa của tính nội tại đối với nhân học bản thể luận không nằm ở những gì nó khải lộ về hiện tại của chúng ta mà nằm ở những lựa chọn thay thế mạch lạc mà nó mang lại cho tương lai của chúng ta. Ở đây, khả tính không kêu gào ra bên ngoài như những thân rễ Deleuzian hay những đường bay tròn, mà nó phóng về phía trước trong thời gian. Khi làm như vậy, nhân học bản thể luận dường như không cam kết với tính bất định ngẫu nhiên của hiện hữu mà là với projective incommensurability vô ước tính phóng chiếu của nó. Cần lưu ý rằng định hướng này khác với những cách thức có ảnh hưởng mà các nhà nhân học đã cam kết với các triết học về tính đa dạng (xem Biehl và Locke 2010; Deleuze 1994, 2005).

Những lý giải đương đại về cái mà Michael M. J. Fischer (2003) gọi là “các dạng sống mới nổi” có sức thuyết phục ở chỗ chúng giữ tính nội tại trong mối quan hệ trực tiếp với tính ngẫu nhiên, bạo lực và các lợi ích mâu thuẫn. Thật vậy, công trình của Joao Biehl (2005), Veena Das (2007), Emily Martin (2009), Anna Tsing (2005) và nhiều người khác rất thuyết phục bởi vì mỗi tác giả đều cho thấy, theo những cách riêng biệt, tính nội tại và sự ràng buộc luôn được duy trì trong tình trạng căng thẳng cấu thành liên tục. Những công trình như vậy nhấn mạnh cách thức mà cái mới nổi phải được xem xét trong mối quan hệ với thứ mà Williams gọi là “cái thống trị” và “cái còn lại” (1977:121). Việc đặt sự khác biệt trong những căng thẳng này, tất nhiên, không làm mất đi giá trị ý nghĩa hay phủ nhận sức mạnh thực sự của nó. Thay vào đó, nó mở ra một cánh cửa cho khả tính trong hiện tại bằng cách chấp nhận như nhau đối với tính bất toàn cơ bản của quyền lực và con người. Khi thoát khỏi những hiểu biết này, nhân học mang sắc thái bản thể luận nỗ lực thanh lọc những mối quan tâm của dân tộc học và triết học để chúng có thể trùng khớp hoàn hảo hơn. Mặc dù có sức thuyết phục trong những thế giới hạn hẹp mà nó quy định và dựa vào, nhưng tính tương đương giữa nhân học và triết học ấy lại gây ra nhiều vấn đề. Trong số đó, nó có nguy cơ tái hiện những giả định cổ xưa về cái nguyên thủy, vốn là nền tảng của phần lớn triết học Deleuze, khi tìm kiếm sự hòa hợp giữa loại triết học này với các nguyên lý của cấu trúc luận Lévi-Strauss (Viveiros de Castro 2009).

Mở rộng luận đề ban đầu của Pierre Clastres (1989 [1977]) và được Deleuze và Guattari (1983, 1987) tiếp nối nổi đình đám, Viveiros de Castro lập luận rằng tính đa dạng nguyên thủy là “một vũ trụ luận chống lại nhà nước”, “không thể nội tại hóa thành các cỗ máy khổng lồ của hành tinh” (2010:15, 48). Tuy nhiên, trái ngược với Clastres, ông tách tính đa dạng nguyên thủy khỏi các cuộc tranh đấu với tính đơn nhất của sức mạnh bá quyền. Đúng hơn, chỉ trong “cấu trúc bản thể luận đặc biệt của thế giới huyền thoại” mà “mặt phẳng nội tại của Amazon” mới tìm thấy “sự nhất quán nội tại dân tộc học thực sự” của nó (Viveiros de Castro 2010:48). Hình thái này hạn chế sự trở thành bản địa theo trật tự của huyền thoại, ngay cả khi nó không giải thích được những cách thức mà tính bản địa và tự nhiên có thể bị tranh chấp bởi các điểm kỳ dị chính trị mâu thuẫn. Những hạn chế như vậy về tính nội tại đối với huyền thoại và việc loại bỏ nó khỏi các lĩnh vực tranh luận, đến lượt nó, là cần thiết để duy trì lời xác quyết rằng “mọi lý thuyết nhân học không-tầm thường đều là một phiên bản của thực hành tri thức bản địa” (Viveiros de Castro 2013:18). Theo những cách thức như vậy, dự án này đã nhận thức sai lệch những gì nhân học mang lại và lấy đi từ triết học (Das và cộng sự 2014; Stoler 2012). Thật vậy, như Biehl (2013:535) gợi ý, đóng góp lâu dài của dân tộc học nằm ở xu hướng đại diện cho “con đường lý thuyết” bằng cách nhấn mạnh vào nhân loại trong tất cả tính phức tạp hiện tại, không có hồi kết của nó (xem thêm Fischer 2003).20 Theo cách đó, dường như hoàn toàn có khả năng là nhân học bản thể luận quyến rũ phê phán bằng cách mang hình thức tư duy cấp tiến trong khi từ chối nội dung trần tục của nó.

Trì hoãn Phê phán

Nhân học đương đại đã bắt đầu xuất hiện từ một cuộc khủng hoảng - cuộc đấu tranh kéo dài ba thập kỷ với thực tiễn mang tính đại diện - để rồi lại phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng khác: khủng hoảng phê phán. Bao gồm nhiều mối quan tâm chồng chéo, điều này có thể được tóm tắt như một khoảnh khắc do dự đầy hữu ích về những điều kiện để có thể có một sự phê phán nhân học đạo đức và hiệu quả về đương đại (Boltanski và Th'evenot 1999; Das 2007; Fassin 2013; Fischer 2009; Marcus 2010; Marcus và Fischer 1986; Roitman 2013; Scheper-Hughes 1995; Smith 1999). Nhân học bản thể luận hấp dẫn, một phần, bởi lời hứa hẹn được tuyên bố sẽ giải quyết cuộc khủng hoảng này. Giải pháp được đưa ra thật đáng kinh ngạc với những xác quyết và hệ quả của nó. Trong chừng mực các nhà bản thể luận có một dự án phê phán, thì đó không phải là dự án hướng đến những hệ quả mang tính xã hội của tri thức mà là hướng đến sự phê phán học thuật về tri thức.  Lý luận có vẻ là như sau: Bất kỳ thực hành phê phán nào nhắm vào chính trị đại diện - tức là nhắm vào những tách rời giữa hình thức lý tưởng và nội dung hỗn loạn, ý thức sai lầm, sự kết hợp quyền lực/tri thức, hoặc các cấu trúc cảm xúc - đều là sai lầm chết người. Phê phán nhận thức luận bị nghi ngờ bởi vì hành động phê phán đại diện lại giả định vị thế bản thể luận đặc quyền của sự đại diện. Nghĩa là, việc chú ý đến tác tố lịch sử của tri thức tự động làm giảm khả năng tồn tại của các tác tố thay thế trong hiện tại.

Tính hiện đại, được xây dựng trên sai lầm này một cách giả tạo, đặt các mối quan hệ tri thức lên trên các phương thức hiện hữu. Đặc quyền này có nghĩa là tất cả các phê phán về diễn giải hay ý nghĩa đều dựa trên việc đặt tính đa dạng bản thể luận phụ thuộc vào một ma trận duy nhất, tách biệt các câu hỏi nhận thức luận khỏi các câu hỏi bản thể luận. Đổi lại, điều này khiến những gì thực sự là các thế giới bên ngoài tự chủ xuất hiện như là hiện tượng phụ của chính tính hiện đại, một phép quy giản được tạo ra bởi [tr.449] thuật hư cấu về một lịch sử nhân loại chung và khái niệm văn hóa. Động lực thừa nhận thứ tác tố của các nhóm người bản địa trong lịch sử thế giới hoặc hiểu sự khác biệt chỉ mang tính văn hóa thì chính là một trò lừa bịp xảo quyệt phủ nhận  tồn tại của nhiều thế giới. Chúng ta được biết, những kiểu vận hành như vậy, về mặt công cụ, đã bóp méo các xung đột giữa bên trong và bên ngoài, khiến chúng chỉ có thể được hiểu là những cuộc tranh luận nội bộ về tính trung thực của việc đại diện cho một thực tại chung. Do đó, các nhà bản thể luận lập luận rằng hình tượng phê phán văn hóa được tôn thờ trong nhân học thông thường là một hình thức độc hại của ontopraxis phép thực hành bản thể hiện đại (Blaser 2009a; Holbraad 2012). Trong sơ đồ này, trở ngại thực sự cho tương lai chính là phê phán thì-hiện tại.

Vậy các nhà bản thể luận đề xuất giải pháp thay thế nào? Không gì khác hơn là kiểm soát cuộc Đại Phân ly giữa hiện đại và phi-hiện đại, với thói tự phụ thêm vào cái “bước ngoặt bản thể luận... là một cùng đích chính trị theo đúng nghĩa của nó” (Viveiros de Castro và cộng sự, 2014). Do đó, Ghassan Hage có thể lập luận rằng nhân học phải quay trở lại “đạo đức của nhân học nguyên thủy phê phán nếu nó muốn duy trì tính phê phán” (2012:303; Hage 2014). Lấy cảm hứng từ cách tiếp cận “mẫu mực” của Viveiros de Castro, Hage lập luận rằng đóng góp của nhân học cho tư duy phê phán luôn là sự đối đầu của nó với những con người tồn tại “bên ngoài hiện đại”. Chỉ bằng cách vật lộn với một tha tính không thể tưởng tượng trước đây, nhân học mới có thể chứng minh rằng “chúng ta có thể hoàn toàn khác với chính chúng ta hiện giờ” và do đó tạo ra một “trí tưởng tượng cấp tiến mới đến từ bên ngoài không gian hiện có của các khả tính chính trị thông thường” (Hage 2012:289). Một lập luận tương tự cũng được Michael Hardt và Antonio Negri đưa ra, họ cũng coi “phối cảnh luận Mỹ bản địa” là một cách để “phê phán nhận thức luận hiện đại và thúc đẩy nó hướng tới một lý tính hiện đại khác” (2009:123). Những lập luận như vậy cho thấy, trước sự đồng nhất sắp xảy ra của tính hiện đại, thì giá trị của tha tính Mỹ bản địa rất rõ ràng: Nó mang đến một “Thế giới Mới mới” có sẵn ở ngoài kia.

Những tưởng tượng này tái định nghĩa phê phán bằng cách dịch chuyển nó trong thời gian và không gian. Tất nhiên, lý thuyết phê phán từ lâu đã quan tâm đến việc xác định tọa độ của phê phán từ những vị trí phụ thuộc của con người thực: những cách hiểu biết phức tạp cũng như những cách hiện hữu hỗn loạn của họ. Nhân học bản thể luận bác bỏ lối vận hành này. Thay vào đó, nó hình dung sự kháng cự như một sự đã rồi trong tương lai, không cần đến sự che đậy của sự thống trị hiện tại. Trong mô hình này, phê phán không nằm trong vị trí chủ thể cụ thể về mặt lịch sử của người Indians mà nằm trong tính hữu dụng sắp xảy ra của thứ vũ trụ luận phi thời gian của họ. Điều quan trọng cần lưu ý là vũ trụ luận này bị giới hạn trước trong “cấu trúc bản thể luận đặc thù của thế giới huyền thoại” (Viveiros de Castro 2010:40). Trong đó, có một sự tái cấu hình tinh tế của thực hành nhân học, thoát khỏi dân tộc học định hướng-vấn đề, nhắm đến điều mà Matei Candea (2007) ca ngợi là bounded field-site “địa điểm thực địa giới hạn” của bản thể luận. [Thuật ngữ “địa điểm thực địa giới hạn” trong nhân học đề cập đến một khu vực được xác định về mặt địa lý, thường là một ngôi làng hoặc hòn đảo, vốn được coi là một đơn vị độc lập cho nghiên cứu dân tộc học; nó ngụ ý một không gian cụ thể, giới hạn nơi nhà nghiên cứu tập trung nghiên cứu, tách biệt nó khỏi thế giới rộng lớn hơn; phương pháp này hiện đang được đánh giá lại dựa trên thực địa đa địa điểm và sự hiểu biết sâu sắc hơn về động lực xã hội và văn hóa. HHN] Theo những cách như vậy, giải pháp bản thể luận cho cuộc khủng hoảng phê phán là hoàn toàn né tránh nó.  

Động thái này rất quan trọng để thanh lọc học thuyết bản thể luận. Nhân học bản thể luận cố gắng tái định hướng không gian và thời gian phân tích theo các điều khoản của tầm nhìn không tưởng của nó. Như Michael Scott đã lưu ý, “phi-nhị nguyên luận được tạo ra một cách kỳ diệu của nhân học bản thể luận có sức thuyết phục về mặt thẩm mỹ nhưng lại tiềm ẩn tính chất cánh chung...nó xóa bỏ lịch sử, chuyển đổi mọi bản thể luận đã tồn tại thành sự phù hợp với các khuôn khổ tái điều hướng vĩnh cửu của chính nó” (2013b:304). Giọng điệu rõ ràng mang tính cánh chung này gợi lên thông điệp về sự cứu chuộc thế giới, được biện minh bằng hình ảnh một thảm họa sắp xảy ra. Nó giả định một vũ trụ giới hạn mà chỉ những kẻ có thẩm quyền được tấn phong mới có thể vượt qua một cách kỳ diệu. Nó dựa trên một loạt các nghịch lý cấu thành, trong đó sức mạnh của tầm nhìn phản hiện đại của nó phụ thuộc vào việc chiếm đoạt một số khía cạnh then chốt của chương trình chính trị hiện đại tính. Những đặc điểm này cùng tồn tại với những mặt có vẻ đối lập của chúng. Thay vì làm suy yếu dự án bản thể luận, những mâu thuẫn như vậy buộc các nhà bản thể luận phải nhấn mạnh vào tín điều tổng quát của họ: Người ta phải chấp nhận tất cả các khuôn khổ của nó hoặc không chấp nhận bất kỳ một khuôn khổ nào. Trong các tọa độ bản thể luận riêng của nó, như Scott một lần nữa lưu ý, nhân học bản thể luận mang âm hưởng tôn giáo sâu sắc, hoạt động như “một loại nghiên cứu tôn giáo mới về tôn giáo” (2013a:859). Nếu vậy, đây là một phong trào tôn giáo có vẻ quen thuộc một cách kỳ lạ. Nhân học bản thể luận có sự tương đồng kỳ lạ với một phong trào khác đầy rắc rối, nghịch lý nằm trong và chống lại tính hiện đại: religious fundamentalism thống tín luận tôn giáo.

Kết luận

Tóm lại, các quan sát trên dẫn chúng ta đến hình thành ba luận đề sau: 1) Thứ nhất, bước ngoặt bản thể luận thay thế dân tộc học về cái hiện thực bằng xã hội học về cái khả thể thông qua việc tổng hợp, áp đặt và phủ nhận các loại hình học lý tưởng. Điều này chuyển hướng chú ý khỏi chính trị thực sự tồn tại của tự nhiên và văn hóa theo cách thức khiến cho nỗ lực siêu việt lai ghép tri thức và phục vụ cộng đồng trở nên bất khả thi. 2) Thứ hai, bước ngoặt bản thể luận cụ thể hóa sự đổ nát của nhiều lịch sử khác nhau thành những hình thái của hiện tại triết học, trong chừng mực nó hình dung những di sản thuộc địa và dân tộc học như một ngôi làng hoàn hảo cho triết học hướng tới tương lai. [“forward-thinking philosophy” triết học hướng tới tương lai” đề cập đến một phương pháp tiếp cận nhấn mạnh việc lập kế hoạch và dự đoán tương lai, thay vì chỉ phản ứng với hiện tại hoặc quá khứ; nó bao gồm việc chủ động xem xét những thách thức, cơ hội và xu hướng tiềm ẩn, đồng thời xây dựng các chiến lược để định hướng chúng một cách hiệu quả; tư duy này thường ưu tiên sự đổi mới, khả năng thích ứng và cải tiến liên tục. HHN] Các loại hình lý tưởng của nó tái hiện những phép nhị phân thuộc địa của cấu trúc luận vốn từ lâu đã bị các nhà lý thuyết Marxian, hậu thuộc địa, nữ quyền luận và đồng tính phê phán với mục đích chống lại hoặc xóa bỏ những ảnh hưởng bá quyền của loại tri thức này (Davis 1981; Mbembe 2001; Said 1979; Spivak 1999). Thật vậy, những quỹ đạo này đã cung cấp tọa độ cơ bản cho nhiều nhà nhân học Mỹ kể từ những năm 1970. Hiệu ứng tổng thể là bước ngoặt bản thể luận chuẩn hóa tính đa dạng và bái vật tha tính thông qua những thuật ngữ mà nó tuyên bố tránh né chính trị đại diện. 3) Cuối cùng, bước ngoặt bản thể luận định hình thế giới cho những loại hình quy tắc mới dựa trên sự quan tâm đặc biệt và [tr.450] lối xem nhẹ có thể chấp nhận được, trong đó các thế giới hiện đại khác do các học giả tinh hoa khám phá mang lại nơi cư trú cứu rỗi cho một số ít người được đặc quyền, trong khi quần chúng toàn cầu phải đối mặt với những hình thức ngày càng sắc nét và các quá trình bất bình đẳng và gạt ra ngoài lề (Beck 1992; Fassin 2012; Ranci`ere 2009; Stoler 2010; Wacquant 2009; Weizman 2007). Chúng tôi khẳng định rằng hình tượng cứu chuộc luận của tha tính bản thể luận là một siêu tự sự quyết định của vãn-tự do luận thấm nhuần vị thế bản thể luận đặc quyền của chính nó.

Tóm lại, chúng tôi không chia sẻ sự ám ảnh này về cái hiện đại, cũng không tin rằng năng lực xét lại bị giới hạn ở mặt đối lập của nó. Chúng tôi bác bỏ sự dịch chuyển ly tâm của các năng lực sáng tạo và phê phán sang những nội dung linh thiêng bề ngoài vẫn tồn tại vượt khỏi hiện đại tính. Điều chúng tôi nhấn mạnh là một thế giới chung với những vấn đề phân bố không đồng đều. Thế giới này là một thế giới của những thời tính bất ổn và luân chuyển, của những đứt gãy nhận thức và vật chất, của những phạm trù và sự vật đang tan rã và được tái tổ hợp. Đó là một thế giới được cấu thành bởi những tiềm năng nhưng cũng là các ngẫu tính, bởi sự trở thành nhưng cũng là bạo lực, trong đó tính nội tại tự nó không bao giờ là vô tội. Chúng tôi hy vọng rằng những giá trị tối thượng của nhân học bản thể luận sẽ được đánh giá trong lĩnh vực của các va chạm và mâu thuẫn của cái thế giới-hiện thực này. Do đó, chúng tôi thấy thật sai lầm khi cho rằng nhân học phải lựa chọn giữa sự ảm đạm ngột ngạt của hiện đại nguyên khối hay cú  vuột qua kỳ ảo của nền văn minh tương lai. Cả hai lựa chọn đều khiến chúng ta lúng túng và không đủ khả năng lý giải các điều kiện thực tế trong hiện tại đầy bất ổn ấy (Biehl và Petryna 2013; Fortun 2013). Thay vào đó, chúng tôi đồng tình với Fischer khi cho rằng điều cấp thiết cần thay thế là một “nền chính trị nhân văn mới, cởi mở với cả hậu-nhân loại cùng các thành phần nhân văn của nó… cho phép chúng ta tồn tại, sống sót sau bất kỳ thảm họa nào đang rình rập… và sẽ chống lại sự bất bình đẳng và tàn phá ngày càng gia tăng của nền kinh tế ăn thịt người hiện tại, đang cướp đi sinh mạng của những nhóm người này để đổi lấy sự xa hoa cho những kẻ khác” (2013:31). Chủ nghĩa vị lai tư biện của nhân học bản thể luận, như đang được thực hành, lại cản trở chính mục tiêu này. Một dự án như vậy chỉ có thể bắt đầu bằng việc thừa nhận rằng tương lai của chúng ta là bất trắc bởi vì hiện tại của chúng ta cũng vậy. Nếu nhân học bản thể luận không giải thích được những ngẫu nhiên tính như vậy, thì nó sẽ mang hình thức của một huyền thoại hiện đại và hình ảnh duy nhất mà nó phản ánh lại chính là hình ảnh của bản thân nó.

_______________________________________________

Nguồn: Lucas Bessire and David Bond (2014). Ontological anthropology and the deferral of critique, In Journal American Ethnologist, Vol. 41, No. 3, pp. 440–456, Published in 2014 by the American Anthropological Association.

Notes

12. Lưu ý rằng các học giả làm việc trong lĩnh vực STS đã đón nhận những tuyên bố của các nhà bản thể luận về tính mới lạ với thái độ hoài nghi tương tự (Lynch 2013).

13. Các phòng thí nghiệm của Latour và người Mỹ bản địa của Viveiros de Castro không diễn giải thế giới, họ trở thành thế giới.

14. Trong phần lớn các nghiên cứu này, thế giới tự nhiên phản ánh và mở rộng các tác phẩm của con người theo những cách không ngờ tới, chẳng hạn như việc gieo hạt dọc theo một con đường đã làm thay đổi khu rừng (Bal’ee 1999; Rival 2012), hay việc đào kênh làm thay đổi toàn bộ cảnh quan (Raffles 2002), hay sự phổ biến của ô tô có thể làm biến đổi khí hậu hành tinh (Archer 2009), hay bệnh tật có thể làm trầm trọng thêm bất bình đẳng (Crosby 1986; Farmer 2001), hay việc tiếp xúc với chất độc hại có thể làm giảm bớt sự khác biệt xã hội (Auyero và Swistun 2009; Markowitz và Rosner 2013). Thế giới tự nhiên không hề “ở ngoài kia”. Thế giới của chúng ta tràn ngập những mối liên hệ phức tạp đến mức việc loại bỏ con người khỏi tự nhiên là điều không hợp lý. Tuy nhiên, hãy lưu ý đến sự chuyển đổi của các ví dụ. Trong khi nhân học bản thể luận hoan nghênh những ví dụ trước đây về việc người bản địa tạo ra thế giới của họ, thì nó lại đề cập rất ít đến những sự cộng hưởng ngấm ngầm và mang tính hủy diệt đang làm phức tạp thế giới hiện tại của chúng ta.

15. Cuốn sách The Body Multiple: Ontology in Medical Practice (2002) của Mol là một ví dụ điển hình về điểm này. Việc Mol khéo léo đặt các mối quan hệ và thực hành chủ động trong việc phối hợp các bản thể luận vật chất tiếp tục được khai thác theo những cách mới mẻ (Paxson và Helmreich 2014). Thật vậy, Steve Woolgar và Javier Lezaun gần đây đã lưu ý rằng chủ nghĩa duy vật sống động “cần được hiểu là kết quả ngẫu nhiên của các thực hành, chứ không phải là một thực tại nền tảng cần được soi sáng bởi một loại khảo sát bản thể luận” (2013:326).

16. Sự hiểu biết của Stuart Kirsch (2014) về “các hệ sinh thái va chạm” mang đến một sự tương phản hiệu quả với mối quan tâm của Descola (2013a) về “hệ sinh thái của những người khác”.

17. Cũng giống như sự nhấn mạnh của Williams cho rằng chúng ta phải chú ý đến tính vật chất của các ý tưởng.

18. Năm 1955, Julian Steward đã triển khai “sinh thái học văn hóa” như một khuôn khổ phân tích, cuối cùng có thể đặt thế giới xã hội và tự nhiên của con người trên một mặt phẳng chung của sự tồn tại. Chúng ta có thể thấy những giải pháp trước đây còn thiếu sót, nhưng chúng ta không thể dễ dàng khẳng định rằng việc nhận ra vấn đề này là hoàn toàn mới. Năm 1963, Clifford Geertz đã lưu ý rằng sai sót nghiêm trọng trong rất nhiều nghiên cứu dân tộc học là trước hết họ “tách biệt các hoạt động của con người và các quá trình của tự nhiên thành các lĩnh vực khác nhau—‘văn hóa’ và ‘môi trường’—và sau đó cố gắng xem xét cách thức các lĩnh vực liên quan bên ngoài này, với tư cách là những tổng thể độc lập, ảnh hưởng lẫn nhau như thế nào” (1963:2–3). Trong một kiểu xác lập như vậy, “người ta chỉ có thể đặt ra những câu hỏi thô thiển nhất”, Geertz lưu ý, “và người ta chỉ có thể đưa ra những câu trả lời thô thiển nhất” (1963:3).

19. Tính vật chất của hydrocarbon cũng đòi hỏi một sự phân tích cẩn thận hơn so với những gì chủ nghĩa Marx cho phép. Trong các hệ sinh thái đột biến, các cơ thể ung thư, cảnh quan đầy sẹo và các kiểu thời tiết méo mó, sức mạnh của hydrocarbon vượt xa các chiều kích lao động của một loại hàng hóa. Có lẽ Mauss thay vì Marx là người đưa ra khái niệm chính xác nhất về dầu thô. Khi được tiêu thụ, hydrocarbon không biến mất mà hình thành nên các hình thức nghĩa vụ tận thế có thể vượt quá khả năng của chính sự sống.

20. Ngay cả khi những lo ngại như vậy bị gạt sang một bên, chúng ta không chắc những tuyên bố triết học của nhân học chịu ảnh hưởng bản thể luận có thể được coi là hiển nhiên không. Bài phê bình Deleuze của Alain Badiou (2000) có thể liên quan ở đây. Đối với Badiou, thật ảo tưởng khi tưởng tượng rằng Deleuze đưa ra một lý thuyết vững chắc về đa nguyên. Thay vào đó, ông lập luận rằng lý thuyết đơn nghĩa bản thể luận của Deleuze không nhằm mục đích giải phóng đa nguyên mà là xây dựng một khái niệm mới về Cái Một. “Trên thực tế, điều này có nghĩa là bội số có trạng thái hoàn toàn mang tính hình thức hoặc phương thức, chứ không phải trạng thái thực (vì bội số chứng thực quyền năng của Cái Một, trong đó bao gồm trạng thái bản thể của nó) và do đó, về cơ bản, thuộc loại hình ảnh giả tạo” (Burchill 2000:xiv).

References cited

Abercrombie, Tom 1998. Pathways of Memory and Power: Ethnography and History among an Andean People. Madison: University of Wisconsin Press. N.d. The Iterated Mountain: Things as Signs in Potos´ı. Unpublished MS, Department of Anthropology, New York University.

Agamben, Giorgio 2005. State of Exception. Kevin Axell, trans. Chicago: University of Chicago Press.

Agier, Michel 2011. Managing the Undesirables: Refugee Camps and Humanitarian Government. Cambridge: Polity Press.

Appel, Hannah 2012. Offshore Work: Oil, Modularity, and the How of Capitalism in Equatorial Guinea. American Ethnologist 39(4):692–709.

Archer, David 2009. The Long Thaw: How Humans Are Changing the Next 100,000 Years. Princeton: Princeton University Press.

Auyero, Javier, and D´ebora Swistun 2009. Flammable: Environmental Suffering in an Argentine Shantytown. Oxford: Oxford University Press.

Bacigalupo, Ana Mariella 2007. Shamans of the Foye Tree: Gender, Power, and Healing among the Chilean Mapuche. Austin: University of Texas Press.

Badiou, Alain 2000. Deleuze: The Clamor of Being. Louise Burchill, trans. Minneapolis: University of Minnesota Press.

Balee, William 1994. Footprints in the Forest: Ka’apor Ethnobotany—The Historical Ecology of Plant Utilization by an Amazonian People. New York: Columbia University Press.

Barker, Joanne 2011. Native Acts: Law, Recognition, and Cultural Sovereignty. Durham, NC: Duke University Press.

Barry, Andrew 2013. Material Politics: Disputes along the Pipeline. Chichester, UK: John Wiley and Sons.

Beck, Ulrich 1992. Risk Society: Towards a New Modernity. Mark Ritter, trans. London: Sage.

Bennett, Jane 2010. Vibrant Matter: A Political Ecology of Things. Durham, NC: Duke University Press.

Bessire, Lucas 2011. Apocalyptic Futures: The Violent Transformation of Moral Human Life among Ayoreo-Speaking People of the Gran Chaco. American Ethnologist 38(4):743–757.

Bessire, Lucas 2012a. The Politics of Isolation: Refused Relation as an Emerging Regime of Indigenous Biolegitimacy. Comparative Studies in Society and History 54(3):1–32.

Bessire, Lucas 2012b. We Go Above: Media Metaphysics and the Making of Moral Life on Ayoreo Two-Way Radio. In Radio Fields: Anthropology and Wireless Sound in the 21st Century. Lucas Bessire and Daniel Fisher, eds. Pp. 197–214. New York: New York University Press.

Bessire, Lucas 2014a. Behold the Black Caiman: A Chronicle of Ayoreo Life. Chicago: University of Chicago Press.

Bessire, Lucas 2014b. The Rise of Indigenous Hypermarginality: Culture as a Neoliberal Politics of Life. Current Anthropology 55(3): 1–20.

Biehl, Joao 2005. Vita: Life in a Zone of Social Abandonment. Berkeley: University of California Press.

Biehl, Joao 2013. Ethnography in the Way of Theory. Cultural Anthropology 28(4):573–597.

Biehl, Joao, and Peter Locke 2010. Deleuze and the Anthropology of Becoming. Current Anthropology 51(3):317–351.

Biehl, Joao, and Adriana Petryna, eds. 2013. When People Come First: Critical Studies in Global Health. Princeton: Princeton University Press.

Blackhawk, Ned 2006. Violence over the Land: Indians and Empires in the Early American West. Cambridge, MA: Harvard University Press.

Blaser, Mario 2009a. Political Ontology: Cultural Studies without Culture? Cultural Studies 23(5–6):873–896.

Blaser, Mario 2009b. The Threat of the Yrmo: The Political Ontology of a Sustainable Hunting Program. American Anthropologist 111(1):10–20.

Blaser, Mario 2012. Ontology and Indigeneity: On the Political Ontology of Heterogeneous Assemblages. Cultural Geographies 21(1):1–10.

Blaser, Mario 2013. Ontological Conflicts and the Stories of Peoples in Spite of Europe: Toward a Conversation on Political Ontology. Current Anthropology 54(5):547–568.

Blaser, Mario 2014. The Political Ontology of Doing Difference…and Sameness. In Fieldsights—Theorizing the Contemporary. Cultural Anthropology Online, January 13. Boltanski, Luc, and Laurent Th’evenot 1999. The Sociology of Critical Capacity. European Journal of Social Theory 2(3):359–377.

Bond, David 2011. The Science of Catastrophe: Making Sense of the BP Oil Spill. AnthroNow 3(1):36–46.

Bond, David 2013a. The Environment Must Be Defended: Hydrocarbon Disasters and the Governance of Life during the BP Oil Spill. Ph.D. dissertation, Department of Anthropology, New School for Social Research.

Bond, David 2013b. Governing Disaster: The Political Life of the Environment during the BP Oil Spill. Cultural Anthropology 28(4):694–715.

Briones, Claudia 1998. La alteridad del “cuarto mundo”: Una deconstrucci´on antropol´ogica de la diferencia. Buenos Aires: Ediciones del Sol.

Bullard, Robert 1990. Dumping in Dixie: Race, Class, and Environmental Quality. Boulder, CO: Westview Press.

Burchill, Louise 2000. Translator’s Preface: Portraiture in Philosophy, or Shifting Perpectives. In Deleuze: The Clamor of Being. Alain Badiou. Pp. vii–xxiv. Minneapolis: University of Minnesota Press.

Byrd, Jodi 2011. The Transit of Empire: Indigenous Critiques of Colonialism. Minneapolis: University of Minnesota Press.

Candea, Matei 2007. Arbitrary Locations: In Defence of the Bounded Field-Site. Journal of the Royal Anthropological Institute 13(1):167–184.

Cepek, Michael 2012. The Loss of Oil: Constituting Disaster in Amazonian Ecuador. Journal of Latin American and Caribbean Anthropology 17(3):393–412.

Checker, Melissa 2005. Polluted Promises: Environmental Racism and the Search for Justice in a Southern Town. New York: New York University Press.

Clastres, Pierre 1989. Society against the State: Essays in Political Anthropology. New York: Zone Books.

Clifford, James 2001. Indigenous Articulations. Contemporary Pacific 13(2):468–490.

Comaroff, Jean 1985. Body of Power, Spirit of Resistance: The Culture and History of a South African People. Chicago: University of Chicago Press.

Comaroff, Jean, and John Comaroff 2003. Ethnography on an Awkward Scale: Postcolonial Anthropology and the Violence of Abstraction. Ethnography 4(2):147–179.

Cone, Marla 2005. Silent Snow: The Slow Poisoning of the Arctic. New York: Grove Press.

Coronil, Fernando 1997. The Magical State: Nature, Money, and Modernity in Venezuela. Chicago: University of Chicago Press.

Costa, Luiz, and Carlos Fausto 2010. The Return of the Animists: Recent Studies of Amazonian Ontologies. Religion and Society 1(1):89–109.

Crosby, Alfred 1986. Ecological Imperialism: The Biological Expansion of Europe, 900–1900. Cambridge: Cambridge University Press.

Das, Veena 1995. Critical Events: An Anthropological Perspective on Contemporary India. Oxford: Oxford University Press.

Das, Veena 2007. Life and Words: Violence and the Descent into the Ordinary. Berkeley: University of California Press.

Das, Veena, Michael Jackson, Arthur Kleinman, and Bhriqupati Singh, eds. 2014 The Ground Between: Anthropologists Engage Philosophy. Durham, NC: Duke University Press.

Davis, Angela 1981. Women, Race and Class. New York: Vintage Books.

Deleuze, Gilles 1992. The Fold: Leibniz and the Baroque. Tom Conley, trans. Minneapolis: University of Minnesota Press.

Deleuze, Gilles 1994[1968]. Difference and Repetition. Paul Patton, trans. New York: Columbia University Press.

Deleuze, Gilles 2005. Pure Immanence: Essays on a Life. Anne Boyman, trans. New York: Zone Books.

Deleuze, Gilles, and F´elix Guattari 1983[1972]. Capitalism and Schizophrenia, vol. 1: Anti-Oedipus. Brian Massumi, trans. Minneapolis: University of Minnesota Press.

Deleuze, Gilles, and F´elix Guattari 1987[1980]. Capitalism and Schizophrenia, vol. 2: A Thousand Plateaus. Brian Massumi, trans. Minneapolis: University of Minnesota Press.

Dennison, Jean 2012. Colonial Entanglements: Constituting a 21st Century Osage Nation. Chapel Hill: University of North Carolina Press.

Descola, Philippe 2013a. Beyond Nature and Culture. Janet Lloyd, trans. Chicago: University of Chicago Press.

Descola, Philippe 2013b The Ecology of Others. Genevi´eve Godbout and Benjamin Luley, trans. Chicago: Prickly Paradigm Press.

de Vries, Hent, and Lawrence Sullivan, ed. 2006. Political Theologies: Public Religions in a Post-Secular World. New York: Fordham University Press.

Downie, David, and Terry Fenge, eds. 2003. Northern Lights against POPs: Combating the Toxic Threats in the Arctic. Montreal: McGill University Press.

Farmer, Paul 2001. Infections and Inequalities: The Modern Plagues. Berkeley: University of California Press.

Farmer, Paul 2005. Pathologies of Power: Health, Human Rights, and the New War on the Poor. Berkeley: University of California Press.

Fassin, Didier 2009. Another Politics of Life Is Possible. Theory, Culture and Society 26(5):44–60.

Fassin, Didier 2012. Humanitarian Reason: A Moral History of the Present. Berkeley: University of California Press.

Fassin, Didier 2013. Why Ethnography Matters: On Anthropology and Its Publics. Cultural Anthropology 28(4):621–648.

Fassin, Didier, and Mariella Pandolfi, eds. 2010. Contemporary States of Emergency: The Politics of Military and Humanitarian Interventions. New York: Zone Books.

Ferguson, James 2005. Seeing Like an Oil Company: Space, Security, and Global Capital in Neoliberal Africa. American Anthropologist 107(3):377–382.

Fischer, Michael M. J. 2003. Emergent Forms of Life and the Anthropological Voice. Durham, NC: Duke University Press.

Fischer, Michael M. J. 2009. Anthropological Futures. Durham, NC: Duke University Press.

Fischer, Michael M. J. 2013. Double-Click: The Fables and Language Games of Latour and Descola, Or, From Humanity as Technological Detour to the Peopling of Technologies. Paper presented at the Annual Meeting of the American Anthropological Association, Chicago, November 22.

Fortun, Kim 2001. Advocacy after Bhopal: Environmentalism, Disaster, and New Global Orders. Chicago: University of Chicago Press.

Fortun, Kim 2013. From Latour to Late Industrialism. Paper presented at the Annual Meeting of the American Anthropological Association, Chicago, November 22.

Franklin, Sarah, and Margaret Lock, eds. 2003. Remaking Life and Death: Toward an Anthropology of the Biosciences. Santa Fe, NM: School of American Research Press.

Fuentes, Agust’ın 2010. On Nature and the Human. American Anthropologist 112(4):512–521.

Geertz, Clifford 1963. Agricultural Involution: The Process of Ecological Change in Indonesia. Berkeley: University of California Press.

Ginsburg, Faye 1995. The Parallax Effect: The Effect of Aboriginal Media on Ethnographic Film. Visual Anthropology Review 11(2): 64–76.

Ginsburg, Faye 2008. Rethinking the Digital Age. In The Media and Social Theory. David Hesmondhalgh and Jason Toynbee, eds. Pp. 127–144. New York: Routledge.

Ginsburg, Faye 2011. Native Intelligence: A Short History of Debates on Indigenous Media and Ethnographic Film. In Made To Be Seen: Perspectives on the History of Visual Anthropology. Marcus Banks and Jay Ruby, eds. Pp. 234–255. Chicago: University of Chicago Press.

Ginsburg, Faye, and Rayna Rapp, eds. 1995. Conceiving the New World Order: The Global Politics of Reproduction. Berkeley: University of California Press.

Golub, Alex 2014. Leviathans at the Gold Mine: Creating Indigenous and Corporate Actors in Papua New Guinea. Durham, NC: Duke University Press.

Gordillo, Gast’on 2004. Landscapes of Devils: Tensions of Place and Memory in the Argentinean Chaco. Durham, NC: Duke University Press.

Gordillo, Gast’on 2014. Rubble: The Afterlife of Destruction. Durham, NC: Duke University Press.

Gordon, Robert 2000. The Bushman Myth: The Making of a Namibian Underclass. Boulder, CO: Westview Press.

Hacking, Ian 2002. Historical Ontology. Cambridge, MA: Harvard University Press.

Hage, Ghassan 2012. Critical Anthropological Thought and the Radical Political Imaginary Today. Critique of Anthropology 32(3):285–308.

Hage, Ghassan 2014. Critical Anthropology as a Permanent State of First Contact. In Fieldsights—Theorizing the Contemporary. Cultural Anthropology Online. January 13. Hale, Charles 2004. Rethinking Indigenous Politics in the Era of the Indio Permitido. NACLA Report on the Americas 38(2):16–21.

Hale, Charles 2006. Activist Research v. Cultural Critique: Indigenous Land Rights and the Contradictions of Politically Engaged Anthropology. Cultural Anthropology 21(1):96–120.

Hanks, William 2009. Converting Words: Maya in the Age of the Cross. Berkeley: University of California Press.

Hardt, Michael, and Antonio Negri 2009. Commonwealth. Cambridge, MA: Harvard University Press.

Harvey, David 2005. A Brief History of Neoliberalism. Oxford: Oxford University Press.

Hayden, Cori 2003. When Nature Goes Public: The Making and Unmaking of Bioprospecting in Mexico. Princeton: Princeton University Press.

Henare, Amiria, Martin Holbraad, and Sari Wastell, eds. 2007. Thinking Through Things: Theorising Artefacts in Ethnographic Perspective. New York: Taylor and Francis.

Holbraad, Martin 2012. Truth in Motion: The Recursive Anthropology of Cuban Divination. Chicago: University of Chicago Press.

Holmes, Seth 2013. Fresh Fruit, Broken Bodies: Migrant Farmworkers in the United States. Berkeley: University of California Press.

Hurley, Andrew 1995. Environmental Inequalities: Class, Race, and Industrial Pollution in Gary, Indiana. Chapel Hill: University of North Carolina Press.

Ingold, Timothy 2000. The Perception of the Environment: Essays on Livelihood, Dwelling, and Skill. New York: Routledge.

Ishii, Miho 2012. Acting with Things: Self-Poiesis, Actuality, and Contingency in the Formation of Divine Worlds. HAU: Journal of Ethnographic Theory 2(2):371–388.

Jackson, Jean 1995. Culture, Genuine and Spurious: The Politics of Indianness in the Vaup´es, Colombia. American Ethnologist 22(1):3–27.

Jackson, Jean, and Kay Warren 2005. Indigenous Movements in Latin America, 1992–2004: Controversies, Ironies, and New Directions. Annual Review of Anthropology 34:549–573.

Kapferer, Bruce 2011. Legends of People, Myths of State: Violence, Intolerance, and Political Culture in Sri Lanka and Australia. London: Berghahn Books.

Kauanui, Kehaulani 2008. Hawaiian Blood: Colonialism and the Politics of Sovereignty and Indigeneity. Durham, NC: Duke University Press.

Kehoe, Alice 1989. The Ghost Dance: Ethnohistory and Revitalization. New York: Holt, Rinehart and Winston.

Kimerling, Judith 1991. Amazon Crude. New York: Natural Resources Defense Council.

Kirksey, S. Eben, and Stefan Helmreich 2010. The Emergence of Multispecies Ethnography. Cultural Anthropology 25(4):545–576.

Kirsch, Stuart 2014. Mining Capitalism: The Relationship between Corporations and Their Critics. Berkeley: University of California Press.

Kohn, Eduardo 2007. How Dogs Dream: Amazonian Natures and the Politics of Transspecies Engagement. American Ethnologist 34(1): 3–24.

Kohn, Eduardo 2012. Proposal 1: Anthropology beyond the Human. Cambridge Anthropology 30(2):136–146.

Kohn, Eduardo 2013. How Forests Think: Toward an Anthropology beyond the Human. Berkeley: University of California Press.

Latour, Bruno 1993a. The Pasteurization of France. Cambridge, MA: Harvard University Press.

Latour, Bruno 1993b. We Have Never Been Modern. Cambridge, MA: Harvard University Press

Latour, Bruno 2002. War of the Worlds: What about Peace? Chicago: Prickly Paradigm Press.

Latour, Bruno 2007. Reassembling the Social: An Introduction to ActorNetwork-Theory. Oxford: Oxford University Press.

Latour, Bruno 2009. Perspectivism: “Type” or “Bomb”? Anthropology Today 25(2):1–2.

Latour, Bruno 2013. An Inquiry into Modes of Existence. Cambridge, MA: Harvard University Press.

Law, John, and John Hassard 1999. Actor Network Theory and After. Oxford: Blackwell.

Lerner, Stephen 2010. Sacrifice Zones: The Front Lines of Toxic Exposure in the United States. Cambridge, MA: MIT Press.

Lock, Margaret, and Patricia Kaufert, eds. 1998. Pragmatic Women and Body Politics. Cambridge: Cambridge University Press.

Londono, Carlos 2005. Inhuman Beings: Morality and Perspectivalism among Muinane People (Columbian Amazon). Ethnos 70(1):1–24.

Lynch, Michael 2013. Ontography: Investigating the Production of Things, Deflating Ontology. Social Studies of Science 43(3): 444–462.

Marcus, George 2010. Experts, Reporters, Witnesses: The Making of Anthropologists in States of Emergency. In Contemporary States of Emergency. Didier Fassin and Mariella Pandolfi, eds. Pp. 357–377. New York: Zone Books.

Marcus, George, and Michael Fischer 1986. Anthropology as Cultural Critique: An Experimental Moment in the Human Sciences. Chicago: University of Chicago Press.

Markowitz, Gerald, and David Rosner 2003. Deceit and Denial: The Deadly Politics of Industrial Pollution. Berkeley: University of California Press.

Markowitz, Gerald, and David Rosner 2013. Lead Wars: The Politics of Science and the Fate of America’s Children. Berkeley: University of California Press.

Marriott, James, and Mika Minio-Paluello 2013. The Oil Road: Journeys from the Caspian Sea to the City of London. London: Verso.

Martin, Emily 1987. The Woman in the Body: A Cultural Analysis of Reproduction. Boston: Beacon Press.

Martin, Emily 2009. Bipolar Expeditions: Mania and Depression in American Culture. Princeton: Princeton University Press.

Masco, Joseph 2006. The Nuclear Borderlands: The Manhattan Project in Post-Cold War New Mexico. Princeton: Princeton University Press.

Maurer, Bill 2013. Transacting Ontologies: Kockelman’s Sieves and a Bayesian Anthropology. HAU: Journal of Ethnographic Theory 3(3):63–75.

Mbembe, Achille 2001. On the Postcolony. Berkeley: University of California Press.

McGranahan, Carole 2010. Narrative Dispossession: Tibet and the Gendered Logics of Historical Possibility. Comparative Studies in Society and History 52(4):768–797.

Mintz, Sidney 1985. Sweetness and Power: The Place of Sugar in Modern History. New York: Penguin.

Mitchell, Timothy 1988. Colonising Egypt. Cambridge: Cambridge University Press.

Mitchell, Timothy 2011. Carbon Democracy: Political Power in the Age of Oil. London: Verso.

Mol, Annemarie 2002. The Body Multiple: Ontology in Medical Practice. Durham, NC: Duke University Press.

Myers, Fred 2002. Painting Culture: The Making of an Aboriginal High Art. Durham, NC: Duke University Press.

Myers, Fred 2004. Ontologies of the Image and Economies of Exchange. American Ethnologist 31(1):1–16.

Niezen, Ronald 2003. The Origins of Indigenism: Human Rights and the Politics of Identity. Berkeley: University of California Press.

Nixon, Rob 2011. Slow Violence and the Environmentalism of the Poor. Cambridge, MA: Harvard University Press.

O’Brien, Jean 2010. Firsting and Lasting: Writing Indians Out of Existence in New England. Minneapolis: University of Minnesota Press.

Olsen, Bjornar 2013. In Defense of Things: Archaeology and the Ontology of Objects. Lanham, MD: AltaMira Press.

Ophir, Adi 2005. The Order of Evils: Toward an Ontology of Morals. Cambridge, MA: Zone Books.

Ortner, Sherry 1974. Is Female to Male as Nature Is to Culture? In Woman, Culture, and Society. Michelle Rosaldo and Louise Lamphere, eds. Pp. 68–87. Stanford: Stanford University Press.

Pachirat, Timothy 2011. Every Twelve Seconds: Industrialized Slaughter and the Politics of Sight. New Haven, CT: Yale University Press.

Paxson, Heather, and Stefan Helmreich 2014. The Perils and Promises of Microbial Abundance: Novel Natures and Model Ecosystems, from Artisanal Cheese to Alien Seas. Social Studies of Science 44(2):165–193.

Pedersen, Morten Axel 2011. Not Quite Shamans: Spirit Worlds and Political Lives in Northern Mongolia. Ithaca, NY: Cornell University Press.

Pedersen, Morten Axel 2013. Islands of Nature: Insular Objects and Frozen Spirits in Northern Mongolia. In Anthropology and Nature. Kirsten Hastrup, ed. Pp. 96–107. New York: Routledge.

Petryna, Adriana 2002. Life Exposed: Biological Citizens after Chernobyl. Princeton: Princeton University Press.

Povinelli, Elizabeth 2002. The Cunning of Recognition: Indigenous Alterities and the Making of Australian Multiculturalism. Durham, NC: Duke University Press.

Prins, Harald 1994. Neotraditionalism in Native Communities: Sweatlodge and Sundance among the Micmac Today. In Proceedings of the Twenty-Fifth Algonquian Conference. William Cowan, ed. Pp. 383–394. Ottawa: Carleton University Press.

Raffles, Hugh 2002. In Amazonia: A Natural History. Princeton: Princeton University Press.

Ramos, Alcida 1998. Indigenism: Ethnic Politics in Brazil. Madison: University of Wisconsin Press.

Ramos, Alcida 2012. The Politics of Perspectivism. Annual Review of Anthropology 41:481–494.

Ranciere, Jacques 2009. Hatred of Democracy. Steve Corcoran, trans. London: Verso.

Rival, Laura 2012. Trekking through History: The Huaorani of Amazonian Ecuador. New York: Columbia University Press.

Rodriguez-Pi ˜nero, Luis 2005. Indigenous Peoples, Postcolonialism and International Law: The ILO Regime. Oxford: Oxford University Press.

Roitman, Janet 2013. Anti-Crisis. Durham, NC: Duke University Press.

Sahlins, Marshall 2013. Foreword. In Beyond Nature and Culture. Philippe Descola. Pp. xi–xiv. Chicago: University of Chicago Press.

Said, Edward 1979. Orientalism. London: Penguin.

Sawyer, Suzana 2004. Crude Chronicles: Indigenous Politics, Multinational Oil, and Neoliberalism in Ecuador. Durham, NC: Duke University Press.

Scheper-Hughes, Nancy 1995. Primacy of the Ethical: Propositions for a Militant Anthropology. Current Anthropolgy 36(3):409–440.

Scott, Michael 2013a. The Anthropology of Ontology (Religious Science?). Journal of the Royal Anthropological Institute 19:859–872.

Scott, Michael 2013b. Proposing the Motion: Steps to a Methodological Non-Dualism. Critique of Anthropology 33(3):300–360.

Simpson, Audra 2014. Mohawk Interruptus: Political Life across the Borders of Settler States. Durham, NC: Duke University Press.

Skafish, Peter 2013. From Anthropology to Philosophy: Introduction to Eduardo Viveiros de Castro. Radical Philosophy 182(Nov.–Dec.):15–16.

Smith, Linda Tuhiwai 1999. Decolonizing Methodologies: Research and Indigenous Peoples. London: Zed Books.

Spivak, Gayatri 1999. A Critique of Postcolonial Reason: Toward a History of the Vanishing Present. Cambridge, MA: Harvard University Press.

Steward, Julian 1955. Theory of Cultural Change: The Methodology of Multilinear Evolution. Champaign: University of Illinois Press.

Stoler, Ann Laura 1989. Rethinking Colonial Categories: European Communities and the Boundaries of Rule. Comparative Studies in Society and History 31(1):134–161.

Stoler, Ann Laura 1995. Race and the Education of Desire: Foucault’s “History of Sexuality” and the Colonial Order of Things. Durham, NC: Duke University Press.

Stoler, Ann Laura 2001. Tense and Tender Ties: The Politics of Comparison in North American History and (Post) Colonial Studies. Journal of American History 88(3):829–865.

Stoler, Ann Laura 2002. Carnal Knowledge and Imperial Power: Race and the Intimate in Colonial Rule. Berkeley: University of California Press.

Stoler, Ann Laura 2010. Along the Archival Grain: Epistemic Anxieties and Colonial Common Sense. Princeton: Princeton University Press.

Stoler, Ann Laura 2012. The Quest for “Rough Ground”: Social Inquiry’s Summon to Philosophy. Paper presented at the School for Advanced Research, Santa Fe, NM, October 26.

Strathern, Marilyn 1988. The Gender of the Gift. Berkeley: University of California Press.

Strathern, Marilyn 2012. A Comment on “the Ontological Turn” in Japanese Anthropology. HAU: Journal of Ethnographic Theory 2(2):402–405.

Sunder Rajan, Kaushik 2006. Biocapital: The Constitution of Postgenomic Life. Durham, NC: Duke University Press.

Tallbear, Kim 2013. Native American DNA: Tribal Belonging and the False Promise of Genetic Science. Minneapolis: University of Minnesota Press.

Taussig, Michael 1987. Shamanism, Colonialism, and the Wild Man. Chicago: University of Chicago Press.

Taussig, Michael 1992. The Nervous System. New York: Taylor and Francis.

Taussig, Michael 1993. Mimesis and Alterity. New York: Routledge.

Taussig, Michael 2006. Walter Benjamin’s Grave. Chicago: University of Chicago Press.

Tsing, Anna 2005. Friction: An Ethnography of Global Connection. Princeton: Princeton University Press.

Tsing, Anna 2012. Unruly Edges: Mushrooms as Companion Species. Environmental Humanities 1:141–154.

Turner, Dale 2006. This Is Not a Peace Pipe: Towards a Critical Indigenous Philosophy. Toronto: University of Toronto Press.

Turner, Terence 2009. The Crisis of Late Structuralism, Perspectivism and Animism: Rethinking Culture, Nature, Spirit, and Bodiliness. Tipiti 7(1):3–42.

Uzendoski, Michael 2005. The Phenomenology of Perspectivism: Aesthetics, Sound, and Power in Women’s Songs from Amazonian Ecuador. Current Anthropology 46(4):656–662.

Vilaca, Aparecida 2010. Strange Enemies: Indigenous Agency and Scenes of Encounters in Amazonia. Durham, NC: Duke University Press.

Viveiros de Castro, Eduardo 1998. Cosmological Deixis and Amerindian Perspectivalism. Journal of the Royal Anthropological Institute 4:469–488.

Viveiros de Castro, Eduardo 2003. (anthropology) AND (science). Manchester Papers in Social Anthropology, 7. Manchester, UK: University of Manchester.

Viveiros de Castro, Eduardo 2004a. Exchanging Perspectives: The Transformation of Objects into Subjects in Amerindian Ontologies. Common Knowledge 10:463–484.

Viveiros de Castro, Eduardo 2004b. Perspectival Anthropology and the Method of Controlled Equivocation. Tipiti 2(1):3–22.

Viveiros de Castro, Eduardo 2009. Metaphysiques cannibales. Paris: Presses Universitaires de France.

Viveiros de Castro, Eduardo 2010. Introduction: The Untimely, Again. In Archeology of Violence. Pierre Clastres. Pp. 9–52. Los Angeles: Semiotext(e).

Viveiros de Castro, Eduardo 2012. Cosmological Perspectivism in Amazonia and Elsewhere. Masterclass Series, 1. Manchester, UK: HAU Network of Ethnographic Theory.

Viveiros de Castro, Eduardo 2013. Cannibal Metaphysics: Amerindian Perspectivism. Radical Philosophy 182(Nov.–Dec.):17–28.

Viveiros de Castro, Eduardo, Morten Axel Pedersen, and Martin Holbraad 2014. The Politics of Ontology: Anthropological Positions. In Fieldsights—Theorizing the Contemporary. Cultural Anthropology Online, January 13. http://www.culanth.org/  anthropological-positions, accessed January 28.

Wacquant, Loıc 2009. Punishing the Poor: The Neoliberal Government of Social Insecurity. Durham, NC: Duke University Press.

Wacquant, Loıc 2012. Three Steps to a Historical Anthropology of Actually Existing Neoliberalism. Social Anthropology 20(1):66–79.

Warren, Kay 1998. Indigenous Movements and Their Critics: Pan-Maya Activism in Guatemala. Princeton: Princeton University Press.

Warrior, Robert 1995. Tribal Secrets: Recovering American Indian Intellectual Traditions. Minneapolis: University of Minnesota Press.

Weizman, Eyal 2007. Hollow Land: Israel’s Architecture of Occupation. London: Verso.

Weizman, Eyal 2012. The Least of All Possible Evils: Humanitarian Violence from Arendt to Gaza. London: Verso.

Williams, Raymond 1977. Marxism and Literature. Oxford: Oxford University Press.

Williams, Raymond 1980. Problems in Materialism and Culture: Selected Essays. London: Verso.

Wilmsen, Edwin 1989. Land Filled with Flies: A Political Economy of the Kalahari. Chicago: University of Chicago Press.

Wimmer, Andreas, and Nina Glick Schiller 1997. Methodological Nationalism and Beyond: Nation-State Building, Migration and the Social Sciences. Global Networks 2(4):301–334.

Wolf, Eric 1982. Europe and the People Without History. Berkeley: University of California Press.

Woolgar, Steve, and Javier Lezaun 2013. The Wrong Bin Bag: A Turn to Ontology in Science and Technology Studies? Social Studies of Science 43(2):321–340.

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét