Thomas Hylland Eriksen
Người dịch: Hà Hữu Nga
Bài Thuyết
trình Chủ đề này được dự định đóng góp cho cái mà Keith Hart (1998) gọi là
“cuộc đàm luận dài của nhân học”. Mục tiêu của tôi rất trực giản. Tôi sẽ đưa
ra một vài câu hỏi quan trọng về tình trạng học thuật của chúng ta vào
đầu thế kỷ 21, được hỗ trợ bởi một cách hiểu rất hạn chế, thiên lệch và chọn lọc về
nhân học của thế kỷ trước. Tôi
sẽ đề cập đến một số thành công cũng như thất bại của chúng ta, và với tiêu đề
của hội nghị này trong tâm trí, chắc chắn tôi cũng sẽ phần
nào suy luận về các triển vọng tương lai.
Cho phép tôi bắt đầu với một giai thoại từ khoa nhà của tôi, Khoa Nhân học Xã hội tại Đại học Oslo. Trở lại những năm 1970, nhà nhân học trẻ tuổi và tài giỏi Jorun Solheim đã viết một bài báo khá rắc rối và mang tính lý thuyết với tiêu đề dài dòng, nếu trí nhớ của tôi còn chính xác, thì đó là Er det riktig å si at moderne antropologiske forskere som Barth og Bailey står på skuldrene til Raymond Firth? Nghĩa là, “Có đúng không khi cho rằng các học giả nhân học hiện đại như Barth và Bailey ‘đang đứng trên đôi vai’ Raymond Firth?”. Các thế hệ sinh viên phải đọc bản thảo được đánh dấu, ban đầu là một bài kiểm tra và một bài ngoại lệ, kết luận rằng có một sự liên tục chắc chắn và hiển nhiên từ việc gia công lại chức năng luận của Firth đến các mô hình giao dịch do những người như Barth và Bailey nghĩ ra.
Năm 1989, Khoa đã quyết định tổ chức
một lễ lớn kỷ niệm 25 năm, vì những lý do mà
tôi vẫn còn chưa rõ. Một phần tư thế kỷ không phải là một khoảng thời gian ghê gớm và bên cạnh đó,
nền móng của khoa chủ
yếu là vấn đề kỹ thuật và thậm chí là thuật ngữ: trước năm
1964, nhân học xã hội đã được dạy trong cùng một tòa nhà đổ nát, có tên là
Barracks B, gần như là cùng đội
ngũ nhân sự, trong Bộ môn Dân tộc học. Hãy là như thế này, liên quan đến lễ kỷ niệm, Raymond Firth đã
được mời qua. Firth, lúc đó xấp xỉ chín mươi, đã có hai bài giảng trong chuyến thăm của mình, một trong số đó
có tên là Tương lai của nhân học xã hội,
trong đó ông nói về công nghệ sinh học, máy tính và các hiện tượng gần đây đòi hỏi
sự chú ý của các nhà nhân học. Ngay
sau đó, một đồng nghiệp, có khiếu hài hước kỳ quặc,
đã đứng dậy trong khán phòng chật cứng và hỏi ông lão đáng kính: Thưa Giáo sư Firth, có phải Fredrik
Barth và các học giả nhân học đương đại khác đang đứng trên vai
của ngài không?
Firth, mơ hồ nhận ra rằng anh ta có đôi chút đùa chơi, trả lời tròn trịa và ân cần rằng, “Ừ thì, nếu đúng như vậy, ít nhất điều đó cũng cho thấy họ có thể nhìn xa hơn tôi.”
Giờ đây, câu hỏi là, chúng ta có nhìn xa hơn những người mà chúng ta đang đứng trên vai họ, hay đã có một màn sương đặc giăng mù cảnh sắc? Clifford Geertz dường như đã tiến đến lập trường sương mù cho đến cuối đời, mặc dù ông thường được các nhà nhân học khoa học tự xưng coi là một người mở đường cho những nỗi kinh hoàng của ngu dân luận hậu hiện đại. Trong một tiểu luận mới đây so sánh James Clifford và Pierre Clastres - một cặp đôi bất khả, nhưng lại đưa ra được một tương phản kích thích tư duy - Geertz kết luận: “Mặc dầu hỏng bét về cách tiếp cận, nhưng Clastres đã biết mình sẽ đi đâu và ông đã đến được nơi đó.” Clastres, trong Xã hội chống lại Nhà nước, đã mô tả một bộ lạc Nam Mỹ không ngừng tranh đấu để duy trì lối sống cũ. Clifford, trong Các tuyến đường, một cuốn sách về lữ du, dịch chuyển và dân tộc học, trái lại “dường như sa lầy, bất ổn, dò dẫm hướng đi”, và văn bản của ông “đầy do dự, cà lăm (‘Tôi có thể nói gì? Tôi có thể nói thế nào về đều đó? Tôi có quyền gì để làm vậy’). Hậu hiện đại luận đã dạy một thế hệ các nhà nhân học mổ xẻ thực đơn mà không cần bận tâm đến những món đồ ăn thênh thếch; nó chăm chắm vào các mẫu hoa văn giấy dán tường mà ngó lơ chất lượng của đồ gỗ, hệt như các học giả với khẩu vị tân Darwinian - những tín đồ của sinh học gen vị kỷ - dường như đã nhầm lẫn công thức nấu nướng với chất lượng thực phẩm. Các biểu hiện sặc mùi phúc âm của Tân Darwinism [luận], đại diện cho việc tìm kiếm các câu trả lời đơn giản cho các câu hỏi phức tạp, có thể được xem là kết quả của sự tuyệt vọng bởi nỗi niềm phân mảnh rành rành hậu hiện đại, nhưng trớ trêu thay nó lại chỉ quan tâm đến những kiểu cách trừu tượng cùng cỡ với Derrida hoặc Lyotard.
Tiệc đã tàn chăng? Các nhà nhân học thuộc thế hệ tôi bằng cách nào đó đã gây ra ấn tượng khác
biệt là nhân học từ đầu đến giữa thế kỷ 20 lấp lánh ma thuật. Nó tự tin vào phận sự trí tuệ khổng lồ
của mình và, hiển nhiên là nếu có ai đó càu nhàu
hay thậm chí phủ
nhận thẳng thừng, thì sứ mệnh đạo đức của nó vẫn
bao gồm việc cải thiện thế giới, đặc biệt là cải thiện tầng lớp trung lưu phương Tây.
Khinh thị cạnh tranh,
hãy cứ là nghiên cứu xã hội định lượng, sử ký phi lý thuyết hoặc xã
hội học quy giản luận, nhân học xã hội vẫn
giương tấm biểu ngữ, nhưng không quá cao đến
mức khiến bản thân trở
nên dễ bị tổn thương với chỉ trích do thô tục và giật gân. Thời đại của chính trị bản sắc nhân học chính xác bắt đầu ngay sau
Thế chiến II, vào lúc mà số lượng các nhà chuyên môn và giáo viên trong ngành học đủ để các học giả nhân học không phải lo lắng
về việc làm cho các tác phẩm của họ có thể tiếp cận hoặc thú vị với người ngoài cuộc.
Không
phải tất cả chúng ta đều ngồi trong các phòng hội thảo nhân học
xã hội, dù ở Oxford, Oslo hay nơi khác, lắng nghe những kẻ thuyết trình coi các đặc quyền với những quy
ước nhất định của ngành học, chỉ phải đáp ứng với những phản ứng
của loại đặc tính giống
loài “Hừmm ... rất thú vị, thậm chí hấp dẫn, nhưng đó có phải là nhân học?” Tóm lại, tôi cũng không muốn đi
sâu vào chi tiết của
giai đoạn này, thiếu sự cởi mở trong nhân học xã hội, trong điều kiện tốt nhất thì cũng gây nên bối rối, còn trong cảnh
huống tệ nhất thì thành ngáng trở. Vài năm trước, về phương diện chuyên
môn, người ta rất
bận tâm với những cách thức mà khái niệm văn hóa cũ kỹ bầm dập của chúng ta đã
bị các nhà phi-nhân học hàn lâm chiếm đoạt trong khi chúng ta đang bận rộn tháo dỡ nó. Mặc
dù các nhà nhân học ngày nay có
mặt khắp mọi nơi bên ngoài
cơ sở hàn lâm, thì
thứ chính trị học
bản sắc nội tại của ngành học chúng ta vẫn bị ám ảnh ghê gớm với việc duy trì
ranh giới và giữ cửa. Tôi có thể nghĩ về một vài khoa sẽ không mơ ước thuê được một
nhân sự có bằng Tiến sĩ về một môn học khác ngoài nhân
học. Việc cộng tác với các học giả trong các ngành khác được coi là đáng trọng miễn là người ta không “đánh mất bản sắc chuyên nghiệp với
tư cách là một nhà nhân học”. Quý vị biết rõ điều này cũng hệt
như tôi vậy. Nhưng có phải điều này hơi khác thường đối với một môn học mà một trong
những công trình thực sự nền tảng là Luận về Biếu tặng của Marcel Mauss?
Mauss bắt đầu luận đề
của mình bằng cách phân biệt giữa ba bước trao đổi quà tặng: tặng,
nhận và trả lại món quà. Các nhà nhân học, gần giống như các nhà quyên trợ Scandinavian
vậy, hoàn toàn vui mừng khi đưa các khái niệm và lý thuyết của họ cho người
ngoài cuộc, nhưng lại không hào hứng với những món lại quả dưới dạng các phân tích gợi hứng từ tư tưởng
nhân học nhưng lại
không phải là một phần của nó. Người ta kiêng dè cái bất tịnh trong nhân học, mà có lẽ là hèm, trong ngữ cảnh lý thuyết Mary Douglas, mà không phải trong đời
sống trí tuệ.
Hèm
bất tịnh, nói
cách khác là một thứ “học hèm” (intellectual fear of impurity, kẻo nhầm với
“học hàm” - HHN), có lẽ không ở đâu rõ ràng hơn trong lĩnh
vực nhân học phổ
cập, hoặc nhân học công cộng nếu quý vị muốn. Mới đây tôi đã dành
cả một cuốn sách cho chủ đề này (Eriksen 2006) và sẽ không nhắc lại lập luận
của tôi về việc phổ cập
hóa ở đây. Thái độ đối với “nhân học phổ cập” nhẹ dạ - ở
đất nước này thường được Kate Fox và cuốn sách rất thú vị “Rình bọn Anh” Watching the English (Fox 2004) của cô đại diện – rất khác nhau và, tôi
nghĩ, nên khác nhau. Tuy nhiên, có nhiều loại nhân học phổ cập khác nhau. Một hoặc hai loại rõ ràng thuần dân túy luận, văn chương thương mại nhằm
mục đích giải trí nhưng không đóng góp gì mới đáng kể vào kho tri thức về trạng
huống của nhân loại. Tôi chẳng
hơi đâu cằn nhằn với những cuốn sách như vậy, nhưng chúng nằm
ngoài phạm vi quan tâm hiện tại, thuộc về khả năng của nhân học
trong việc đóng góp trí tuệ cho cuộc đàm
luận dài về nhân loại, không chỉ là về nhân học. Thật đáng ngại khi phải lưu ý rằng trong
danh sách gần đây của 100 trí thức quan trọng nhất thế giới, tổng cộng chỉ nhõn một nhà nhân học được chọn làm đại diện, cụ thể
là Clifford Geertz trong danh sách toàn cầu. Giờ đây ông đã quy tiên, thế là nhân học lại trở về con số không
tròn trĩnh.
Quý
vị có thể không quan tâm đến loại
danh mục này, nhưng tôi
có thể đề cập đến các ví dụ khác, chẳng hạn như danh mục sách bán chạy rất
toàn diện trên Amazon, nền tảng chuyên nghiệp của những người viết cho “Điểm sách London, Triển vọng” London Review of Books, Prospect hay “Điểm sách New York” New York Review of Books, hoặc hàng tá chỉ báo tương tự cho thấy ý nghĩa trí tuệ rộng lớn
hơn của nhân học xã hội. Tuy
nhiên, đây không phải là lúc để tự mãn. Trong quá khứ, nhân học đã thành công một cách ngoạn mục
trong việc chống lại những định kiến chủng tộc và quyết định luận sinh học, giải thích cho - ít nhất là
trong trường hợp của Margaret Mead, những
đóng góp vào – quá
trình biến đổi văn hóa, và tung những loại suy bất ngờ, những đối sánh đầy chất kích thích tư duy vào thế giới, đôi
khi thành công trong việc làm cho những điều xa lạ trở nên thân thuộc và những điều thân thuộc
trở nên xa lạ, để diễn giải Malinowski. Thất bại của chúng ta trong việc xác định một chương trình nghị sự
công khai duy nhất trong những thập kỷ qua - và tôi đang sử dụng từ công khai một
cách lỏng lẻo, để bao gồm các phương tiện truyền thông, chính trị và tranh luận
trí tuệ chung - thực sự khá nghiêm trọng. Điều đó không có nghĩa là các nhà nhân học,
nói chung, đang nghiên cứu các chủ đề vô dụng
và không liên quan, rằng họ đang can
dự vào một hoạt động tự-khép kín rất tinh vi giống như
“trò chơi hạt thủy
tinh,”[1] được mô tả trong
tiểu thuyết cuối cùng và quan trọng nhất của Herman Hesse, Das Muffperlenspiel, được dịch sang tiếng Anh theo những tiêu đề khác nhau như The Glass Bead Game - Trò chơi hạt thủy tinh hoặc tiếng Latin Magister Ludi – “Tay chơi Bậc thầy” (HHN). Trò chơi hạt thủy
tinh không có điểm bí mật nào ngoài việc cho phép người chơi thể hiện kỹ năng làm chói mắt và tài khéo trí tuệ của họ, và như cuốn tiểu thuyết thể hiện rất rõ, cam kết tận hiến đối với trò chơi
đòi hỏi người chơi không thích
hợp sống trong thế giới. Ngoài
những vấn đề khác, cuốn tiểu
thuyết của Herman Hesse rõ ràng là một bình luận về những đeo đẳng học thuật tự khoái khép kín, chẳng
mấy liên quan ngoài học viện. Các
tiểu thuyết gia và thi
sĩ đã được biết đến vì liên quan tới các
nghiên cứu văn học, không chỉ trong các phiên bản hậu cấu trúc luận của họ,
theo các khuôn khổ như vậy. Nhưng còn nhân học? Thì, rõ ràng là không rồi. Cái thu hút nhiều người trong chúng ta đến nhân
học ngay từ đầu – đó
là khả tính đưa ra những câu
hỏi triết học cơ bản đồng thời cam kết với thế giới
con người thực tồn - vẫn còn ở đó. Nhưng, và tôi rất lấy làm tiếc về điều này, càng ngày càng phải tìm nó trong những cái kén.
Một đặc điểm của nhân học đương đại có lẽ góp phần làm cho nó chẳng tài nào thu hút được mối quan tâm trí tuệ
từ bên ngoài có thể là sự vắng mặt của các vị lập trường lý thuyết rõ
ràng. Như gần đây Bruce Knauft (2006) đã chỉ ra, các viễn kiến lý thuyết không đến nỗi tuyệt đối vắng mặt trong
nhân học đương đại khi chúng được hòa
trộn:
“[V]iệc vật hóa và cãi vã về các 'isms', luận thuyết, và dòng dõi của chúng - duy vật luận, Marx luận, diễn giải luận, hậu hiện đại luận, và thậm chí cả những luận thuyết nuôi dưỡng một lập trường chủ thể đặc biệt của chính trị hoặc tác quyền, chẳng hạn như nữ quyền luận hay đa văn hóa luận - không còn tùy thuộc vào việc tranh cãi hệ mẫu hoặc việc lý thuyết hóa rõ ràng như 10 hoặc 15 năm trước nữa, bất kể các dòng mạch, các đặc trưng và các quan điểm chính trị hàn lâm lâu dài của chúng. Các tranh cãi lý thuyết giữa các hệ mẫu hoặc lập trường môn học không còn nổi bật như trước đây nữa.” (Knauft 2006: 408)
Sau đó Knauft đưa ra một danh sách bộ phận của “nhóm đầu tiên” của nhân học Mỹ, ghi nhận rằng không một ai trong số họ có liên quan đến một hệ mẫu lý thuyết cụ thể nào. Có lẽ điều Knauft thực sự muốn nói là nhân học đã trở nên giống lịch sử hơn (chỉ kém hùng hồn hơn), một lĩnh vực nghiên cứu về ý thức hệ, không phải là một ngành khoa học luật tắc hóa (nomothetic). Nhưng lập luận của ông chắc chắn có nhiều hàm ý hơn thế. Quan điểm của ông là các cực đối lập định nghĩa nhân học trong phần lớn thế kỷ trước, đã mất đi hấp lực và không còn được coi là không thể thiếu. Các phiên bản Marx luận, cấu trúc luận, tường giải học và hiện tượng luận, thậm chí cả việc tiếp thêm sinh lực của chức năng luận cấu trúc đều trở thành bộ công cụ lý thuyết chung của các nhà nhân học mà không kẻ nào có ưu quyền. Khi nói điều này, rõ ràng Knauft đang đánh giá thấp một vài thái cực thực sự hiện tồn, chẳng hạn như khoảng cách khá sâu giữa các nhà nhân học diễn giải và các môn đồ Darwinists mới, nhưng với tư cách là một chẩn đoán về nhân học văn hóa Mỹ và hầu hết nhân học xã hội châu Âu, thì nó tỏ ra công bằng. Tuy nhiên, Knauft sử dụng từ “hậu-hệ mẫu” để chỉ định nhân học văn hóa xã hội đương đại, nhưng cách sử dụng thuật ngữ này phải nhắc nhở chúng ta về người Brazil của Lévi-Strauss, hay người Mỹ của Baudrillard, có vẻ đã thực hiện một hành trình trực tiếp từ dã man đến suy tàn mà không qua giai đoạn văn minh.
Thói rụt rè của nhân
học đương đại tương phản mạnh mẽ với những tầm nhìn lớn và
các chương trình lý thuyết đầy tham vọng đặc trưng của nhân học từ đầu đến giữa
thế kỷ 20. Ở đất nước này, thực sự ở thành phố này, Evans-Pritchard trong bài thuyết trình về “Nhân học và lịch sử” của ông vào đầu năm 1950 đã tuyên bố cáo chung. Mở rộng phê
phán trước đây của ông về thực chứng luận Radcliffe-Brown,
giờ đây, Evans-Pritchard dường như hài lòng khi xem nhân học xã hội như một môn
học diễn giải. Tuyên bố này đã không làm giảm giá trị nhiều nhân vật cùng thời của ông ở cả hai bờ Đại
Tây Dương từ việc tiếp tục phát triển
các chương trình lý thuyết đặc biệt và thường đầy tham vọng của họ, từ cấu trúc
luận Lévi-Strauss đến các loại nhân học Marxist
và cái gọi là duy vật luận
văn hóa của Marvin Harris, như dự phóng mới nhất về những
gì mà Edwin Ardener - một
người Oxford vĩ đại khác - gọi là “hiện đại luận cao cấp” trong nhân học. Theo quan điểm của Ardener,
hiện đại luận trong nhân học kết
thúc vào khoảng năm 1980, khi các lý thuyết lớn dường như xì hơi. Một thập kỷ
sau, Henrietta Moore cho rằng nhân học như một môn học thống nhất đã không còn
tồn tại (Moore 1996), khi
được thay thế bằng một loạt các thực tiễn chồng chéo nhưng khác biệt. Ít nhất đây cũng rõ ràng là một quá ngôn: tôi có thể nghĩ
về một số ngành nghề hàn
lâm có bản sắc tập thể mạnh hơn các nhà nhân học, và có lẽ vấn đề hiện tại của
chúng ta là ở chỗ: có vẻ là, chúng ta có rất nhiều điều để nói với nhau rằng
mình đã quên không mời những người
khác tham gia cuộc đàm
luận và, tương tự
như vậy, về phần mình,
chúng ta ít có
thời gian
tham gia vào các
cuộc đàm luận của họ.
Tôi đã nói rằng đây không phải là lúc để tự mãn, nhưng
cũng vậy thôi, dù muốn hay
không, đây không phải là lúc thích hợp với các lý thuyết lớn.
Các nhà nhân học đương đại bình luận về tình trạng của hiện trạng ngành học, từ Wendy James
đến Kirsten Hastrup, từ Talal Asad đến Joao de Pina-Cabral, dường như không bao
giờ kêu gọi sự hồi sinh của các lý thuyết bao quát tất cả với khuynh hướng khách quan luận. Nết cẩn trọng của họ rõ
ràng hoàn toàn có cơ sở - như Evans-Pritchard đã lưu ý hơn nửa thế kỷ trước,
chương trình khoa học về chức năng luận
cấu trúc đã không đưa ra được
một “quy luật tự nhiên
nào về xã hội” - nhưng, những gì chúng ta đã lấy đi từ các
sinh viên của mình (và từ chính chúng ta) chính là niềm vui và sự khai sáng liên quan đến việc
so sánh và đánh giá các chương trình lý thuyết riêng biệt. Về phần mình, một trong những
khoảnh khắc thành tạo
tuyệt vời của tôi khi còn là sinh viên là hội thảo chuyên ngành, đó là vào
khoảng năm 1982, khi Eduardo Archetti cáo buộc Marvin Harris là một gã Marxist thô tục, sau những câu chuyện mang tính
duy vật luận của Harris về những
thay đổi văn hóa trong xã hội Mỹ. Sự thể, chúng tôi nghĩ vậy là, phức tạp hơn vẻ
ngoài của chúng - nhưng chúng tôi vẫn là những người hoài nghi Pyrrhonist (hoài
nghi thay đổi giáo lý) và không chỉ là những người hoài nghi vỡ mộng
ở chỗ chúng tôi tiếp tục tin rằng câu trả lời đã được tìm thấy ở đâu đó.
Hãy cứ
thế đã. Tuy nhiên, thực tế là khi lý thuyết lớn cố gắng trở lại
trong thời kỳ hậu hiện đại này, thì
nó gợi lại cái công thức nổi tiếng
từ Ngày mười tám tháng Sương mù của Louis Bonaparte [Bài luận của Karl Marx, viết trong khoảng tháng 12/1851
– 3/1852, bàn về cuộc đảo chính ở Pháp năm 1851, trong đó Louis-Napoléon
Bonaparte đảm nhận các quyền lực độc tài. Nó cho thấy Marx dưới hình thức là một
nhà sử học chính trị xã hội, xử lý
với các sự kiện thực tế theo quan điểm duy vật luận lịch sử của ông - HHN] về sự lặp lại lịch sử như một trò hề. Dĩ nhiên, tôi
đang nghĩ về phong trào truyền giáo được biết đến theo cách khác nhau như là xã hội học,
tâm lý học tiến hóa và khoa học xã hội Darwinist. Cái
dư vị khó trôi, mà chúng ta vẫn đang giương cổ ra nuốt kia, dường như lại là lúc giành cho công việc tuyệt vời, chắc chắn với những tham vọng nhạy bén và phạm vi khiêm
tốn, mà không phải là cho những tầm nhìn lớn về
cuộc sống, vũ trụ và vạn
vật. Vậy thì, đây đâu phải là một điều
kiện duy nhất cho nhân học, và nó thậm chí có thể không phải là vấn đề khi tất
cả được nói và làm. Điều gây bối rối là ở chỗ những người
không phải là nhà nhân học không còn có một khái niệm rõ ràng về những gì chúng
ta đang làm. Nhân học được định nghĩa thông qua nhận thức luận, chứ không phải
đối tượng của nó, Kirsten Hastrup nói thế. Cô ấy đã đúng
khi cải thiện quan điểm của Malinowski cho rằng chúng ta nghiên cứu các vấn đề chứ không phải là con
người - tính phản ánh của nhà dân tộc
học hiện là một phần trọn
vẹn đã thành trong quá trình khảo sát - nhưng chúng ta phải đưa ra một cái gì đó hữu
hình hơn. Trước khi xuất
trình gợi ý của riêng mình, tôi đề nghị một
đoạn vòng tránh ngắn. Tôi cho rằng việc bỏ mất người nguyên
thủy đối với nhân học giống như sự bỏ
mất Đông Âu đối với chủ nghĩa xã hội phương Tây vậy.
Có lẽ đóng góp lý thuyết thực sự lớn cuối cùng của nhân học - nhiều người trong chúng ta chắc chắn sẽ
không đồng ý với điều này – cái
viễn kiến nguyên ủy nổi bật cuối cùng được nhân học xuất trình cho thế giới, với
những hệ quả lâu dài – chính là Purity and Danger – “Thuần khiết và Hiểm họa” của Mary
Douglas, được xuất bản hơn bốn mươi năm trước (Douglas 1966). Cô vẫn có thể viết
như thể người Lele là một xã hội
tự trị không bị ô nhiễm và không bị ảnh hưởng bởi thế giới thuộc địa hay thực
dân mới rộng lớn hơn vậy. Có lẽ có một cái gì đó liên quan đến
tính nguyên gốc và chất lượng vượt
thời gian của cuốn sách của cô. Cô có thể viết từ rất nhiều chỉ trích, nhưng lại nhìn rõ được những đỉnh cao của hiện tại
dân tộc chí. Trong một thời gian dài, điều này là không
thể. Cái mà ngày nay chúng ta có năng lực sản xuất ngày càng nhiều chính là những bức ảnh tức thời về các xã hội đang trải qua thay đổi lịch sử.
Giờ đây, nghiên cứu về
các xã hội phức tạp đã là một phần được chấp nhận của nhân học trong một thời
gian dài. Trong các bài giảng trên BBC (British Broadcasting Corporation), được phát vào
năm 1950 và xuất bản vào năm sau, Evans-Pritchard (1951) có cái nhìn khá tích cực
về nghiên cứu nhân học trong các xã hội phức tạp, mặc dù ông thừa nhận rằng các
nhà nhân học người Anh cho đến lúc
này vẫn tập trung vào cái gọi là các
xã hội nguyên thủy. Evans-Pritchard đề cập đến một số lý do để nghiên cứu
các xã hội quy mô nhỏ, nhưng ông không đề cập nói được nguyên do rõ ràng nhất,
đó là tri thức về đủ loại biến thể xã hội
và văn hóa cần thiết để nhân học, theo tên gọi của nó, nghiên cứu
về nhân loại. Các
nhà nhân học khác thuộc thế hệ Evans-Pritchard, và tiếp theo cũng ủng hộ quan
điểm của ông cho rằng việc nghiên cứu về các
xã hội phức tạp phải là một phần
trong nỗ lực tập thể của chúng ta, và nhiều người
đã tự tiến hành các nghiên cứu
như vậy, nhưng quan điểm phổ biến nhất đã vẫn như cũ - và sẽ vẫn như cũ? - rằng nghiên cứu quy mô nhỏ nên tạo thành
cơ sở của nhân học xã hội. Điều này rõ ràng là không còn đúng nữa, không phải chí ít là vì các xã hội
quy mô nhỏ phải được nghiên cứu trong bối cảnh lịch sử và địa lý rộng lớn hơn. Gần như là Rivers và các nhà truyền bá luận đã đánh trả đúng vào Malinowski. Nhân
học đã có khả năng xử lý sự thay đổi này một cách có phương pháp, nhưng câu hỏi
xứng đáng được đặt ra là liệu sự thay đổi đó có ảnh hưởng đến trí tưởng tượng
nhân học theo bất kỳ cách nào
không. Khi, khoảng mười lăm năm trước, tôi quyết định đặt tên cho cuốn sách giáo
khoa nhập môn của mình là “Những địa điểm nhỏ - vấn đề lớn” Small places - large issues, mượn một cụm từ của Geertz, có một yếu tố mơ tưởng trong đó: có việc lờ mờ ngờ rằng ngày nay các nhà
nhân học không nghiên cứu những
địa điểm nhỏ cũng chẳng
nêu được những vấn đề lớn.
Hơn nữa: cuộc công kích lý thuyết từ hậu hiện đại luận và hậu thuộc địa luận bắt đầu vào thời điểm bất lợi nhất - như quý vị sẽ nhớ lại, nó bắt đầu vào đầu những năm 1980, đúng lúc nhân học đang hồi phục từ những phê bình thường xuyên và cấp thời, nhưng cực kỳ thách thức từ nữ quyền luận và Marx luận. Khi nhân học đấu tranh để tái sáng tạo lại chính mình thông qua việc nhận thức lịch sử thế giới, chủ nghĩa đế quốc và giới với tư cách là những đặc điểm cấu thành khảo sát của nó, thì những lời kêu gọi biến đổi cấp tiến mới lại xuất hiện từ một hướng khác. Các than phiền về thực chứng luận kín bưng trong thuật ngữ nhân học, tính bất khả so sánh khách quan, bản chất văn chương của các văn bản nhân học, v.v., đã được chất đống trên các ca thán hiện tồn về những thiếu sót của nhân học hiện đại luận thế kỷ 20. Theo một nghĩa nào đó, chúng ta đã phục hồi hoàn toàn từ các phê bình này bằng cách chuyển sang các khuôn khổ lý thuyết ít tham vọng hơn (và thực sự, ít mạch lạc hơn) và chú trọng hơn vào cái địa phương. Nhưng theo một nghĩa khác, cảm giác chung hẳn là bữa tiệc đã tàn và phép thuật đã biến mất. Từ việc là một hợp thể tri thức bí mật chứa đựng tất cả các chìa khóa quan trọng đến việc nhận thức về thế giới, nhân học trở nên chỉ là một cách hiểu biết trần tục chất đầy tất cả những mâu thuẫn và những nan đề quen thuộc của các dự án khoa học cao ngạo khác, rồi bị lôi cổ xuống mặt đất, cuốn vào lịch sử, như một sự nghiệp có giá trị đạo đức mơ hồ. Hãy nhập vào nhân học xuyên quốc gia mà xem. Ở giai đoạn này, ít nhất là không nên xem xét cái khả tính cho rằng thời nguyên thủy mất đi có thể đã làm sói mòn niềm tin và tính sáng tạo trí tuệ của nhân học.
Có một phim hoạt hình của Gary Larson mô tả một
nhóm người da đỏ Bắc Mỹ đang
giấu các thiết bị âm thanh nổi, máy
truyền hình và máy tính của họ khi hai kẻ ngoại đeo kính râm
đang đến gần ngôi làng. Một gã
da đỏ hét lên: “Bọn
nhân học đấy! Bọn nhân học đấy!” Lời thuyết minh của Larson, minh
họa một thực tế lù
lù hiện ra trong
ngành học của chúng ta kể từ khi Malinowski viết phần giới thiệu về
“Người Argonauts Tây Thái Bình Dương: Chung cục Thời nguyên thủy” - Argonauts of the Western
Pacific: The end of the primitive. Ngày nay, nỗi sợ của Malinowski theo một nghĩa nào đó, đã được hoàn
thành. Xin dẫn Geertz một lần nữa: Các khác biệt về văn hóa, “không còn nghi ngờ gì nữa sẽ vẫn vậy - người Pháp sẽ
không bao giờ ăn bơ mặn. Nhưng thời
hoàng kim của kẻ
góa phụ được nướng và ăn thịt người đã vĩnh
viễn biến mất. (Geertz 1986: 105). Các dự án đào tạo Tiến sĩ thông thường về nhân học tại các trường đại học Scandinavia trong những năm gần đây
đã đề cập đến chính trị bản sắc ở một khu bảo tồn Người da đỏ Bắc Mỹ,
những người thất nghiệp ở vùng ngoại ô thành phố Oslo, các cô gái Thổ Nhĩ Kỳ
thế hệ thứ hai ở Drammen và các liên kết xuyên quốc gia của họ, thanh niên gốc
Mahgrébin ở một vùng ngoại ô Paris, sự cường điệu của “dot com” trong văn hóa
doanh nghiệp Thụy Điển, v.v. Không nhiều nông nghiệp nương rẫy, canh tác chung hoặc thuật phù thủy ở đó -
và nếu thuật phù thủy châu Phi được nghiên cứu trong những ngày này, thì nó có thể được
coi là một phản ứng đối với chủ nghĩa thực dân mới và các chính sách tân tự do của Ngân hàng Thế
giới. Phù thủy: có. Ma thuật: không.
Cái cách mà nhân học vẫn được dạy, nó như một môn học của thế kỷ 20 với tính liên tục mạnh mẽ từ Malinowski, Boas và Mauss. Các thuật ngữ chủ chốt là đặc thù luận lịch sử và tương đối luận văn hóa như một thiết bị phương pháp luận, nghiên cứu thực địa thực hành chuyên sâu và thực tế xã hội tổng thể. Mặc dù đã cố gắng can thiệp vào các dự án thay thế thời thượng - đáng chú ý là các loại nhân học duy vật lấy năng lượng trí tuệ của họ từ Darwin hoặc Marx, cấu trúc luận và cá nhân luận phương pháp - và mặc dù phê phán gay gắt về toàn bộ dự án nhân học, nhưng các nguyên lý trung tâm của nhân học đầu thế kỷ 20 được dạy cho sinh viên của chúng ta như là các nguyên lý hướng dẫn cao quý. Nếu tôi đúng trong vấn đề này, thì rõ ràng chúng ta cần phải hỏi liệu giờ đây không phải là lúc tái tạo lại chính mình sao.
Ba nhân
vật quan trọng được đề cập - tôi cho rằng tôi nên xin lỗi vì đã bỏ lại Radcliffe-Brown,
nhưng ảnh hưởng lâu dài của ông phức tạp hơn - tất cả đều đã
ở ngoài lề về phương
diện xã hội trong
chính các xã hội của họ. Trong khi Malinowski là một người nhập cư
và Mauss là người Do Thái, còn
Boas thì là cả hai. Trong số những người được tuyển dụng đầu tiên vào ngành này, có một sự đại diện quá mức đáng kinh ngạc của những người có
lý do chính đáng để cảm thấy không thoải mái trong cái xã hội mà họ sống, và các
mạng lưới nhỏ của các nhà nhân học chuyên nghiệp ở đầu Thế chiến II bao gồm cả phụ nữ, người Do Thái,
người đồng tính, người nhập cư, những người cộng sản và những
người theo chủ nghĩa thế
giới bị bật gốc khỏi nền tảng thuộc địa. Các cộng đồng nhân học rất nhỏ và đầy hứng thú trí
tuệ, biết rằng họ đang
bước tới cái chốn mà trước đó không hề
có bất kỳ người đàn ông hay đàn
bà nào từng đặt chân tới. Với đức tin của các thành viên tín phái, họ đã đều
đinh ninh rằng cái
thương hiệu tri thức bí truyền của họ có khả năng mở khóa những bí ẩn tiềm tàng của văn hóa và xã hội.
Ý nghĩa quan trọng của nhân học xã hội thật đã rõ ràng, mặc dù hiếm khi mang lại hoa thơm quả ngọt ở Anh. Như các vị đều biết, ứng dụng thành công nhất của tương đối luận văn hóa nhân học vào việc chỉ trích về xã hội phương Tây là của Margaret Mead với những cuốn sách của cô từ Thái Bình Dương, ban đầu tập trung vào các vai trò giới và xã hội hóa, sau đó tập trung vào những vấn đề được gọi là biến đổi văn hóa. Nhưng Boas và Malinowski cũng vậy, và các nhà nhân học Pháp có khuynh hướng văn chương hơn như Michel Leiris và Roger Caillois, cũng góp phần tranh luận về các vấn đề đương đại, thường sử dụng các ví dụ từ những nơi xa xôi để làm sáng tỏ các vấn đề trong nước. Thật vậy, bản thân Evans-Pritchard cũng được ghi nhận đã nói rằng những nghiên cứu của ông về thuật phù thủy của người Zande có thể làm sáng tỏ các quá trình chính trị ở Liên Xô.
Trong hầu hết thế kỷ XX, nhân học đã có được phần lớn sức mạnh trí tuệ từ khả
năng đưa ra những so sánh táo bạo và tạo ra sự tương phản đáng ngạc nhiên, từ
đó tạo ra cảm giác kỳ diệu và khác lạ (Verfremdung) trong thế giới rộng
lớn hơn. Vì những lý do mà
ai cũng rõ, những giai thoại so sánh về người Trobrianders, người Kwakiutl, hoặc Amongtha “bộ lạc khác” để sử dụng thuật ngữ
George Stocking, những câu chuyện, có khả năng kích động sự chán ghét nhiều chẳng kém gì thứ phi thường ngây ngô ngày nay. Câu chuyện về bức tranh trong dinh tổng thống Kwame Nkrumah,
đã nói lên tất cả.
Nhà sử học Herman
Lebovics diễn giải như sau: “Nó mô tả, trong sự trào dâng sức mạnh
vĩ đại, một Nkrumah khổng lồ chặt đứt chuỗi xiềng xích của chủ nghĩa
thực dân. Hình tượng ông được bao quanh bởi những đám mây giông giăng giăng sấm sét đầy kịch tính. Dưới chân ông, chạy trốn về phía mép bức
tranh, như để tránh bão tố
và cơn thịnh nộ của người giải phóng bằng cách rời khỏi khung hình, là ba nhân hình nhỏ nhoi. Một kẻ là gã đàn ông da trắng
xanh xao mang theo chiếc cặp: một nhà tư bản. Kẻ thứ hai sợ hãi cầm cuốn Kinh thánh: nhà truyền giáo. Gã thứ ba, nhỏ hơn hai gã kia, nhưng quan trọng nhất đối với chúng ta, mang theo cuốn
sách, tiêu đề thật dễ đọc: African Political Systems - Hệ thống Chính trị châu
Phi. Gã chính là nhà nhân học.” (Lebovics 2005)
________________________________________
Còn nữa…
Nguồn: Eriksen, Thomas Hylland (2007). The
perilous identity politics of anthropology, Keynote Lecture The 21st century Anthropology, University
of Oxford 28–29 June 2007. Later published in Raul Acosta, Sadaf Rizvi and Ana
Santos, eds., Making Sense of the Global.
Tác giả: Thomas Hylland
Eriksen (sinh ngày 6 tháng 2 năm 1962) là một nhà nhân học người Na Uy. Ông hiện
là giáo sư nhân học xã hội tại Đại học Oslo, đồng thời là chủ tịch 2015-2016 của
Hiệp hội Nhân học Xã hội Châu Âu. Ông là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học
và Văn chương Na Uy. Sinh ra ở
Oslo, Eriksen đã thực hiện nghiên cứu thực địa ở Trinidad và Mauritius, và sau
đó ở Na Uy và Úc. Ông hiện đang làm nghiên cứu về quy mô và toàn cầu hóa ở
Seychelles. Các lĩnh vực nghiên cứu của ông bao gồm bản sắc, chủ nghĩa dân tộc,
toàn cầu hóa và chính trị học
bản sắc. Eriksen đã hoàn thành Luận
án Tiến sĩ Chính trị học năm 1991, và trở thành giáo sư năm
1995, ở tuổi 33. Một phần đáng kể công trình của Eriksen tập
trung vào việc phổ biến nhân học xã hội và truyền bá tương đối luận văn hóa cơ bản
cũng như chỉ trích chủ nghĩa dân tộc Na Uy trong cuộc tranh luận công khai của
Na Uy. Từ năm 2004 đến 2010, Eriksen chỉ đạo một chương trình nghiên cứu liên
ngành, Phức hợp Văn hóa ở Tân Na Uy (CULCOM), tại Đại học Oslo. Ông nói rằng mục tiêu chính là “vẽ lại bản đồ Na Uy” để làm cho nó phù hợp với các thực tại mới xuyên quốc gia, phức tạp và toàn cầu
hóa. Năm 2011, Eriksen đã được trao một khoản Tài trợ Cao cấp của Hội đồng Nghiên cứu Châu Âu, nghiên cứu về ba cuộc khủng hoảng lớn của
toàn cầu hóa - kinh tế / tài
chính, môi trường / khí hậu và bản sắc / văn hóa. Dự án này bao gồm cả so sánh và
liên ngành, bắt đầu từ cuối
năm 2012, hoàn thành vào năm 2017.
Ghi chú của người dịch
[1]
Trò chơi hạt thủy tinh đặt nền móng cho
một trò chơi nghệ thuật / khái niệm, tích hợp tất cả các lĩnh vực tri thức vũ trụ và con người thông qua các
hình thức biểu tượng phổ
quát hữu cơ, được thể hiện bởi những người chơi của nó với tính linh động của âm nhạc. Trò chơi Hạt thủy
tinh, trong thực tế, là một phép ẩn dụ của Thời cổ cho cái được gọi là “Lila Thần thánh” Trò chơi Thần thánh, Trò chơi Cuộc sống.
Phép ẩn dụ này đã được thể hiện bởi mọi Truyền thống Trí tuệ vĩ đại mà con người
biết đến và những người chơi của nó, các Bậc thầy của Trò chơi, sử dụng các mô thức trí tuệ biểu tượng cổ xưa và hiện đại
thường được trình bày bằng Nghệ thuật Thiêng liêng, Triết học, Ma thuật và Vũ trụ học
làm công cụ của họ.
Tài
liệu dẫn
Archetti,
Eduardo, ed. (1994) Exploring the Written. Anthropology and the Multiplicity
of Writing. Oslo: Universitetsforlaget.
Asad,
Talal, ed. (1973) Anthropology and the Colonial Encounter. London:
Ithaca Press.
Benthall,
Jonathan (2002) General introduction, in The Best of Anthropology Today,
(ed.) Jonathan Benthall, pp. 1–15. London: Routledge.
Deloria,
Vine jr. (1969) Custer Died for your Sins: An Indian Manifesto. New
York: Macmillan.
Firth,
Raymond (1989) The future of social anthropology. Lecture given at the
Department of Social Anthropology, University of Oslo, 1989.
Fox,
Kate (2004) Watching the English: The Hidden Rules of English Behaviour.
London: Hodder & Stoughton.
Geertz,
Clifford (1986) The uses of diversity. Michigan Quarterly Review, 25
(1): 105-123.
–
(1998) ‘Deep hanging out’, in New York Review of Books, vol. 45 (16):
69–72.
Goody,
Jack (1995) The Expansive Moment: Anthropology in Britain and Africa
1918–1970. Cambridge: Cambridge University Press.
Hart,
Keith (1974) Anthropology and the colonial encounter (book review). British
Journal of Sociology, 1974, pp. 265–266.
–
(1998) The place of the 1989 Cambridge Anthropologial Expedition to the Torres
Straits in the history of British social anthropology. Conference paper
presented at "Anthropology and Psychology: The Legacy of the Torres
Straits Expedition", University of Cambridge 10-12 August 1998.
Hastrup,
Kirsten (2005) Social anthropology: Towards a pragmatic enlightenment? Social
Anthropology, vol.. 13, pp. 133–149.
Hesse,
Hermann (1943) Das Glasperlenspiel. Zürich: Fretz & Wasmuth.
Kearney,
Michael (2004) Changing Fields of Anthropology: From Local to Global.
Oxford: Rowman & Litttlefield.
Knauft,
Bruce (2006) Anthropology in the middle. Anthropological Theory, vol. 6,
pp. 407–430.
Lebovics,
Herman (2005) On the origins of the Mission du Patrimoine Ethnologique. Ethnologies
comparées, no. 8: 1–21.
Solheim,
Jorun (1975?) Er det riktig å si at moderne antropologiske forskere som Barth
og Bailey ‘står på skuldrene til’ Raymond Firth? Mimeo, Department of Social
Anthropology, University of Oslo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét