Các
nhóm tộc người và các ranh giới
Fredrik
Barth
Giới
thiệu
Tiểu luận này đề cập đến các
vấn đề của các nhóm tộc người
và sự
tồn tại dai dẳng của chúng. Đây là
một đề tài có ý nghĩa lớn lao đối với nhân học xã hội, nhưng lại bị bỏ quên. Thực tế, toàn bộ lý luận nhân học đều
dựa trên tiên
đề cho rằng sự biến đổi văn hoá
là gián đoạn, có những tập hợp của những người về cơ bản có một văn hóa chung, và các khác biệt được kết nối lại phân biệt mỗi nền văn hoá riêng
rẽ với nhau. Vì văn hoá không
là gì khác ngoài cách thức
mô tả hành vi của con người, nên tiếp theo là phải
có những nhóm người rời rạc,
tức là các đơn vị tộc người, để tương ứng với mỗi nền văn hoá. Sự khác biệt giữa các
nền văn hoá, ranh giới lịch sử và các mối quan hệ của họ, đã được nghiên
cứu nhiều; việc
hình thành các nhóm tộc người, và thực chất ranh giới giữa chúng, chưa được khảo
xét tương xứng. Các nhà nhân học
xã hội đã tránh những vấn
đề này bằng cách sử dụng khái niệm “xã hội” được trừu tượng hóa để mô tả hệ thống xã hội bao gồm các nhóm và
các đơn vị nhỏ hơn, cụ thể hơn có thể được phân tích. Nhưng điều này không ảnh hưởng đến
các đặc trưng
và giới hạn thực nghiệm của
các nhóm tộc người, và các vấn đề lý thuyết quan trọng mà cuộc khảo
sát đưa
ra.
Mặc dù lối suy nghĩ ngây thơ cho rằng mỗi bộ lạc và dân tộc đã duy trì nền văn hoá của mình thông qua tình trạng tăm tối hiếu chiến của những người hàng xóm không còn được chấp nhận nữa, nhưng quan điểm đơn giản hóa cho rằng tình trạng biệt lập về địa lý và xã hội là những yếu tố quyết định cho việc duy trì tính đa dạng văn hoá thì vẫn tồn tại. Một cuộc điều tra thực nghiệm về đặc trưng của các ranh giới tộc người, như đã được ghi lại trong các tiểu luận sau, đưa đến hai khám phá không có gì đáng ngạc nhiên, nhưng nó lại cho thấy tính chất thiếu xác đáng của quan điểm này.
Thứ nhất, rõ ràng là các
ranh giới vẫn tồn tại bất
chấp những dòng lưu chuyển nguồn nhân lực qua các ranh giới đó. Nói cách khác, các khác
biệt thể loại tộc người không phụ thuộc vào sự vắng mặt của tính di động, tiếp xúc và thông tin, nhưng lại
thực sự đưa đến các quá trình loại
trừ và tích hợp xã hội, theo đó các thể loại riêng rẽ được duy trì mặc dù làm thay đổi sự tham gia và địa vị thành viên trong
tiến trình lịch sử đời
sống cá nhân. Thứ hai, người
ta thấy rằng các mối quan hệ xã hội bền vững, lâu dài, và mang tính sống
còn vẫn được duy trì qua
các ranh giới đó, và
thường dựa vào chính
các trạng thái tộc người bị phân đôi. Nói cách khác,
các khác biệt tộc người không phụ thuộc vào sự vắng mặt của tương
tác và sự chấp nhận xã hội, mà ngược lại thường là những nền
tảng để
xây dựng các hệ thống xã hội chung. Tương tác trong một hệ thống xã hội như vậy
không dẫn đến sự thủ tiêu nó thông qua biến đổi và tích hợp văn hoá; những khác biệt văn hoá có thể tồn tại bất chấp sự
liên thuộc và
tiếp xúc liên tộc
người.
Cách tiếp cận chung
Ở đây rõ ràng có một lĩnh vực quan trọng cần phải được suy nghĩ lại. Điều cần thiết là một cuộc công phá kết hợp lý thuyết và thực nghiệm: chúng ta cần phải khảo sát chặt chẽ các sự kiện thực nghiệm một loạt trường hợp, và làm cho các khái niệm của chúng ta phù hợp với các sự kiện thực nghiệm này sao cho có thể làm sáng tỏ các sự kiện đó một cách đơn giản và đầy đủ nhất, và cho phép chúng ta khám phá các ý nghĩa của chúng. Trong tiểu luận khác nhau, mỗi tác giả đưa ra một trường hợp mà họ vốn quen thuộc trong công việc điền dã của mình, và cố gắng áp dụng một tập hợp các khái niệm chung để phân tích. Xuất phát điểm lý thuyết chủ yếu bao gồm một số bộ phận kết nối với nhau.
Thứ nhất, chúng tôi chủ
yếu nhấn mạnh vào một
thực tế là các nhóm tộc người là những phạm trù được gán cho và đồng nhất hóa bởi tự thân các tác nhân, và
do đó mà
có các đặc điểm tổ chức tương tác của con người. Chúng tôi cố gắng
kiên hệ các đặc điểm khác của các nhóm tộc người
với đặc điểm chính
yếu này. Thứ hai,
các tiểu luận đều áp dụng một quan điểm tạo
sinh cho
việc phân tích; thay vì làm việc thông qua
một loại hình các dạng
thức nhóm tộc người
và các mối quan hệ, chúng
tôi cố gắng khám phá các quá trình khác nhau dường như liên quan đến việc tạo
ra và duy trì các nhóm tộc người. Thứ ba, để quan sát các quá trình này, chúng tôi chuyển
trọng tâm khảo sát từ quá trình hình thành nội tại và lịch sử của các nhóm riêng biệt thành
ranh giới tộc
người và
việc duy trì các ranh giới
đó. Mỗi điểm này
đều cần được giải thích chi
tiết.
Định
nghĩa nhóm tộc người: Nhìn chung thuật ngữ nhóm tộc người được sử dụng trong văn liệu nhân học (Narroll 1962,
1963, 1964,
1967, 1969, 1973) để chỉ một dân
số mà: i) Phần lớn là tự duy trì về phương diện sinh học; ii) có chung các giá trị văn hoá cơ bản, được
hiện thực hóa trong tính thống nhất công khai trong các hình thái văn
hoá; iii) tạo ra một lĩnh vực giao tiếp và tương tác; iv) tự xác định địa vị nhóm và được các nhóm khác
công nhận, bằng
cách tạo thành một thể
loại có thể phân biệt với các thể loại khác trong cùng trật tự. Cho đến nay định nghĩa kiểu lý tưởng này không bị loại bỏ về nội dung khỏi đề xuất truyền thống cho
rằng một chủng tộc = một
nền văn hoá = một ngôn ngữ; và một xã hội = một đơn vị chối
từ hoặc phân biệt đối xử với
các đơn vị khác. Tuy nhiên,
ở dạng biến đổi nó cũng rất gần với nhiều tình huống dân tộc học thực nghiệm, ít nhất
là khi các tình huống đó xuất hiện và được ghi nhận, sao cho ý nghĩa này vẫn tiếp tục phục vụ cho các
mục đích của hầu hết các
nhà nhân học. Lập luận của tôi không có, ngay cả bản chất của
các đặc trưng
này, mặc dù như tôi sẽ nói
rõ chúng ta có thể có lợi từ
bất kỳ sự thay đổi cách
nhấn mạnh nào; vấn đề chủ yếu mà
tôi không
chấp nhận là lối
công thức
hóa như vậy làm
cho chúng ta khó
mà hiểu được hiện tượng các
nhóm tộc người cũng như vị trí và văn hóa của họ trong xã hội loài người. Đó là vì nó không đề cập đúng
vào toàn
bộ các vấn
đề quyết
định: mặc dù có ý định đưa ra
một mô hình kiểu lý tưởng về một hình thức thực nghiệm định kỳ, thì
nó lại
ngụ ý về
một quan
điểm nhận thức trước về những nhân
tố quan trọng trong sự
hình thành, cấu trúc và chức năng của các nhóm như vậy.
Nghiêm trọng hơn cả, nó cho phép chúng ta giả định rằng việc duy
trì ranh giới là không có vấn đề gì và theo sau tình trạng biệt lập ẩn
ý các đặc trưng đã được phân thành
các hạng mục: khác biệt chủng
tộc, khác biệt văn hoá, phân biệt xã hội, các rào cản ngôn ngữ, sự thù hằn tự phát và có tổ chức. Vấn
đề này cũng giới hạn phạm
vi của hàng loạt nhân tố mà chúng tôi sử dụng để giải thích sự đa dạng văn
hoá: chúng ta được dẫn dắt để hình dung mỗi nhóm phát triển hình thức văn hoá và xã
hội của mình trong sự biệt lập tương đối, chủ yếu là để đáp ứng các nhân tố sinh thái địa phương, thông qua một lịch
sử thích nghi bằng sáng chế và vay mượn có lựa chọn. Lịch sử này đã tạo ra một thế giới của
các dân tộc riêng biệt, mà mỗi dân tộc có nền văn hoá riêng, được tổ chức thành một xã hội có thể biệt
lập một cách hợp
thức như một hòn đảo đối
với chính bản
thân nó.
Các nhóm tộc người như những đơn vị mang văn hóa: Thay vì thảo luận về tính chất đầy đủ của phiên bản lịch sử văn hoá này chứ không phải là các hòn đảo biệt lập khác, chúng ta hãy nhìn vào một số sai lầm mang tính logic về quan điểm. Trong số các đặc trưng được liệt kê ở trên, việc có chung một nền văn hoá thường được coi là vấn đề trọng yếu. Theo tôi, nhiều điều có thể đạt được bằng cách coi đặc trưng quan trọng này như một hàm ý hoặc kết quả, chứ không phải là đặc trưng chính yếu và mang tính quyết định của tổ chức nhóm tộc người. Nếu người ta chọn khía cạnh mang tính văn hoá của các nhóm tộc người như là đặc trưng chính yếu của các nhóm đó, thì điều này có những hàm ý sâu rộng. Người ta có khuynh hướng đồng nhất và phân biệt các nhóm tộc người theo các đặc trưng hình thái học của các văn hoá mà các nhóm đó là những đơn vị mang văn hóa ấy. Điều đó đưa đến một quan điểm được khẳng định trước về cả: i) thực chất của tính liên tục về thời gian của các đơn vị đó, và ii) vị trí của các yếu tố xác định hình thức của các đơn vị đó.
1. Với sự nhấn mạnh vào khía cạnh mang-văn hóa, việc phân loại người và các nhóm địa phương như là các thành viên của một nhóm tộc người phải phụ thuộc vào việc thể hiện những nét đặc trưng riêng về nền văn hoá của họ. Đây là điều có thể được đánh giá một cách khách quan bởi người nghiên cứu dân tộc học, theo truyền thống vùng-văn hoá, bất kể các thể loại và các định kiến của các tác nhân liên quan. Những khác biệt giữa các nhóm trở thành các khác biệt về đặc trưng kiểm kê; người ta chú ý vào việc phân tích các nền văn hoá chứ không phải là vào việc phân tích tổ chức tộc người. Vì vậy, mối quan hệ năng động giữa các nhóm sẽ được mô tả bằng các nghiên cứu về quá trình tích hợp của chính thứ đã thu hút mối quan tâm ngày càng giảm dần trong nhân học, mặc dù những bất cập lý thuyết nghiên cứu chưa bao giờ được thảo luận một cách nghiêm túc. Vì xuất xứ lịch sử của bất kỳ tập hợp đặc điểm văn hoá nào cũng đa dạng, nên quan điểm này cũng đem lại cơ hội cho một “lịch sử tộc người” ghi lại quá trình tích bồi và biến đổi văn hóa, cũng như tìm cách giải thích nguyên do vay mượn một số hạng mục văn hóa. Tuy nhiên, vậy thì cái đơn vị có tính liên tục về thời gian được mô tả trong các nghiên cứu ấy là gì? Nghịch lý là ở chỗ nó phải bao gồm cả các nền văn hoá quá khứ, có lẽ hiện nay rõ ràng bị loại trừ vì sự những khác biệt về hình thức, là những khác biệt của chính cái kiểu loại được chẩn đoán bằng sự khác biệt mang tính đồng đại của các đơn vị tộc người. Sự kết nối giữa “nhóm tộc người” và “văn hoá” chắc chắn không được làm sáng tỏ thông qua sự nhầm lẫn này.
2. Các hình thức văn hoá công khai có thể được
chia thành các đặc điểm thể hiện các hiệu ứng sinh thái. Bằng cách này, tôi không có ý quy
vào một thực tế là chúng phản
ánh lịch sử thích nghi với môi trường; bằng một cách trực tiếp hơn, chúng cũng phản ánh những hoàn cảnh bên ngoài mà
các tác nhân phải tự thích ứng. Cùng một nhóm người, với các giá trị và ý tưởng không đổi, chắc chắn sẽ theo đuổi những
mô thức sống khác nhau và thể chế hoá các dạng hành vi khác nhau khi phải đối mặt với những
cơ hội khác nhau xuất hiện trong các môi trường khác nhau? Tương tự như vậy, chúng
ta phải hy vọng phát hiện ra rằng một nhóm tộc người, trải trên một lãnh thổ có các hoàn cảnh
sinh thái khác nhau, sẽ thể hiện những tính chất đa dạng khu vực của
hành vi được thể chế rõ
ràng, không phản ánh những khác biệt về định hướng văn hoá.
Vậy thì chúng cần phải được phân loại ra sao nếu các hình thái thể chế minh bạch được chẩn đoán? Một ví dụ là những
sự phân phối và tính
đa dạng của
các hệ thống xã hội địa
phương Pathan (Afganistan), sẽ được đề cập đến dưới đây (Barth, Fredrik 1998, p. 117). Theo các giá trị cơ bản của người
Pathan, một nhóm
người Pathan miền Nam đều
sống ở các vùng miền núi, tổ chức
theo huyết thống, chỉ có thể phát
hiện ra hành vi
của những người Pathans ở Swat
khác hẳn, và đáng bị chỉ trích theo khuôn khổ các giá trị riêng của họ, đến mức là họ tuyên bố rằng những người anh em phía bắc
của họ “không còn là người Pathan nữa”. Thật vậy, theo các tiêu chí “khách quan”, mô hình tổ chức minh bạch của họ dường như
gần gũi hơn với mô hình của người Panjabis. Nhưng tôi thấy có thể, bằng cách giải thích các
hoàn cảnh ở miền Bắc, để
làm cho những người Pathans phương Nam nhất trí rằng đó vẫn thực sự là những người Pathans và miễn cưỡng thừa nhận rằng trong các
hoàn cảnh đó, họ thực sự
có thể cũng hành động theo đúng cách thức ấy. Do đó, sẽ là bất cập khi coi các hình thái thể chế công
khai như là những đặc điểm văn
hoá mà bất cứ lúc nào cũng phân biệt một nhóm tộc người - những hình thức công khai này được xác định
bởi sinh thái cũng như bởi nền văn hoá được trao truyền. Cũng không thể tuyên bố rằng mọi quá
trình đa dạng hóa như vậy trong
một nhóm thể hiện bước khởi đầu theo hướng phân nhỏ và nhân lên thành nhiều đơn vị. Chúng ta có các trường hợp rất
rõ ràng về một nhóm tộc
người, cũng ở một
trình độ tổ chức kinh tế
tương đối đơn giản, cư
trú tại một vị
trí sinh thái thích hợp khác nhau nhưng vẫn duy trì tính thống nhất về văn hoá và tộc
người trong những
giai đoạn dài (ví dụ, người
Chuckchee nội địa và ven
biển (Bogoras 1904 -9) hoặc người Lapps chăn nuôi tuần lộc, sống dọc các con sông và bờ biển (Gjessing, 1954).
Blom lập luận một cách
thuyết phục về vấn
đề này bằng
cách tham chiếu trường hợp nông dân miền núi Na Uy. Ông cho thấy sự tham gia và tự đánh giá của họ trong
khuôn khổ của các giá trị chung
của Na Uy đã bảo đảm cho họ địa vị thành viên liên tục của một nhóm tộc người lớn hơn, bất chấp các mô thức hoạt động chệch hướng và có tính đặc trưng cao mà sinh thái địa phương áp đặt lên họ (Blom,
Jan Petter (1969). Để phân tích
các trường hợp như vậy, chúng ta cần một quan điểm không nhầm
lẫn các tác động của các điều
kiện sinh thái tới hành vi với những tác
động của truyền thống văn
hoá, nhưng lại có thể phân tách các yếu tố này và khảo sát các thành phần xã hội và văn hoá phi sinh thái
học tạo ra tính đa dạng.
Các nhóm tộc
người như một loại tổ chức
Bằng cách tập trung vào hiệu quả xã hội, các nhóm tộc người được xem là một hình thức tổ chức xã hội. Vậy là đặc tính quyết định trở thành hạng mục (iv) trong danh mục về đặc tính của tự quy gán và được các nhóm người khác quy gán. Việc tự quy gán loại hạng là một tộc loại khi phân loại một người theo khuôn khổ về bản sắc (tính đồng nhất) cơ bản, chung nhất, được giả định theo nguồn gốc và nền cảnh của người đó. Ở mức độ mà các tác nhân sử dụng các bản sắc (các tính đồng nhất) tộc người để tự phân loại mình và người khác vì các mục đích tương tác, thì họ tạo thành các nhóm tộc người theo nghĩa tổ chức này.
Điều quan trọng là phải nhận ra rằng mặc dù
các thể loại tộc người đều có tính đến các khác biệt văn hoá nhưng chúng ta không thể giả định mối
liên hệ một-một đơn giản giữa các đơn vị tộc người, cũng như
các tương đồng và khác biệt văn
hoá. Các đặc điểm được đưa vào xem xét không phải là tổng của những khác biệt “khách quan”, mà chỉ là những đặc điểm mà các tác nhân tự cho là có tầm quan trọng. Không chỉ các biến thể sinh thái đánh dấu
và phóng đại những khác biệt; một số đặc điểm văn hoá được các tác nhân sử dụng như là các ký hiệu và biểu trưng của những khác biệt, còn những đặc điểm khác lại bị bỏ qua, và trong một số mối quan hệ,
những khác biệt căn
cội lại
bị hạ thấp và bị khước
từ. Các nội dung văn hoá
của những lưỡng phân tộc người lại có vẻ phân tích theo hai trật tự: (i) các ký hiệu hoặc dấu hiệu rõ ràng, các đặc điểm phụ mà mọi người tìm kiếm và xuất
trình bản
sắc (tính đồng nhất), lại
thường là các đặc
điểm như trang phục, ngôn ngữ,
kiểu nhà hoặc lối sống chung chung, và (ii) các định hướng giá trị cơ bản: tiêu chuẩn về đạo
đức và điểm nổi bật dùng để phán quyết sự thực hiện.
Vì tính chất thuộc về một thể loại tộc người
hàm ẩn tình
trạng là một loại người nhất định,
có bản sắc (đồng nhất tính) cơ bản, nên nó cũng ngụ ý về một yêu sách cần phải được phán quyết và tự phán quyết bằng các tiêu chuẩn có liên quan đến bản sắc
đó. Không một thể loại “nội dung văn hoá” nào trong số đó xuất phát từ danh mục mô tả các
đặc điểm hoặc sự khác biệt
về văn hoá; người ta không thể dự đoán từ nguyên tắc đầu tiên mà các đặc
điểm sẽ được các
tác nhân nhấn mạnh và làm
cho có liên quan về phương diện tổ chức. Nói cách khác, các thể loại tộc người đem lại một mạch nguồn tổ chức có thể cung cấp những số lượng và các hình thái nội dung khác nhau bằng
các hệ thống văn hoá xã hội
khác nhau. Chúng có thể có liên quan đáng kể đến hành vi, nhưng chúng lại không cần thiết phải như vậy; chúng có thể thấm nhập
vào toàn
bộ đời sống xã hội, hoặc chúng có thể chỉ liên quan
đến các lĩnh vực hoạt động có giới hạn. Do đó, có một phạm vi rất
rõ ràng cho các mô tả dân tộc học
và các mô tả so sánh các hình thức tổ chức tộc
người khác nhau. Việc
nhấn mạnh
vào sự quy gán với
tư cách là đặc điểm quyết
định của các nhóm tộc người
cũng giải quyết được hai
khó khăn về phương diện khái niệm đã được thảo luận ở trên.
1. Khi được định nghĩa là một nhóm có tính quy
gán, và
loại trừ thì thực chất liên tục tính
của các đơn vị tộc
người trở
nên rõ ràng: nó phụ thuộc vào
việc duy trì ranh giới. Các đặc điểm văn hoá báo hiệu ranh giới có thể thay đổi,
và thực ra các đặc trưng văn hoá của các thành viên cũng có thể được thay đổi,
ngay cả hình thức tổ chức của nhóm cũng có thể thay đổi - tuy nhiên thực
tế lưỡng phân liên tục giữa các
thành viên và người bên ngoài cho phép chúng ta xác định được thực chất của tính liên tục, và khảo sát sự thay đổi về hình thức và nội dung văn
hoá.
2. Các yếu tố liên quan đến xã hội tự
nó trở thành yếu
tố chẩn đoán cho địa
vị thành viên, chứ không phải
là những khác biệt hiển nhiên, “khách quan” được tạo ra bởi các yếu tố khác. Nó không tạo ra sự khác biệt mà
cách thức của các thành viên khác
nhau về hành vi công khai của họ - nếu họ nói rằng họ là A, trái ngược với một thể
loại B khác, thì họ sẵn lòng để bị xem xét và để cho hành vi của họ được diễn giải và phán xét là của A chứ không phải là của B; nói cách khác, họ tuyên bố lòng
trung thành với nền
văn hoá chung của A. Vì vậy các tác động của điều này, so với các yếu tố khác ảnh hưởng đến
hành vi thực tế, có thể trở thành đối tượng khảo sát.
__________________________________
(Còn nữa)
Nguồn: Barth, Fredrik (1989). Ethnic
Groups and Boundaries: The Social Organization of Culture Difference. Waveland
Press.
Tác
giả: Thomas Fredrik Weybye Barth
(1928 - 2016) là nhà nhân học xã hội gốc Na Uy, vợ là Unni Wikan, giáo sư ngành
nhân học xã hội ở Oslo, Na Uy. Ông là con trai của giáo sư địa lý Tom Barth và
cháu của giáo sư động vật học Edvard Kaurin Barth. Ông nổi tiếng với việc phân tích giao dịch về các quá trình chính trị ở Thung lũng
Swat, miền Bắc Pakistan và nghiên cứu về các quy
trình kinh tế vi mô và hoạt động doanh nghiệp
của người dân ở khu vực Darfur ở Sudan. Công
trình của ông cũng được coi là
một ví dụ kinh điển về phân tích hình thức học trong nhân học kinh tế. Trong suốt sự nghiệp lâu dài của mình,
ông cũng đã thực hiện các nghiên cứu thực địa tại Bali, New Guinea, và một số
quốc gia ở Trung Đông, bao gồm một loạt các chủ đề khác nhau. Barth là chủ biên công trình Các nhóm Tộc người và Ranh giới
(1969), trong đó ông xây dựng một cách
tiếp cận để nghiên cứu về sắc tộc, tập trung vào các cuộc thương lượng đang diễn ra về các ranh giới giữa các nhóm người. Quan điểm của Barth là
các nhóm như vậy không phải là những nhóm biệt lập, đứt đoạn văn hoá, hay một thứ tiên nghiệm logic mà người ta thuộc về nó một cách tự nhiên. Barth muốn giải quyết các quan niệm nhân học về các nền văn hoá như những thực
thể giới hạn, và tộc tính như những
liên kết nguyên thủy, thay thế nó bằng cách tập trung vào giao diện giữa các nhóm. Do đó Ethnic
Groups and Boundaries tập trung
vào tính liên kết của các bản sắc (tính thống nhất) tộc người. Barth viết: “…các phân biệt thể loại tộc người không phụ thuộc vào sự vắng mặt của tính
di động, tiếp xúc và thông tin, nhưng lại thực sự đòi hỏi các quá trình loại trừ và tích hợp xã hội, theo đó các thể loại loại tộc người riêng rẽ được duy trì
mặc dù bằng cách biến đổi sự tham
gia và địa vị thành viên
trong quá trình lịch sử
đời sống cá nhân”. Hơn nữa, Barth nhấn mạnh rằng các loại
nhóm – tức là các nhãn tộc người - thường vẫn tồn tại kéo dài ngay cả khi
các thành viên cá nhân vượt qua các ranh giới hoặc có
chung bản sắc với những người ở các nhóm khác nhau. Tính liên thuộc của các nhóm tộc
người là một lập luận quan trọng trong toàn bộ phần giới thiệu và các chương sau trong cuốn sách
do Barth chủ biên. Với tư cách liên thuộc, các
bản sắc (tính đồng nhất) tộc người là sản phẩm của cái gọi là các quy gán
và tự quy gán liên tục, theo đó
Barth nhấn mạnh quan điểm tương tác của nhân học xã hội ở
cấp độ của những cá nhân tham gia thay vì ở cấp độ cấu trúc-xã hội. Bản sắc (tính đồng nhất) tộc người trở nên và được duy trì thông qua các quá trình liên
quan đến việc bao gồm và loại trừ.
Tài
liệu dẫn
Blom, Jan Petter (1969). Ethnic and Culturral
Differentiation, in Fredrik Barth (ed.) Ethnic Groups and Boundaries:The
Social Organization of Culture Difference. Oslo and Boston:
Universitetsforlaget & Little, Brown and Company, pp. 74-86.
Bogoras, Waldemar (1904-1909). The Chukchee.
Memoirs of the AMNH ; v. 11.
Gjessing, Gutorm (1954a). The Lapps and their Names. In Man 54 (1954b): 16-16.
Naroll,
Raoul (1962). Data
quality control, New York, Free Press.
Naroll,
Raoul (1963). Thwarting
disorientation and suicide: a cross-cultural survey. Anthropology
Department, Northwestern University.
Naroll,
Raoul (1964). A
fifth solution to Galton's problem, American Anthropologist 66: 863-67.
Naroll,
Raoul (1967). The
HRAF quality control sample universe, Behavior Science Notes 2: 81-88.
Naroll,
Raoul (1969). Cultural
determinants and the concept of the sick society. In Stanley C. Plog and
Robert B. Edgerton, eds., Changing Perspectives
in Mental Illness, New York, Holt, Rinehart: 128-54.
Naroll,
Raoul (1973). Holocultural
theory tests. In Raoul Naroll and Frada Naroll, eds., Main Currents in
Cultural Anthropology, New York, Apple-ton-Century-Crofts : 309-84.
Naroll,
Raoul, and Richard G. Sipes (1973). A Standard
Ethnographic Sample, Second edition, Current Anthropology 14: 111-40.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét