Eric Gans
Người dịch: Hà Hữu Nga
Trong hơn hai thập kỷ, tôi đã kiên trì rằng Nhân học Tạo sinh là
một cách tư duy mới tạo nên sự thay
đổi về chất so với tư tưởng triết học / siêu hình học truyền thống. Tôi
phân biệt giữa cách tư
duy và học thuyết cá
nhân thuộc loại được xây dựng bởi những người mà Foucault (1964) gọi (chắc chắn có chút đố kỵ) là các “bậc thầy lan
man”, cụ thể: Marx và Freud. Một người Marxist là người phụ thuộc vào
mô hình hành động con người của Marx, nhân
học của ông, cũng hệt
như một người Freudian phụ thuộc vào nhân học của Freud vậy. Và thực sự rất gây tò mò là mặc dù
nhiều người ở cả hai phe đều tự hào tuyên bố rằng họ đã sửa đổi các học thuyết
của các bậc thầy của họ, nhưng không thể ngờ rằng bất kỳ sự sửa đổi nào như vậy lại có thể
biến một trong hai học thuyết thành một nhân học mới, cơ bản hơn.
Nguồn gốc của bất khả tính này nằm ở thực tế là các loại nhân học của Marx và Freud được bắt nguồn, hay chính xác hơn, được hồi tố từ các tiêu điểm cụ thể, tương ứng là kinh tế và tâm lý, trong các phân tích của họ về thế giới hiện đại. Cảnh huống của Freud trong Totem và Taboo về vụ giết cha, kẻ độc chiếm phụ nữ trong bầy đoàn là một lời biện minh hậu thiên về phức cảm Oedipus hơn là một giả thuyết chi li về nguồn gốc loài người. Không có cảnh huống Marxian tương tự về nguồn gốc; đối với Marx, nguồn gốc của con người là lao động, tức là sự tương tác với các đối tượng, chứ không phải là sự tương tác mang tính cảnh huống với những con người khác để tạo ra ngôn ngữ.
Các nhân học của Marx và Freud cung cấp phương tiện để
giải thích các hiện tượng văn hóa và tôn giáo và cuối cùng là tất cả các sự
kiện của lịch sử nhân loại; số lượng và chất lượng của các tác phẩm mà họ đã
truyền cảm hứng chứng tỏ năng suất của họ. Tuy nhiên, điều có thể thực sự thuyết phục lại là ý tưởng cho rằng các
mối quan hệ-sản xuất là động cơ của lịch sử hoặc tâm lý con người được xác định bởi một
phức hợp các lực lượng siêu
tâm lý học, cả hai lý thuyết này đều không giải thích được sự xuất hiện của
khả năng đặc biệt của con người trong việc tạo ra các dấu hiệu hoặc biểu tượng tượng trưng. Marx, Freud, và
các môn đệ của họ đưa ra các mệnh đề về con người-nói-chung mà không
giải thích cách thức
chúng ta bắt đầu có được năng lực cho phép chúng ta đưa ra các mệnh đề này. Do đó, bất chấp các kỳ vọng của họ hiểu được vật tự nó, cả hai đều nằm trong ranh giới của phương thức tư duy,
được Plato xây dựng lần đầu tiên, từ đó được gọi theo tên một trong những luận
thuyết của Aristotle
là siêu hình học.
Kể từ thời Khai sáng, các nhà tư tưởng đã tìm cách thoát khỏi tính tự quy chiếu của siêu hình học, hay cái mà Nietzsche gọi là nhà tù của ngôn ngữ. Đối với Voltaire, “siêu hình học” để chỉ tư tưởng tôn giáo. Các nhà triết học của Marx, những người đã nghĩ về thế giới thay vì thay đổi nó chính là các nhà siêu hình học về mọi phương diện, trừ tên gọi. Đối với Derrida, toàn bộ tư tưởng hậu Platon đều là siêu hình, kể cả tư tưởng của ông, mà phẩm chất của nó không nằm ở việc tuyên bố cư ngụ trong một không gian không tưởng bên ngoài siêu hình học mà dứt khoát là ở bên lề ngay trong ranh giới của nó.
Từ quan điểm của giả thuyết gốc, siêu hình học có thể được định nghĩa một cách đơn giản là cách tư duy đương nhiên coi sự tồn tại của các mệnh đề hoặc các câu tường thuật được tìm thấy trong ngôn ngữ thuần thục trong khi bỏ qua nguồn gốc cần thiết của chúng từ một ngôn ngữ giả định nguyên gốc. Theo tiêu chí này, phê phán của Derrida về siêu hình, tinh tế hơn so với các phê phán của những người tiền nhiệm của ông, lại mang tính siêu hình một cách táo gan hơn. Derrida thậm chí còn ít quan tâm hơn Marx hay Freud về giao diện chịu tác động của con người giữa tiền ngôn ngữ và ngôn ngữ học, nguồn gốc của ngôn ngữ. Điều mà khái niệm différance có thể được hiểu thực chất như một khái niệm về nhân học gốc chính là một cống vật cho trực giác nhân học của Derrida, chứ không phải cho ý định triết học của ông.
Điều khác biệt giữa tư duy dựa trên giả thuyết gốc không
chỉ với tư tưởng siêu hình cổ điển mà còn với những u bướu hiện đại bên lề
của nó chính là ở chỗ nó đặt năng lực biểu trưng trao đổi của con
người vào cốt lõi tối thiểu của nó. Thực tế đơn giản là Nhân học Tạo sinh có thể đặt định siêu hình học của
truyền thống triết học phương Tây trong một hữu thể luận tối thiểu của các hình thức-bày tỏ ngôn ngữ, cơ bản
và phức tạp, gợi ý rằng nỗ lực phân biệt tư duy về thế giới từ thay đổi thế giới
hoặc ý thức từ vô thức có thể và nên được suy nghĩ lại dưới ánh sáng của giả
thuyết gốc. Cái phô bày
và thậm chí là bắt
buộc ít gây hứng thú cho các nhà ngôn ngữ học và càng khó thu hút các học giả về
nguồn gốc ngôn ngữ bởi vì chúng không truyền đạt thông tin gì về thế giới:
chúng không cung cấp một mô hình ngôn ngữ không có ngữ cảnh cho tri thức mà triết
học yêu thích. Vì mục
đích khách tính nhận thức luận này, siêu hình học phủ nhận bản chất nhân học cụ
thể của sự tự-hiểu biết của con
người và từ chối giải thích nguồn gốc cụ thể của con người. Ngôn ngữ được hiểu
là một năng lực dành riêng cho
những hiện hữu lý tính mà sự xuất
hiện cần thiết về mặt lôgic từ trạng thái tiền duy lý không liên quan
đến tính duy lý của họ.
Tôi không ám chỉ là Nhân học Tạo sinh “siêu việt” siêu hình học, như thể bất kỳ lý thuyết nào cũng có thể tránh được việc diễn đạt bằng các câu tường thuật cung cấp một bản đồ thế giới bằng ngôn ngữ vậy. Nhân học Tạo sinh là một cách tư duy mới bởi vì lần đầu tiên nó vạch ra một ranh giới rõ ràng giữa tư tưởng siêu hình hoặc tư duy mệnh đề và cơ sở gốc của nó bằng phô bày, mà nếu không có nó thì tư tưởng và ngôn ngữ sẽ không tồn tại. Trong cả sự nghiệp của mình, nhà triết học phân tích biểu tượng Wittgenstein đã từ chối những tường thuật / mệnh đề của Tractatus vốn là trường hợp của những “trò chơi ngôn ngữ” thống trị-mệnh lệnh của Nghiên cứu Triết học. Nhân học Tạo sinh không chỉ thực hiện bước cuối cùng bằng cách quay trở lại hình thức bày tỏ nguyên thủy nhất, cái phô bày, nhưng nó phải xuất trình một kịch bản hợp lý cho sự xuất hiện của hình thức này từ trạng thái tiền ngôn ngữ.
Nhưng ngay cả khi tuyên bố của tôi được công nhận là Nhân học Tạo sinh triệt để chi li hơn các phương thức tư duy trước đây, thì giá trị của cách tư duy cuối cùng không được xác định bởi tính tối thiểu hay cấp tiến luận của nó mà bởi khả năng huy động các cá nhân học hỏi, mở rộng và sửa đổi các hệ mẫu gốc của nó để khám phá các khía cạnh khác nhau của hiện thực người. Tuy nhiên, điều quan trọng có thể là việc khám phá / phát minh ra giả thuyết gốc như là một điểm xuất phát tối thiểu cho con người, vì các hiện hữu người trong hoàn cảnh mà chúng ta nhất thiết phải quan tâm đến nhân loại về đặc điểm lịch sử của nó, và sự lựa chọn của chúng ta về một nhân học được quyết định bởi khả năng ứng dụng của nó đối với các hoàn cảnh cụ thể của chúng ta, tuy nhiên phải được xem xét một cách rộng rãi.
Điều tôi hy vọng sẽ là sự kiện tư duy đầu tiên trong số
nhiều GATEs (Generative Anthropology Thinking Events – Sự kiện Tư
duy Nhân học Tạo sinh)
cung cấp một cơ hội đặc biệt để suy ngẫm về một số nghiên cứu mà Nhân học Tạo sinh đã kích thích.
GATE là hội nghị Nhân học Tạo sinh đầu tiên không
do chính tôi tổ chức, cũng
hệt như The
Originary Hypothesis
“Giả thuyết Gốc” của
Adam Katz (2007)
mới xuất hiện là cuốn sách đầu tiên dành cho Nhân học Tạo sinh mà không phải do
tôi viết. Những phát triển này phản ánh tính phong nhiêu tiềm tàng của giả
thuyết gốc như một hệ
mẫu cho khoa học xã
hội và nhân văn. Các bài viết được đưa ra tại
hội nghị liên quan đến hệ
mẫu này truyền cảm hứng
cho sự phản ánh sâu hơn về các lĩnh vực mà trong đó các nỗ lực mở rộng giả
thuyết gốc có thể chứng minh là
có kết quả nhất. Số
đặc biệt của Tạp chí Anthropoetics có năm bài
viết, khám phá các chủ
đề khác nhau. Mặc dù một số sinh viên của tôi đã có những đóng góp quan trọng
cho Nhân
học Tạo sinh, và mặc dù một số người đã phát biểu tại hội nghị, nhưng tôi vẫn thấy vừa tò mò vừa
phấn khích khi không ai
trong số năm người đóng góp cho vấn đề này đã từng ngồi trong lớp học của tôi.
Bài viết của Andrew
Bartlett (2007) đề cập đến vấn đề
có thể là điểm nhấn nhạy cảm nhất của Nhân học Tạo sinh: cách nói về niềm
tin tôn giáo cơ bản vào Chúa trong khi tránh cả quy giản luận và phép biện giải tôn giáo. Thật khó để tưởng
tượng một minh chứng thuyết phục hơn của Andrew về sức mạnh của
ý tưởng nhân học về Chúa trong việc thu hẹp khoảng cách giữa người tin và người không tin.
Như Andrew đã chỉ ra trong quá trình phân tích của mình,
mục đích chính của tư duy gốc là phát hiện và khám phá nền cảnh chung mà tất cả
chúng ta đều chia sẻ với tư cách là những
hiện hữu người. Đây có thể là một hành động yêu thương, một nỗ lực
để thúc đẩy tình anh em và sự hiểu biết của con người, nhưng chỉ trong khuôn khổ
của một nhân học đặt ra gánh nặng khả
thể nhẹ nhất cho một người sẵn sàng xem
xét giả thuyết sáng lập của nó.
Andrew chứng
minh một cách thuyết phục rằng người vô thần không thể chế nhạo niềm tin vào
Chúa như một điều ngớ
ngẩn phi lý mà phải chấp nhận ý nghĩa của ý tưởng về Chúa như nguồn gốc của tự thân ý nghĩa. Về phần
mình, người tin Chúa phải đồng ý đặt
vào trong ngoặc cái đặc điểm cụ thể của niềm tin của mình để đạt được thỏa
thuận phổ quát rằng, bất cứ quyền
năng và hành động nào khác có thể được quy cho Chúa, thì sự hiện hữu-vì-nhân loại của người ấy là tuyệt đối cần thiết. Cho đến khi
Chúa có thể được đại diện, một kỳ
tích mà chỉ có con người
mới có thể hoàn thành, thì
sự tồn tại của Ngài vẫn chưa được chứng thực. Nhưng thay vì
trích dẫn văn bản của Andrew bằng sự tán đồng, thì ở đây, việc xem xét bước tiếp
theo, sẽ hữu ích hơn, nhưng là bước khó khăn hơn.
Chúng ta hãy giả sử rằng một nhóm tín đồ và người vô thần sẵn sàng tham gia để chấp nhận “ý tưởng nhân học về Chúa”. Không một tín đồ nào có thể coi niềm tin tối thiểu này là đủ, trong khi những người vô thần, hầu như không chấp nhận khoan dung với nó, sẽ không cho phép mở rộng thêm nữa. Một điều mà một người vô thần có thể thừa nhận là trong trường hợp thiếu vắng toàn bộ tính đặc thù tôn giáo lịch sử, thì không có sự khác biệt về nhận thức luận giữa vô thần luận và hữu thần luận.
Vậy là, bước tiếp theo, ngoài điểm tối thiểu mà tất cả đều đồng ý, sẽ là nhận thức các truyền thống tôn giáo riêng biệt, bao gồm cả vô thần luận, như những thử nghiệm dài hạn trong việc xây dựng hình thức của cái thiêng có lợi nhất để duy trì một xã hội thành công. Chẳng hạn, trong Khoa học và Đức tin, tôi đã so sánh những gì đối với tôi có vẻ là những mặc khải cơ bản của Do Thái giáo và Cơ đốc giáo về việc nhận thức mà họ truyền đạt về cách chúng ta liên quan đến nhau thông qua trung gian của cái thiêng như được phát hiện trong sự kiện gốc.
Ngày nay, phương Tây đang phải đối mặt với thách thức bạo lực từ Hồi giáo cực đoan. Tôi không ảo tưởng rằng thử thách này có thể được đáp ứng chỉ thông qua phân tích nhân học; nhưng những người nghĩ rằng cam kết trí tuệ là vô ích thì cũng đều ngây thơ. Không hề là phỉ báng Hồi giáo khi lưu ý rằng nó được sinh ra như một phản ứng phẫn uất của những người bên ngoài Cơ đốc giáo Địa Trung Hải. Thành công của nó cho thấy sức mạnh của độc thần luận dân chủ phủ nhận là Do Thái giáo cũng như Cơ đốc giáo đã không thể đang không thể cũng như sẽ không thể phủ nhận tầm quan trọng của lịch sử quá khứ trong cộng đồng tôn giáo của nó. Tính chất đầu tiên của Do Thái giáo và tính chất cuối cùng của Cơ đốc giáo được ghi vào lịch sử thiêng liêng của họ; Hồi giáo tôn vinh sự xuất hiện tạm thời của kinh Koran vô thủy vô chung như một sự khởi đầu mới của lịch sử.
Ý tưởng nhân học về Chúa là đấng bất-tử được biểu thị bằng
dấu hiệu đầu tiên không bàng
quang với tính đặc thù của ba
tôn giáo Abrahamic
(Do Thái giáo, Thiên chúa giáo và Hồi giáo). Tính
chất đầu tiên của người Do Thái và quan niệm tai tiếng và nguy
hiểm về “những người được chọn” là cần thiết cho việc khám phá ra nhất tính của con người thuộc một vị thần như
là tính chất đầu tiên về cảnh huống gốc. Sự chưng cất Cơ đốc giáo về những kẻ khổ nạn của Chúa thành Kẻ Tôi tớ duy nhất và Con Một của Chúa Trời tiết lộ đồng nhất tính của cảnh huống đại diện con người
với thần linh, điều này khiến cho giao ước có thể được phổ quát hóa. Theo quan điểm
của người Do Thái, sự thờ phượng Chúa Jesus khẳng định đồng
nhất tính giữa cảnh huống của chúng ta với cảnh huống của Chúa là mang tính sùng bái hình tượng; đối với người Cơ đốc, nếu không
có sự bảo đảm này, thì tính đặc thù lịch sử của hành
động của Chúa và tính phổ quát của sự cai trị của Ngài không thể dung hòa được.
Tính đầu tiên của
người Do Thái chỉ có thể được biện minh trên quy mô
toàn cầu bởi tính đầu tiên trước
hết của Đấng Christ.
Sự bác bỏ tuyệt đối của Hồi giáo đối với tính đầu tiên về phương diện lịch sử cho thấy tính bất khả hòa giải không phải với sử tính thiết yếu của nhân loại oán hận và tính bình đẳng đạo đức của nó. Toàn bộ ba khải lộ này đều được cấu thành từ con người như chúng ta biết rõ về nó; những gì chúng ta có thể mong muốn học được từ lịch sử không phải là cái nào sẽ đánh bật cái nào khác, mà là cái hình thành nên trạng thái cân bằng sáng tạo không ổn định của cả ba, cùng với các tôn giáo thế giới khác, sẽ giả định vào một thời điểm nhất định.
Tính
đặc biệt ác liệt của Hồi giáo hiện
đại xuất phát từ thiên khải tai tiếng của thời
hiện đại cho rằng vị thế người ngoài cuộc, vốn là nguồn sức
mạnh to lớn trong xã hội truyền thống thời Trung cổ, không còn đủ để đảm bảo
cho sức mạnh văn hóa và quân sự vượt trội. Việc từ chối tính đầu tiên đã từng vận hành rất hiệu quả vào
thế kỷ thứ bảy giờ đây có nguy cơ trở thành tính hủy diệt đơn thuần. Sự vượt
trội về công nghệ của phương Tây trên hết là sự vượt trội mang tính nhân học, một sự
vượt trội chỉ mới
bắt đầu trước sự trỗi dậy của hệ thống thị trường hiện đại. Do đâu mà bản chất bất đối
xứng của cuộc chiến của chúng ta với các phần tử cực đoan Hồi giáo, những kẻ vẫn bám rễ vào thế giới truyền thống; ngày 11/9, chiến thắng lớn nhất của Hồi giáo cực
đoan, là một chiến dịch ký sinh sử dụng tính hiện đại để chống
lại chính nó.
Năng suất vượt trội theo mọi nghĩa của xã hội thị trường
hiện đại phụ thuộc vào sự thừa nhận của nó, tuy
miễn cưỡng và lưỡng lự, về sự chính danh của tính đầu
tiên. Nếu một người thành công trên thị trường, người đó phải cạnh tranh cho vị
trí đầu tiên. Mặc dù Hồi giáo đã chống lại việc tự hòa giải với nguyên tắc này,
nhưng để có niềm tin vào khả năng sống sót của nhân loại thì phải tin rằng tính không tương
thích của hệ thống thị trường với phổ quát luận bình đẳng của Hồi
giáo lại mang tính thái độ hơn là tính thần học. Vì vậy,
chúng ta phải hiểu sự phục tùng trung tâm nằm ở cốt lõi đức tin của nó cuối
cùng là tạo điều kiện thuận lợi cho sự tương tác của con người trong thế giới hiện đại, có lẽ bằng
cách giúp tích hợp các đức tính đạo đức truyền thống vào một nền văn hóa thị
trường mà vẫn tự thấy
đang nổi loạn chống lại chúng. Về vấn đề này, thật là hữu ích khi quan sát
truyền thống Phật giáo, vốn dạy chúng ta làm chủ hơn là kiểm duyệt các ham muốn của mình, đã có thể thích ứng với hệ
thống thị trường dễ dàng như thế nào. Nơi mà những thiên khải của các tôn giáo
Abrahamic củng cố quyền năng mô phỏng của cái trung tâm thiêng
liêng, thì trọng tâm của tôn giáo “phương Đông” là đạt được một ngoại vi hoàn hảo.
Trong hệ thống giải
trung tâm hóa này, sự tương phản
giữa trao đổi “Maussian” bị trì hoãn của các xã hội truyền thống và các giao dịch
trên thị trường là tương đối không quan trọng; sự suy yếu của cái trung tâm mà Hồi
giáo cho là quá tai tiếng đã diễn
ra.
Adam Katz (2007) bắt đầu bằng cách chỉ ra tính mơ hồ nhất định ở một trong những nỗ lực của tôi để phân biệt cái thiêng với ý nghĩa, bằng cách kết luận rằng quan điểm thực của tôi chỉ đơn giản là ý nghĩa là một dạng tối thiểu của cái thiêng. Tôi nghĩ những gì tôi viết trong “Frère Jacques” (Gans, Eric 2006) gần với quan niệm của Adam hơn: theo cách hiểu của nhà giải cấu trúc cũ, việc sử dụng ngôn ngữ xác định chúng ta là con người phụ thuộc vào niềm tin tối thiểu. Và cho rằng việc biểu đạt vẫn là một hành động của đức tin, chúng ta không cần phải chia sẻ nỗi e ngại của Adam cho rằng trong một điều kiện không tưởng toàn năng trung tâm, bản thân Nhân học Tạo sinh có thể bị quy giản thành một biểu hiện thẩm mỹ cá nhân - biểu hiện của Bronx Romantic? —Và chỉ trở thành một trung tâm địa phương hóa khác. Mỗi nhà thẩm mỹ cá nhân đều khẳng định một mức độ giá trị-chân lý nhân học như một biểu hiện của khả tính con người, và một nhân học tối thiểu có một giá trị-chân lý tối đa. Thực tế, lối sống Nhân học Tạo sinh sẽ là gì? Chính khó khăn khi trả lời câu hỏi này sẽ làm giảm bớt nỗi e ngại của Adam. Nhân loại học tối thiểu là thứ ít có thể trở thành một tự ngã-như-tác phẩm nghệ thuật nhất; ý tưởng của nó được cách ly tối đa khỏi quá trình thẩm mỹ hóa.
Cách
đảo nối của Adam đối
với dấu hiệu vật chất
chỉ đối tượng phi vật chất và dấu hiệu phi vật chất chỉ đối tượng vật chất đã nhân học hóa sự phân biệt của Hjelmslev (Hjelmslev, L. 1928, 1943, 1975) giữa hình thức và bản chất của cái biểu đạt và cái được biểu đạt, mà ông gọi là “biểu hiện” và “nội dung”. Cái biểu đạt như một hoạt
động vật chất thay thế cho hành động thích thú hướng tới đối tượng, cho
phép ý tưởng hoặc cái
được biểu đạt của đối tượng xuất hiện, trong khi cái biểu đạt phi vật chất, ý tưởng về cử chỉ bị hủy bỏ, bằng cách duy trì ý tưởng không thể hủy bỏ được về đối tượng,
lại làm cho đối tượng vật chất
có thể tiếp cận được. Đối lập với ngôn ngữ học Saussurian, bằng
cách khái niệm hóa cả cái
biểu đạt và cái
được biểu
đạt như các dạng
tinh thần thuần túy, khởi đầu cho tính phi trung
tâm của cấu trúc luận,
dự báo cho hậu hiện đại luận, ở đây Adam nhắc
nhở chúng ta về sự cần thiết - và tính bền bỉ - của giao diện gốc giữa ký hiệu
và thực tại.
Tôi nhận thấy trọng tâm của bài luận phức tạp của Adam là
cái song hành mà nó rút ra giữa
các phương thức siêu việt tôn giáo và thế tục, cả hai phương thức này đều được
ông coi là thiêng liêng, trái ngược với những ham muốn và sự phẫn uất trần tục của những kẻ bị cám dỗ bởi tính cuối cùng hy
sinh trật tự xã hội để
thỏa mãn về vật chất và
mô phỏng của họ. Adam định nghĩa
thế tục luận Khai sáng không
chỉ đơn giản là sự khước từ phụng vụ để ủng hộ lý trí, mà còn là sự thay thế
cuộc tử đạo của nhà khoa học-duy lý cho cuộc tử đạo của Chúa Kitô. Vì vậy, ông táo bạo chọn cảnh huống Rousseauian trong
đó cái tôi được thay thế
cho Chúa tử đạo chứ không phải là mô hình tập thể tự-tạo ra khế
ước xã hội làm cảnh huống
đặc trưng của thời Khai sáng, mà ngược đời, ông lại coi là “phản-cảnh huống”. Rousseau đã
tìm thấy chỗ trống trong nhân văn luận
vẫn còn hạn hẹp của thời Khai sáng để trau dồi khả năng của cá nhân phản-xã hội trong việc
tạo dựng cảnh huống
xung quanh mình. Ngược lại với điều này, Rousseau đã định nghĩa lại khế ước
xã hội là nền tảng của một cộng đồng chính trị thu nhỏ ràng buộc bởi
một ý chí chung, ngăn ngừa các cuộc tranh
luận chính trị.
Điều mà việc loại trừ hiển nhiên cái tôi độc lập
này thực sự là một phiên bản tiêu cực của cái tôi-nạn nhân trung tâm của Rêveries – Giấc mộng Ban ngày - đã được xác nhận quá rõ ràng bởi
hiện thân tất yếu của nền
chính trị
la volonté
générale của ý chí chung
trong những nhân vật như Il Duce, Der Führer, Dear Leader - Lãnh tụ Kính yêu. Đối với mô hình hỏng này, Adam phản đối
Hệ tư tưởng chính trị tôn giáo Hebrai của những
người cha sáng lập và các tiền thân người Hà Lan và người Anh của họ, những
người mà sự tái tạo hiện đại của Cơ đốc giáo đã tìm cách không đảo ngược cảnh huống tử đạo Cơ đốc
giáo mà làm cho nó trở nên không cần thiết.
Việc
xây dựng lý thuyết của Adam tìm cách phù hợp với tình hình chính trị
ngày nay, trong đó thành công phi thường của hệ thống thị trường tiếp tục kích
động cơn thịnh nộ của người cuối cùng.
Giải pháp của ông cho phẫn uất bất
tận là khẳng định cái mà ông gọi là “khớp nối các thánh địa”, theo đó ông
không chỉ đề cập đến các thể chế của nền dân chủ tự do - thị trường tự do và
chính phủ hợp hiến - mà còn đề cập đến những kẻ thụ hưởng cá nhân của cái thiêng thế tục, mà mỗi trong số đó được hiểu là một mảng dấu hiệu đặc biệt.
Việc làm mới đức tin ở những
địa điểm này, mà Adam gọi là loan tin mừng, là phản ứng
thích hợp đối với các phong trào chống lại nạn nhân bài Do Thái, chống phương
Tây. Bữa đại tiệc của niềm tin được
đổi mới này là đẩy nhanh việc tái tạo sự kiện gốc thông qua tập trung hóa ham muốn vào một
trung tâm mà sau đó được khải lộ là có
thể chia sẻ được giữa những kẻ tranh giành nó.
Đây là một mô hình lạc quan cuối cùng của thị trường, được hiểu là sự sản sinh
liên tục các ý nghĩa thu hút kẻ
cuối cùng vào chính nó.
Nếu tôi ngần
ngại bất kỳ điểm nào trong bài tập xuất sắc của Adam về tư duy gốc, thì đó là việc thừa nhận rằng điều không tưởng toàn
năng trung tâm thực sự là một
cuộc cạnh tranh thứ bậc giữa những kẻ toàn trị hóa là thừa nhận rằng một
số người sẽ không thể cưỡng lại sức hút của vai trò của kẻ tử đạo Rousseauian
mà khổ nạn duy nhất của hắn xác định một
trung tâm duy nhất. Con
người oán hận sẽ tái xuất hiện nhanh
chóng hệt như chúng ta “phục sinh” hắn vậy. Điều làm cho cuộc
khủng hoảng hiện nay trở nên độc hại và tiềm ẩn hiểm họa là thói kiên ngoan, trong thời hiện đại ngày càng hội
nhập, của một thế giới truyền thống buông
neo các ký ức gần đây về
nỗi nhục thực dân. Một
nguyên lý của đức tin dân chủ mà tôi tin rằng chúng ta đều chia sẻ là việc hội nhập vào một cộng đồng
toàn cầu của các nền dân chủ tự do về lâu dài sẽ làm giảm mức độ độc hại của sự
oán giận tập thể này ngay cả khi nó không bao giờ có thể tích hợp đầy đủ xung lực
Rousseauian của nó với sự bất bình bạo lực.
Tuy nhiên, lùi khỏi kết luận này, điều
quan trọng nhất trong bối cảnh hiện tại là những trừu tượng tối giản của cảnh huống gốc cung cấp cho
Adam một khuôn khổ hiệu quả cho một bài luận chuyển động liền mạch giữa ký hiệu
học và chính trị. Bởi vì chúng xuất phát từ một cảnh huống mà cả quan niệm tối thiểu và mang tính giả thuyết lịch sử, lẫn các quan niệm cơ bản của Nhân học Tạo sinh đều thân thuộc với các hiện tượng
lịch sử cụ thể nhất và các
khái quát
tính rộng nhất.
Với phân tích của Ian Dennis (Dennis, Ian 2007) về cá tính văn chương và xã hội của Byron, chúng ta chạm vào kỷ nguyên văn hóa của “lời nói dối lãng mạn” của ham muốn siêu hình. Ian bóc tách một cách chuyên nghiệp những châm biếm nhiều lớp của Byron như là các yếu tố của chiến lược tiếp thị; như ông nói, Byron “phải trở thành Byron,” trong khi chúng ta học được từ việc ông vạch trần trò chơi khát vọng nhận ra sự giả dối và khinh bỉ nó, bằng cách chia sẻ nhận thức của ông về sự mong manh của tính trung tâm của chính ông trong những gì mà Doug Collins từng chỉ định với kẻ mang thai cụm từ tiền-nhục nhã. Nhưng trái ngược với sự hèn hạ thảm hại mà những kẻ nổi danh hiện đại của chúng ta nhất quyết tự thân tòng phục, thì tính tự-châm biếm của Byron lại kích động chúng ta về tình anh em hơn là lòng thương hại đền bồi. Dù hoàn cảnh thực tế của mình như thế nào, thì Byron-tác giả của Don Juan vẫn vô cùng hạnh phúc; ông chia sẻ với độc giả niềm vui của một người không còn là kẻ bị lừa bịp vì ham muốn mô phỏng nữa, mà là kẻ, không giống như những tiểu thuyết gia được Girard lựa chọn, đã đạt tới vérité romanesque - chân lý mơ mộng của mình trong cái thế giới này.
Tuy nhiên, việc gia nhập trí khôn trần thế này chỉ có
thể thực hiện được đối với thế hệ đầu tiên của những người lãng mạn, những kẻ đã học được bản
chất mô phỏng của ham muốn thông qua trải nghiệm ngây thơ của họ về nó như là sự thể
hiện bản ngã thật của họ. Ngược lại, đối với các môn đệ của Byron, chẳng hạn
như Alfred de Musset, nhà lãng mạn người Pháp thế hệ thứ hai, thì sự khôn ngoan Byronic
không kinh nghiệm khiến cho
trải nghiệm ngây thơ của
ham muốn không thể thực hiện được, nhưng không dập tắt nhu cầu về nó. Việc thực sự trải nghiệm bất mãn với ham muốn này sẽ là vai trò lịch sử của thế hệ chìm trong vỡ mộng năm 1848,
những kẻ đã thích nghi với khía cạnh mô phỏng của ham muốn khiến họ
trở thành thế hệ những
kẻ tiêu dùng đầu tiên.
________________________________________
Còn nữa….
Nguồn: Gans, Eric (2007).
Generative
Anthropology – A New Way of Thinking? In Anthropoetics XIII, no. 2 Fall 2007: Special GATE Issue
Tác giả: Eric Lawrence
Gans (sinh ngày 21 tháng 8 năm 1941) là Giáo sư văn chương Pháp, học giả, triết gia ngôn ngữ và nhà nhân học văn hóa người
Mỹ. Kể từ năm 1969, ông đã giảng dạy và xuất bản về văn học thế kỷ 19, lý
thuyết phê bình và điện ảnh trong Khoa nghiên cứu tiếng Pháp và Pháp ngữ của
UCLA (University of California, Los Angeles). Gans đã sáng
tạo ra một ngành khoa học mới về nguồn gốc và văn hóa loài người mà ông gọi là
Generative Anthropology Nhân học Tạo sinh, dựa trên ý
tưởng cho rằng nguồn gốc của ngôn ngữ là một sự kiện duy nhất và lịch sử văn hóa loài
người là sự phát triển mang tính di truyền hoặc “tạo sinh” của sự kiện đó.
Trong một loạt các cuốn sách và bài báo bắt đầu với Nguồn gốc của Ngôn ngữ: Lý thuyết Hình thức về Biểu hiện (1981) Gans đã phát triển
ý tưởng của mình về văn hóa, ngôn ngữ và nguồn gốc của con người. Năm 1995,
Gans thành lập (và tiếp tục biên tập) tạp chí Anthropoetics: The Journal of Generative Anthropology như một diễn
đàn học thuật để nghiên cứu về nguồn gốc và văn hóa loài người dựa trên Nhân học Tạo sinh và gắn liền với Fundamental Anthropology Nhân học Cơ bản của René Girard. Kể từ năm 1995, Gans đã xuất bản trên web Chronicles
of Love and Resentment Tình
- Hận Biên niên
sử, bao gồm những phản ánh về mọi thứ từ văn hóa đại chúng, phim ảnh, hậu
hiện đại luận, kinh tế, chính trị đương đại, thảm sát Holocaust, triết học, tôn giáo và
cổ nhân học. Năm 2010, Generative
Anthropology Society & Conference Hiệp hội & Hội nghị Nhân học
Generative được thành lập để tài trợ cho các hội nghị thường niên dành riêng
cho Nhân học Tạo sinh.
Tài
liệu dẫn (HHN)
1. Bartlett, Andrew (2007). Three Affirmations of the Being of God Suggested by the Anthropological
Idea of God. Anthropoetics XIII, no.
2 Fall 2007: Special GATE Issue.
2. Dennis, Ian (2007).
Byronic Irony in Don Juan, In Anthropoetics XIII, no. 2 Fall 2007: Special GATE Issue.
3.
Foucault, Michael (1964).
Nietzsche, Freud, Marx, in Nietzsche, Cahiers du Royaumont. Paris:
Les Éditions de Minuit, 1964, 183-200 (based on a “round table” discussion held
at Royaumont, July 4-8, 1964); trans. “Nietzsche, Freud, Marx,” In Gayle L.
Ormiston, Alan D. Schrift (eds). Transforming the Hermeneutic Context. Albany,
NY: State University of New York Press, 1990, 59-67. (Không biết Gans kiếm đâu
ra cụm từ “bậc thầy lan man”, nhưng chắc chắn, Foucault (và sau đó cả Paul
Ricoeur trong De l’interpretations: Essai sur Freud) gọi ba ông người
Đức là “bậc thầy nghi ngờ” (“maitres du soupçon”) - HHN).
4. Gans, Eric (2006). Frère Jacques, In Chronicles of Love and resentment, No. 340: Saturday, December 23rd, 2006. http://anthropoetics.ucla.edu/views/vw340/
5.
Hjelmslev,
L. (1928). Principes de grammaire générale, Copenhagen: Bianco Lunos
Bogtrykkeri, 1928 [1929].
6.
Hjelmslev,
L. (1943). Prolegomena to a Theory of Language, trans. F. Whitfield,
Madison: University of Wisconsin Press, 1963 [1943].
7.
Hjelmslev,
L. (1975). Résumé of a Theory of Language, Madison: University of
Wisconsin Press, 1975.
8. Katz, Adam (2007). The
Originary Hypothesis: A Minimal Proposal for Humanistic Inquiry, The Davies Group Publishers, October 3, 2007.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét