Phê phán Bốn Lý thuyết Báo chí
Jennifer Ostini và Anthony Y. H. Fung
(Người
dịch Hà Hữu Nga)
Việc phân loại các hệ thống báo chí quốc gia trong 40 năm
qua đều đã dựa trên công trình Bốn Lý thuyết Báo chí (Four Theories of the Press) nổi tiếng. Trong khi cách tiếp cận này đã
bị các học giả quốc tế phê phán về chủ nghĩa duy tâm và tình
trạng nghèo nàn của chủ nghĩa kinh nghiệm, nhưng nó vẫn còn được giảng dạy ở khắp nơi trong các khóa học báo chí giới thiệu trên cả
nước và chỉ có ít lý thuyết gia tham gia vào việc xây dựng cơ
sở lý thuyết với nguồn
dữ liệu
trong các môi trường quốc tế. Mặc
dù báo chí phụ thuộc vào bối cảnh và bị ràng buộc bởi cấu trúc
báo chí và các chính sách
của nhà nước, nhưng nó cũng còn là một sản phẩm văn hoá tương đối độc lập của các nhà
báo chật vật xoay xở giữa tính chuyên nghiệp và sự kiểm soát của nhà nước.
Bài viết này đề xuất một mô hình mới kết hợp tính tự chủ của các hoạt động báo chí cá nhân vào các yếu tố cấu trúc chính trị và xã hội - tương tác có thể mô tả chính xác hơn các thông lệ báo chí theo trật tự quốc tế mới. Với sự hiểu biết về nền tảng của thực tiễn báo chí và các chính sách của nhà nước ở 4 quốc gia / thành phố, sự đa dạng của các phương tiện truyền thông đa quốc gia về một sự kiện cụ thể được thể hiện dưới ánh sáng của mô hình mới. Mô hình mới này giải thích các biến thể báo chí không thể bộc lộ rõ ràng bằng cách sử dụng một mô hình báo chí chính sách nhà nước. Trật tự thế giới đã thay đổi rất nhiều trong thập kỷ qua. Khi mọi người kỷ niệm sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản và hi vọng một thiên niên kỷ mới, có vẻ như có rất ít người đã suy nghĩ xem chúng ta có thể giải thích lại các trật tự xã hội, truyền thông và thông tin của chúng ta bằng cách sử dụng các lý thuyết và khuôn khổ mới. Nhiều khuôn khổ cũ - bao gồm cả các lý thuyết truyền thông như Bốn Lý thuyết - đã lỗi thời và không áp dụng được cho phân tích đương đại. Trật tự mới đã hủy bỏ quyền giải thích của các lý thuyết này. Chúng ta cần những ý tưởng mới để giải thích cho sự phát triển của các loại hình phương tiện truyền thông quốc tế hóa và đa dạng của chúng ta ngày nay. Các mô hình lý thuyết này phải vượt khỏi chính sách nhà nước và phương thức định chuẩn của Bốn Lý thuyết như một quan niệm về việc “báo chí nên là gì và phải là gì” (Siebert, Peterson, & Schramm, 1956).
Các mô hình lý
thuyết không nên bị giới hạn bởi các quan điểm hệ tư tưởng thống trị và gắn với
các khối lịch sử nhất định - cụ thể là các khối thuộc chủ nghĩa Cộng sản và Chiến tranh Lạnh - và
sau đó trở nên trống rỗng và vô dụng với sự sụp đổ của các khái niệm này. Việc đưa
ra mô hình các hệ thống phương tiện truyền thông sẽ cứu
sống cuộc kiểm tra lịch sử và
chủ nghĩa kinh nghiệm, cũng như việc giải thích đầy đủ cái trật tự mới kia chính là một mối quan tâm hệ trọng. Cần phải xem xét lại
các công trình và khái niệm
về các mô hình truyền thông trước đây và nỗ lực phát triển một mô hình mới để giải thích cho các hệ thống truyền thông toàn cầu
ngày nay. Sau đó, sẽ
đề xuất các ý tưởng, phương pháp kiểm nghiệm mô hình truyền thông này dựa trên phân tích
nội dung bao trùm của truyền thông đa quốc gia về
một sự kiện cụ thể.
Điểm lại lịch sử các mô hình truyền
thông
Mô
hình Bốn Lý thuyết là một sự kết hợp tuyến tính của hai chiều kích dựa trên các hệ thống nhà nước: độc đoán và tự
do. Siebert (1956) đề cập đến chiều kích độc đoán như nguyên mẫu khởi
thủy và phổ biến nhất của tất
cả các chiều kích. Bằng cách đó, ông muốn nói rằng chiều kích này tiếp tục tác động đến
thực tiễn
báo chí ngay cả khi chính
phủ có thể chính thức đưa vào các hệ thống khác. Từ quan điểm về cấu trúc-chức
năng luận, điều đó giả định rằng nhà nước có một sự quan tâm cơ bản trong việc duy trì và ổn định cơ cấu
quyền lực có lợi cho mình. Trong mô hình này, lý thuyết tự do được coi là lý tưởng, trong đó chức năng chính của xã hội là thúc
đẩy lợi ích của các cá nhân thành viên (Siebert et al., 1956, trang 40). Việc
tuân thủ các lý tưởng tự
do liên quan đến một sự ngờ vực bẩm sinh về vai trò của chính phủ và nhà nước.
Giám sát nhà nước trở thành chức năng xã hội cơ bản của các phương tiện truyền
thông (Wright, 1986). Mô hình Cộng sản Liên Xô được coi là một ứng dụng cực
đoan của những ý tưởng độc đoán – trong đó, các phương tiện truyền thông hoàn toàn phụ
thuộc vào các quyền lợi và chức năng của nhà nước. Mô hình trách nhiệm xã hội dựa
trên ý tưởng cho rằng các phương tiện truyền thông có một nghĩa vụ đạo đức đối với xã hội trong
việc cung cấp thông tin đầy đủ
cho công dân để đưa ra các quyết định sáng suốt. Ngược lại, lý thuyết tự do lập
luận rằng “công dân…có quyền không được cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin sai lạc, nhưng giả định ngầm định
đó là tính hợp lý của công dân và mong muốn của công dân về sự thật sẽ khiến cho
công dân
không được cung cấp thông tin hoặc
cung cấp thông tin sai lạc” (Siebert và cộng sự, 1956, trang 101).
Xem xét lại mô hình Bốn lý thuyết
Tầm quan trọng của Kinh tế Chính trị: Lowenstein (Merrill & Lowenstein, 1971/1979) lập luận rằng mô hình Bốn Lý thuyết nguyên bản thiếu sự linh hoạt cần thiết để phân tích hệ thống báo chí hiện đại và đã mở rộng thành mô hình Năm Lý thuyết bằng cách bổ sung thêm một thể loại dựa trên quyền sở hữu. Để mô tả chính xác hơn tình hình chính trị vào thời điểm đó, ông đã đổi tên mô hình Cộng sản Liên Xô là mô hình tập trung - xã hội trong ấn bản cuốn sách vào năm 1971, và đặt tên là độc đoán - xã hội trong ấn bản thứ hai. Bằng cách sử dụng thuật ngữ độc đoán - xã hội, mô hình của ông loại bỏ các ý nghĩa tiêu cực của nhãn Cộng sản và thay thế nó bằng một khái niệm liên kết nó với lý thuyết trách nhiệm xã hội. Lý thuyết trách nhiệm xã hội được gắn nhãn lại là tự do - xã hội như là một nguồn gốc từ lý thuyết tự do. Khái niệm tập trung - xã hội, trong đó một nhà nước hoặc báo chí công cung cấp nguồn lực để đảm bảo tinh thần hoạt động của triết học tự do, đã được sử dụng để mô tả thể loại mới thứ năm (Merrill & Lowenstein, 1971/1979, trang 164).
Việc bổ sung yếu
tố thứ năm này dựa trên cấp độ quyền sở hữu cho phép phân loại các hệ thống báo chí
dựa trên quyền sở hữu tư nhân, sở hữu nhiều bên, hoặc sở hữu của chính phủ. Tuy nhiên, nó không giải thích
được sự khác biệt hoặc bổ
sung thêm nhiều năng
lực phân tích hơn vào các thể
loại hiện có. Mô
hình Bốn Lý thuyết nguyên bản dựa trên quyền sở hữu của báo chí cũng như các chức năng, và do đó, việc dán nhãn các thể loại quyền
sở hữu rõ ràng của Lowenstein dường
như lại trở nên vô dụng. Hachten (1981, trang 61) cũng đề xuất Năm Lý thuyết hoặc khái niệm về báo chí bằng cách nhấn mạnh vào chính trị và kinh tế: kinh
tế chính trị độc đoán, kinh tế chính trị
phương Tây, kinh
tế chính trị cộng sản, kinh
tế chính trị cách mạng, và kinh
tế chính trị phát triển hay thế
giới thứ ba. Quan niệm về chủ nghĩa độc đoán của Hachten tương tự như của Siebert et al.
(1956) và Lowenstein (Merrill & Lowenstein, 1971/1979). Tuy nhiên, khái niệm
phương Tây của ông bao gồm cả các mô hình tự do và trách nhiệm xã hội với đặc tính xác định là dường
như không có các kiểm soát độc
đoán của chính phủ (Hachten,
1981, trang 64).
Theo khái niệm Cộng
sản, truyền thông là công cụ phục vụ như những công cụ mặc khải (bằng cách tiết lộ các mục đích và mục
tiêu của các nhà lãnh đạo đảng) cũng như các công cụ thống nhất và đồng
thuận (trang 67). Sự khác biệt
chính giữa hệ thống độc đoán và Cộng sản là quyền sở hữu. Trong các hệ thống độc đoán, báo chí có thể được tư nhân sở hữu trái ngược
với sở hữu nhà nước trong các hệ thống của Cộng sản. Hachten đã xác định khái
niệm mang tính cách mạng như là truyền thông đại
chúng bất hợp pháp và lật
đổ bằng cách sử dụng báo
chí và phát thanh truyền hình để lật đổ chính phủ hoặc kiểm soát quyền lực của những
người cai
trị bên ngoài, xa lạ (trang 69-70).
Ông thừa nhận rằng các ví dụ về loại báo chí này khó xác định và chỉ gợi ý ví dụ
về các hệ thống báo chí ngầm thời nước Pháp bị Đức quốc xã chiếm đóng (trang 70).
Cuối cùng, mô
hình phát triển đã xuất hiện từ sự kết hợp của ý tưởng cộng sản, chống Hoa
Kỳ và các lý tưởng về trách
nhiệm xã hội (Hachten, 1981, trang 72). Hachten đã nhìn thấy đặc điểm nổi bật của
khái niệm này như là một ý tưởng cho rằng các quyền cá nhân phải phụ thuộc vào
các mục tiêu lớn hơn trong việc xây dựng quốc gia và do đó phải hỗ trợ chính quyền.
Khái niệm này cũng được xem là phản ứng tiêu cực đối với mô hình phương Tây.
Tuy nhiên, phân loại của Hachten không bao giờ đạt được sự phân biệt rõ ràng về các hệ thống báo
chí, vì các chiều kích phân tích được xác định theo cả hệ thống nhà nước (độc tài, phương Tây, cộng
sản) và các chức năng của truyền thông (cách mạng và phát triển).
Akhavan-Majid and
Wolf (1991) cho rằng sai lầm cơ bản của Bốn Lý thuyết nguyên bản là nó đã bỏ qua vai trò tác động kinh tế trong các hệ thống truyền thông. Họ lập
luận rằng một số yếu tố đã dẫn đến, không phải là sai lệch khỏi
chuẩn mực tự do ở Hoa Kỳ, mà
là những thay đổi cơ bản đối
với cấu trúc truyền thông Hoa Kỳ, là thứ cần phải có một mô hình giải thích mới. Những yếu tố này
bao gồm sự tập trung ngày càng tăng và tập hợp quyền sở hữu cũng
như sự phụ thuộc của lý tưởng tính đa dạng và độc lập vào việc tìm kiếm sự đồng hợp
và lợi nhuận (Akhavan-Majid
& Wolf, 1991, trang 139). Thay vì mô hình tự do như sự giải thích cho các hệ thống truyền
thông Hoa Kỳ, Akhavan-Majid và Wolf đề nghị một mô hình nhóm quyền lực ưu tú, được xem là đối lập với mô hình tự do. Lý do
chính là truyền thông Hoa Kỳ được đặc trưng là tập trung vào các hệ
thống truyền thông
phụ, tích
hợp với các nhóm quyền lực ưu tú khác (như doanh
nghiệp lớn và tầng lớp tinh hoa quản lý của chính phủ) cùng luồng kiểm soát hai chiều giữa chính phủ và
báo chí (trang 142). Những đặc điểm truyền thông này được coi là làm giảm sự đa dạng của các ý kiến, các đại diện và làm giảm vai trò giám sát của truyền thông.
Chủ nghĩa duy tâm và các lý thuyết báo chí
Nhiều lý thuyết báo chí đã phản ánh chủ nghĩa duy tâm phương Tây và vị thế vô địch của viễn cảnh dân chủ phương Tây. Công trình của Picard (1985) cũng không phải là ngoại lệ. Ông đã xem xét các thể loại quan hệ báo chí và nhà nước trước đây và thêm một khái niệm nữa, đó là lý thuyết xã hội chủ nghĩa dân chủ về báo chí. Lý thuyết này cho rằng mục đích của báo chí là tạo môi trường thể hiện quan điểm của công chúng và thúc đẩy các cuộc tranh luận chính trị và xã hội cần thiết cho sự phát triển liên tục của quản trị dân chủ (trang 67). Theo lý thuyết này, vai trò của nhà nước là đảm bảo khả năng sử dụng báo chí của công dân cũng như khả năng bảo vệ và quảng bá tính đa nguồn và đa dạng truyền thông (trang 67). Akhavan-Majid and Wolf (1991, trang 141) coi mô hình của Picard như là một nỗ lực nhằm quy định phương tiện khôi phục các yếu tố dân chủ-tự do thiết yếu (đa nguồn, đa dạng, dễ tiếp cận và dễ tham gia của công chúng) vào hệ thống báo chí Hoa Kỳ. Picard lập luận rằng sự khác biệt cơ bản giữa lý thuyết này và các lý thuyết khác là lý thuyết xã hội chủ nghĩa dân chủ coi truyền thông như là các tiện ích công cộng hơn là các công cụ của nhà nước hoặc các tổ chức tư nhân. Tuy nhiên, ông đã gộp các ý tưởng xã hội chủ nghĩa, trách nhiệm xã hội và tự do dân chủ vào lý thuyết phương Tây.
Cân bằng kiểm soát kết cấu và trách nhiệm cá nhân
Altschull (1984/1995) đã tiến xa hơn Bốn Lý thuyết. Mặc dù không muốn phân loại các loại truyền thông một cách giáo điều và cố gắng tránh những sai lầm mà các nhóm loại trừ lẫn nhau hoặc thấu hiểu tập thể, ông đã xác định ba thể loại truyền thông: thị trường, cộng đồng và tiên tiến (trang 419). Bằng những thuật ngữ đơn giản và lý tưởng hóa, các hệ thống thị trường hoạt động không có sự can thiệp từ bên ngoài - như là những kẻ dẫn chứng bằng các tài liệu của xã hội, chứ không phải là các tác nhân thay đổi. Các hệ thống Công xã cộng đồng phục vụ nhân dân bằng cách phản ánh mong muốn của một đảng chính trị hoặc chính phủ, chứ không phải là bản thân các tác nhân thay đổi. Trong các hệ thống tiên tiến, truyền thông có vai trò là đối tác của chính phủ (trang 426). Theo loại hình học truyền thông của Altschull, tất cả các hệ thống truyền thông đều tìm kiếm sự thật và cố gắng có trách nhiệm với xã hội. Chỉ trong các hệ thống thị trường thì truyền thông mới được coi là không có vai trò giáo dục chính trị và văn hoá. Tất cả mọi hệ thống đều tìm cách phục vụ nhân dân nhưng theo những cách khác nhau. Hệ thống thị trường tập trung vào sự công bằng trong khi thực sự hỗ trợ cho chủ nghĩa tư bản. Các hệ thống cộng đồng phục vụ bằng cách cố gắng sửa đổi các quan điểm để hỗ trợ cho học thuyết chính xác (p. 429), còn các hệ thống tiên tiến cố gắng thúc đẩy thay đổi và hòa bình. Altschull (trang 427) đã có đóng góp đáng kể trong việc xác định niềm tin về các hệ thống truyền thông như các bài viết về đức tin phi lý, không phải do lý trí, mà thường được tổ chức với niềm đam mê của những tín đồ thực sự. Do đó, rất nhiều vấn đề (đặc biệt là ở cấp độ quốc tế) không thể giải quyết được bởi vì đó là những mớ xung đột đức tin chứ không phải là lý trí.
Hạn
chế của các mô hình trước đó
Vấn đề cơ bản với
nhiều mô hình truyền thông được thảo luận ở đây là đơn thuốc mà các tác giả này
cố gắng áp đặt cho các hệ thống hiện tại - nghĩa là họ cố gắng kê toa chứ không mô tả các hiện
tượng xã hội bằng cách sử dụng một cơ sở thực nghiệm để điều tra. Các lý thuyết về báo chí từ Siebert et al. (1956) trở đi đã tập
trung vào các lý thuyết có tính định chuẩn dựa trên cơ cấu truyền thông đại chúng
truyền thống. Các lý thuyết định chuẩn thiếu năng lực giải thích vì chúng dựa trên những điều nên
là như vậy, chứ không nhất thiết liên quan đến sự vật thực sự ra sao. Như đã thảo luận ở trên, mô hình Bốn
Lý thuyết nguyên bản bị hạn chế bởi hệ
tư tưởng và hoàn cảnh lịch sử khởi đầu của nó. Những thay đổi chính trị trên thế giới đã cho
thấy các hạn chế về năng lực giải thích của mô hình. Ví dụ, Liên bang Xô viết đã không còn tồn tại và
chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc rất khác với những tư tưởng Chiến tranh lạnh về Chủ nghĩa Cộng sản.
Ngoài ra, mô hình Bốn Lý thuyết (được phát triển trong bối cảnh phương Tây) đã đưa ra một phương thức tiến hóa trong đó các hệ thống báo chí sẽ chuyển từ chế độ Cộng sản qua độc tài đến chủ nghĩa tự do rồi tiếp đến trách nhiệm xã hội. Định đề này đã bị thực tiễn chứng minh là giả, một chiều, tuyến tính, và phần nào chính tri thức luận dân tộc trung tâm đã làm sói mòn cơ sở của mô hình. Các mô hình tiếp theo cũng dựa trên cùng một giả định, hoặc giống như vậy, chẳng hạn như mô hình phát triển chính trị của Hachten (1981), đều gặp phải những vướng mắc tương tự. Mô hình của Picard (1985) minh họa vấn đề tập trung độc quyền vào các mối quan hệ giữa báo chí và nhà nước. Cách tiếp cận này bỏ qua sự tương tác ở cấp độ vi mô năng động giữa các tổ chức, các nhà báo và nhà nước. Akhavan-Majid and Wolf (1991) đã cung cấp yếu tố thiếu hụt mang tính quyết định của kinh tế học cho mô hình nhưng lại được vận hành ở cấp độ vĩ mô chứ không phải là cấp độ phân tích vi mô. Việc xem xét về phương diện kinh tế học truyền thông là rất quan trọng để nhận thức được đầy đủ các hệ thống báo chí nhưng các hoạt động truyền thông, báo cáo phóng sự và các quyết định biên tập lại không hoàn toàn được quyết định bởi cơ sở kinh tế của các nhà tư bản và của nhà nước (Williams, 1977).
Việc tập trung chủ yếu vào nền kinh tế và nhà nước đã
bỏ qua thực chất bán tự chủ của báo chí vốn cũng vận hành dựa trên tính chuyên nghiệp của bản
thân lĩnh vực này. Mặt khác, theo
cách tiếp cận tân Marxist, nền kinh tế báo chí cần được phân tích trong “trường
hợp đầu tiên”, chứ không phải trong phân tích cuối cùng
(Hall, 1982). Theo cách phê phán này, phân tích về nhà nước và nền kinh tế vẫn còn
là một bước
đầu quan trọng, nhưng không
phải là mục đích cuối cùng của việc nghiên cứu truyền thông. Trong một phân tích về kinh tế chính trị của
báo chí, Murdoch (1982) gợi ý khả năng kết hợp cả mô hình “chủ định” và “các mô hình cấu trúc” (trang 118-150).
Bốn Lý thuyết về báo chí chỉ tập trung vào các nhân tố cấu trúc và bỏ qua quyền
tự chủ cá nhân của nhà báo, tính
chuyên nghiệp, và các giá trị lâu dài. Việc tập trung chủ yếu vào truyền thông truyền thống
cũng loại trừ các loại hình truyền thông mới và các hình thức
biến đổi của
truyền thông truyền thống
(McQuail, 1994). Vấn đề đặt ra là cần xây dựng một mô hình mới gắn kết các yếu tố cấu trúc và thực tiễn chuyên môn
trong khi vẫn cho phép tích hợp các loại hình và cấu trúc truyền thông mới, và điều quan trọng
là có thể kiểm nghiệm bằng
thực nghiệm.
Đi tìm một mô hình truyền thông mới
Các yếu tố cấu trúc: Cũng như các mô hình trước, yếu tố cấu trúc
chính sẽ được tính đến chính
là hệ thống chính phủ với
các phụ hệ thống kinh tế, chính trị và văn hoá. Các hệ thống chính trị khác nhau
thường được dán nhãn chung là tư bản, xã hội chủ nghĩa, dân chủ hoặc độc tài. Các
nhãn tổng quát này không tính đến các biến thể của chủ nghĩa xã hội với
tư cách là các cấu trúc kinh
tế gắn liền với chính sách công và các cơ cấu chính trị của chính phủ;
và các nhãn này cũng không
tính đến dân chủ với các
giá trị của chủ nghĩa tư bản và định hướng lợi nhuận của nó. Trong mô hình này, những ràng buộc về cấu trúc áp đặt cho báo chí và các nhà báo được thể
hiện (như đề xuất trong nhiều
mô hình khác) như một chiều kích: một cùng đích về quy mô được gọi là dân chủ và một
cùng đích khác là độc tài. Dân chủ
chỉ đơn giản được xác định trong bối cảnh truyền thông là tự do chính trị cho
giới truyền thông tự do chỉ trích các chính sách của nhà nước và chủ
yếu hoạt động không có kiểm
soát của chính phủ trong một thị trường tự do tư tưởng, không loại trừ khả năng kiểm soát thị trường
không nhìn thấy được. Chủ nghĩa độc đoán được xác định là một hệ thống thực thi sự
tuân thủ nghiêm ngặt của giới truyền thông đối với chính quyền. Những trở ngại
có thể là chính trị và kinh tế. Trong bối cảnh truyền thông
đó, chế độ độc tài được vận
hành như là sự kiểm soát chặt chẽ về nội dung của nhà nước và thiếu vắng
tự do để
công chúng chỉ trích
chính sách của nhà nước.
Các yếu tố chuyên nghiệp: Chiều kích thứ hai của mô hình này đại diện cho các yếu tố chuyên nghiệp như là
các giá trị báo chí cá
nhân và sự tự chủ của cá nhân các nhà báo trong các cơ quan truyền thông. Các nhà xã hội
học truyền thông Windahl và Rosengren (1976, 1978) cho rằng vấn đề chuyên
nghiệp hóa có thể được
tiếp cận bằng hai quan điểm
chính: chuyên nghiệp hoá cá nhân và chuyên nghiệp hóa tập thể. Chuyên nghiệp
hóa cá nhân là một hình thức xã hội hoá. Các cá nhân hành nghề truyền
thông với
tư cách cá thể nội
tại hóa một quan điểm tích cực về giáo dục và đào tạo cho công việc, các
yêu cầu đặc biệt để vào
nghề, và quan niệm là nghề này phải được tự chủ và tự điều chỉnh. Chuyên nghiệp tập thể là một
quá trình liên quan đến toàn bộ nghề nghiệp như vậy, và như là một lý tưởng
phụng sự. Chuyên nghiệp
hoá tập thể có các thuộc tính như sự tồn tại của một hiệp hội chuyên nghiệp,
đào tạo các thành viên, bộ quy tắc ứng xử hoặc đạo đức, mức độ tự chủ, đòi hỏi độc
quyền đối với một số loại hình công việc và sự thể hiện của một lý tưởng phụng
sự. Mặc cho các quá trình xã hội hoá khác nhau, thì
thế giới quan của cá nhân các nhà báo được
nuôi dưỡng theo hai loại
hình chuyên nghiệp vẫn
không thể được
cho là phù hợp với độc giả.
Trong một số trường hợp, thậm chí còn tồn tại một sự khác biệt đáng kể giữa thế
giới quan của các nhà báo và lập
trường của giới truyền thông. Vì
vậy, sự thể hiện có
trong nội dung truyền
thông chính là sự tương tác giữa các giá trị báo chí tập thể và cá nhân.
Các giá trị cá nhân chuyên nghiệp cụ thể được quan tâm ở đây bao gồm dưới góc độ chủ nghĩa bảo thủ - chủ nghĩa tự do. Chủ nghĩa bảo thủ được vận hành khi các nhà báo chống lại sự thay đổi nhanh chóng, tránh các thái cực, và ủng hộ hiện trạng xã hội. Theo nghĩa này, các nhà báo có thể hy sinh quyền tự trị và các giá trị nghề nghiệp của mình để phụng sự cho chính sách của nhà nước, cho lập trường truyền thông và quá trình xã hội hoá môi trường của họ. Chủ nghĩa tự do được vận hành khi các nhà báo ủng hộ thay đổi xã hội và cải cách xã hội, ủng hộ chủ nghĩa cá nhân, cạnh tranh và tự do ngôn luận (McQuail, 1994). Các nhà báo được cho là tự do gắn bó mạnh mẽ với thế giới quan riêng của họ, với quy tắc nghề nghiệp, và tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp của họ. Các hệ thống báo chí quốc gia có thể được phân loại là dân chủ-bảo thủ, dân chủ-tự do, độc tài-bảo thủ, hoặc độc tài-tự do.
Các hệ thống truyền
thông bảo thủ-dân chủ là những hệ thống trong đó hệ thống
chính trị
thì dân chủ nhưng các giá trị
chuyên nghiệp của đa số các nhà báo lại bảo thủ - nghĩa là hệ thống chuyên môn mà họ
hoạt động nhấn mạnh đến việc ủng hộ hiện trạng xã hội. Ngược lại, trong một hệ thống dân chủ-tự
do, bất đồng chính kiến và tự do ngôn luận là những giá trị được hỗ trợ bởi cả
hệ thống chính trị và các cá nhân các nhà báo trong hệ thống đó. Các hệ thống bảo thủ-độc đoán chính thức kiểm soát nội dung báo chí và các giá trị
chuyên môn trong các tổ chức truyền thông ủng hộ cho các câu thúc như vậy. Các hệ thống độc
tài-tự do là những hệ thống
trong đó các chính sách chính
thức đàn áp những bất đồng
quan điểm, nhưng các cá nhân trong các tổ chức truyền thông lại
ủng hộ cải cách xã hội và
thể hiện sự ủng hộ đó trong thực tiễn báo chí.
Trường hợp kiểm nghiệm
Một nghiên cứu
trường hợp đã được sử dụng để kiểm tra mô hình mới trong bối cảnh truyền thông
thực sự đưa tin về một sự kiện cụ thể. Một đổi mới quan trọng là mô hình
được kiểm nghiệm bằng cách
sử dụng dữ liệu từ việc đưa tin quốc tế về một sự kiện chứ không phải là đưa
tin thuần túy trong nước. Các
yêu cầu cho
việc lựa chọn sự kiện là nó được
các phương tiện truyền thông của một số quốc gia khác nhau (hệ thống nhà nước) đưa
tin, liên
quan đến các giá trị báo
chí của cá nhân các nhà báo và liên quan đến các nhà nghiên cứu. Sự kiện được chọn là cuộc tranh cãi năm 1996 giữa Trung Quốc và Nhật Bản về quyền
sở hữu quần đảo Điếu Ngư hoặc Senkaku ở Biển Đông Hải. Cuộc tranh cãi
này đã dẫn
đến những om
sòm ngoại giao và các cuộc biểu
tình dân sự ở Hồng Kông, Trung Quốc, Nhật Bản và Đài Loan. Những cuộc biểu tình
địa phương này đã đụng đến các vấn đề chủ nghĩa quốc gia và
chủ nghĩa quân phiệt của Trung Quốc và Nhật Bản - những vấn đề có thể được cho là liên quan đến các
giá trị báo chí cá nhân. Mẫu bao gồm các loại tin tức báo chí từ Nhật Bản, Hồng Kông, Trung Quốc,
và Hoa Kỳ. Tin tức của truyền thông Mỹ cũng được bao gồm trong đó bởi vì các tác nhân chính - Nhật Bản và Trung Quốc
- đã nhìn thấy những vấn đề
hiện tại liên quan đến chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ sau Thế
chiến II.
Khi các mô hình phân loại trước đó của các hệ thống truyền thông quốc gia được xem xét, thì chỉ có rất ít hoặc không có chỗ cho sự biến đổi giữa các quốc gia không rơi vào mô hình Cộng sản Xô viết truyền thống của Liên Xô hay mô hình dân chủ phương Tây. Ngay cả khi các mô hình dựa trên các yếu tố kinh tế như của Altschull (1984) và Akhavan-Majid and Wolf (1991) cũng được đưa vào, thì truyền thông trong các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa lại được xếp vào cùng một thể loại mặc dù có sự khác biệt rõ ràng. Ví dụ, mô hình Bốn Lý thuyết đặt truyền thông Hồng Kông, Nhật Bản và Hoa Kỳ vào cùng một thể loại, giống như các mô hình của Hachten (1981), Altschull (1984/1995), Akhavan-Majid và Wolf (1991). Mô hình của Picard (1985) nhóm các hệ thống truyền thông Hồng Kông và Nhật Bản vào cùng một thể loại với truyền thông Hoa Kỳ được xác định là phương Tây (sự kết hợp của các mô hình trách nhiệm xã hội và các mô hình tự do).
Phương pháp
Nghiên cứu này dựa
vào việc phân tích nội
dung tin tức của truyền thông Hồng Kông, Nhật Bản, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và các
phương tiện truyền thông của Hoa Kỳ về vấn đề này trong giai đoạn từ ngày 1 tháng 9 đến ngày
30 tháng 9 năm 1996. Mặc dù việc lựa chọn giai đoạn này là tùy tiện, vì
phần lớn các sự kiện và các tin tức đã diễn ra trong khoảng thời gian từ ngày 1 tháng 9
khi tàu tuần tra của Nhật Bản ngăn cản các tàu Đài Loan đánh bắt cá trong
khu vực gần quần
đảo này,
và ngày 26 tháng 9 khi một
nhà báo từ Hồng Kông bị chết đuối trong khi một phần của một đội
tàu Hồng Kông cố gắng tiếp cận
các hòn đảo phản đối sự hiện diện của người Nhật trên đó.
Mẫu. Tin
tức của truyền thông ở Hồng Kông đã được mở rộng do tính chất bức xúc của các cuộc biểu tình. Mẫu gồm bảy tờ
báo Hồng Kông. Một loạt
báo đã được lựa chọn để xem xét cả các chiều kích cấu trúc và cá nhân của mô hình. Các
báo đó là tờ South China Morning Post, một tờ báo tiếng Anh có uy tín trước đây rất thân với
người Anh nhưng hiện nay có xu hướng chấp nhận một giọng điệu trung lập; Nhật báo Phương Đông, một tờ báo tiếng
Trung nổi tiếng, thân
Trung
Quốc; tờ Minh
Báo, đại diện cho báo chí trí
thức bảo thủ; hai cái gọi là cơ quan Trung Quốc, Văn Hối Báo và Đại Công Báo; Apple Daily,
một tờ báo lá cải nổi tiếng của Trung Quốc; và Tạp
chí Kinh tế Hồng Kông, tờ báo phê phán công khai nhất ở Hồng Kông. Mẫu của Nhật Bản bao gồm hai tờ báo hàng
ngày bằng tiếng Anh, Asahi Evening News và Japan Times.
Cả hai đều hướng
tới các cộng đồng nói tiếng Anh trong nước, và cả hai đều chuyển
tải tài liệu được dịch từ
các phương tiện truyền thông tiếng Nhật địa phương cũng như các tài liệu từ các
hãng thông tấn quốc tế. Hiện tại mẫu Trung Quốc chỉ gồm China Daily. Tuy nhiên, đây là một nguồn quan trọng bởi
vì nó là cơ quan thông tấn chính thức bằng tiếng Anh của chính phủ Trung Quốc. Hệt
như vậy, các bài viết và ý
kiến trong đó đều được coi là thể hiện quan điểm và chính sách của chính phủ khi chính phủ mong muốn chúng được thể hiện cho cộng đồng nước ngoài cả
trong và ngoài Trung Quốc.
Mẫu Hoa Kỳ bao gồm các bài viết từ New
York Times, Wall Street Journal,
Minneapolis / St. Paul Star Tribune, Associated
Press, và Financial Times-Scripps
Howard News Service.
Lược
đồ mã hóa được phát triển để kiểm tra thái độ chung về bài báo; các chủ đề bài báo; bài báo coi cái gì là các vấn đề liên quan; những ai được coi là các tác
nhân chính; cấp độ hành động liên quan, tức là nó có được coi là một hành động
của nhóm quốc tế, của
chính phủ, cá nhân, hoặc
hành động chính trị hoặc xã hội hay không; và giải pháp đề
xuất và tác nhân, có nghĩa là,
những người được xem là đủ điều kiện để hành động trong tình huống này. Các bài báo cũng được mã hoá
cho sự vi phạm chính trị của họ, nếu có, và vị trí của bài viết trong báo. Độ
tin cậy của bộ mã hóa Intercoder đối với mẫu Hồng Kông là 87%.
Các kết quả
Thái độ và chủ đề là những thành phần quan trọng của mô hình vì chúng đã làm sáng tỏ các yếu tố chuyên nghiệp. Bằng cách sử dụng một mô hình có tính đến đạo đức chuyên nghiệp cá nhân bên cạnh các yếu tố cấu trúc, có thể tạo nên một bức tranh rõ ràng hơn dựa trên hoạt động thực tế của các hệ thống truyền thông. Bằng cách sử dụng các mô hình đã thảo luận trước đó trong bài báo, thì truyền thông Hồng Kông và Hoa Kỳ tương tự nhau trên cơ sở các yếu tố cấu trúc. Trong khi các chiều kích cấu trúc của các quốc gia được kiểm nghiệm được giả định và phân loại theo các thể loại khác nhau (như độc đoán hoặc dân chủ) theo các mô hình khác nhau, thì các chiều kích chuyên môn và cá nhân không được thể hiện trong các mô hình này. Các dữ liệu làm sáng tỏ những chiều cạnh cá nhân và chuyên nghiệp này và các mối liên hệ của họ với chủ nghĩa bảo thủ và chủ nghĩa tự do.
Thái độ. Chủ nghĩa bảo thủ được vận hành trong bối cảnh thái độ chung trong các thông cáo báo chí về tranh
chấp quyền sở hữu quần đảo Điếu Ngư / Senkaku được xác định là có thái độ ủng
hộ chính quốc gia của mình và chống lại các quốc gia khác. Nhìn vào dữ liệu hỗ
trợ cho quốc gia của mình và thể
hiện thái độ tiêu cực đối với các nước khác, thì Trung Quốc và Nhật Bản là những nước bảo thủ
nhất, với Hồng Công ít bảo thủ hơn, và Hoa Kỳ không hề bảo thủ. Tuy
nhiên, khi trường hợp ngược
lại được kiểm định (chống lại một
quốc gia và ủng
hộ một quốc gia khác) thì
các khác biệt trở nên ít rõ ràng. Việc đưa tin ở cả Hoa Kỳ và
Trung Quốc cho thấy không có thái độ tiêu cực đối với đất nước của chính mình
và cũng không thái độ ủng hộ nước khác. Kết quả của
Hoa Kỳ có thể được giải thích bởi 100% các bài viết đều trung lập; có nghĩa là, ở đó không có chuyện xác định lập trường ủng hộ hoặc chống đối. Điều thú vị là mặc dù phần lớn kết quả cho thấy các phương tiện truyền thông
Nhật Bản là bảo thủ, thì
9,75% các bài báo có chứa tình cảm chống Nhật Bản.
Chủ đề. Trong bối cảnh nhận
thức về chủ đề của vấn đề, chủ nghĩa bảo thủ gắn liền với ý tưởng về chủ quyền,
yêu sách lịch sử và nghĩa vụ đạo đức. Trên cơ sở này, các phương tiện truyền
thông Trung Quốc và Nhật Bản xếp hạng là bảo thủ hơn các phương tiện truyền
thông của Hoa Kỳ và Hồng Kông. Chủ nghĩa tự do gắn liền với những ý tưởng về
các yêu sách hiện đại và chính trị, các khái niệm về nghĩa vụ xã hội và nhận thức về vấn
đề này như là một vấn đề cá nhân. Trên cơ sở này, truyền thông Hoa
Kỳ được xếp hạng là tự do
nhất, tiếp theo sau là truyền thông Nhật Bản, Trung Quốc và Hồng Kông. Tuy nhiên, nếu một thể loại
quan tâm cá nhân duy nhất là chủ đề chính bị cô lập khỏi các thể loại khác, thì
truyền thông Hồng Kông và Hoa
Kỳ xếp hạng là tự do nhất.
Điều này rất quan trọng bởi vì chủ nghĩa cá nhân là một các
xác định chính của quan
niệm về
chủ nghĩa tự do.
Tác nhân chính. Hai loại nữa được xem xét cùng nhau vì chúng đo lường các giá trị cá nhân của nhà báo bằng cách sử dụng cùng một quá trình vận hành của chủ nghĩa bảo thủ và chủ nghĩa tự do. Các thể loại này là những nhận thức về các tác nhân chính về vấn đề và cấp độ hành động. Chủ nghĩa bảo thủ có liên quan đến ý tưởng về chính phủ là tác nhân chính trong các tình huống xã hội và chính trị, còn chủ nghĩa tự do thì gắn liền với những ý tưởng về các nhóm xã hội hoặc chính trị cũng như các cá nhân là những tác nhân quan trọng. Trong danh mục các tác nhân chính, thì truyền thông Trung Quốc và Nhật Bản là những người bảo thủ nhất, tiếp theo sau là các thành viên của truyền thông ở Hoa Kỳ, sau đó là Hồng Kông. Tuy nhiên, theo quy mô tự do, thì truyền thông Mỹ tự do nhất, tiếp theo sau là Nhật Bản, Hồng Kông và Trung Quốc. Trong hạng mục kiểm nghiệm cấp độ hành động, thì truyền thông Nhật Bản và Trung Quốc là bảo thủ nhất, sau đó là truyền thông của Hoa Kỳ và Hồng Kông. Tuy nhiên, nếu các yếu tố liên quan đến chủ nghĩa tự do được coi là cùng một mô thức xảy ra như trong thể loại tác nhân, thì truyền thông Hoa Kỳ xếp hạng là tự do nhất, theo sau là Nhật Bản, Hồng Kông, sau đó là truyền thông Trung Quốc.
Hãng. Về thể loại hãng, chủ nghĩa bảo thủ có liên quan đến việc
duy trì nguyên trạng và
việc chấp nhận hãng thuộc về quốc gia của riêng mình. Hãng được xác định ở đây là
thứ mà quốc gia được coi là có đủ điều kiện hành động. Chủ nghĩa tự do gắn
liền với việc coi hãng thuộc về các tác nhân khác ngoài quốc gia của mình. Về thể loại này, truyền thông Trung Quốc và Nhật
Bản hầu hết đều coi hãng là thuộc quốc gia của họ, trong khi
truyền thông Hồng Kông và Hoa
Kỳ ít
coi hãng là thuộc quốc gia của họ.
Ngược lại, truyền thông Hoa Kỳ và Hồng Kông coi số lượng hãng lớn nhất thuộc về các quốc gia khác. Do đó, truyền thông Hoa Kỳ
và Hồng Kông tự do hơn so với truyền thông Trung Quốc và Nhật Bản.
Thảo luận
Dựa trên những kết quả này, có thể xác định rõ các thái cực bảo thủ và chủ nghĩa tự do của các nhà báo. Rõ ràng là các giá trị của các nhà báo Mỹ như được thể hiện trong việc đưa tin bài liên quan đến cuộc tranh cãi về quyền sở hữu quần đảo Điếu Ngư / Senkaku là tự do, trong khi giá trị của các nhà báo Trung Quốc là bảo thủ. Truyền thông Nhật Bản rõ ràng là ít bảo thủ hơn truyền thông Trung Quốc, trong khi phần lớn các thể loại đều bảo thủ hơn truyền thông Mỹ và phần nào bảo thủ hơn truyền thông Hồng Kông. Bằng cách sử dụng mô hình kết hợp các giá trị báo chí và các hệ thống nhà nước, cũng như các dữ liệu thu được từ nghiên cứu trường hợp, thì các hệ thống truyền thông của Trung Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông và Hoa Kỳ có thể được phân biệt như thể hiện trong hình 2. Dữ liệu phân biệt rõ ràng các quốc gia có cùng các yếu tố cấu trúc nhưng trong đó cá nhân các nhà báo lại hoạt động theo các cấp độ tự chủ chuyên nghiệp khác nhau. Hệ thống Nhật Bản được cho là bảo thủ-dân chủ, trái ngược với hệ thống dân chủ-tự do của Hoa Kỳ. Truyền thông Trung Quốc là một hệ thống bảo thủ-độc đoán so với hệ thống tự do-độc đoán của Hong Kong. Điều này tương phản mạnh mẽ với cách thức mà các mô hình trước đây từ Bốn Lý thuyết trở đi đều có xu hướng nhóm các hệ thống truyền thông Hồng Kông, Nhật Bản và Hoa Kỳ với Trung Quốc được thể hiện như là một sự tương phản rõ ràng, hoặc hoàn toàn bị bỏ qua. Ngoài việc đưa ra một cấp độ khác biệt lớn hơn giữa các hệ thống truyền thông, thì mô hình này cung cấp một mối liên hệ giữa các yếu tố cấu trúc và thực tiễn chuyên môn thiếu hụt trong các mô hình định chuẩn trước đó, là những mô hình quy giản độ bao phủ của truyền thông thành một chiều kích cấu trúc duy nhất.
KẾT LUẬN
Việc nghiên cứu so sánh các hệ thống truyền thông và sự phát triển các
phương trâm của báo chí có lịch sử lâu dài trong lĩnh vực truyền thông đại
chúng. Dominick (1994) cho rằng đó là vì ý nghĩa của các mối quan hệ tự
do giữa chính phủ và giới
truyền thông. Trong bất kỳ phân tích nào về các hệ thống quốc gia, thì
các cấu
trúc và thể chế truyền thông
của họ cũng như các mối quan hệ với các cấu trúc kinh tế và chính trị phải là một phần của bức
tranh vì những mối quan hệ và cấu trúc này đều hợp thành một
thể thống nhất với nội dung, việc
phân phối và tiếp nhận
thông tin trong một xã hội. Các mô hình trước đây mô tả hoặc lý thuyết hóa các hệ thống truyền
thông quốc gia đều đã giới hạn năng lực phân tích của họ bằng cách nhấn mạnh đến đặc điểm Chiến
tranh Lạnh của các hệ thống chính trị. Các mô hình kết hợp các quan điểm kinh tế đã
làm tăng năng lực phân tích của các mô hình này nhưng lại bỏ qua những tác nhân thực sự tham gia vào quá
trình sản xuất của
truyền thông. Việc kết hợp
các hệ thống giá trị của các nhà báo cá nhân như là một
cấp độ phân loại cho phép phân
biệt giữa các quốc gia mà nếu không sẽ được phân loại tương tự dựa
trên cơ sở nhà nước hoặc
hệ thống kinh tế. Mô hình mới này kết hợp các chiều kích tự chủ báo chí cá nhân và các cấu trúc của
chính sách nhà nước. Do đó làm tăng sự hiểu biết về các hệ thống báo chí và các xã hội tạo
ra các hệ thống này.
Vẫn còn một câu hỏi chủ chốt là: Cách tiếp cận này có thể được khái quát
hóa qua các vấn đề, truyền thông và các quốc gia hay không? Các lý thuyết của các hệ thống báo chí quốc
gia vẫn chủ yếu chỉ là lý thuyết; có nghĩa là các cấm đoán mang
tính phương châm và định chuẩn. Bằng cách sử dụng phân tích nội dung của tin tức truyền thông về một sự kiện thực tế, mô hình mới này đã vượt
qua được các cấm đoán để mô tả và phân tích thực nghiệm. Báo chí vẫn là trung
tâm điểm vì về
phương diện truyền thống, chúng liên quan chặt chẽ với cơ cấu quyền lực chính trị và thể hiện rõ ràng
các ràng buộc về thể chế và cơ cấu khác nhau đang hoạt động để sản xuất tin tức.
Mặc dù là nghiên cứu xuyên quốc gia và khảo sát lịch sử, nhưng báo chí vẫn là nguồn có thể tiếp cận dễ dàng
nhất cho nghiên cứu của chúng tôi, mô hình được đề xuất cho phép phân tích các hình
thức và cấu trúc truyền
thông cụ
thể khác trong chừng mực hai
cấp độ phân tích không phải là phương tiện phụ thuộc. Tức là các hệ thống nhà nước hoạt
động ở cấp chính trị trên các hệ thống truyền thông, và các giá trị báo chí được kết hợp với nhà
báo cá nhân chứ không phải dựa vào bản thân phương tiện. Do đó, mô hình này có thể áp dụng dễ dàng
trong các bối cảnh truyền thông và quốc gia khác, nơi mà các vấn đề tồn tại vượt qua các
ranh giới quốc gia
đó.
Tương tự, quá trình vận hành của chủ nghĩa bảo thủ và chủ nghĩa tự do đều dựa trên các giá trị báo chí cá nhân vượt xa phạm vi của những vấn đề cụ thể. Nghĩa là, phương pháp được sử dụng ở đây có thể được sử dụng hầu như với bất kỳ vấn đề nào, miễn là một loạt tờ báo của mỗi quốc gia (hoặc các phương tiện truyền thông khác) và một loạt các bài báo từ mỗi tờ báo (hoặc các phương tiện khác) được kết hợp vào mô hình để giảm hiệu ứng khác biệt do những khác biệt về báo chí cá nhân và cho phép phân tích các điểm tương đồng và khác biệt ở cấp quốc gia. Để nghiên cứu thêm, cần áp dụng phương pháp và mô hình cho các vấn đề khác nhau trong một nhóm quốc gia để xem liệu những phân biệt có được có đảm bảo được các vấn đề xuyên suốt không.
___________________________________________
Nguồn: Ostini, Jennifer and Anthony Y. H.
Fung (2002). Beyond the Four Theories of
the Press: A New Model of National Media Systems. Mass Communication &
Society, 2002, 5 (1), 41–56.
Tài liệu dẫn
Akhavan-Majid,
R., & Wolf, G. (1991). American mass
media and the myth of libertarianism: Toward an “elite power group” theory.
Critical Studies in Mass Communication, 8, 139–151.
Altschull,
H. (1995). Agents of power: The media and
public policy. New York: Longman. (Original work published 1984)
Dominick,
J. R. (1994). The dynamics of mass
communication. New York: McGraw-Hill.
Hachten,
W. (1981). The world news prism.
Ames: Iowa State University.
Hall,
S. (1982). The rediscovery of ideology.
In J. Curran, M. Gurevitch, & J. Woollacott (Eds.), Mass communication and society (pp. 56–90). London: Edward Arnold.
McQuail,
D. (1994). Mass communication theory: An
introduction. London: Sage.
Merrill,
J., & Lowenstein, R. (1979). Media,
messages and men: New perspectives in communication. New York: Longman.
(Original work published 1971)
Murdoch,
G. (1982). Large corporations and the
control of the communications industries. In M. Gurevitch, T. Bennett, J.
Curran, & J. Woollacott (Eds.), Culture, society and the media (pp.
118–150). London: Methuen.
Picard,
R. (1985). The press and the decline of
democracy: The democratic socialist response in public policy. Westport,
CT: Greenwood.
Siebert,
F., Peterson, T., & Schramm, W. (1956). Four
theories of the press: The authoritarian, libertarian, social responsibility,
and Soviet communist concepts of what the press should be and do. Urbana:
University of Illinois.
Williams,
R. (1977). Marxism and literature.
Oxford, England: Oxford University Press.
Windahl,
S., & Rosengren, K. E. (1976). The
professionalization of Sweden journalists. Gazette, 22(3), 140–149.
Windahl,
S., & Rosengren, K. E. (1978). Newsmen’s
professionalization: Some methodological problems. Public Opinion
Quarterly, 55, 466–473.
Wright,
C. R. (1986). Mass communication: A
sociological perspective (3rd ed.). New York: Random House.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét