Cấu trúc, dấu hiệu, và trò chơi trong diễn ngôn
của các Khoa học Nhân văn [I]
Jacques Derrida
Jacques Derrida
Người dịch: Hà Hữu Nga
Có lẽ đã xảy ra trong lịch sử khái niệm giải-cấu trúc [de-structure
- HHN lưu ý], một cái gì đó có thể được
gọi là một "sự kiện", nếu cái
từ đó không có tầm quan trọng chuyển tải nghĩa
đòi hỏi tính cấu trúc - hoặc cấu trúc luận - chính
xác là chức năng quy giản hoặc hoài nghi. Nhưng dẫu sao thì chúng ta cũng hãy nói
về một "sự kiện", và
thận trọng đặt từ đó trong ngoặc kép. Sự
kiện đó là gì vậy? Có lẽ nó có cái hình thức ngoại
tại của một sự tuyệt giao và sự lặp lại.
Thật
dễ chỉ ra rằng khái niệm
cấu trúc và thậm chí từ “cấu trúc"
bản thân nó cũng cũ kỹ chẳng kém gì epistémé - tri thức - có nghĩa là, cũ kỹ hệt như khoa học
phương Tây và triết học phương Tây - và rễ đâm sâu vào trong đất của ngôn ngữ thông thường, lao vào những nơi sâu kín nhất mà epistémé có thể để tập hợp
lại với nhau một lần nữa, làm cho chúng trở
thành một phần của chính nó bằng một sự thay thế ẩn dụ. Tuy
nhiên, cho đến sự kiện mà tôi muốn đánh dấu và xác định, cấu trúc hay đúng hơn
là tính cấu trúc
của cấu trúc mặc dù nó đã luôn được tham gia, đã
luôn được trung hòa hoặc quy giản, và đó là bởi một quá
trình đem lại cho nó một trung tâm hoặc
quy nó vào một điểm của sự hiện diện, một nguồn gốc cố định. Chức năng của trung tâm
này không chỉ để định hướng;
cân bằng, và tổ chức cấu trúc - trong thực tế người ta không thể nhận thức về một cấu trúc phi tổ chức,
nhưng trên tất cả để đảm bảo rằng nguyên tắc tổ chức của cấu trúc sẽ hạn chế những gì
chúng ta có thể gọi là trò chơi của cấu
trúc. Không nghi ngờ gì nữa bởi bằng
định hướng và tổ chức
sự gắn kết của hệ thống, thì
trung tâm của một cấu trúc cho phép trò
chơi của các yếu
tố của nó bên trong
hình thái tổng thể. Và ngay cả
ngày nay quan niệm về một
cấu trúc thiếu vắng
bất kỳ trung tâm nào thì đều đại diện cho điều không thể
tưởng tượng về chính nó.
Tuy nhiên, trung tâm cũng
đóng hẳn cánh cửa đối
với trò chơi mà nó mở ra và
làm cho có thể. Với tư cách
là trung tâm, nó là điểm mà tại đó sự thay thế các nội dung, các
yếu tố, hoặc các điều khoản không còn
có thể. Tại trung tâm, sự hoán vị hoặc
chuyển đổi của các yếu tố (tất
nhiên có thể là các cấu trúc kèm
theo trong một cấu trúc) đều bị cấm. Ít nhất
là lối hoán vị này vẫn luôn giữ ở thế bị
cấm [2] (tôi cố tình sử dụng từ
này). Vì vậy, người ta luôn nghĩ
rằng trung tâm,
theo cách định nghĩa duy nhất, là chính sự vật trong một
cấu trúc, chi phối cấu trúc,
trong khi lại thoát ra khỏi tính cấu trúc. Đây là lý
do tại sao mà tư duy cổ điển liên
quan đến cấu trúc có thể nói
rằng trung tâm, nghịch lý
thay, lại chính là bên trong cấu trúc và bên
ngoài bản thân nó. Trung tâm
là ở trung tâm của
tổng thể tính, nhưng, vì khi trung
tâm không thuộc về tổng thể tính (không phải
là một phần của cái tổng thể tính), mà tổng thể tính lại có trung tâm của
nó ở những nơi khác. Nên trung tâm
không phải là trung tâm. Khái niệm cấu
trúc trung tâm - mặc dù nó
đại diện cho tự thân tính gắn kết, thì điều kiện của
cái epistémé tri thức kia như triết học hoặc khoa học lại gắn kết một cách mâu thuẫn. Và, như thường lệ, sự gắn kết
trong mâu thuẫn thể hiện sức
mạnh của một ham muốn. Khái niệm cấu
trúc trung tâm, trong thực tế, là
khái niệm về một
trò chơi dựa trên một
nền tảng cơ bản, một trò chơi được thành
lập trên một nền tảng bất động và
một sự tin chắc làm yên lòng người, mà chính
nó lại vượt ra ngoài
tầm với của trò chơi. Với sự chắc
chắn này thì nỗi xao
xuyến có thể được kiểm
soát, mà xao xuyến thì luôn là kết quả của một cách thức nhất định của tồn tại dính
líu đến trò chơi, bị mê đắm vào trò chơi, hệt như ngay
từ đầu nó đã thuộc về trò chơi vậy.
Vì vậy, trên cơ sở của những gì mà chúng ta gọi là trung tâm (và, bởi vì có thể là cả bên trong lẫn bên ngoài, dễ dàng gọi nguồn gốc là kết thúc, hệt như arché [bắt đầu] là telos [kết cục] vậy), những lặp lại, thay thế, biến đổi, và hoán vị luôn được lấy từ lịch sử ý nghĩa [sens] - có nghĩa là, một lịch sử, một giai đoạn - mà nguồn gốc của nó có thể luôn luôn được khải lộ hoặc kết cục của nó có thể luôn luôn được biết trước trong hình thức của sự hiện diện. Có lẽ, đó là lý do tại sao người ta có thể nói rằng sự vận động của bất cứ loại khảo cổ học nào, giống như của bất cứ mạt thế luận nào, đều là tòng phạm của lối quy giản tính cấu trúc này và luôn luôn cố gắng nhận thức về nó từ một sự hiện diện đầy đủ và ở bên ngoài trò chơi. Nếu như vậy, thì lịch sử của khái niệm cấu trúc, trước khi tuyệt giao mà tôi đã nói, phải được coi như là hàng loạt thay thế trung tâm này bằng trung tâm khác, một chuỗi các quyết định về trung tâm vậy. Liên tục, và theo đúng quy củ, trung tâm có được các hình thức hoặc tên gọi khác nhau. Lịch sử siêu hình học, giống như lịch sử của phương Tây, là lịch sử của các ẩn dụ và hoán dụ. Ma trận của nó, nếu các bạn lượng thứ để tôi chứng minh đôi chút và để cho thật tỉnh lược nhằm nhanh chóng đi tới chủ đề chính - là việc xác định tồn tại như là sự hiện diện theo đúng toàn bộ nghĩa của từ này. Người ta có thể chứng tỏ rằng tất cả những tên gọi liên quan đến các nền tảng, đến các nguyên tắc, hoặc đến trung tâm đã luôn luôn chỉ định cái hằng số của một sự hiện diện - eidos, arché, telos, energeia, ousia (hình thức,nguồn gốc, mục đích, sinh lực, hữu thể - aletheia (chân lý), siêu việt tính, lương thức, Thượng đế, con người, và vân vân. [Tôi không dịch các từ tiếng Pháp của Derrida, mà dịch nguyên văn từ tiếng Hy Lạp, vì tôi cũng ngờ ngợ các từ tiếng Pháp: essence, existence, substance, sujet - mà Derrida dùng để thể hiện các từ gốc Hy Lạp tương ứng ở trên, nên dẫn ra nguyên văn cả câu sau đây, để bạn đọc tham khảo và quyết định lựa chọn thuật ngữ tương đương trong tiếng Việt - HHN]: (On pourrait montrer que tous les noms du fondement, du principe ou du centre ont toujours désigné l'invariant d'une présence (eidos, arche, telos, energeia, ousia (essence, existence, substance, sujet) aletheia, transcendantalité, conscience, Dieu, homme, etc.)
Sự kiện này tôi gọi là một sự tuyệt giao, sự cắt đứt mà tôi ám chỉ ở đầu của bài viết này, có lẽ sẽ lại xảy ra khi tính cấu trúc của cấu trúc đã bắt đầu phải được suy nghĩ, có nghĩa là, lặp lại, và đây là lý do tại sao tôi nói rằng sự cắt đứt này là sự lặp lại theo toàn bộ nghĩa của từ này. Từ đó cần phải nghĩ rằng cái quy luật chi phối, như nó đã từng chi phối, nỗi khát vọng đặt trung tâm vào quá trình kiến tạo cấu trúc và quá trình biểu đạt nghĩa buộc phải có những hoán vị và thay thế cho quy luật hiện diện trung tâm này - một sự hiện diện trung tâm không bao giờ là tự thân, một sự hiện diện đã luôn luôn được chuyên chở ở ngoài bản thân nó bằng thứ thay thế nó. Thứ thay thế đó, bằng cách nào đó, lại không tự thay thế cho bất cứ điều gì tồn tại trước nó.
Vì vậy, trên cơ sở của những gì mà chúng ta gọi là trung tâm (và, bởi vì có thể là cả bên trong lẫn bên ngoài, dễ dàng gọi nguồn gốc là kết thúc, hệt như arché [bắt đầu] là telos [kết cục] vậy), những lặp lại, thay thế, biến đổi, và hoán vị luôn được lấy từ lịch sử ý nghĩa [sens] - có nghĩa là, một lịch sử, một giai đoạn - mà nguồn gốc của nó có thể luôn luôn được khải lộ hoặc kết cục của nó có thể luôn luôn được biết trước trong hình thức của sự hiện diện. Có lẽ, đó là lý do tại sao người ta có thể nói rằng sự vận động của bất cứ loại khảo cổ học nào, giống như của bất cứ mạt thế luận nào, đều là tòng phạm của lối quy giản tính cấu trúc này và luôn luôn cố gắng nhận thức về nó từ một sự hiện diện đầy đủ và ở bên ngoài trò chơi. Nếu như vậy, thì lịch sử của khái niệm cấu trúc, trước khi tuyệt giao mà tôi đã nói, phải được coi như là hàng loạt thay thế trung tâm này bằng trung tâm khác, một chuỗi các quyết định về trung tâm vậy. Liên tục, và theo đúng quy củ, trung tâm có được các hình thức hoặc tên gọi khác nhau. Lịch sử siêu hình học, giống như lịch sử của phương Tây, là lịch sử của các ẩn dụ và hoán dụ. Ma trận của nó, nếu các bạn lượng thứ để tôi chứng minh đôi chút và để cho thật tỉnh lược nhằm nhanh chóng đi tới chủ đề chính - là việc xác định tồn tại như là sự hiện diện theo đúng toàn bộ nghĩa của từ này. Người ta có thể chứng tỏ rằng tất cả những tên gọi liên quan đến các nền tảng, đến các nguyên tắc, hoặc đến trung tâm đã luôn luôn chỉ định cái hằng số của một sự hiện diện - eidos, arché, telos, energeia, ousia (hình thức,nguồn gốc, mục đích, sinh lực, hữu thể - aletheia (chân lý), siêu việt tính, lương thức, Thượng đế, con người, và vân vân. [Tôi không dịch các từ tiếng Pháp của Derrida, mà dịch nguyên văn từ tiếng Hy Lạp, vì tôi cũng ngờ ngợ các từ tiếng Pháp: essence, existence, substance, sujet - mà Derrida dùng để thể hiện các từ gốc Hy Lạp tương ứng ở trên, nên dẫn ra nguyên văn cả câu sau đây, để bạn đọc tham khảo và quyết định lựa chọn thuật ngữ tương đương trong tiếng Việt - HHN]: (On pourrait montrer que tous les noms du fondement, du principe ou du centre ont toujours désigné l'invariant d'une présence (eidos, arche, telos, energeia, ousia (essence, existence, substance, sujet) aletheia, transcendantalité, conscience, Dieu, homme, etc.)
Sự kiện này tôi gọi là một sự tuyệt giao, sự cắt đứt mà tôi ám chỉ ở đầu của bài viết này, có lẽ sẽ lại xảy ra khi tính cấu trúc của cấu trúc đã bắt đầu phải được suy nghĩ, có nghĩa là, lặp lại, và đây là lý do tại sao tôi nói rằng sự cắt đứt này là sự lặp lại theo toàn bộ nghĩa của từ này. Từ đó cần phải nghĩ rằng cái quy luật chi phối, như nó đã từng chi phối, nỗi khát vọng đặt trung tâm vào quá trình kiến tạo cấu trúc và quá trình biểu đạt nghĩa buộc phải có những hoán vị và thay thế cho quy luật hiện diện trung tâm này - một sự hiện diện trung tâm không bao giờ là tự thân, một sự hiện diện đã luôn luôn được chuyên chở ở ngoài bản thân nó bằng thứ thay thế nó. Thứ thay thế đó, bằng cách nào đó, lại không tự thay thế cho bất cứ điều gì tồn tại trước nó.
Từ đó trở đi có thể cần phải bắt đầu nghĩ
rằng không có trung tâm, mà
cái trung tâm đó có lẽ không được
nghĩ đến dưới hình thức
của một hiện hữu, cái trung tâm không
có nơi chốn tự nhiên, nó
không phải là một nơi chốn cố định mà là một chức
năng, một loại phi-nơi chốn trong đó một
số lượng vô hạn các dấu
hiệu-thay thế bắt đầu trò chơi. Đó chính là khoảnh khắc mà ngôn ngữ
xâm nhập vào cái phổ quát có vấn đề; mà
trong sự vắng mặt của một trung tâm hoặc
một nguồn gốc, mọi thứ đều trở thành diễn ngôn - miễn là chúng
ta có thể đồng ý về từ này - có nghĩa là, khi mọi
thứ đã trở thành một hệ thống
nơi mà cái được biểu
đạt trung tâm, cái cội nguồn
hoặc cái được biểu đạt siêu việt không bao giờ
tuyệt đối hiện diện bên ngoài một hệ thống của những khác biệt. Sự
vắng mặt của cái được biểu
đạt siêu việt mở rộng đến vô cùng tận lĩnh vực và trò chơi của sự biểu đạt.
Sự
lệch tâm này xuất hiện ở đâu và như thế nào để
được coi là tính cấu trúc của cấu trúc? Sẽ có chút ngây thơ khi quy vào một sự kiện,
một học thuyết, hay một tác giả để chỉ định cái sự cố này. Không có gì phải nghi ngờ là
một phần của toàn bộ một thời
đại, của chính chúng ta, vẫn còn đó
để bắt đầu tự khải lộ và bắt đầu vận
hành. Tuy nhiên, nếu tôi muốn đưa
ra một số loại chỉ định nào đó bằng cách lựa chọn một
hoặc hai "cái tên", và
bằng cách nhắc lại những tác giả mà trong các
diễn ngôn của họ sự cố này đã gần như
hoàn toàn duy trì cái công thức
cấp tiến nhất của nó, có lẽ tôi sẽ trích dẫn lời
chỉ trích của Nietzsche về siêu hình
học, về các khái niệm
tồn tại và
chân lý, vì nó thay thế các
khái niệm trò chơi, diễn giải, và dấu hiệu (dấu hiệu
không có chân lý
hiện diện); phê phán của Freud về tự hiện diện,
có nghĩa là, phê phán về ý thức, chủ thể, tính tự đồng nhất, và sự giáp mặt, hoặc tự sở
hữu; và, triệt để hơn, sự hủy tạo siêu hình học của Heidegger,
phê phán thần
học bản thể, phê phán cái
quyết định của tồn tại như là hiện diện. Nhưng tất cả những diễn ngôn hủy tạo này và tất cả những phép loại suy của họ vẫn bị mắc kẹt
trong một loại vòng tròn. Vòng tròn này là duy nhất. Nó mô tả hình
thức quan hệ giữa lịch sử siêu hình học và sự hủy tạo lịch sử siêu hình học.
Không có ý nghĩa gì trong việc
thực hiện các hủy tạo
đó mà không có các khái niệm
siêu hình học để tấn công
siêu hình học. Chúng ta không có
ngôn ngữ - không có cú
pháp và từ vựng - là kẻ hoàn toàn xa lạ với loại lịch sử này; chúng
ta không thể
thốt ra được một lời đề
nghị phá hoại duy nhất nào mà không rơi
vào các hình
thức, logic, và những lời
thừa nhận ngầm cho chính những gì mà
chúng ta tìm cách chiến đấu. Có thể chọn ra một trong số vô vàn ví dụ: siêu
hình học của sự hiện diện
bị tấn công bằng sự trợ giúp của các
khái niệm dấu hiệu. Nhưng từ thời điểm đó bất kỳ ai mong muốn chỉ rõ điều này, như tôi
đã một lần đề nghị trước
đây, là không hề có cái được biểu đạt siêu việt hay
đặc quyền, hơn nữa lĩnh vực hoặc mối tương tác của sự biểu hiện, từ đó trở
đi, không còn có giới hạn, nên anh ta phải tăng cường sự khước từ các khái niệm và
bản thân dấu
hiệu từ ngữ - thì chính
điều đó lại là thứ không thể làm
được. Để biểu
nghĩa, “dấu hiệu” phải luôn
được thấu hiểu và xác định, theo
ý nghĩa của nó, với tư cách
là dấu hiệu -
của, cái biểu đạt
quy về một cái được biểu đạt,
cái biểu đạt khác với cái được biểu đạt. Nếu người ta xóa bỏ sự khác biệt
căn bản giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt, thì tự thân từ cái biểu đạt phải bị từ bỏ với tư cách là một khái niệm
siêu hình. Khi Lévi-
Strauss nói trong lời mở đầu cuốn Le Cru et le Cuit [Sống và Chín] của mình rằng ông đã
"tìm cách vượt qua sự
đối lập giữa cái có thể nhận biết bằng giác quan và cái có thể nhận biết bằng lý trí bằng cách [tự] đặt mình cách xa điểm bắt đầu ở cấp
độ của các dấu hiệu," sự cần thiết,
hiệu lực, và tính hợp thức trong hành động của ông
không thể khiến chúng ta
quên rằng khái niệm dấu hiệu không thể tự nó vượt qua hoặc bỏ qua chính sự đối lập giữa cái có thể nhận thức bằng giác
quan và cái có thể
nhận biết bằng lý trí ấy. Khái niệm dấu
hiệu được xác định bằng cách đối lập
này: thông qua và xuyên suốt toàn bộ
lịch sử của nó và bởi hệ thống của nó. Nhưng chúng ta không thể thực hiện mà không có khái
niệm dấu hiệu, chúng ta không thể từ
bỏ được tính
tòng phạm siêu hình này mà lại không từ bỏ sự phê
phán mà chúng ta đang hướng tới để chống lại sự tòng phạm đó, mà lại không có nguy
cơ xóa sự khác biệt
[hoàn toàn] trong tính tự đồng
nhất của một cái được biểu đạt bằng cách quy giản vào chính cái biểu đạt của nó, hoặc, kết cục cũng như nhau, chỉ đơn
giản là trục xuất nó ra ngoài bản
thân nó. Vì có hai khác nhau để xóa bỏ sự
khác biệt giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt: một, theo
cách cổ điển, bao gồm phép quy giản hoặc tìm về cội nguồn của cái biểu đạt, có nghĩa là, cuối cùng
bằng cách xuất
trình dấu hiệu cho tư duy; cách khác, mà chúng ta
đang sử dụng ở đây, trái ngược
với cách đầu, đặt vấn đề đối với
cái hệ thống trong đó sự quy giản trước đã vận hành: trước hết, và trên hết, đối lập giữa cái có thể nhận thức bằng giác
quan với cái có thể nhận thức bằng lý trí. Điều nghịch lý là phép quy giản siêu hình của dấu hiệu cần
sự đối lập mà nó đã quy giản. Phép đối lập này là một phần
của hệ thống, cùng với phép quy giản. Và những gì
tôi đang nói ở đây về dấu hiệu có thể được mở rộng cho tất cả các khái niệm và
tất cả các câu của môn siêu hình
học, đặc biệt là cái diễn ngôn về "cấu
trúc". Tuy nhiên,
có rất nhiều cách bị mắc kẹt trong cái vòng tròn
này. Tất cả những cách đó đều ít nhiều ngây
thơ, ít nhiều mang tính thực nghiệm, ít nhiều mang tính hệ thống, ít nhiều gần gũi với việc công thức hóa
hoặc thậm chí hình thức hóa cái vòng tròn
này. Chính những khác biệt
này giải thích cho vô số các diễn ngôn hủy tạo và sự bất
đồng giữa những người làm ra
các diễn ngôn đó. Nó nằm trong các khái niệm
thừa kế từ môn siêu hình học
mà Nietzsche, Freud, và Heidegger chẳng hạn đã thực hiện. Vì các khái niệm này không phải là các yếu tố hoặc các nguyên tử và vì chúng được lấy từ
một cú pháp và một hệ thống, nên
mỗi khái niệm vay mượn riêng biệt lại kéo theo cùng với nó toàn
bộ siêu hình học. Đây chính là những gì
cho phép các nhà hủy tạo này tiêu diệt
lẫn nhau, chẳng hạn, Heidegger
xem xét Nietzsche, cũng sáng suốt và nghiêm ngặt hệt như một đức
tin kém cỏi và sự diễn giải sai, với tư cách là nhà siêu hình
học cuối cùng, môn đệ "Platonist" cuối cùng. Người ta có
thể nói tương tự về bản thân Heidegger đối với Freud, hoặc đối với một số người khác.
Và ngày hôm nay không có
một thực hành nào lan rộng thêm.
Vậy
thì mối liên quan của cái giản đồ hình thức này là gì, khi chúng ta
chuyển sang những gì được gọi là "các
khoa học nhân văn"? Một trong số có lẽ chiếm vị
trí đặc quyền là dân tộc học.
Trong thực
tế, người ta có thể giả định rằng
dân tộc học có thể đã được sinh ra như là một khoa học duy nhất tại cái thời điểm đã bắt đầu xảy ra sự lệch tâm: tại thời
điểm khi văn hóa châu Âu, và kéo theo nó, lịch sử siêu hình học
và các khái niệm của nó
- đã bị trật khớp, bật khỏi vị trí của nó, và
buộc phải dừng việc tự xem mình như là loại văn hoá quy chiếu. Thời điểm
này không phải là thời điểm đầu tiên và
trên hết của diễn ngôn triết học hoặc khoa học, mà nó còn là một thời
điểm của các diễn
ngôn chính trị, kinh tế, kỹ thuật,
và vv. Có thể nói một cách chắc
chắn về tổng thể là không có gì bất ngờ về một thực tế là các phê phán chủ thuyết dân tộc trung tâm - chính là điều kiện của dân tộc
học - nên đồng thời một cách có hệ thống
và mang tính lịch sử với
sự hủy tạo của môn lịch sử siêu
hình học. Cả hai đều thuộc cùng một thời đại duy nhất.
Dân tộc học - giống như bất
kỳ khoa học nào - xuất
hiện bên trong yếu tố diễn ngôn. Và nó chủ yếu là
một khoa học châu Âu sử dụng các khái niệm truyền thống, tuy nhiên, phần nhiều có thể
lại đấu tranh chống lại chính các khái niệm đó. Do đó, cho
dù có muốn hay không, và điều này không phụ thuộc vào quyết định về phần mình - nhà dân tộc
học chấp nhận đưa vào diễn ngôn của mình các
tiền đề của luận thuyết dân tộc trung tâm ở chính cái thời điểm mà họ được thuê để tuyên xưng các tiền đề
đó. Đây chính là
một tất yếu tối giản; nó không phải là một
ngẫu nhiên lịch sử.
Chúng ta phải xem xét rất cẩn thận tất cả mọi
ẩn ý của nó. Nhưng nếu không ai
có thể thoát khỏi tất yếu này, và tuy nhiên, nếu vì vậy mà không có ai phải chịu trách nhiệm nhượng bộ đối với nó, chút ít, thì điều đó không có
nghĩa là tất cả các cách nhượng bộ đối
với nó là một sự thích đáng ngang bằng nhau.
Chất lượng và sức sinh sản
của một diễn ngôn có lẽ được đo
bằng tính nghiêm
ngặt tuyệt đối mà với nó, mối quan hệ với lịch sử siêu hình học và với các khái niệm
kế thừa đều được nghĩ đến. Dưới đây là
một vấn đề về mối quan hệ quyết định với ngôn ngữ của các khoa học nhân văn và một vấn đề về trách nhiệm
quyết định của diễn ngôn. Đó là
một vấn đề đặt ra một cách rõ ràng và
có hệ thống về vị thế của một diễn ngôn vay mượn từ
một di sản mà các nguồn tài nguyên
cần thiết cho việc giải cấu trúc
của tự thân di sản đó. Một vấn đề
về kinh tế và chiến lược.
Nếu bây giờ tôi tiếp tục xem xét các văn bản của [nhà
nhân học Claude] Lévi-
Strauss như một ví dụ, không
chỉ vì cái đặc quyền
dành cho môn dân tộc học
trong các khoa học nhân
văn, cũng không vì tư tưởng của
Lévi-Strauss chất nặng đầy lên thực trạng lý thuyết đương đại. Mà trên tất cả là vì một lựa
chọn nhất định đã tự trở nên rõ ràng trong công trình
của Lévi-Strauss và vì một học thuyết nhất định đã được xây
dựng ở đó, và chính xác là bằng một
phương cách ít nhiều rõ ràng, liên quan đến sự phê phán này về ngôn ngữ và về ngôn ngữ quyết định này trong các khoa học nhân văn.
Để đi theo trào lưu này trong
văn bản của Lévi-Strauss, hãy để tôi chọn một sợi chỉ hướng đạo xuyên suốt, đó là sự đối lập
giữa tự nhiên và văn
hóa. Mặc dù toàn
bộ những tái tân trang và cải trang
của nó, thì sự đối lập này vẫn là bẩm sinh đối với triết học.
Nó thậm chí còn già nua hơn cả Plato. Chí ít là già bằng các nhà ngụy biện. Kể
từ lời khẳng
định về sự đối lập - tự nhiên / quy luật, tự nhiên / kỹ nghệ - nó đã được truyền
lại cho chúng ta bằng toàn bộ một chuỗi lịch
sử đối lập “tự
nhiên” với quy luật, với giáo dục, với nghệ thuật, với kỹ thuật - và còn với cả tự do, với tính võ đoán, với lịch
sử, với xã hội, với tư duy, và …v.v. Từ những bước đầu tìm kiếm
và từ cuốn sách đầu tiên của ông, Các
cấu trúc cơ bản của mối quan hệ thân tộc [Les Structures élémentaires de la
parenté], ngay lập tức, và đồng thời, Lévi-Strauss
đã cảm thấy tính cần
thiết của việc việc sử dụng sự đối lập này và việc bất khả làm cho nó có
thể được chấp nhận. Trong
cuốn sách, ông bắt đầu
từ cái tiên đề hay
định nghĩa này: cái thuộc về tự nhiên, là phổ quát
và tự phát, không phụ thuộc vào
bất kỳ nền văn hóa cụ thể hoặc bất kỳ chuẩn
mực nhất định nào. Mặt khác, cái thuộc về văn
hóa, phụ thuộc vào một hệ thống các chuẩn
mực điều chỉnh xã hội, và do đó có
khả năng phân biệt cấu
trúc xã hội này với cấu trúc xã hội khác. Hai định nghĩa này đều thuộc về loại truyền
thống. Nhưng, trong chính những trang đầu của Les Structures élémentaires de la parenté, Lévi-Strauss - bắt đầu cung
cấp cho các khái niệm này
một chỗ đứng có thể chấp nhận
được - đã phải đương đầu với những gì mà ông gọi là
một vụ bê bối, có nghĩa là, một cái
gì đó không còn khoan dung được với sự đối lập tự
nhiên / văn hóa, mà ông đã chấp
nhận và dường như đòi hỏi đồng
thời và ngay lập tức những điều khẳng định về tự nhiên và những điều khẳng định về văn hóa. Vụ
bê bối này là cấm kị loạn luân.
Cấm kị loạn luân là
phổ quát; theo nghĩa
này, người ta có thể gọi nó
là tự nhiên. Nhưng nó cũng là một cấm đoán, một
hệ thống các chuẩn mực
và loại trừ; theo nghĩa
này, người ta có thể gọi nó là văn hóa. Vì
vậy, chúng ta có thể giả định rằng
tất cả mọi thứ phổ quát ở con người thì đều xuất phát từ
trật tự của tự nhiên và
được đặc trưng bởi tính ngẫu
nhiên; và tất cả mọi thứ tùy thuộc vào một chuẩn mực thì đều thuộc về văn hóa và
thể hiện các thuộc
tính của cái tương đối và cái cụ thể. Vậy thì chúng ta có thể tự thấy mình
phải đối mặt với một thực tế, hay đúng hơn là một tập hợp sự kiện,
trong đó, dưới ánh sáng của
các định nghĩa trước, thì có vẻ không xa với một vụ bê bối: cấm kỵ loạn luân
trình bày không chút lưỡng lự, và được kết nối với nhau bất khả phân
ly, hai đặc điểm mà chúng tôi
nhận ra là các
thuộc tính mâu thuẫn của hai trật tự độc quyền.
Việc cấm kỵ loạn luân tạo thành một
quy tắc, nhưng một quy tắc, duy
nhất trong tất cả các
quy tắc xã hội, trong đó đồng thời lại
có một đặc trưng
phổ quát (9).
________________________________
Nguồn: Derrida, J. 1967. La structure, le signe et le jeu dans le
discours des sciences humaines. Derrida J. Ecriture et la Differance. Paris: "Seul", 1967. P.:
409-429.
Tác giả: Jacques
Derrida [1930-2004], là nhà triết học Pháp sinh tại Algeria, trong một gia đình
Do Thái, quê gốc ở Toledo [là một thành phố ở Tây Ban Nha, cách Madrid 70 km về
phía nam], trở thành công dân Pháp từ năm 1870, theo Sắc lệnh Cremieux trao
quyền công dân Pháp đầy đủ cho các cư dân bản địa người Do Thái nói tiếng Arab
ở Algiria thuộc Pháp. Cha mẹ ông Haïm
Aaron Prosper Charles (Aimé) Derrida (1896–1970) và Georgette Sultana Esther
Safar (1901–1991) đặt tên cho ông là Jackie, và họ coi đó là một cái tên Mỹ. Vào ngày đầu tiên của năm học 1942, Derrida
đã bị các nhà hành chính Pháp đuổi khỏi trường để thực thi đạo luật bài Semite
của chính phủ Vichy. Ông đã ngầm học nhảy lớp trong vòng một năm, mà không theo
học ở trường của người Do Thái do các giáo viên bị đuổi dạy và các sinh viên bị
đuổi học thành lập, và tham gia vào nhiều cuộc thi đá bóng, vì mơ ước trở thành
cầu thủ chuyên nghiệp. Ở tuổi vị thành niên Derrida đã tìm thấy trong các công
trình của các nhà triết học và nhà văn như Rousseau, Nietzsche và Gide một công
cụ nổi loạn chống lại gia đình và xã hội. Ngoài ra ông cũng đọc Camus và
Sartre. Trong ngày đầu đến trường École Normale Supérieure, Derrida đã
gặp Louis Althusser và họ trở thành bạn. Sau khi đến thăm kho lưu trữ Husserl ở
Leuven, nước Bỉ, ông đã hoàn thành
chương trình thạc sỹ triết học về Edmund Husserl. Ông được nhận học bổng nghiên
cứu tại Đại học Harvard và đã nghiên cứu ở đó hai năm 1956-1957 để đọc Ulysses
của J. Joyce. Năm 1957, ông cưới nhà phân tâm học Marguerite Aucouturier
tại Boston. Từ 1960-1964, ông dạy triết tại Sorbonne, và là trợ giảng cho
Suzanne Bachelard [con gái của Gaston Bachelard], Canguilhem, Paul Ricœur và
Jean Wahl. Năm 1964, nhờ sự giới thiệu của Althusser và Jean Hyppolite, ông trở
thành giảng viên chính thức tại École Normale Supérieure, cho đến 1984. Năm
1965 ông bắt đầu gia nhập nhóm Tel Quel của các lý thuyết gia triết học và văn
học và kéo dài trong 7 năm. Năm 1967, ông công bố ba cuốn sách đầu tay Écriture
et Differance, La Voix et Phenomene, và De la Grammatologie. Năm 1986, ông trở
thành giáo sư về các ngành nhân văn tại Đại học California, Irvine và giảng dạy
ở đó cho đến khi chết vào năm 2004.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét