Hà Hữu Nga
[Lưu ý: Đây chỉ là bản draft lần 1, chưa hoàn thiện, vì vậy yêu cầu bạn đọc không sử dụng dưới bất kỳ hình thức nào]
Tóm tắt: Kinh tế nghi lễ là những thực tại đã diễn ra trong các nền văn hóa có cấu trúc thị tộc, bộ lạc tiền sử và các cộng đồng nông thôn với phương thức sản xuất dựa trên quy mô gia đình. Người xưa quan niệm mọi nguồn lực vật chất đều do các vị thần cai quản. Con người sử dụng các nguồn lực ấy để tạo ra các giá trị kinh tế bằng cách ứng xử sùng kính theo đúng nghi lễ với thần linh. Đó cũng chính là di sản kinh tế nghi lễ của các xã hội Tây Nguyên truyền thống, vốn cấu thành từ những thực thể kết nối quyền lực của con người và vô vàn tác nhân không phải con người bao gồm các lực lượng tự nhiên, thần linh, ma quỉ trong các mạng tương tác luôn biến đổi và đầy bí ẩn, đòi hỏi phải được diễn giải, khai thác và ứng dụng. Lý thuyết Mạng-Tác nhân với các chức năng nhận thức luận, phương pháp luận và năng lực phân tích sắc bén, hoàn toàn có thể giúp làm sáng tỏ thực chất vị thế, vai trò, và giá trị của các tác nhân, các tác tố, và các mạng tương tác trong hệ thống di sản kinh tế nghi lễ Tây Nguyên, để từ đó có thể đưa ra những gợi mở phát huy và ứng dụng vào thực tế phát triển vùng và đất nước.
Từ khóa: Kinh tế nghi lễ, Di sản Kinh tế nghi lễ Tây Nguyên, Phương thức Sản xuất gia đình, Lý thuyết Mạng-Tác nhân.
Abstract: Ritual economy is a reality that took place in those cultures existed the prehistoric clan and tribal structures and rural communities with family-based production methods. The ancients believed that all material resources were controlled by gods. People used those resources to create economic values by behaving reverently and ritually with the gods. That is also the ritual economic heritage of the Central Highlands traditional societies, which is made up of entities that connect human power and countless non-human actors including natural forces, gods, and demons in ever-changing and mysterious interaction networks that require interpretation, exploitation, and application. The Actor-Network Theory, with its epistemological, methodological functions and sharp analytical capacity, can completely help clarify the essence of the position, role, and value of the actors, the factors, and the interactive networks in ritual economic heritage systems of the Central Highlands, so that suggestions can be made for promotion and application in the reality of regional and national development.
Keywords: Ritual Economy, Ritual Economic Heritage of the Central Highlands, Family Mode of Production, Actor-Network Theory.
1. Kinh tế nghi lễ và Phương thức Sản xuất gia đình
1.1. Khái niệm Kinh tế nghi lễ
Đối với giới học giả phương Tây, khái niệm kinh tế nghi lễ là một công cụ mạnh và rất hữu dụng trong diễn giải các nền văn hóa và văn minh có quy mô kinh tế dựa trên cấu trúc thị tộc, bộ lạc và các cộng đồng nông thôn khác nhau, phổ biến trong các xã hội tiền tư bản. Họ coi lý thuyết kinh tế nghi lễ là một cách tiếp cận lý thuyết để thấu hiểu và giải thích các cách thức mà tri thức, kinh tế, quyền lực và tác nhân con người gắn kết với nhau trong xã hội và biến đổi xã hội, là “quá trình cung cấp và tiêu thụ nhằm vật chất hóa và chứng minh thế giới quan để quản lý ý nghĩa và định hình diễn giải”. Cách tiếp cận này đi đầu trong nghiên cứu về sự gắn kết của con người với các lĩnh vực siêu nhiên, tự nhiên, xã hội, vật chất và nhận thức thông qua trải nghiệm của bản thân mình. Bằng cách kết hợp hai lĩnh vực nghiên cứu thường bị cô lập bởi tình trạng phân đôi mang tính bản chất là kinh tế và nghi lễ thành các lĩnh vực tri thức riêng biệt, kinh tế nghi lễ được sử dụng để phân tích các cách thức mà quá trình hiện thực hóa thế giới quan thông qua thực hành nghi lễ đã cấu trúc nên hành vi kinh tế. Hai tác giả trên cũng đề xuất ba lĩnh vực nghiên cứu chủ chốt: i) Thực tiễn kinh tế, tức là cung cấp và tiêu dùng; ii) Các kết quả của thực hành, tức là vật chất hóa và chứng minh; và iii) Vai trò xã hội quan trọng của thực hành nghi lễ trong việc xác lập ý nghĩa và diễn giải kinh nghiệm sống. (McAnany, Patricia A., and E. Christian Wells 2008, tr.1-16)
Roland Hardenberg, giáo sư Đại học Tübingen, chuyên gia về kinh tế nghi lễ cho rằng hoàn toàn có thể phân tích kinh tế nghi lễ như một quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, như một sự phân bổ hợp lý các nguồn lực hoặc như một sự chuyển đổi các hình thức vốn khác nhau. Để có thể diễn giải thấu đáo thực chất hiện diện của kinh tế nghi lễ, Roland Hardenberg đã đề xuất thay thế thuật ngữ tôn giáo bằng kosmischen Beziehungen “các mối quan hệ vũ trụ”. Nghi lễ nhìn từ góc độ kinh tế chính là sự sáng tạo, tái tạo hoặc thay đổi các mối quan hệ xã hội-vũ trụ thông qua các hình thức trao đổi khác nhau, mà trao đổi có nghĩa là thực hành “mối quan hệ giữa các bên”, tức là một cái gì đó liên quan đến các tác nhân được định nghĩa là “khác”. Những cái/kẻ “khác” ấy có thể là, hoặc không phải là con người, lại chính là agencies các tác tố được một thế giới quan cụ thể công nhận. (Hardenberg R. 2014) Đối với Hardenberg, kinh tế nghi lễ chính là sự gắn kết giữa nhân tố kinh tế và nhân tố nghi lễ với nhau thông qua các “nguồn lực” khan hiếm. Ông có một quan niệm độc đáo khi cho rằng nguồn lực không phải là một sự vật hay một bản chất, mà là một quá trình. Tại vì các nguồn lực không chỉ đơn giản là có đó, mà do con người tạo ra thông qua các hành vi định giá và hiện thực hóa giá trị bằng giá trị gia tăng. Thứ nhất, con người, vì lý do lịch sử cộng đồng của họ, mà xác định một thứ gì đó có giá trị đối với hình thức sống cụ thể của họ. Các nhân tố khác nhau có thể dẫn đến việc tiếp tục hoặc bãi bỏ các giá trị cụ thể căn cứ trên các định giá xã hội. Thứ hai, những gì được coi là có giá trị chỉ trở thành nguồn lực thông qua các hoạt động của con người. Cách tiếp cận này được minh họa rõ nhất qua định nghĩa kinh tế nghi lễ là “quá trình cung cấp và tiêu thụ nhằm vật chất hóa và chứng minh thế giới quan để quản lý ý nghĩa và định hình diễn giải”. (McAnany P. A., and E. Wells 2008, tr. 3)
Mặt khác, người ta có thể xem xét việc phân bổ, việc tối đa hóa giá trị và các khái niệm có liên quan từ kinh tế học và đặt câu hỏi chúng đóng vai trò gì trong quá trình định giá và hiện thực hóa giá trị gia tăng. (Bourdieu Pierre 1980, tr.63-72) Do đó, chúng ta phải mở rộng tính toán kinh tế cho tất cả các loại hàng hóa mang tính vật chất và biểu tượng, (Bourdieu, Pierre. 1983, tr.183-198) không phân biệt, những gì tự thể hiện là hiếm và đáng được tìm kiếm trong một hình thái xã hội cụ thể. (Bourdieu, Pierre et Jean Claude Passeron 1970) Trong phạm vi kinh tế nghi lễ, Hardenberg đã có một đóng góp đáng giá khi đưa ra phương án thay thế thuật ngữ tôn giáo bằng “các mối quan hệ vũ trụ” giữa các tác tố (agencies) để tạo thành một mạng quan hệ gồm các quá trình. Về phương diện logic, trong khuôn khổ “các mối quan hệ vũ trụ” ấy, khi coi các quá trình là các “nguồn lực” khan hiếm của kinh tế nghi lễ thì dường như ông nhầm lẫn giữa một ngành khoa học cụ thể, có các đối tượng và phương pháp tiếp cận cụ thể với quan niệm về hữu thể luận của trường phái triết học quá trình. Trong trường hợp này, Hardenberg đã nhầm lẫm giữa hữu thể (Sein) và hiện hữu (Dasein), ông lấy hữu thể với tư cách là cái vô hạn thay thế cho các hiện hữu với tư cách là các tác tố, các hình thức cụ thể của tồn tại. Chính vì vậy, tôi cho rằng không thể coi các quá trình là nguồn lực khan hiếm, và càng không thể sử dụng nó làm công cụ phân tích kinh tế nghi lễ được. (Hà Hữu Nga 2023a, tr.32)
1.2. Phương thức Sản xuất Gia đình trong Kinh tế Nghi lễ
Trong tác phẩm Kritik der politischen Ökonomie - Phê phán Kinh tế Chính trị K. Marx đã đề xuất khái niệm nổi tiếng “phương thức sản xuất”. Đó là: “Trong sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người tham gia vào các quan hệ nhất định, cần thiết, độc lập với ý chí của họ, các quan hệ sản xuất tương ứng với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất của họ. Tổng thể của các quan hệ sản xuất này hình thành nên cấu trúc kinh tế của xã hội, cơ sở hiện thực trên đó hình thành một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị, và tương ứng với các hình thái ý thức xã hội nhất định. Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định quá trình đời sống xã hội, chính trị và trí tuệ nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại của họ (thực tiễn của họ), mà ngược lại, tồn tại xã hội (thực tiễn của họ) quyết định ý thức của họ (lý thuyết của họ).” (Marx, Karl 1956a, ff)
Xuất phát từ quan niệm trên, các nhà nhân học cho rằng có tồn tại một phương thức sản xuất nghi lễ, và đó chính là một cách điều tiết sản xuất thặng dư và tiêu dùng công cộng trong các xã hội có quy mô cộng đồng, phi nhà nước. (Rappaport, Roy A. 1979, tr.43-95) Quan niệm này của Rappaport liên quan mật thiết với mô hình lý tưởng của M. Sahlins về tình trạng sản xuất thấp kém cố hữu trong “phương thức sản xuất gia đình” (Sahlins, Marshall 1972, tr.44-99). Về phương diện này, Marx diễn giải rõ ràng như sau: “Hình thức sở hữu đầu tiên là sở hữu chung. Nó tương ứng với giai đoạn sản xuất chưa phát triển, trong đó người dân sống dựa vào săn bắn và đánh cá, chăn nuôi gia súc hoặc phổ biến nhất là nông nghiệp…Ở giai đoạn này phân công lao động vẫn còn rất ít phát triển và chỉ giới hạn ở việc mở rộng thêm phân công lao động diễn ra một cách tự nhiên trong gia đình. Do đó, cấu trúc xã hội chỉ giới hạn ở phạm vi mở rộng của gia đình…”(Marx, Karl 1956b, tr.3, 22) Trước hết, phương thức sản xuất được nhà nhân học coi là “một tập hợp các mối quan hệ xã hội cụ thể, xuất hiện trong lịch sử, qua đó lao động được triển khai để giành lấy năng lượng từ tự nhiên bằng các công cụ, kỹ năng, tổ chức và kiến thức”. (Wolf, Eric R. 1966, tr.75) Định nghĩa này muốn làm rõ các mối quan hệ chiến lược giữa quyền lực, lao động và các nguồn theo cách các xã hội khác nhau tổ chức và kiểm soát sản xuất để cho thấy sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản châu Âu đã biến đổi các mối quan hệ này ở mọi ngóc ngách của thế giới. (Watanabe, John M. 2007, tr.305) Chính vì vậy, Wolf đã mô tả ba phương thức sản xuất trong đó các mối quan hệ này thể hiện tương phản nhất về mặt chiến lược: i) Phương thức tư bản chủ nghĩa, trong đó sự kiểm soát của tầng lớp tinh hoa đối với các phương tiện sản xuất đã tạo ra tình trạng tha hóa của công nhân lao động khỏi sự tồn tại của họ với tư cách là những hiện hữu xã hội; ii) Phương thức sản xuất phụ thuộc, trong đó các nhà sản xuất giữ quyền kiểm soát phương tiện sản xuất của chính họ và đòi hỏi giới tinh hoa phải bòn rút thặng dư bằng các thủ đoạn siêu-kinh tế, bằng đe dọa, cưỡng bức và vũ lực; và iii) Phương thức sản xuất theo trật tự-thân tộc, trong đó sản xuất vẫn gắn chặt với các nghĩa vụ của gia đình, hộ gia đình và cộng đồng, thường ngăn cản tích lũy, kiểm soát kinh tế chính trị tập trung hơn, hoặc ép buộc đối với hai phương thức kia. (Bourdieu Pierre 1980, tr.63-72)
2. Kinh tế Nghi lễ Tây Nguyên trong Viễn cảnh Lý thuyết Mạng Tác nhân
2.1. Lý thuyết Mạng Tác nhân
Ngày nay Lý thuyết Mạng-Tác nhân (ANT: Actor–Network Theory) đã trở thành một trong những bộ công cụ mạnh mẽ cả về phương diện nhận thức luận, phương pháp luận và ứng dụng thực tế để giải quyết vô số vấn đề về môi trường, kinh tế, xã hội, văn hóa, thể chế và phát triển, tái gắn kết và/hoặc xóa bỏ ranh giới phân cắt rạch ròi con người-tự nhiên. Ra đời vào cuối những năm 1970 như một nỗ lực lý giải mọi hành hoạt của con người và các thực thể phi-nhân (non-human beings - không phải con người), ANT chỉ rõ tính kết nối hiển nhiên trong mọi quan hệ con người và vạn vật. Khái niệm mạng-tác nhân thể hiện ý tưởng rằng bất kỳ tác nhân nào hành động cũng đều kéo theo nhiều tác nhân khác phải hành động. Nói cách khác, hành động được chia sẻ giữa con người và vạn vật, bởi vì vạn vật đều dự phần vào cuộc sống của chúng ta. (Folaron D., and Buzelin H., 2007, tr.620)
Thuật ngữ “lý thuyết mạng-tác nhân” (ANT) kết hợp hai từ thường được coi là đối lập: tác nhân (actors) và mạng (networks). Nó gợi nhớ đến những phân đôi (dichotomy) định mệnh, bất khả hòa giải của viễn cảnh nhân học truyền thống, chẳng hạn như giữa yếu tố (tác nhân) và cấu trúc (mạng), giữa mạng và tuyến, giữa trung tâm và ngoại vi, giữa con người và phi nhân, giữa văn hóa và tự nhiên, v.v…Thay vì trạng thái phân đôi tuyệt đối đó, ANT đã để lộ năng lực trung gian kết nối và hòa giải có sức mạnh vô song, bằng một khái niệm quan trọng thứ ba, sau mạng (network) và tác nhân (actor), đó chính là tác tố (agency). Không thể bỏ qua khái niệm “sống còn” thứ tư của ANT, đó là phiên dịch (translation). Chính khái niệm này khiến cho ANT còn được gọi là “xã hội học phiên dịch” (translation sociology): bằng khả năng “dịch thuật” lợi hại của mình, ANT có thể truyền đạt các mong muốn, khát vọng, ý chí câm lặng của các tác nhân phi nhân (non-human actors) thành đủ loại ngôn ngữ mà tác nhân con người (human actors) có thể hiểu được rõ ràng.
ANT được Michel Callon, Bruno Latour và John Law phát triển, và ban đầu tập trung vào việc phân tích các quá trình làm nền tảng cho các đổi mới công nghệ để trở thành một phần của xã hội chúng ta. ANT mong muốn chỉ ra cách thức mà các mạng-tác nhân (actor-networks) được xây dựng và cung cấp các công cụ để phân tích quá trình các tác nhân – cả con người lẫn phi nhân – không ngừng tương tác. Một trong những giả định cốt lõi của ANT là cái mà các học giả thường gọi “xã hội” là tập hợp những thành tựu đang diễn ra. ANT là một nỗ lực cung cấp các công cụ phân tích để giải thích chính quá trình xã hội liên tục được tái cấu trúc. Điểm khác biệt của nó so với các phương pháp tiếp cận kiến tạo khác là cách nó giải thích về xã hội đang hình thành, trong đó khoa học và công nghệ đóng một vai trò then chốt. (Folaron D., and Buzelin H., 2007, tr. 620, 622) Các đóng góp của ANT cho các nghiên cứu khoa học và công nghệ với cách tiếp cận mạng dựa trên các tương tác giữa các tác nhân và sự chi phối của tác tố giúp chúng ta có được một góc nhìn, một viễn cảnh hoàn toàn mới mẻ trong phân tích các vấn đề xã hội của nhân học, trong đó có vấn đề kinh tế nghi lễ.
Nói cách khác, ngay cả các mối quan hệ giữa các tác nhân – giữa con người và con người, con người và phi nhân, phi nhân và phi nhân trong kinh tế nghi lễ, suy cho cùng vẫn là sản phẩm của các mối quan hệ xã hội. (Latour B. 1996, tr.369-381) Ngoài ra ANT cũng làm sáng tỏ các nhận thức mới về cấu trúc luận, (Crawford, S. A. 2005, tr.3) vốn có một số điểm tương đồng với các ý tưởng của Foucault cho rằng trong các xã hội tiền sử, trật tự được tạo dựng từ hỗn độn. (Crawford, S. A. 2005, tr.3) Công lao to lớn của ANT là đã kết hợp được hai khái niệm thường bị coi là đối lập “tác nhân” và “mạng”, với nguyên tắc xuyên suốt là đối xử bình đẳng giữa mọi tác nhân, không phân biệt tự nhiên và văn hóa. (Latour B. and S. Woolgar 1988, tr.21-23) Nhưng một trong số ít cha đẻ của ANT là Bruno Latour lại rất lúng túng trong việc diễn giải mối quan hệ giữa hai khái niệm ấy, và coi đây là một vấn đề nan giải nên thường chọn cách bỏ qua. ANT đã chọn cách loại bỏ hoàn toàn những phân đôi luôn thường trực trong cách hiểu xã hội của mọi người, chẳng hạn các đối lập giữa tự nhiên/văn hóa, vi mô/vĩ mô, con người/phi-nhân, không đề cập đến “bối cảnh” hay trật tự định trước, không có mạng đối lập với một thể chế, cũng không có cá nhân đối lập với “hợp quần”. (Latour B. 1996, tr. 369-381) Tương tự, Michel Callon cho rằng “cả quy mô của tác nhân, bản chất tâm lý của chúng/họ, hay động cơ đằng sau hành động của chúng/họ đều không được định trước”. (Callon, M. 1997, tr2) Hơn nữa, ANT giả định rằng các mạng hiện diện khắp nơi và năng động, nên nó không tương thích với bất kỳ phương pháp tiếp cận nào lấy xã hội làm trung tâm, mà phải là ngã trung tâm luận (egocentric attitude). (Folaron D., and Buzelin H., 2007, tr.622)
2.2. Di sản Kinh tế Nghi lễ Tây Nguyên
Bài viết này giới hạn vấn đề được tiếp cận ở vùng Tây Nguyên gồm 5 tỉnh cũ, trước khi sáp nhập là Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đak Nông, và Lâm Đồng vốn có vị trí chiến lược hết sức quan trọng về kinh tế, chính trị, an ninh - quốc phòng đối với vùng và đất nước. Đồng thời đây còn là khu vực giàu tiềm năng kinh tế, có nhiều lợi thế so sánh hết sức quan trọng. Với diện tích tự nhiên 54.508 km2, dân số năm 2025 là 5.842.584 người (chiếm 7,94% dân số cả nước), trong đó đồng bào dân tộc ít người có 2,2 triệu người gồm các dân tộc Ba Na, Brâu, Ê Đê, Giẻ Triêng, Ha Lăng, H’Rê, Ja Rai, M’Nông, Rơ Ngao, Sê Đăng, Tơ Đrá, v.v...; Do được thiên nhiên ưu đãi về đất đai (nhất là đất basalt), khí hậu nên Tây Nguyên có nhiều khả năng thuận lợi để hình thành các vùng chuyên canh cây công nghiệp lớn có giá trị kinh tế cao như cà phê, cao su, chè, dâu tằm, bông, điều...; Tây Nguyên còn có các tiềm năng lớn về phát triển thuỷ điện, du lịch; khai thác, chế biến bôxit, tuy chỉ bằng 16,3% diện tích tự nhiên của cả nước, nhưng diện tích rừng lại chiếm tới 25,9% diện tích rừng cả nước.
Nền kinh tế Tây Nguyên truyền thống mang đậm tính nghi lễ: Tính chất nghi lễ của nền kinh tế truyền thống Tây Nguyên thể hiện đậm đặc ở cách ứng xử của con người với các nguồn lực: đất đai, nguồn nước, rừng núi, các sản vật trên mặt đất, trong lòng đất (đá, khoáng chất, nước ngầm, v.v…); các sản vật trong rừng (cây cối, chim thú, củ dễ, hoa trái, rau cỏ, côn trùng, v.v…); các sản vật dưới nước (tôm tép, cua, cá, ếch, rùa, và mọi động thực vật thủy sinh) đều được con người đối xử theo đúng nghi lễ, đều coi chúng như là hiện thân, biểu trưng cho thần linh hoặc thuộc về thần linh. Rõ ràng một nền kinh tế nghi lễ đậm chất biểu trưng như vậy thì phương thức và mục đích của các hoạt động kinh tế lại không mang đặc trưng tích lũy thuần túy kinh tế, mà thiên về thực hành các giá trị văn hoá. Điều này thể hiện rõ nhất trong quan niệm của người Tây Nguyên bản địa, không hề có bất cứ một quan niệm nào về tài sản, năng suất, sản lượng. Những thứ tương tự được họ coi là Yàng (thần linh), hoặc thuộc về Yàng, do các Yàng ban cho chứ không phải do con người làm ra được. Để không lấy nhiều của Yàng, không làm phí của của Yàng, người Tây Nguyên có nhiều cách thức kiểm soát năng suất và sản lượng bằng cách qui định diện tích rẫy mỗi hộ có thể phát, số gùi thóc giống tối đa mỗi hộ có thể gieo, số gùi thóc tối đa mỗi hộ thu được trong vụ gặt. Nếu hộ nào vượt quá số lượng gùi thóc qui định thì buôn làng sẽ “phạt” bằng cách phải làm cơm đãi cả làng cho hết số gùi thóc dôi ra thì mới thôi. (Hà Hữu Nga 2014, tr.4)
Tài sản không phải là sự giàu có mà là biểu trưng nghi lễ và quyền uy: Đối với các gia đình Tây Nguyên truyền thống thì sự giàu có được thể hiện bằng hai loại tài sản tượng trưng chủ yếu, không có giá trị kinh tế, nhưng lại đậm tính nghi lễ, đó là các bộ ghế (ghế dài để đánh chiêng, ghế chủ, ghế khách, v.v...), và các dàn chiêng dùng trong các dịp hội lễ. Một thứ tài sản tưởng chừng như là thước đo sự giàu có là số trâu mà mỗi hộ gia đình nuôi được thì trên thực tế nó cũng chỉ có giá trị nghi lễ tượng trưng. Người ta nuôi trâu chỉ để cúng Yàng và để mời cả làng “ăn trâu” trong các lễ hội. Một con trâu khi bán người ta không sử dụng đơn vị tính bằng giá trị kinh tế (cân nặng, gầy hay béo) mà tính bằng một chỉ số tượng trưng là độ dài của sừng. Khi lấy trâu làm thước đo giá trị (trao đổi ngang giá) thì người ta không lấy đơn vị cân hoặc con làm đại lượng để tính mà lấy độ dài rất tương đối của lối mòn trâu đi làm đơn vị tính. Năm 2004, khi thực địa tại làng Đak Dục (huyện Ngọc Hồi, Kon Tum), tác giả bài viết này hỏi giá một loại chiêng quí nhất của người Giẻ là chiêng “Tha” giá bao nhiêu? Thì câu trả lời của già làng thật đáng sửng sốt: “Giá cái chiêng “Tha” bằng một quãng đường trâu”. Và già làng chỉ tay lên lối mòn trâu đi ăn trên núi, rồi giải thích “một quãng đường trâu” bao gồm con nọ nối đuôi theo con kia đi lên núi thì vào khoảng 13 – 15 con. Có nghĩa là chiếc chiêng “Tha” này có giá bằng 13 – 15 con trâu. (Hà Hữu Nga 2014, tr.6)
Quan niệm về tài sản, lời lãi mang nặng đặc trưng kinh tế nghi lễ: i) Người dân Tây Nguyên truyền thống không coi đất đai, rừng núi, sông suối là tài sản của các hộ gia đình, mà là của Yàng, vì vậy không ai được chiếm làm của riêng. Con người chỉ sống nhờ trên đất của các Yàng, đồ ăn thức uống và các vật dụng đều do Yàng ban cho vì vậy không ai được phép lấy quá một lượng tối thiểu cần thiết cho cuộc sống. Trong quá khứ không xa, nhiều người Kinh đã lợi dụng quan niệm này để xin, đổi, “mua” rẻ, mà thực chất là chiếm không phần đất của người dân địa phương, buộc người ta phải phá thêm rừng, khai hoang thêm các khoảng đất mới để mưu sinh; ii) Không có khái niệm lời lãi trong lối sống của người Tây Nguyên truyền thống: Vì mọi của cải (đất, rừng, nước, chim, thú, rau, quả, củ, gỗ lạt, v.v...) đều được coi là của các Yàng, và không bao giờ cạn kiệt, ai cần đến đâu (thường ở mức tối thiểu để duy trì cuộc sống) thì lấy đến đó. Vì vậy người dân Tây Nguyên truyền thống không quan tâm, không biết lời lãi là gì. Các con buôn người Kinh thường lợi dụng đặc trưng văn hoá này của người Tây Nguyên để bóc lột, mua rẻ, bán đắt đối với họ; iii) Chia sẻ mọi thứ cho những ai cần đến: điều này đã trở thành nguyên tắc xuyên suốt trong lối sống của người dân Tây Nguyên, nói theo khái niệm kinh tế học thì đó chính là phương thức phân phối bình quân, chia đều mọi thứ cho mọi người.(Hà Hữu Nga 2014, tr.8) Chính vì vậy một nhà nghiên cứu người Pháp đã rất kinh ngạc khi thấy 40 đứa trẻ chăn trâu tại Kon Tum chia thịt một con chim sẻ thành 40 phần bằng nhau, kể cả một lá gan bé tí của con vật cũng được chia đều ra như vậy.(Maitre, Henri 1912, tr.57) Trong thực tế, có thể coi kinh tế nghi lễ đậm chất biểu tượng chính là một trong những nét đặc trưng nhất của bản sắc Tây Nguyên.
Cần phải khẳng định rằng không thể có được sự phát triển bền vững về kinh tế, xã hội, văn hoá của một vùng nếu vùng đó không có di sản văn hóa dựa trên cơ sở bản sắc vùng, hoặc nếu người ta cố xoá bỏ bản sắc vùng bằng cách này hay cách khác. Cho đến nay đã có hàng trăm định nghĩa về bản sắc, nhưng để có được một cách tiếp cận nhất quán và dễ ứng dụng trong nghiên cứu vùng, chúng tôi muốn đưa ra một quan niệm riêng như sau: Bản sắc của một cộng đồng là sự đồng nhất của tất cả các thành viên trong cộng đồng đó với một hoặc một hệ giá trị thường được biểu hiện bằng một hoặc một hệ biểu tượng được cộng đồng sáng tạo và/hoặc lựa chọn. (Hà Hữu Nga 2023c) Đối với Tây Nguyên, hệ biểu tượng đó thể hiện tập trung ở lĩnh vực kinh tế nghi lễ. Thuộc tính đó của bản sắc một mặt là sợi dây cố kết cộng đồng xã hội vùng làm cho nó trở thành bền vững, mặt khác, trong thế giới toàn cầu hoá và trong nền kinh tế ngày càng phát triển dựa trên tri thức thì chuỗi giá trị (địa phương, vùng, quốc gia) của cộng đồng sẽ ngày càng phụ thuộc vào bản sắc địa phương, vùng, và quốc gia. Kinh tế nghi lễ được tạo dựng dựa trên các di sản nguồn vốn xã hội, văn hóa, nguồn vốn con người và hệ thống nguồn vốn biểu tượng như đã đề cập ở trên.
Hoàn toàn khác với quan niệm và thực tiễn phương Tây về vai trò của các tác tố cá nhân (individual agencies) trong các nguồn vốn xã hội, con người, và văn hoá, thì các tác tố tạo nên bản sắc Tây Nguyên lại mang tính phi cá nhân, bao gồm các cộng đồng gia đình, dòng họ, buôn làng, tộc thuộc và bản sắc vùng liên tộc người của các mạng lưới xã hội, văn hoá, con người Tây Nguyên. Chính các mạng lưới xã hội tổng thể đó đã được kết nối lại bằng rất nhiều loại hình thể chế, trong đó có 9 loại hình thể chế cơ bản là i) Các thể chế kinh tế phục vụ cho sản xuất, phân phối và tiêu dùng các hàng hoá và dịch vụ; ii) Các thể chế chính trị điều phối và kiểm soát các đầu vào quyền lực; iii) Các thể chế phân tầng xã hội điều phối và kiểm soát các đầu vào uy tín và vị thế xã hội; iv) Các thể chế thân tộc kiểm soát các quan hệ gắn bó trực hệ, bàng hệ xã hội; v) Các thể chế hôn nhân điều phối và kiểm soát các mạng lưới kết giao xã hội và quyền lực; vi) Các thể chế gia đình điều phối và kiểm soát kinh tế hộ và tái sinh sản; vii) Các thể chế văn hoá điều phối và kiểm soát các quá trình xã hội hoá của cá nhân và cộng đồng; viii) Các thể chế tôn giáo điều phối và kiểm soát định hướng tương lai và quá trình ra các quyết định sống còn của cộng đồng; ix) Các thể chế biểu tượng điều phối và kiểm soát sự cố kết và đồng nhất hoá của cộng đồng thành những bản sắc phân biệt với phần thế giới còn lại.
Về bản chất, kinh tế nghi lễ được xây dựng trên cơ sở tương tác mạng giữa các tác nhân con người (cá nhân, gia đình, dòng họ, cộng đồng, tộc thuộc) và phi-nhân (đất, nước, sông suối, rừng cây, muôn loài động thực vật; các tác tố làm lợi (thần linh phù trợ, mưa nắng phải thì, thời tiết thuận hòa), tác tố gây hại (ma quỉ, bệnh dịch, đói khát, chinh chiến) tạo thành các mạng quan hệ hay các tiểu văn hoá – văn hoá của các cộng đồng gia đình, dòng họ, buôn làng, tộc người và liên tộc người (hoặc vùng). Chính đặc trưng này đã làm cho nội hàm các loại vốn xã hội, vốn văn hoá, và vốn con người của Tây Nguyên phân biệt hoàn toàn với nội hàm của các loại vốn trên trong quan niệm và thực tiễn lấy con người cá nhân làm trung tâm của phương Tây. Đó chính là lý do tại sao các xã hội phương Tây hiện đại thường không chấp nhận khái niệm bản sắc cộng đồng, bản sắc tộc người, bản sắc dân tộc, và chính trị học phương Tây hiện đại là loại chính trị học phản bản sắc. Xuất phát từ quan niệm phổ biến trên, các lý thuyết xã hội phương Tây hiện đại thường phê phán trào lưu vùng về phương diện văn hoá và coi đó là quá trình tái sinh tinh thần bộ lạc trong xã hội hiện đại (Popper K. 1957, 2005). Nhưng chính “tinh thần bộ lạc” đó lại là những kết tinh thành các nguồn vốn xã hội, văn hoá và con người Tây Nguyên qua hàng ngàn năm lịch sử, mà biểu hiện tập trung nhất chính là di sản của hệ thống kinh tế nghi lễ độc đáo của vùng này. (Hà Hữu Nga 2014, tr.9-10) Và tính độc nhất vô nhị của hệ thống kinh tế này sẽ được soi sáng thêm dưới góc nhìn mới mẻ, kết nối con người và vạn vật của Lý thuyết Mạng-Tác nhân.
3. Kinh tế nghi lễ Tây Nguyên trong Viễn cảnh Lý thuyết Mạng-Tác nhân
3.1. Kinh tế nghi lễ như là các mạng tương tác của các tác nhân
Về khái niệm kinh tế nghi lễ, khác với định nghĩa kinh điển của các học giả phương Tây như McAnany Patricia A., E. Christian Wells (2008, tr.1-6) và R. Hardenberg (2014, tr.12), chúng tôi quan niệm rằng: i) Kinh tế nghi lễ được tạo dựng bằng khuôn khổ của các giao tiếp chuẩn mực, kính cẩn với hệ thống các tác nhân (actors) con người và phi-nhân, bao gồm: bản thân, gia đình, cộng đồng, môi trường, với thế giới khác, với kẻ khác, với cái khác;( Hà Hữu Nga 2023a, tr.32) ii) Cái khan hiếm, các nguồn lực khan hiếm trong kinh tế nghi lễ là năng lực giao tiếp để thiết lập các mối quan hệ chuẩn mực thông qua hàng loạt công cụ giao tiếp theo quan niệm vật linh luận (animism), nhằm gắn kết các tác nhân gồm những cái khác, kẻ khác, thế giới khác; (Hà Hữu Nga, 2023b, tr.71-86) iii) Kinh tế nghi lễ là một loại hình mạng tương tác phổ quát (Baruch Barzel and Albert-László Barabási 2013, tr. 673-681) giữa các tác nhân, được xây dựng ở quy mô gia đình, sản xuất ra các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ trên cơ sở giao tiếp chuẩn mực với bản thân, gia đình, cộng đồng, môi trường, thế giới khác, kẻ khác, cái khác; iv) Trong các nền kinh tế nghi lễ, hệ thống biểu tượng, hình tượng quy ước ý nghĩa được sử dụng làm công cụ giao tiếp chuẩn mực với các hệ thống tác nhân, bao gồm bản thân, gia đình, cộng đồng, môi trường, với thế giới khác, với kẻ khác, với cái khác. Tùy theo trường hợp, bối cảnh văn hóa-lịch sử mà các tác nhân: i) Bản thân (The Self) có thể được đồng nhất với cá nhân, gia đình, nhóm, cộng đồng, v.v…; ii) Môi trường với mọi tác nhân kể cả con người và phi-nhân (không phải con người), bị chi phối bởi vô số tác tố (agancies), liên quan mật thiết đến đời sống cộng đồng; iii) Thế giới khác bao gồm mọi tác nhân: cõi trời, cõi đất, cõi nước, cõi rừng thiêng, cõi chết, địa ngục…v.v.; iv) Kẻ khác, cái khác bao gồm mọi tác nhân hiện hữu bên trong cộng đồng, xung quanh cộng đồng, trong đó có thần linh, ma quỉ, vạn vật có linh hồn, và đặc biệt là các cộng đồng khác có thể là đồng minh, nhưng cũng có thể là thù địch. (Hà Hữu Nga 2023d, tr.25-49)
3.2. Xác định “Tác tố” trong di sản kinh tế nghi lễ Tây Nguyên
Trong mạng tương tác của di sản kinh tế nghi lễ, các tác nhân, dù là cá nhân hay tập thể, dù là con người hay phi-nhân, đều là những cấu thành gắn kết nhưng không phải bao giờ cũng hiển minh, vì vậy đòi hỏi phải được giải thích, đặc biệt là những ai quan tâm đến các mạng quan hệ, ẩn chứa các tác tố (agencies: lực, tác động kết nối), với tư cách là nguyên nhân tối hậu - đầu tiên và cuối cùng - cấu thành nên mọi động thái, quan hệ, tổ chức, kể cả tự nhiên và xã hội, tạo thành bất cứ loại hình tổ chức hay thể chế nào từ gia đình, các nhóm, cộng đồng, tộc người, chủng tộc, dân tộc, v.v...Có thể minh họa và diễn giải khái niệm “tác tố” bằng một trường hợp cụ thể về “hành động kinh tế nghi lễ” xây dựng Nhà Rông của người Bahnar Kon Tum như sau. Nếu coi việc xây dựng Nhà Rông là một một mạng tương tác thì các tác nhân của mạng đó bao gồm: i) Yàng [Thần] Trời cai quản toàn bộ vũ trụ; ii) Yàng Đất cai quản khu đất dựng Nhà Rông; iii) Yang Rừng cai quản các cánh rừng khai thác gỗ và nguyên vật liệu xây dựng Nhà Rông; iv) Yàng Nước ban đồ uống và sức sống cho muôn loài; v) Yàng Lúa ban đồ ăn cho con người, và lễ vật dâng cúng thần linh; vi) Các loại ma quỉ gây hại; vii) Già làng/Thầy cúng làm trung gian giữa con người và thần linh; viii) Toàn thể dân làng, v.v…
Trong mạng tương quan vô cùng phức tạp của nghi lễ xây dựng Nhà Rông như trên thì có thể coi động thái chọn đất là một loại “tác tố” đóng vai trò trung tâm, là điểm nút của mạng tương tác đó, mà nếu thiếu nhân tố này thì không thể tồn tại mạng với hàng loạt “thương thảo” giữa cộng đồng mà đại diện là chủ làng và già làng với hàng loạt đại diện tác nhân phi nhân (các “Yàng”/Thần). Ba ngày trước khi vào rừng kiếm gỗ dựng Nhà Rông, cả làng phải kiêng cữ không làm lụng, không ra khỏi làng, không quan hệ nam nữ, v.v….Vào buổi tối trước ngày dựng Nhà Rông thì cộng đồng phải tổ chức “lễ chọn đất”. (Nguyễn Khắc Tụng chủ biên 1991,tr.94) Chủ làng và Già làng đến khu đất dự định chọn lựa xây nền làm lễ khấn Yàng (Thần Trời, Thần Đất, Thần Nước, Thần Rừng, Thần Làng, Thần Lúa, v.v…) để xin dựng Nhà Rông nơi đó. Khấn xong, chủ làng bỏ xuống bãi đất ấy 7 hạt gạo nguyên vẹn. Sáng hôm sau ông cùng Già làng ra xem nếu thấy số hạt gạo còn đủ và không sứt mẻ gì thì có nghĩa là các Yàng đã ưng ý; nếu không thì phải làm lễ xin đất nơi khác. Sau khi đã chọn được đất làm nền thì tổ chức lễ dựng Nhà Rông, tiến hành vào lúc mặt trời vừa mọc. Sau khi đào hố chôn cột thờ thần làng (Yàng Rôông) thì chủ làng khấn và bỏ hố cột đó một con gà rồi mới hạ cột. Tục truyền ngày xưa có trường hợp người ta còn làm lễ hiến sinh bằng một chiến tù để chôn sống dưới hố cột đó. Sau đó chủ lễ đổ nước vào chân cột để cộng mong cộng đồng có cuộc sống no đủ, thịnh vượng, yên bình. (Nguyễn Khắc Tụng chủ biên 1991, tr.94, 95)
3.3. Kinh tế nghi lễ Tây Nguyên trong viễn cảnh Lý thuyết Mạng-Tác nhân
Nếu nhìn dưới lăng kính vật linh luận (animism) cổ điển thì hàng loạt động thái, nghi lễ, và kiêng kị liên quan đến hoạt động xây dựng Nhà Rông chỉ là những biểu hiện của một phương thức tín ngưỡng dị đoan của các cộng đồng tiền sử. Cón đối với quan điểm duy vật luật thì toàn bộ các quy trình đó là thuộc tính của các xã hội dã man, lạc hậu hoặc chưa đạt tới trình độ văn minh. Nhưng trong viễn cảnh Lý thuyết Mạng-Tác nhân thì cái hiện thực ẩn chứa trong nghi lễ xin thần linh “ban đất” với tư cách tác tố - hay còn gọi là nguyên nhân đầu tiên và tối hậu cho hàng loạt hành động tương tác kết nối giữa các tác nhân con người và phi-nhân ấy lại được “phiên dịch” thành một nội dung hoàn toàn khác biệt. Như chúng ta đã biết, quan niệm nhân trung tâm luận (anthropocentrism) của phương Tây phổ quát đến mức coi mọi thành tựu tiến bộ và phát triển của loài người đều lấy con người làm trung tâm, còn các tác nhân khi-nhân (non-human factors) chỉ đóng vai trò/ý nghĩa phù trợ. Nhưng những biến đổi khí hậu và hàng loạt tác động của hiện tượng nóng lên toàn cầu kéo theo là những loại dịch bệnh tàn khốc ngoài khả năng chịu đựng của con người như COVID 19 chẳng hạn đã làm cho giới học giả toàn cầu phải đánh giá lại vai trò được coi là quyết định của con người và vai trò phù trợ của các tác nhân phi-nhân. Bằng khái niệm cốt lõi “tính đối xứng” (symmetry) Lý thuyết Mạng-Tác nhân là kẻ đi tiên phong trong lối nhìn về các tác động cân bằng đối với sự tồn tại và phát triển của thế giới giữa hai hệ thống tác nhân con người và tác nhân phi-nhân đó. Vì vậy bản chất sâu xa của thái độ kính ngưỡng đối với các hệ thống tác nhân phi-nhân chính là cách thức đàm phán, thương thảo, chọn cách tiến thoái khôn khoan giữa con người và tự nhiên (có sức mạnh như thần linh) để giữ được thế cân bằng dựa trên cơ sở “tính đối xứng” giữa con người và “chúng/họ” để cùng tồn tại và phát triển. Đó chính là bài học nhận thức luận, với các công cụ phương pháp luận sắc bén, hữu ích, giúp tập hợp, sản xuất ra các nguồn lực tri thức từ các di sản quý báu của Tây Nguyên, trong đó có di sản kinh tế nghi lễ.
Tạm kết
Kinh tế nghi lễ Tây Nguyên truyền thống chứa đựng toàn bộ nội hàm nghi lễ với tư cách là khuôn khổ của các giao tiếp chuẩn mực, sùng kính của các cộng đồng địa phương với hai hệ thống tác nhân chủ yếu là hệ thống các tác nhân con người gồm bản thân, gia đình, cộng đồng, với người khác, gia đình khác, cộng đồng khác; và với hệ thống tác nhân phi-nhân gồm môi trường, các sinh vật khác, thế giới khác bằng mối quan hệ với cái khan hiếm mang đậm sắc thái vật linh luận. Đó chính là nền kinh tế được xây dựng ở quy mô gia đình với mơ ước tạo thành các trật tự giúp con người vượt khỏi tình trạng hỗn mang được tạo thành từ các nhu cầu của thực tại đời sống đầy biến động đối với các tộc người vẫn còn ở quy mô và trình độ phát triển thấp. Tuy nhiên, dưới lăng kính Lý thuyết Mạng-Tác nhân, chính cái bản chất ban sơ ấy lại trở thành một nguồn di sản vô giá không chỉ đem đến cho các xã hội hiện đại những bài học quý báu về một phương thức sống bền vững nhờ vào phương thức thương thảo đậm chất nghi lễ giữa mọi tác nhân, mà nó còn là một nguồn lực nhân văn vô tận để khai thác, ứng dụng vào thực tiễn phát triển bản thân nền kinh tế di sản, kinh tế du lịch dịch vụ làm giàu cho vùng và đất nước.
_______________________________________
Nguồn: Hà Hữu Nga (2025). Di sản Kinh tế Nghi lễ Tây Nguyên trong Viễn cảnh Lý thuyết Mạng-Tác nhân. Bài dự định tham gia Hội thảo cấp Quốc gia Nguồn lực phát triển kinh tế-xã hội khu vực Tây Nguyên: Nhận diện và Phát huy, do Viện KHXH vùng Trung bộ và Tây Nguyên tổ chức.
Tài liệu dẫn
Barzel Baruch and Albert-László Barabási (2013). Universality in network dynamics. In Journal Nature Physics, Vol 9, October 2013, pp. 673-681.
Bourdieu Pierre (1980). L’identité et la représentation. Éléments pour une réflexion critique sur l’idée de région. Actes de la recherché en Scienes sociales,35(nov.) pp. 63-72.
Bourdieu, Pierre. (1983). Ökonomisches Kapital, kulturelles Kapital, soziales Kapital. In Soziale Ungleichheiten (Soziale Welt, Sonderheft 2), edited by Reinhard Kreckel. Goettingen: Otto Schartz & Co. pp. 183-98.
Bourdieu, Pierre et Jean Claude Passeron (1970). La Reproduction. Éléments pour une théorie du système d'enseignement, Paris, Éditions de Minuit, “Le sens commun” 1970.
Callon, M. (1997). Actor-Network Theory – The Market Test, Keynote speech presented at the Department of Sociology of Lancaster University, published by Lancaster University.
Crawford, S. A. (2005). Actor-Network Theory, Georges Ritzer (dirs.), Encyclopedia of Social Theory, volume 1, pp. 1-3.
Folaron D., and Buzelin H., (2007). Introduction Connecting Translation and Network Studies. In Journal Meta, Volume 52, Number 4, décembre 2007, p. 605–642.
Granovetter M. S. (1973). The Strength of Weak Ties. In The American Journal of Sociology, No. 78-6, pp.1360-1380.
Hà Hữu Nga (2014). Tiếp cận văn hóa xã hội Tây Nguyên bằng các công cụ khái niệm vốn và bản sắc. Bài viết cho Đề tài cấp Nhà nước: Xây dựng luận cứ khoa học cho việc bổ sung và đổi mới hệ thống thể chế phát triển bền vững vùng Tây Nguyên. Mã số TN3/X09. 2013-2014.
Hà Hữu Nga (2023a). Khảo cổ học Tôn giáo: Siêu việt - Nội tại và Nghi lễ. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Khảo cổ học Tôn giáo – Nghi lễ, Đại học KHXH&NV-ĐHQGHN, Hà Nội 2023.
Hà Hữu Nga (2023b). Kinh tế nghi lễ - Nội hàm Khái niệm và gợi ý Ứng dụng cho Lễ hội Đền Bảo Hà. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Thần vệ quốc Hoàng Bẩy – Bảo Hà: Công tác Quản lý và Phát huy Giá trị Di tích Lịch sử, Bảo Yên, Lào Cai ngày 26/8/2023 do UBND huyện Bảo Yên tổ chức, tr.71-86.
Hà Hữu Nga (2023c). Giá trị nguồn lực nhân văn và phát triển. Kỷ yếu Hội thảo Đề tài VINIF Nghiên cứu Bảo tồn và Phát huy Giá trị Di sản Chạm khắc đá cổ Miền núi Phía Bắc Việt Nam. Hà Nội tháng 11 năm 2023.
Hà Hữu Nga (2023d). Kinh tế Nghi lễ và Xã hội Truyền thống người Dao. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Vận dụng Lý thuyết Nhân học, Tôn giáo học Đương đại trong Nghiên cứu Nghi lễ người Dao. Viện Nghiên cứu Ứng dụng Văn hóa - Du lịch và Đại học Thái Nguyên-Phân hiệu Lào Cai tổ chức, Hà Nội 29/12/2023. Tr. 25-49.
Hardenberg R. (2014). Ritual Economy and Ritual Resource - Some General Remarks. Summerschool “Ritual as Resource”, Tübingen University.
Latour B. (1996). On actor-network theory: A few clarifications. Soziale Welt , 1996, 47. Jahrg., H. 4 (1996), pp. 369-381.
Latour B. and S. Woolgar (1988). La vie de laboratoire, Paris, La Découverte, traduction de l’anglais de Michel Biezunski.
Maitre, Henri (1912). Les jungles moï: mission Henri Maitre (1909-1911), Indochine Sud-Centrale: exploration et histoire des hinterlands moï du Cambodge, de la Cochinchine, de l'Annam et du bas Laos. Par Emile Larose 1912.
Marx, Karl (1956a). Kritik der politischen Ökonomie, In Marx-Engels-Werke, (MEW), Berlin 1956ff.
Marx, Karl (1956b). Deutsche Ideologie, In Marx-Engels-Werke, (MEW), Berlin 1956ff.
Mauss, Marcel (1990). The Gift: The Form and Reason for Exchange in Archaic Societies. Translated [1925] by W. D. Halls. W. W. Norton, New York.
McAnany, Patricia A., and E. Christian Wells (2008). Towards a Theory of Ritual Economy. In Dimensions of Ritual Economy, edited by E.C. Wells and P.A. McAnany, pp. 1–16. Emerald Group Publishing Limited, Bingley, UK.
Nguyễn Khác Tụng chủ biên (1991). Nhà Rông các dân tộc Bắc Tây Nguyên. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội. tr.94-95.
Popper, Karl (1957, 2005). The Poverty of Historicism. Routledge & Kegan Paul 1957, 2005.
Rappaport, Roy A. (1979). Ecology, Adaptation, and the Ills of Functionalism. In Ecology, Meaning, and Religion, by R. A. Rappaport, pp. 43-95. North Atlantic Books, Richmond, California.
Sahlins, Marshall (1972). The Domestic Mode of Production: The Structure of Underproduction. In Stone Age Economics, by M. Sahlins, pp. 41-99. Aldine Publishing Company, New York.
Watanabe, John M. (2007). Ritual Economy and the Negotiation of Autarky and Interdependence in a Ritual Mode of Production. In Mesoamerican Ritual Economy - Archaeological and Ethnological Perspectives, Edited by E. Christian Wells and Karla L. Davis-Salazar, University Press of Colorado, Published by the University Press of Colorado.
Wolf, Eric R. (1966). Peasants. Prentice-Hall, Englewood Cliffs, New Jersey.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét