Powered By Blogger

Thứ Sáu, 31 tháng 1, 2025

Giá trị văn hóa của di sản Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà (I)

Hà Hữu Nga

1. Các quan niệm phổ quát về giá trị văn hóa

1.1. Khái niệm văn hóa

Cho đến nay, về cơ bản giới học thuật đã tổng hợp được năm quan niệm phổ quát về nội hàm khái niệm văn hóa chủ yếu như dưới đây: 1) Thứ nhất, là quan điểm mang tính thẩm mỹ thuần túy trong việc định nghĩa khái niệm văn hóa, trong đó văn hóa được quy về các nỗ lực hoặc các sản phẩm nghệ thuật hoặc trí tuệ đặc biệt, những gì ngày nay chúng ta có thể gọi là văn hóa thượng lưu” trái ngược với văn hóa đại chúng” (Arnolds M. 1889; Super R. H. 1965). 2) Thứ hai, theo nhà nhân học Edward Tylor thì văn hóa “Toàn bộ phức hợp bao gồm tri ​​thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, tập quán, và bất kỳ khả năng và thói quen nào khác mà con người đạt được với tư cách là một thành viên của xã hội” (Tylor E., 1871). di sản lớn nhất của định nghĩa của Tylor được cho là nằm trong công thức “toàn bộ phức hợp” của ông. 3) Thứ ba, là quan niệm tương đối luận văn hóa của Franz Boas và các học trò của ông vào đầu thế kỷ XX: Không bao giờ nên phân biệt văn hóa theo thứ bậc cao thấp, và không được định giá trị cho các nền văn hóa là dã man hay văn minh, vì mỗi nền văn hóa đều có giá trị tương đối bình đẳng với nhau (Boas F. 1887). Theo ông, văn hóa là tổng thể của các phản ứng và hoạt động tinh thần và thể chất đặc trưng cho các hành vi của các cá nhân hợp thành một nhóm xã hội mang tính tập thể và cá nhân liên quan đến môi trường tự nhiên của họ, đến các nhóm khác, đến các thành viên của bản thân nhóm, và bản thân mỗi cá nhân. (Boas F. 1963 [1911], 1996; Glazer M. 1994). Và vào cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI có 4) Thứ tư: định nghĩa của UNESCO về văn hóa như sau: “Không kể những thứ khác, văn hóa bao gồm lối sống, ngôn ngữ, văn học truyền miệng và văn học viết, âm nhạc và bài hát, giao tiếp không bằng văn bản hay lời nói, các hệ thống tôn giáo hoặc tín ngưỡng, các nghi lễ và các nghi thức, thể thao và các trò chơi, các phương pháp sản xuất, hoặc công nghệ, các môi trường tự nhiên và nhân tạo, thực phẩm, quần áo và nơi nương tựa và nghệ thuật, các phong tục và truyền thống thông qua đó các cá nhân, các nhóm cá nhân và cộng đồng thể hiện nhân tính và ý nghĩa họ đem đến cho sự tồn tại của mình, và xây dựng thế giới quan của họ đại diện cho sự chạm trán của họ với các lực lượng bên ngoài ảnh hưởng đến cuộc sống của họ (UNESCO 2002). Định nghĩa của UNESCO được bổ sung mới bằng một số lĩnh vực quan trọng mà định nghĩa kinh điển của Taylor không có, đó trước hết là việc đề cập đến văn hóa thông qua lĩnh vực cá nhân và lĩnh vực nhóm; lĩnh vực nhân tính và lĩnh vực ý nghĩa của văn hóa. 5) Thứ 5 là định nghĩa văn hóa trong Tuyên bố Fribourg về các quyền văn hóa như sau: “i) Thuật ngữ văn hóa bao gồm các giá trị, các tín ngưỡng, niềm tin, ngôn ngữ, kiến thức và các loại hình nghệ thuật, các truyền thống, các thể chếlối sống thông qua đó một người hoặc một nhóm người thể hiện nhân tính và các ý nghĩa mà họ đem lại cho sự tồn tại và cho sự phát triển của họ; ii) Việc thể hiện bản sắc văn hóa được hiểu là tổng của tất cả các mối quan hệ văn hóa thông qua đó một người, tự mình hoặc cùng với những người khác, tự xác định hoặc tạo lập bản thân, giao tiếp và mong muốn được thừa nhận về phẩm giá của mình; iii) Cộng đồng văn hóa bao hàm một nhóm người cùng chia sẻ các mối quan hệ tạo thành một bản sắc văn hóa chung mà họ có ý định bảo tồn và phát triển.” [Fribourg Declaration, Article 2]. Bên cạnh việc kế thừa những điểm mạnh trong định nghĩa văn hóa của UNESCO, Tuyên bố Fribourg còn có những đóng góp quan trọng sau: i) Văn hóa còn bao gồm các giá trị; ii) Ý nghĩa và nhân tính của văn hóa không chỉ vì sự tồn tại mà còn vì sự phát triển của các cá nhân và các nhóm người; iii) Văn hóa là việc thể hiện bản sắc và chia sẻ bản sắc; iv) Văn hóa là tự xác định và tự tạo lập bản thân cá nhân và nhóm; v) Văn hóa là mong muốn được thừa nhận phẩm giá của cá nhân và nhóm; v) Văn hóa là sự bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa chung (Fribourg Group, 2007).

1.2. Các giá trị văn hóa

Các nhà giá trị học cho rằng: Giá trị là kết quả những định giá trở thành tiêu chuẩn, mục tiêu, mục đích cho các niềm tin hoặc tư tưởng quan trọng và lâu bền của những con người thuộc một nền văn hóa nhất định về những gì được coi là tốt đẹp và đáng ước vọng nhất. Các giá trị chi phối, tác động đến hành vi của mỗi cá nhân, nhóm xã hội, cộng đồng, quốc gia, nhân loại và được sử dụng làm những hướng dẫn chung cho mọi tình huống của cuộc sống. Giá trị được phân biệt thành nhiều hình thái, nhiều cấp độ căn cứ vào tầm quan trọng được xác định bởi các nguyên tắc định giá sinh tồn và phát triển của mỗi cá nhân, nhóm xã hội trong những không gian thời gian khác nhau (Rokeach M., 1973; Schwartz 1992, 2006). Trong những năm 1960, các chính sách phát triển hầu như không hề quan tâm đến văn hóa (Yudice G., 2002). Ngày nay, ngoài ba trụ cột: kinh tế, xã hội, và môi trường, người ta đã chấp nhận văn hóa thành trụ cột thứ của phát triển bền vững, trong đó một loạt giá trị của trụ cột văn hóa đã được xác lập và được coi là một tập hợp “các giá trị cốt lõi” của nhân tính trong quá trình phát triển. Đó là: i) Giá trị dân chủ gắn liền với sự tham gia; ii) Giá trị hòa nhập gắn liền với lòng khoan dung, nhân từ; iii) Giá trị tự do gắn liền với công lý và bình đẳng; iv) Giá trị hòa bình gắn liền với an toàn và an ninh; v) Giá trị hạnh phúc gắn liền với sức khỏe, và thịnh vượng; vi) Giá trị sáng tạo gắn liền với trí tuệ phong phúđổi mới; vii) Giá trị yêu thương gắn liền với sự tôn trọng đối với môi trường (Hawkes J. 2001). Văn hóa không phải là một tập hợp tĩnh của các giá trị và các thực tiễn: nó được liên tục tái tạo khi ta đặt vấn đề, và xác định lại các giá trị, thực hành các giá trị đó khi phải đối mặt với những thay đổi hay trao đổi các ý tưởng; và trên hết, tính đa dạng văn hóa là vốn có của loài người (Maraña M. 2010). Tóm lại, giá trị văn hóa chính là tập hợp các bản sắc văn hóa đã được các thế hệ nối tiếp nhau trải nghiệm, kiểm chứng, nhận thức và thừa nhận bằng cả cảm tính và lý tính, trở thành các tiêu chuẩn được định giá bằng niềm tin, nếp nghĩ, cách ứng xử, thành đạo lý và thực hành sống của một cộng đồng, một dân tộc trong những bối cảnh môi trường, kinh tế, xã hội nhất định. (Hà Hữu Nga 1996, 2015) Như vậy giá trị văn hóa có thể được xem xét thông qua các lĩnh vực chung nhất như: i) giá trị sinh thái người (nhân văn); ii) giá trị lịch sử; iii) bản sắc cộng đồng người (nhóm, tộc người, dân tộc); iv) các định giá văn hóa; v) giá trị kinh tế; vi) giá trị phát triển, v.v… 

1.3. Bản sắc văn hóa

Trước hết, khái niệm bản sắc có nguồn gốc từ tiếng Latin identitat, identitats có từ căn là idem, có nghĩa là cũng thế, như thế. Trong tiếng Pháp, danh từ bản sắc là identité, và trong tiếng Anh là identity. Các động từ identifier (tiếng Pháp) và to identify (tiếng Anh) đều có nghĩa là đồng nhất hóa; như vậy bản sắc trước hết được tạo nên bởi tính đồng nhất. Ở Việt Nam, bản sắc văn hóa thường được định nghĩa theo phương pháp lịch sử luận hoặc bản chất luận, chẳng hạn bản sắc được coi là “tổng thể các giá trị đặc trưng của văn hóa dân tộc, được hình thành, tồn tại và phát triển suốt quá trình lịch sử lâu dài của đất nước, với các giá trị đặc trưng mang tính bền vững, trường tồn, trừu tượng và tiềm ẩnthông qua vô vàn các sắc thái văn hóa, với tư cách là sự biểu hiện của bản sắc văn hóa ấy" (Ngô Đức Thịnh, 2007). Hoặc bản sắc văn hóa Việt Nam là “một hệ thống 5 đặc trưng: i) Tính cộng đồng (làng xã); ii) Tính ưa hài hòa; iii) Tính trọng âm; iv) Tính tổng hợp; v) Tính linh hoạt (Trần Ngọc Thêm, 2009). Các học giả nước ngoài lại thiên về phương pháp xã hội học, gắn liền việc xem xét bản sắc văn hóa với cá nhân và các nhóm xã hội khác nhau, và xuất phát điểm bản sắc của họ đều từ đặc tính đồng nhất. Ngay cả người Trung Quốc cũng dùng một cụm từ chỉ sự đồng nhất để dịch khái niệm bản sắc (identité, identity) là 身份認同 “thân phần nhận đồng” - “nhận thức hoặc đồng nhất với vị thế/ vị trí nào đó”; bản sắc dân tộc國家身份認同quốc gia thân phần nhận đồng (Le Minh Khai [Liam Kelly Christopher]), 2010; Trịnh Hoành Thái - Hoàng Thiệu Luân [鄭宏泰 - 黃紹倫] 2012). Khi một cá nhân đồng nhất với nhóm, thì mọi người có xu hướng trải nghiệm, thể hiện vai trò hoặc thương lượng không chỉ một bản sắc văn hóa tại một thời điểm mà thường là nhiều bản sắc văn hóa cùng một lúc (Yea-Wen Chen and Hengjun Lin 2016). ba cách hiểu cốt lõi về bản sắc văn hóa: Thứ nhất, bản sắc văn hóa đồng thời là một thực thể cá nhân, một phạm trù xã hội và một hệ thống thực hành giao tiếp;  Thứ hai, bản sắc văn hóa vừa là sự lựa chọn cá nhân vừa là quyền của một nhóm; Thứ ba, bản sắc văn hóa là thích ứng, diễn tiến, linh hoạt, có thể hoặc không thể thương thảo, mang tính khác biệt, có tính cộng đồng và rời rạc (Kim Y.Y. 2007).

Đối với chúng tôi, bản sắc văn hóa được nhìn nhận cả từ phương diện bản chất/ lịch sử luận (xem xét bản sắc thông qua các mối quan hệ giữa cái trừu tượng và cái cụ thể, theo thời gian), và xã hội học (bản sắc văn hóa là kết quả đồng nhất của cá nhân vào các nhóm xã hội). Tuy nhiên, khái niệm bản sắc là lớp khái niệm trừu tượng nhất; và khi coi bản sắc là đồng nhất, có nghĩa là chúng ta đề cập tới vấn đề bản thể - một vấn đề tồn tại, nhưng thuần túy trừu tượng và là nguồn gốc của mọi sự vật, hiện tượng, và người ta chỉ có thể cảm nhận được nó gián tiếp thông qua các biểu hiện của nó. Như vậy là ở đây ta có cặp khái niệm bản sắc như là cái bản thể, còn sắc thái như là các hiện tượng. Vì là đồng nhất cho nên bản sắc, với tư cách là bản thể, chính là cái thống nhất tuyệt đối, còn hiện tượng hay các sắc thái là biểu hiện của bản thể trong vô vàn trạng huống, nên vô cùng phong phú, và có thể nhận biết nó trực tiếp bằng giác quan. Bản sắc của một cộng đồng người được tạo bởi sự đồng nhất giữa các cá nhân, các nhóm lại với nhau theo những phương thức nào đó. Nguyên lý của sự đồng nhất ấy chính là tôi (ego) tìm thấy bản thân mình (sự giống hệt) trong các cá thể khác, và tìm thấy tôi trong cả cộng đồng (Hà Hữu Nga, 1996). Có rất nhiều phương cách đồng nhất, nhưng có thể qui vào 2 dạng chính: i) Đồng nhất cảm tính với những yêu thương, thông cảm, gần gũi, hòa hợp, tin tưởng, hy vọng … v.v. Loại đồng nhất này thể hiện ở tình cảm yêu/ ghét chung nào đó: yêu nước, yêu tự do, hướng thiện, ghét giả dối, căm giận cái ác…v.v; hoặc thể hiện ở niềm tin, tín ngưỡng, đặc biệt là niềm tin tôn giáo. Đồng nhất cảm tính thường được các cộng đồng củng cố bằng những vô số loại hình văn hóa dân gian, đặc biệt là lễ hội và các sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng khác. Đối với trường hợp người Việt truyền thống, việc đồng nhất mình là con cháu của Lạc Long Quân và Âu Cơ là một trong những biểu hiện điển hình của phương thức đồng nhất cảm tính, tạo nên một giá trị văn hóa, một bản sắc của cả cộng đồng dân tộc; ii) Đồng nhất lý tính thường là thông qua việc nhận thức rõ ràng, có suy tính liên quan tới lợi ích ví dụ như lợi ích kinh tế, quyền lợi giai cấp, lợi ích dân tộc, quyền lực chính trị, quyền lực tôn giáo …v.v. Loại đồng nhất này thường được củng cố bằng những hình thức tổ chức chặt chẽ và có hệ thống như hệ tư tưởng, hệ thống giáo lý, các tổ chức chính trị, tôn giáo, hệ thống thể chế nhà nước…vv. Cũng trong trường hợp người Việt Nam hiện đại, việc đồng nhất mình với con đường cách mạng là một trong những biểu hiện điển hình của phương thức đồng nhất lý tính, góp phần tạo dựng bản sắc văn hóa hiện đại của cộng đồng dân tộc. Vì bản sắc mang tính đồng nhất, và nguyên lý của sự đồng nhất ấy chính là việc đối tượng hóa bản thân để nhận biết đối tượng, tìm thấy mình ở đối tượng, cho nên nói tới bản sắc văn hóa của một cá nhân, nhóm, cộng đồng, dân tộc cũng chính là nói tới ý thức tập thể về một hệ thống niềm tin, một hệ thống ứng xử và thực hành chung được di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác (Hà Hữu Nga 1996, 2010).

1.4. Diễn giải nhằm tìm kiếm ý nghĩa và giá trị di sản văn hóa

Một trong những định nghĩa tiêu chuẩn về diễn giải di sản của F. Tilden cho rằng: Đó là một quá trình tìm cách giảng giải, phân tích, làm sáng tỏ ý nghĩa của sự vật, hiện tượng nào đó thuộc lĩnh vực di sản. Diễn giải di sản là một hoạt động nhằm bộc lộ ý nghĩa và giá trị của di sản về phương diện tự nhiên và văn hóa. Thông qua các phương tiện truyền thông khác nhau, việc diễn giải giúp nâng cao tri thức, hiểu rõ ý nghĩa, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị của các địa điểm di sản, kể cả tự nhiên [môi trường, sinh thái] và văn hóa [mọi khía cạnh liên quan đến hoạt động sống của con người] (Beck L., & Cable T., 1998, tr. 16).

Trong lĩnh vực diễn giải di sản, Freeman Tilden đóng vai trò là một nhân vật chủ chốt và những ý tưởng mà ông thể hiện đã trở thành các nguyên tắc mang tính “kinh điển” nhưng lại rất hiện thực và thường xuyên được điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn ngày nay. Kể từ khi xuất bản, cuốn sách “Diễn giải di sản của chúng ta” [Interpreting Our Heritage] (Tilden F., 1967) đã được cộng đồng bảo tồn và phát huy giá trị di sản coi là thành tựu quan trọng nhất trong lĩnh vực này. Cách thức thu hút sự chú ý và kích thích người đọc được phản ánh qua 6 nguyên tắc mà ông cho là thiết yếu trong bất kỳ chương trình diễn giải nào. Thông qua những nguyên tắc này, Tilden mang đến sự thay đổi trong quan điểm liên quan đến cách tiếp cận di sản thiên nhiên và văn hóa, khiến nó trở nên dễ dàng sử dụng vì năng lực “chuyển tải” ý nghĩa của di sản tới công chúng, phục vụ cho nhiệm vụ bảo tồn và phát huy các giá trị của nó.

Nguyên tắc thứ nhất, “Bất kỳ diễn giải nào vì lý do nào đó không liên kết những gì đang được trưng bày hoặc mô tả với điều gì đó trong tính cách hoặc trải nghiệm của khách thăm thì đều trở nên vô ích” (Tilden, 1967:11). Để hiểu, ghi nhớ và phân tích một cách nghiêm túc một thông điệp đã nhận được, du khách phải cảm thấy được nhập cuộc, để thông tin được cung cấp bổ sung cho trải nghiệm và kiến thức đã có. Du khách không muốn chỉ “nghe thấy”, họ muốn được “trò chuyện” (Tilden, 1967:12). Việc thu hút du khách tham gia vào câu chuyện còn được nhấn mạnh bởi các cảm xúc. Do đó, trải nghiệm cảm xúc của người ta phần lớn nảy sinh từ cách diễn giải chủ quan về một sự kiện, chứ không chỉ là bản thân sự kiện đó (Heshmat, 2015).

Nguyên tắc thứ 2: Diễn giải phải là sự bộc lộ ý nghĩa dựa trên thông tin, mọi diễn giải đều bao gồm thông tin. (Tilden, 1967:18). Trên cơ sở đó, những người truyền thông điệp cũng có đóng góp, thông qua kinh nghiệm và nhận thức cá nhân của họ về chủ đề được đề cập. Tính xác thực và đạo đức của diễn giải dựa trên sự kết hợp cân bằng giữa khoa học và nghệ thuật (Beck and Cable, 2011). Mọi du khách đều có khả năng hiểu được thông điệp. Qua đó, Tilden thông báo rằng quá trình diễn giải là có tính liên ngành và nó luôn mang đậm tính nghệ thuật. (Dumbraveanu D., Ana Craciun, and Anca Tudoricu 2016, tr.64)

Nguyên tắc thứ ba, diễn giải di sản là một nghệ thuật, kết hợp nhiều nghệ thuật, bất kể loại chất liệu nào được xử lý (Tilden 1967, tr.26). Mục đích cuối cùng của diễn giải là mang lại một trải nghiệm đáng nhớ hơn là chỉ hướng đến đào tạo, giáo dục du khách bằng bất cứ giá nào. Chính vì vậy việc gửi thông điệp một cách nghệ thuật là sự kết hợp tốt nhất để đào tạo, giáo dục và đồng thời gây được ấn tượng, và chức năng giải trí là cơ bản. Ngày nay, sự phát triển của công nghệ cũng góp phần thúc đẩy sự xuất hiện các trung tâm mua sắm kết hợp diễn giải di sản, đáp ứng một phần nhu cầu văn hóa của người tiêu dùng.

Nguyên tắc thứ Tư, mục đích chính của việc diễn giải “không phải là hướng dẫn mà là khiêu khích” (Tilden, 1967). Ngày nay, các địa điểm di sản đã trở nên hấp dẫn dựa trên trải nghiệm cá nhân của du khách, thúc đẩy sự nhập cuộc của du khách qua sự tương tác giữa con người và môi trường, giữa con người và sự vật trong địa điểm di sản. Bằng cách này, du khách trải nghiệm cảm giác hài lòng liên tục khi tự mình khám phá in situ tại chỗ câu chuyện về cảnh quan, ý nghĩa, giá trị của di sản. Cách tiếp cận phi truyền tải thông tin này, sẽ kích thích du khách quay trở lại, để họ có thể tham dự nhằm bổ sung cho thông tin đã thu thập được, thông qua các kỹ thuật có sự tham gia. (Dumbraveanu D., Ana Craciun, and Anca Tudoricu 2016, tr.65-66)

Nguyên tắc thứ 5, cách tiếp cận toàn diện để diễn giải sẽ làm tăng khả năng hiểu và tiếp thu thông điệp, đồng thời củng cố mối liên hệ giữa du khách và không gian họ đang hiện hữu, bằng cách nhấn mạnh tầm quan trọng của địa điểm, giúp thấu hiểu từ quá khứ đến hiện tại. (Tilden, 1967, tr.40) Bên cạnh giải trí, nhu cầu của du khách còn là gói thông tin chính xác và toàn diện, có thể được kiểm tra kỹ lưỡng bằng cách tham khảo ý kiến từ nhiều nguồn. Vì vậy cách tiếp cận này phải hướng tới du khách, hướng tới tri thức và kinh nghiệm của họ. Việc hiểu rõ du khách và đối tượng mục tiêu một cách chính xác nhất có thể để tạo điều kiện tiếp cận các chương trình do mỗi du khách thực hiện ngày càng trở nên quan trọng. (Dumbraveanu D., Ana Craciun, and Anca Tudoricu 2016, tr.67)

Nguyên tắc thứ 6: Việc giải thích cho trẻ em không nên làm loãng đi cách trình bày dành cho người lớn mà phải theo một cách tiếp cận khác. Trẻ em thường ưa thích những gì được phóng đại và liên quan đến các giác quan đặc biệt như chạm, ngửi và tương tác với đồ vật. (Tilden 1967, tr. 47). Ngoài ra hiện nay, việc diễn giải được các chuyên gia từ nhiều lĩnh vực thực hiện, nhằm đưa vào những đặc điểm mang tính đặc thù. Hầu hết người ta đều phân tích tác động của một số phương pháp nhất định đối với một bộ phận công chúng cụ thể, mà không chỉ riêng cho trẻ em. Trong nỗ lực này, giá trị bản sắc và nhận thức của công chúng về thể chế đó đóng một vai trò quan trọng, điều này làm nảy sinh những kỳ vọng nhất định, đặc biệt là kỳ vọng về giá trị và bản sắc xã hội trong diễn giải di sản.

1.5. Các quan niệm giá trị văn hóa và định hướng xây dựng giá trị văn hóa Việt Nam

Một trong số các học giả Việt Nam sớm nhất nghiên cứu về giá trị văn hóa dân tộc là Đào Duy Anh. Trong tác phẩm Việt Nam Văn hóa Sử cương xuất bản vào năm 1938 (tái bản năm 1998) tác giả tổng kết 7 giá trị tiêu biểu của người Việt Nam như sau: i) Kí ức tốt, thiên về nghệ thuật và trực giác; ii) Ham học, thích văn chương; iii) Ít mộng tưởng, có óc thiết thực; iv) Chăm chỉ làm việc ở mức độ “ít dân tộc bì kịp”; v) Giỏi chịu đựng, nhẫn nhục; vi) Chuộng hòa bình, biết hy sinh vì đại nghĩa; vii) Khả năng học theo và thích ứng rất tài. (Đào Duy Anh, 1938, 1998) Học giả Trần Trọng Kim thì quan niệm về giá trị của người Việt là: trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức, quý sự lễ phép, mến điều đạo đức, lấy sự nhân, nghĩa, lễ, trí, tín làm 5 đạo thường cho sự ăn ở. Ông cũng không bỏ qua một số đức tính tiêu cực như ỷ lại, khờ dại; ích kỷ, cục bộ gia đình, địa phương (Trần Trọng Kim, 2011). Thế hệ học giả đi sau cũng đúc rút những giá trị tiêu biểu ẩn trong tính cách dân tộc, đó là tính cộng đồng, trọng đạo đức, cần kiệm, giản dị, thực tiễn, yêu nước, yêu chuộng hòa bình, nhân đạo, lạc quan (Nguyễn Hồng Phong, 1963). Từ góc độ văn hóa, các đức tính nổi bật của người Việt được đúc rút thành các giá trị sau: i) Quan tâm; ii) Đoàn kết; ii) Hòa thuận; iv) Thương người; và v) Trọng người; vi) Trách nhiệm (Phan Ngọc 1994, tr 34). Một trong những nghiên cứu đặc biệt có ảnh hưởng là tổng kết 7 giá trị lớn của con người Việt Nam: i) Yêu nước, ii) Cần cù, iii) Anh hùng, iv) Sáng tạo, v) Lạc quan, vi) Thương người, và vii) Vì nghĩa. Trong đó, giá trị yêu nước được coi là cốt lõi nhất xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam (Trần Văn Giàu 1980, tr. 105).

Từ sau Đổi mới, Đảng ta tập trung vào các định hướng xây dựng giá trị con người Việt Nam, trong đó tiêu biểu nhất là Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (năm 1998) và Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI (năm 2014). Các giá trị chủ đạo đó bao gồm: lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc; tinh thần đoàn kết; ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái; khoan dung; trọng nghĩa tình; trọng đạo lý; đức tính cần cù; sáng tạo trong lao động; tinh tế trong ứng xử; giản dị trong lối sống. Đảng ta khẳng định những giá trị trên được đánh giá là “những giá trị bền vững, tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1998, tr.24). Về phương diện dựng hệ giá trị Việt Nam, Đảng ta khẳng định: Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước… Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2014, tr. 26).

Đặc biệt mới đây, Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác định một trong những nhiệm vụ trọng yếu là xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam. Trong đó, việc tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 28). Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã định hướng:Xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn hóa, giá trị của quốc gia - dân tộc; kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại: Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo. Những giá trị ấy được nuôi dưỡng bởi văn hóa gia đình Việt Nam với những giá trị cốt lõi: Ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh; được bồi đắp, phát triển bởi nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với hệ giá trị: Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học; trên nền tảng của hệ giá trị quốc gia và cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả của dân tộc ta: Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc” (Nguyễn Phú Trọng, 2021, 90).

2. Giá trị văn hóa Hạ Long-Cát Bà trong viễn cảnh lý thuyết mới

2.1. Lý thuyết Kiến tạo Ổ sinh thái

Lý thuyết Kiến tạo ổ Sinh thái (Niche Construction) là một nhánh non trẻ của sinh học tiến hóa, nhấn mạnh vào khả năng của các sinh vật trong việc biến đổi chọn lọc tự nhiên trong môi trường của chúng và do đó đóng vai trò là đồng-điều hành quá trình tiến hóa của chính chúng và của các loài khác. Càng này nó càng được coi là một phương tiện tư duy thay thế cho các vấn đề tiến hóa hơn là một lĩnh vực nghiên cứu tiến hóa riêng biệt. Kiến tạo ổ sinh thái là “quá trình trong đó các sinh vật, thông qua quá trình trao đổi chất, hoạt động và sự lựa chọn của chúng, sửa đổi các ổ của chính chúng và/hoặc của nhau”. Ví dụ về kiến tạo ổ sinh thái bao gồm vô số quy mô từ nhỏ đến lớn: động vật làm tổ, hang, mạng và vỏ nhộng; thực vật thay đổi hàm lượng khí thể khí quyển và điều chỉnh chu trình dinh dưỡng; nấm phân hủy chất hữu cơ; và các chất dinh dưỡng cố định vi khuẩn (Odling-Smee et al. 2003, p. 419); con người tạo dựng một chốn nương thân đúng nghĩa một cái ổ, cho đến một căn lều, một ngôi nhà, một cộng đồng làng, một nền văn hóa, thậm chí một vùng văn hóa như trường hợp Hạ Long-Cát Bà của chúng ta.

Quan điểm kiến tạo ổ sinh thái lần đầu tiên được giới thiệu với sinh học tiến hóa thông qua một loạt bài tiểu luận có ảnh hưởng sâu sắc vào những năm 1980 của nhà sinh học tiến hóa Richard Lewontin của Đại học Harvard. Ông quan niệm rằng “các sinh vật không thích nghi với môi trường của chúng; họ kiến tạo nên từ những mảnh ghép của thế giới bên ngoài.” (Lewontin 1983, tr. 280) Việc các sinh vật nói chung và con người nói riêng biến đổi môi trường của mình không còn là điều mới mẻ đối với các nhà khảo cổ học cũng như đối với các nhà sinh học. (Laland, Kevin and Michael J. O’Brien, 2010) Việc tập trung vào sự biến đổi môi trường của sinh vật cũng là trọng tâm của khái niệm “công trình hệ sinh thái” [ecosystem engineering], và đã được đưa vào sinh thái học (Jones, C. G., Lawton, G. H., & Shachak, M., 1997). Nhiều loại “công trình sư” hệ sinh thái có thể điều chỉnh dòng năng lượng, dòng khối lượng và mô hình dinh dưỡng trong hệ sinh thái để tạo ra một “mạng công trình” kết nối với mạng tương tác dinh dưỡng (Wilby A., 2002). Về phương diện khảo cổ học, với tư cách là nhà kiến tạo ổ sinh thái vô cùng mạnh mẽ, con người hiểu cách kiến tạo ổ điều chỉnh động lực của hệ sinh thái - trọng tâm tác động của quần thể người lên môi trường của mình. (Smith B. D., 2007, tr. 188). Đó là quá trình tiến hóa bắt đầu được khuếch đại chuyển đổi thế hệ ổn định, tạo ra các “truyền thống”, làm theo khuôn mẫu đã tồn tại trong một khoảng thời gian dài, giúp con người trở thành những nhà kiến tạo ổ sinh thái hiệu quả với tư cách là các nền văn hóa (Laland và Brown 2006).

Năng lực về công nghệ và văn hóa rõ ràng là một yếu tố quan trọng làm cơ sở cho tiềm năng kiến tạo ổ sinh thái của con người, và về nhiều phương diện, có thể coi văn hóa là ổ sinh thái người. (Hardesty D.L.,1972, tr. 460) Quan điểm coi kiến tạo ổ sinh thái văn hóa là nguyên nhân dẫn đến quá trình tiến hóa của con người được các nhà di truyền học chứng minh khi phân tích bộ gen của con người là phản ứng đối với các hoạt động văn hóa (Voight B.F., et al . 2006), trong đó nổi bật nhất là đồng-tiến hóa của gen hấp thụ đường sữa (lactose) và chăn nuôi lấy sữa (Durham, W.H., 1991; Burger et.al 2007). Lý thuyết kiến tạo ổ có giá trị về mặt kinh nghiệm chính xác vì nó thu hút sự chú ý của chúng ta đến một loạt các hiện tượng vừa quan trọng vừa dễ bị bỏ qua khi chỉ sử dụng các quan điểm đã có (Laland, K. N., & Sterelny K., 2006). Bởi vì nó mở rộng và xây dựng trên các mô hình tiến hóa văn hóa mang tính kế thừa kép (di truyền và văn hóa) nên các mô hình tiến hóa văn hóa cung cấp những hiểu biết sâu sắc đáng kể về hành vi của con người (Cavalli-Sforza và Feldman 1981; Boyd và Richerson 1985), và lý thuyết kiến tạo ổ vẫn được nhắc đến với tư cách là “lý thuyết kế thừa-bộ ba” [Triple Inheritance Theory] - di truyền, văn hóa và sinh thái (Odling-Smee et.al 2003).

Về phương diện này, một đặc điểm được đánh giá cao của mô hình kiến tạo ổ sinh thái là cách nó đưa các sinh vật trở lại cái viễn cảnh của các mạng tác nhân trong quá trình tiến hóa. Đặc biệt, đối với lĩnh vực nhân học, khảo cổ học và văn hóa học đó chính là việc đưa tác vật (artifacts) vào cái viễn cảnh đó. Điều quan trọng là lý thuyết kế thừa bộ ba chống lại các lý thuyết vốn coi cả sinh vật và các tác vật mà chúng tạo ra là kết quả của hoạt động gen, và nó cũng thách thức các mô hình kế thừa kép về sự tiến hóa văn hóa, không xử lý ổn thỏa vai trò của văn hóa vật chất và giới hạn “văn hóa” vào các niềm tin, ý nghĩa và giá trị “chủ yếu nằm trong đầu mọi người” (Richerson P., and R. Boyd, 2005). Nhiều nhà nhân học đang bổ sung thêm kiến tạo ổ sinh thái vào bộ công cụ lý thuyết của họ, đôi khi tùy chỉnh nó để thực hiện công việc nhân học theo cách mà những người sáng lập ra lý thuyết này không hình dung ra. (Schultz E. A., 2015, tr.305-306) Theo nghĩa này, tác vật bao gồm mọi thứ do con người tạo ra, kể từ một vật, công cụ, dụng cụ nhỏ xíu, cụ thể cho đến một ký hiệu, các khái niệm, các lĩnh vực trừu tượng như các cộng đồng, các nền văn hóa.  Đặc biệt là trong khảo cổ học, “tác vật” là trung tâm, và bao gồm không chỉ các vật thể di động mà còn cả các đặc điểm được tái tạo của cảnh quan ở các quy mô khác nhau. Dữ liệu khảo cổ học về các truyền thống chế tác có thể được sử dụng để theo dõi sự kế thừa văn hóa, do đó lập biểu đồ các mối quan hệ lịch sử giữa các cộng đồng sáng tạo và kế thừa trong quá khứ…Ngoài ra, dữ liệu khảo cổ học còn liên quan trực tiếp đến sự biến đổi của con người đối với môi trường sinh học và phi sinh học, cả cục bộ và tạm thời, ở quy mô địa lý và thời gian lớn hơn. (Reide F., 2011, tr. 793-794)

Kiến tạo ổ sinh thái luôn mang tính khởi đầu hoặc phản ứng với các điều kiện môi trường và có thể xảy ra do sự xáo trộn của môi trường hoặc do sự di chuyển trong không/thời gian. Vì vậy, người ta đưa ra bốn loại hình kiến tạo ổ sinh thái, đó là: i) Kiến tạo ổ xáo trộn khởi đầu: Các sinh vật, kể cả trường hợp con người, bắt đầu thay đổi trong môi trường chọn lọc về mặt vật lý bằng cách biến đổi môi trường xung quanh mình; ii) Kiến tạo ổ xáo trộn phản ứng: Các sinh vật phản ứng chống lại sự thay đổi trước đó của môi trường bằng cách biến đổi vật lý môi trường xung quanh mình; iii) Kiến tạo ổ di chuyển khởi đầu: Các sinh vật tiếp xúc với một môi trường chọn lọc mới bằng cách di chuyển đến hoặc phát triển ở một nơi mới, cư chiếm môi trường sống mới; iv) Kiến tạo ổ di chuyển phản ứng: Các sinh vật phản ứng với sự thay đổi của môi trường bằng cách di chuyển đến hoặc phát triển ở một nơi thích hợp hơn, ví dụ như di chuyển theo mùa, theo sự biến động của mực nước biển. (Laland, K. N., & Feldman, M. W., 2003) Bốn loại hình kiến tạo ổ sinh thái này có thể thấy rất rõ ở trường hợp khu vực văn hóa trên vịnh Hạ Long – Cát Bà.

2.2. Lý thuyết Mạng tác nhân

Lý thuyết-Mạng-Tác nhân (ANT: Actor-Network-Theory) là một khuynh hướng tri thức lớn của xã hội học, nhân học và triết học được nhiều người chủ trương. Không chỉ dừng lại ở cái xã hội thuần túy, nó còn được sử dụng để mô tả các mạng lưới hoặc các tập hợp bao gồm các giao điểm giữa con người, các loàisự vật, trong đó có việc cấu thành một văn hoá hoặc một vùng văn hóa và việc diễn giải chúng. Lý thuyết-Mạng-Tác nhân được xây dựng dựa trên các ấn phẩm chủ chốt của Bruno Latour và Michael Callon, John Law. Những đóng góp này cùng hướng đến một cách suy nghĩ mới về những tác nhân đa dạng như con người, vi khuẩn, sò điệp, và cả đất đá, tàu . Callon phân tích các kỹ thuật đánh bắt sò điệp Nhật Bản tìm được một số mối liên kết giữa ngư dân, sò điệp và các nhà khoa học để làm bộc lộ những cung cách hòa quyện giữa xã hội và t nhiên với nhau. Ông đặc biệt quan tâm đến sự phát triển tiến bộ của sự sắp xếp xã hội mới giữa các tác nhân khác nhau bao gồm các cơ quan của chính phủ, các nhà khoa học, ngư dân chuyên sò điệp và bản thân sò điệp nữa. Ông kết luận rằng “việc xác định và phân bố vai trò của mọi tác nhân là kết quả của các cuộc đàm phán đa phương (Callon 1986: 214). Còn John Law thì tập trung vào cán cân quyền lực giữa các tác nhân lịch sử của thế giới, mà một trong số đó là tàu bè. Ông cho rằng khám phá của Columbus về Tân Thế giới vào năm 1492 và sự xuất hiện của các tàu Bồ Đào Nha ở Ấn Độ Dương vào năm 1498 đã đánh dấu bước chuyển sang sự thống trị của châu Âu thông qua việc kiểm soát khoảng cách xa nhờ các phương tiện kỹ thuật (Law 1986). Theo ông mặc dù các hiện vật, như la bàn, kính thiên văn, tàu vượt đại dương nên được coi là đan xen với cái xã hội, cái kinh tế, vv. (Law 1986, tr 236).

Cốt lõi của Lý thuyết-Mạng-Tác nhân là việc xác định các tác tố (agency: nguyên do tối hậu của hành động) kiến tạo thành mạng - trong trường hợp chúng ta đang xem xét chính là các nguyên do tối hậu của các kết nối để tạo thành một loại mạng - vùng văn hóa ở Hạ Long - kể cả các thực thể không phải con người. Ở đây tính đối xứng giữa con người và không phải con người có nghĩa là tránh quy gán các thuộc tính cho các phạm trù tiên nghiệm và xem sức mạnh của các tác nhân con người và không phải con người là bất chắc, mơ hồ và gây tranh cãi như nhau (Callon 1986). Theo cách này, Lý thuyết-Mạng-Tác nhân ngụ ý vượt qua các phân đôi dường như không thể hòa giải của con người/ không phải con người, tác tố/ cấu trúc, chủ thể/ đối tượng, t nhiên/ văn hóa và năng lực diễn giải chúng. Sức mạnh của các tác động ảnh hưởng không nằm trong bản thân các tác nhân, mà thông qua các mối quan hệ, các hợp quần và liên minh của các tác nhân đó (Law J., 1999). Các cấu hình cụ thể được xem không phải là một thuộc tính của bất kỳ yếu tố nào, mà là tác động của hoạt động kết nối mạng diễn giải, liên kết trong một chuỗi liên tục” các đại diện, quyền lực chính trị và thế giới của khám phá khoa học” (Latour 1993, pp. 10,11). Ngoài các tác nhân con người, công nghệ và kỹ thuật, Lý thuyết Mạng-Tác nhân còn tập trung phân tích tác nhân ý nghĩa thông qua ký hiệu học. Mục tiêu của Latour là xây dựng một mạng các hợp quần tạo nên thế giới bằng cách thay thế từng lập luận về bối cảnh hoặc nội dung bằng một mối liên kết mới giữa xã hội và các khoa học của nó (Latour 1988: 12).

Latour phân biệt các vấn đề giải quyết bản chất của các tập hợp kết nối thành mạng với câu hỏi liệu các tập hợp này tạo thành một thế giới có thể sống được không. Đối với ông, sự thay đổi này có ý nghĩa thay thế chính trị của tự nhiên’ – mà không chỉ đơn thuần là chính trị của con người, có nghĩa là vai trò đặc biệt của tự nhiên - với cấu phần tiến bộ của một thế giới chung (Latour 2005: 254). Ông coi động thái này là một cách để xác định lại khoa học và thực hiện nhiệm vụ nhận thức luận bắt buộc đối với chúng ta bởi các cuộc khủng hoảng sinh thái khác nhau đã làm cho chúng ta buộc phải thay đổi nhận thức đến tận căn nguyên vấn đề về vai trò của các tác tố không phải con người (Latour 2005: 254). Với Lý thuyết Mạng-Tác nhân, ông luôn khẳng định lập trường của mình khi cho rằng: Ba nguồn lực đã được phát triển qua nhiều thời đại để giải quyết các tác tố: i) Nguồn lực đầu tiên là gán cho chúng tính tự nhiên và liên kết chúng với tự nhiên; ii) Nguồn lực thứ hai là trao cho chúng tính xã hội và gắn kết chúng với cấu trúc xã hội; iii) Nguồn lực thứ ba là coi chúng như một cấu trúc ký hiệu và liên hệ tác nhân với việc tạo dựng ý nghĩa. Tính khởi nguyên của các nghiên cứu khoa học xuất phát từ sự bất khả thi trong việc phân biệt rõ ràng ba nguồn lực đó. Trong khi vi khuẩn, neutrinos [hạt sơ cấp] của DNA đồng thời vừa là cả tự nhiên, xã hội và diễn ngôn, chúng đồng thời còn là những thực thể hiện tồn, là thực thể con người và thực thể ký hiệu. Ông cố gắng là rõ hệ quả của tình huống kỳ lạ buộc chúng ta phải gắn chặt các liên kết giữa ba nguồn lực này lại. Đối với Latour, Lý thuyết Mạng-Tác nhân do Callon và các đồng nghiệp của ông phát triển là một nỗ lực nhằm phát minh ra một vốn từ vựng để giải quyết tình huống mới này. Ông nỗ lực chỉ ra cách thức sử dụng các nguồn lực đó để giải thích cho việc kiến tạo các thực thể, tức là để “truy tìm nguyên cớ từ cả các tác nhân tự nhiên, xã hội và ý nghĩa.” (Latour 1996, tr. 47) Ở đây có điều đặc biệt đáng lưu ý: Latour xác định cấu trúc ký hiệu gắn với các tác nhân cấu thành bất cứ một mạng nào đó, kể cả trường hợp cấu thành một văn hóa hoặc một khu vực văn hóa, để tạo dựng ý nghĩa là một nguồn lực, và ông gọi đó là “nguồn lực thứ ba” tương đương với hai nguồn lực “tự nhiên” và “cấu trúc xã hội”. Đối với chúng tôi, cái gọi là nguồn lực thứ ba này chính là năng lực diễn giải của khoa học trong việc cấu thành bất kỳ cấu trúc mạng tác nhân nào, trong đó có các hệ thống văn hóa tại khu vực Hạ Long. Và trước Latour nhiều năm chúng tôi cũng đã xây dựng cho mình một công cụ lý thuyết mạng để diễn giải mọi mối quan hệ giữa con người, tự nhiên, các yếu tố cấu thành và năng lực diễn giải văn hóa trong phạm vi khảo cổ học thời đại đá mới, trong đó có văn hóa Hạ Long của chúng ta. (Hà Hữu Nga 1982, 1985)    

___________________________________________

(Còn nữa…)

Nguồn: Hà Hữu Nga (2024). Giá trị văn hóa của di sản Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Nhận diện, đánh giá những giá trị văn hóa tiêu biểu, độc đáo trên vịnh Hạ Long. UBND Tỉnh Quảng Ninh – Ban Quản lý Vịnh Hạ Long tổ chức ngày 30 tháng 10 năm 2024.

Tài liệu dẫn

Alipio A. J. Paul (2006). Natural Resource Conflicts in the Philippine Cordillera Mountains. La Trinidad, Benguet, Philippines. Cordillera Conservation Trust, Philippine.

Arnold M. (1889). Culture and anarchy an essay in political and social criticism. Edition: Popular ed View all formats and editions, Publisher: Smith, Elder, London, 1889.

Boas, Franz (1887). Museums of Ethnology and their classification. Published in Science 9: 589.

Beck L. & Cable T.T (1998). Interpretation for 21th Century. Fifteen Guiding Principles for interpreting Nature and Culture, Sagamore Publishing, Champaign, Il.

Beck, L & Cable, T.T (2011). The Gifts of Interpretation: Fifteen Guiding Principles for Interpreting Nature and Culture, Sagamore Pub.

Bellwood, P. (1984,1985). A hypothesis for Austronesian origins. In Asian Perspectives No. 26 (1: 107­-117).

Bellwood P. 2004. First Farmers – The Origins of Agricultural Societies. Blackwell Publishing.

Bennett, J. (2001). Natural Heritage Valuation Methods: Applications to Cultural Heritage’ in Heritage Economics: Challenges for Heritage Conservation and Sustainable Development in the 21st Century, Australian Heritage Commission, Australia.

Bình Nguyên Lộc 1971-2007. Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam. Chương V: Dấu vết Mã Lai trong xã hội Việt Nam ngày nay. Bách Bộc xuất bản, Sài Gòn 1971. Bản điện tử do talawas thực hiện ngày 13/10/2007.

Blust, Robert (1984,­1985). The Austronesian homeland, a linguistic perspective.  In Asian Perspectives No. 26(1):45­67.

Boas, Franz 1963 [1911]. The Mind of Primitive Man New York: Collier Books. page 149.

Boas, Franz (1996). The Study of Geography. In Volksgeist as Method and Ethic: Essays on Boasian Anthropology and the German Anthropological Tradition. J. George W. Stocking, ed. Pp. 9-17. History of Anthropology, Volume 8. Madison, WI and London, UK: University of Wisconsin Press. 

Bock P.K. (1969). Modern Cultural Anthropology – An Introduction. Alfred A. Kroff, New York.

Bourdieu, Pierre (1977). Outline of a Theory of Practice. Cambridge: Cambridge University Press.

Boyd, R., & Richerson, P. J. (1985). Culture and the evolutionary process. University of Chicago Press.

Bùi Vinh – Trần Trọng Hà (1999). Hòn Ngò (Quảng Ninh), trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học 1999, Hà Nội 2000.

Burger, J., Kirchner, M., Bramanti, B., Haak, W., & Thomas, M. G. (2007). Absence of the lactase-persistence-associated allele in early Neolithic Europeans. Proceedings of the National Academy of Science, 104, 3736–3741.

Callon, Michel (1986). Some elements of a sociology of translation: Domestication of the scallops and the fishermen of Saint Brieuc Bay. In Power, Action and Believ: A New Sociology of Knowledge, edited by J. Law, pp. 196-233. Routledge and Kegan Paul, London.

Callon, Michel and Bruno Latour (1991). Collins, Harry and Steven Yearley 1992 Epistemological Chicken. In Science as Practice and Culture, edited by Andrew Pickering, pp. 301-326. University of Chicago Press, Chicago.

Cao Huy Đỉnh 1969. Người anh hùng làng Dóng. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Cao Xuân Hạo (2004). Song Viết là gì? Vài luận cứ nhỏ cho một vấn đề vẫn tồn nghi. Tạp chí Ngôn ngữ, số1, năm 2004, tr. 53 – 60.

Cary, Max (1956). Maes, Qui et Titianus. In The Classical Quarterly, New Series, 6.3/4 (July–October 1956), pp. 130–134.

Cavalli-Sforza, L. L., & Feldman, M. W. (1981). Cultural transmission and evolution: A quantitative approach. Princeton: Princeton University Press.

Caverhill, John 1767. Some Attempts to ascertain the utmost Extent of the Knowledge of the Ancients in the East Indies. In Proceedings of the Royal Society of London; Philosophical Transactions, vol.57, 1767, pp.155-174. Publisher: Royal Society of London.

Chakravarti Adhir K. 1972. Early Sino-Indian Maritime Trade and Fu-Nan, D.C. Sircar (ed.), Early Indian Trade and Industry, Calcutta, University of Calcutta Centre of Advanced Study in Ancient Indian History and Culture,Lectures and Seminars, no.VIII-A, part I, 1972, pp.101-117.

Coedès, George (1968). The Indianized States of Southeasts Asia.  Honolulu: East­West Center Press.

De Rhodes A. (1991). Từ điển Annam – Lusitan – Latinh (Thường gọi là Từ điển Việt – Bồ - La). Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

De Sausure F. 1973. Giáo trình ngôn ngữ học đại cương. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Dumbraveanu D., Ana Craciun, and Anca Tudoricu (2016). Principles of interpretation, tourism and heritage interpretation – The experience of Romanian museums. In Human Geographies, Vol. 10, No. 1, May 2016.

Durham, W. H. (1991). Coevolution: Genes, culture, and human diversity. Stanford: Stanford University Press.

Đảng Cộng sản Việt Nam (1998). Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII - về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Ban Chấp hành Trung ương, Hà Nội.

Đảng Cộng sản Việt Nam (2014). Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Ban Chấp hành Trung ương, Hà Nội..

Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Đào Duy Anh (1938, 1998). Việt Nam Văn hóa Sử cương. Nxb. Đồng Tháp.

Đào Duy Anh (1962; 2005). Sự cần thiết chỉnh lý tài liệu trong công tác nghiên cứu và phiên dịch. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 37, tháng 4, 1962; in lại trong Đào Duy Anh – Nghiên cứu Văn hóa và Ngữ văn, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội 2005, tr. 211-229.

Đinh Văn Tuấn. (2011). Giải mã bí ẩn SONG VIẾT: SONG VIẾT chính là chiết tự của chữ XƯƠNG. Tạp chí Ngôn ngữ, số 3/2011. tr.58- 71.

Đoàn Ngọc Phan, (1975). Phải chăng song viết, song kiết là song cát. Tạp chí Văn học, số 2-1975, Hà Nội.

Đỗ Văn Hỷ (1967). Góp phần giải quyết những tồn nghi trong “Quốc âm Thi tập”. Tạp chí Văn học, số 6-1967, Hà Nội.

Đỗ Văn Ninh (1968). Khai quật hang Soi Nhụ, Quảng Ninh, trong Nghiên cứu Lịch sử, số 117 – 12 – 1968.

Đỗ Văn Ninh (1971). Báo cáo khai quật chùa Lấm trên đảo Thừa Cống, Cẩm Phả (Quảng Ninh)Tư liệu của Viện Khảo cổ học, Hà Nội.

Đỗ Văn Ninh (2004). Thương cảng Vân Đồn – Sách tham khảo Khảo cổ học. Nxb. Thanh niên, Hà Nội.

Fribourg Group (2007). Fribourg Declaration on Cultural Rights. (Document for UNESCO) organized by The Interdisciplinary Institute of Ethnics and Human Rights at The Fribourg University.

Friedmann, JR. (1966). Regional Development Policy – A Case Study of Venezuela. MIT Press, Cambridge.

Friedmann, JR (1967). A General Theory of Polarized Development, mimeo, Santiago, Chile, August.

Friedmann, JR (1968). The Role of Cities in National Development, mimeo, Santiago, Chile, February.

Gaillard, Jean­ Christophe and Joel P. Mallari (2004). The peopling of the Philippines: A cartographic synthesis.  Hukay 6 1­27.

Geertz, Clifford (1973). Religion as a Cultural System. In The Interpretation of Cultures, by C. Geertz, pp. 87-125. Basic Books, New York.

Glazer, Mark (1994). Cultural Relativism. Texas: University of Texas-Pan American.

Guangdong Science and Technology Press (1993). The collection of antiquities from silk road on South China Sea.

Gudeman, Stephen and Chris Hann (2015). Introduction: Ritual, Economy and the Institutions of the Base. In Economy and Ritual - Studies of Postsocialist Transformations, Edited by Stephen Gudeman and Chris Hann, Published by Berghahn Books.

Hà Hữu Nga (1982, 1985) Thời đại đá mới Việt Nam và một Mô hình Tổng quát. (Viết cho Hội thảo kỷ niệm năm mươi năm văn hóa Hòa Bình năm 1982, sau đó công bố trong  Những phát hiện mới về Khảo cổ học Việt Nam năm 1984 (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1985) 

Hà Hữu Nga (1996). Bản sắc Dân tộc và Phát triển. Tư liệu của Trung tâm Nghiên cứu và Tư vấn về Phát triển, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.  

Hà Hữu Nga (1997). Có một nền văn hóa Soi Nhụ tại khu vực Vịnh Hạ Long, trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học 1997, Hà Nội 1998.

Ha Huu Nga (1998). Relationships between the Soi Nhu and Ha Long cultures. Paper presented in the 16th Congress of the Indo-Pacific Prehistory Association, Melaka, Malaysia 1 – 7th, July 1998.

Hà Hữu Nga – Nguyễn Văn Hảo (1998). Hạ Long thời Tiền sử, Nxb. Thế giới – Ban Quản lý Vịnh Hạ Long, Hà Nội.

Hà Hữu Nga (1999a). Hạ Long lịch sử. Ban Quản lý Vịnh Hạ Long, Quảng Ninh.

Hà Hữu Nga (1999b). Văn hóa Soi Nhụ - Một cội nguồn của ngữ hệ Malayo-Polynesian. Đề tài khoa học Xây dựng Bảo tàng Sinh thái Vịnh Hạ Long - Ban Quản lý Vịnh Hạ Long năm 1999. Tp Hạ Long, Quảng Ninh.

Hà Hữu Nga (2000). Soi Nhụ Nền văn hóa cổ nhất hiện biết trên vịnh Hạ Long. Kỷ yếu Hội thảo Vịnh Hạ Long – 5 năm Di sản Thế giới, do Uỷ ban Nhân dân tỉnh Quảng Ninh – Bộ Văn hóa Thông tin và Uỷ ban Quốc gia UNESCO của Việt Nam tổ chức tại thành phố Hạ Long tháng 4 năm 2000.

Hà Hữu Nga (2001a). Văn hóa Bắc Sơn. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Hà Hữu Nga (2001b). Khảo cổ học Đông Bắc Việt Nam từ những hệ thống sinh thái nhân văn tới các cấu trúc xã hội tiền nhà nước. Bài tham gia Hội nghị Quốc tế “Một thế kỷ khảo cổ học Việt Nam". Viện Khảo cổ học thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia tổ chức tại Hà Nội. Đăng lại trong: Viện Khoa học Xã hội Việt Nam – Viện Khảo cổ học (2004), Một thế kỷ Khảo cổ học Việt Nam, Tập I, Nxb. KHXH, Hà Nội, tr. 117-139.

Hà Hữu Nga (2003). Trần Nhân Tông trong viễn cảnh Nhân học Phật giáo. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học quốc gia Thân thế và sự nghiệp Trần Nhân Tông (1258 - 1308), ĐHKH Huế, Tp. Huế, tháng 12-2003.

Hà Hữu Nga (2004). Văn hóa Hạ Long và Quá trình Hình thành Nhà nước Việt Cổ: Tiếp cận Khảo cổ học Nhận thức. Bài viết cho Bảo tàng Quảng Ninh - Đề tài khoa học "Nghiên cứu văn hoá Hạ Long, đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát huy", Tp. Hạ Long, Quảng Ninh 2004.

Hà Hữu Nga (2005). Khảo cổ học cộng đồng - đề xuất nghiên cứu di chỉ Ba Vũng (Hạ Long, Vân Đồn, Quảng Ninh). Tạp chí Khảo cổ học, Số 6 (138) (XI-XII), 2005

Hà Hữu Nga (2006). Văn hóa Soi Nhụ - một cội nguồn của ngữ hệ Nam Đảo. Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học 2005. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội 2006.

Hà Hữu Nga (2008). Đô thị và Vùng kinh tế. Bài viết cho Đề tài cấp Bộ Nghiên cứu cơ sở lý thuyết cho việc xác định các ưu tiên trong phát triển bền vững vùng kinh tế, Viện Phát triển Bền vững vùng Bắc Bộ, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, do tác giả làm Chủ nhiệm.

Hà Hữu Nga (2010). Phân tích các bên liên quan trong các Dự án lớn và các Chương trình Trợ giúp Phát triển. Ngân hàng Thế giới, Tài liệu Hướng dẫn được chuẩn bị theo yêu cầu của World Bank - Ngân hàng Thế giới tại Hà Nội, và tác giả trực tiếp tham gia tập huấn điểm cho các bên liên quan tại các tỉnh Lào Cai, Cao Bằng, Hải Phòng, Quảng Nam, Gia Lai, Kiên Giang năm 2010.

Hà Hữu Nga (2011a). Kattigara – Kinh đô huyền thoại Việt. Bài viết cho Đề tài Quan điểm và giải pháp phát triển nhanh và bền vững đô thị vùng Bắc Bộ giai đoạn 2011 – 2020. Đề tài Khoa học cấp Bộ, Viện Phát triển Bền vững vùng, Viện Hàn lâm KHXHVN.

Hà Hữu Nga (2011b). Song Viết – Tiếng ngọc lụa reo trong những cốt cách thanh cao. https://dzunglam.blogspot.com/2011/11/

 

Hà Hữu Nga (2011c). Hải Phòng - phát triển trong viễn cảnh mạng thành phố toàn cầu. Kỷ yếu Hội thảo Xây dựng và Phát triển thành phố Hải Phòng nhanh – bền vững giai đoạn 2011-2025: Vấn đề và Giải pháp. Liên hiệp các hội KH&KT Hải Phòng, tháng 10/ 2011.

 

Hà Hữu Nga (2012). Phù Đổng – Cội nguồn sức mạnh Việt. Tạp chí Văn hóa Nghệ An, Số 212& 213, năm 2012 và Số 214-10-2, năm 2012.

 

Hà Hữu Nga (2015a). Hình tượng Man Nương, hệ thống Tứ pháp và cái được biểu đạt siêu việt. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Vùng văn hóa Luy Lâu và công tác phát triển ngành Du lịch ở Bắc Ninh, Liên hiệp các hội KH&KT tỉnh Bắc Ninh và UBND huyện Thuận Thành, tháng 9 năm 2015.

 

Hà Hữu Nga (2015b). Đô thị và vùng kinh tế. Tạp chí Phát triển bền vững vùng, Số 3 (9/2015).

 

Hà Hữu Nga (2015c). Văn hóa như một hệ giá trị phát triển cơ bản. Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, Số 7 (178), 2015.

 

Hà Hữu Nga (2020). Tự quản cộng đồng như một loại hình hành động xã hội trong xây dựng Nông thôn mới bền vững ở Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu Con người, số 2 (107) 2020, tr. 40-51.

Hà Hữu Nga (2021). Tiếp cận lễ hội truyền thống từ lý thuyết văn bản. Tạp chí Văn hóa học, Số 6 (58)-2021.

Hà Hữu Nga (2022). Đô thị động lực và các động lực đô thị hóa. Bài tham gia Hội thảo Khoa học Đô thị Động lực và Phát triển Du lịch Sinh thái Văn hóa. Viện Nghiên cứu Ứng dụng Văn hóa và Du lịch, Hà Nội tháng 12 năm 2022.

Hà Hữu Nga (2023a). Khảo cổ học Tôn giáo: Siêu việt - Nội tại và Nghi lễ. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Khảo cổ học Tôn giáo – Nghi lễ, Đại học KHXH&NV-ĐHQGHN, Hà Nội 2023.

Hà Hữu Nga (2023b). Kinh tế nghi lễ - Nội hàm Khái niệm và gợi ý Ứng dụng cho Lễ hội Đền Bảo Hà. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Thần vệ quốc Hoàng Bẩy – Bảo Hà: Công tác Quản lý và Phát huy Giá trị Di tích Lịch sử, Bảo Yên, Lào Cai ngày 26/8/2023 do UBND huyện Bảo Yên tổ chức, tr.71-86.

Hà Hữu Nga (2023c). Kinh tế Nghi lễ và Xã hội Truyền thống người Dao. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Vận dụng Lý thuyết Nhân học, Tôn giáo học Đương đại trong Nghiên cứu Nghi lễ người Dao. Viện Nghiên cứu Ứng dụng Văn hóa - Du lịchĐại học Thái Nguyên-Phân hiệu Lào Cai  tổ chức, Hà Nội 29/12/2023. Tr. 25-49. 

 

Hà Hữu Nga (2024). Bản sắc tộc người và Kinh tế sáng tạo Hộ gia đình Dân tộc thiểu số vùng núi phía Bắc. Hội thảo Khoa học Phát huy bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế hộ gia đình vùng núi phía Bắc”. Khoa Kinh tế - Du lịch, Phân hiệu Đại học Thái Nguyên tại tỉnh Lào Cai, tháng Tư năm 2024.

Hà Văn Tấn (1970). Nghiên cứu thời đại các vua Hùng, hiện trạng và triển vọng. Trong Quản lý Văn vật, số 19, Hà Nội, tr.64.

Hà Văn Tấn (1974a). Từ gốm Phùng Nguyên đến trống đồng. Trong Khảo cổ học, số 13, Hà Nội.

Hà Văn Tấn (1974b). Đóng góp vào lịch sử một kiểu khuyên tai. Trong Khảo cổ học, số 15, Hà Nội.

Hà Văn Tấn (1982). Trống đồng cổ loa, di chỉ Đình Tràng và Văn minh sông Hồng. Trong Phát hiện Cổ Loa, Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội, Hà Nội.

Hamilton R. W. (ed.) (1998). From the Rainbow's Varied Hue: Textiles of the Southern Philippines. Fowler Museum of Cultural History, University of California at Los Angeles.

Hán Văn Khẩn, chủ trì (2003). Báo cáo khai quật di tích Cống Tây (Quảng Ninh)Tư liệu của Khoa Lịch sử, Trường ĐH KHXH & NV (ĐHQG Hà Nội)

Hardenberg R. (2014). Ritual Economy and Ritual Resource - Some General Remarks. Summerschool “Ritual as Resource”, Tübingen University.

Haudricourt A.G. (1960). Note sur les dialects de la resgion de Moncay, BEFEO, tome L; fasc.1; p.172.

Hawkes, Jon (2001). The Four Pillar of Sustainability - Culture’s essential role in public planning. Common Ground Publishing Pty Ltd in association with the Cultural Development Network (Vic).

Herrmann, Albert 1938. Der Magnus Sinus und Cattigara nach Ptolemaus. Compte-rendu du Congrès international de géographie (Amsterdam).

Heshmat, S (2015). Ten Common Myths About Emotions (and Why They're Wrong), Psychology Today, Sussex Publishers LLC, United Kingdom.

Hoàng Anh Tuấn (2008a). Vị trí của Việt Nam trong hệ thống thương mại Biển Đông thời cổ trung đại, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Hà Nội, 9-10/2008, tr. 1-16.

Hoàng Anh Tuấn  (2008b). Vùng duyên hải Đông Bắc trong chiến lược thương mại của người phương Tây thế kỷ XVII. Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Thương cảng Vân Đồn: Lịch sử, tiềm năng kinh tế và các mối giao lưu văn hóa, Quảng Ninh, 7/2008, tr. 327-349.

Hoàng Xuân Chinh, Nguyễn khắc Sử (1973). Báo cáo khai quật di chỉ Cái Bèo, đảo Cát Bà, Hải Phòng, năm 1973. Tư liệu Viện Khảo cổ học.

Hoàng Xuân Chinh (1999). Công cụ cuội ghè đẽo vùng duyên hải và hải đảo Đông Bắc, trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học 1999, Hà Nội 2000.

Institute on the Far East Works (1915). Note II. Extracts from the Geography of PtolemyVol. I. Second Series No. XXXVII. Issued for 1915 by Society Cathay and the Way thither 1915. Liberary of Wellesley College Presented by Institute on the Far East Works, (Ptolemy K. 1915).

Keynes, John Maynard (1923). A Tract on Money In Reformation. MacMillan and Co., Limited St Martins’ Street, London 1924, pp.80-82.

Kim, Y. Y. (2007). Ideology, identity, and intercultural communication: An analysis of differing academic conceptions of cultural identity. Journal of Intercultural Communication Research, 36(3), 237–253.

Laffan, Michael 2005. Finding Java: Muslim nomenclature of insular Southeast Asia from Śrîvijaya to Snouck Hurgronje. Asia Research Institute, Working Paper Series No. 52. Princeton University.

Latour, Bruno (1993). We Have Never Been Modern. London: Harvester.

Latour, Bruno (1999a). On Recalling ANT. In Actor Network Theory and After edited by J. Law and J. Hassard, pp. 15-25. Oxford: Blackwell.

Latour, Bruno (1999b). For David Bloor . . . and Beyond: A Reply to David Bloor's Anti-Latour. Studies in the History and Philosophy of Science 30(1):81-112.

Latour, Bruno (2005). Reassembling the Social: An Introduction to Actor-Network-Theory. Oxford; New York: Oxford University Press.

Latour, Bruno (1988). The Pasteurization of France. Harvard University Press, Cambridge.

Latour, Bruno (1993). We Have Never Been Modern. London: Harvester.

Latour, Bruno (1999a). On Recalling ANT. In Actor Network Theory and After edited by J. Law and J. Hassard, pp. 15-25. Oxford: Blackwell.

Latour, Bruno (1999b). For David Bloor . . . and Beyond: A Reply to David Bloor's Anti-Latour. Studies in the History and Philosophy of Science 30(1):81-112.

Latour, Bruno (2005). Reassembling the Social: An Introduction to Actor-Network-Theory. Oxford; New York: Oxford University Press.

Law, John (1986). On the Methods of Long Distance Control: Vessels, Navigation and the Portuguese Route to India. In Power, Action and Belief: A New Sociology of Knowledge? edited by J. Law, pp x-x. Routledge and Kegan Paul, London.

Law, John and John Hassard (eds.) (1999). Actor Network Theory and After. Oxford: Blackwell.

Lê Hữu Mục (1996). Song viết là Sàng vạt. Vietnamologica, số 2-1996 – Trung Tâm Việt Nam Học Canada.

Lê Mạnh Thát (1999). Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.

Lê Mạnh Thát (2003). Lịch sử Phật giáo Việt Nam, T.1, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.

Lê Minh Khai (Liam Kelly Christopher) (2010). Bản Sắc and Identity. https: leminhkhai.wordpress.com/ Lê Minh Khai (Liam Kelly Christopher)  (2013). Nghiên cứu từ Kẻ của Trần Kinh Hòa vào năm 1950. Bản dịch của Hà Hữu Nga, posted in https://leminhkhaiviet.wordpress.com

Lịch Đạo Nguyên (chú), Dương Thủ Kính, Hùng Hội Trinh (sớ), Đoàn Hy Trọng (điểm hiệu), Trần Kiều Dịch (phúc hiệu) 2005. Thủy Kinh chú sớ. Nxb. Thuận Hóa, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, (Bản dịch của Nguyễn Bá Mão).

Lorek, Maria (2015).  Des pôles de croissance vers des systèmes d'innovation territorialises dans une « nouvelle » économie de marche : le cas de Gdansk (Pologne). Dans Marché et organisations 2015/1 (N° 22), pages 35 à 61.

Lưu Trần Tiêu, Trịnh Căn (1983). Khai quật di chỉ Cái Bèo (Hải Phòng). Thông báo khoa học, số 1/1983. Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.

Lưu Tỳ, Nguyễn Thế Tiệp, Nguyễn Tứ Dần,...(1985). Đặc điểm địa mạo thềm lục địa Việt Nam và các vùng lân cận, trong Khảo cổ học, số 2 – 1985.

Malleret L. 1951. Les fouilles d’Oc-Eo (1944). Rapport préliminaire, BEFEO 1951.

Malleret L. 1962. L’Archéologie du delta du Mékong, Tome Troisiéme, La culture du Fu-nan, Paris, 1962, chap.XXV, “Oc-Èo et Kattigara”, pp.421-54.

Mankiw, N. G. (2000). The Savers–Spenders Theory of Fiscal Policy, American Economic Review 90(2): 120–125.

Maraña M. (2010). Culture and Development Evolution and Prospects. UNESCO Etxea. Working Papers. No. 1.

Marx, Karl (1956a). Kritik der politischen Ökonomie, In Marx-Engels-Werke, (MEW), Berlin 1956ff.

Marx, Karl (1956b). Deutsche Ideologie, In Marx-Engels-Werke, (MEW), Berlin 1956ff.

Marx, Karl (1962). Das Kapital. Kritik der politischen Ökonomie. Erster Band. Buch I: Der Produktionsprozeß des Kapitals. In: Institut für Marxismus-Leninismus beim ZK der SED (Hrsg.): Karl Marx Friedrich Engels Werke (MEW). Band 23. Dietz Verlag, Berlin 1962.

Mauss, Marcel (1990). The Gift: The Form and Reason for Exchange in Archaic Societies. Translated [1925] by W. D. Halls. W. W. Norton, New York.

McAnany, Patricia A., and E. Christian Wells (2008). Towards a Theory of Ritual Economy. In Dimensions of Ritual Economy, edited by E.C. Wells and P.A. McAnany, pp. 1–16. Emerald Group Publishing Limited, Bingley, UK.

Mourato, S. & Mazzanti, M. (2002). Economic Valuation of Cultural Heritage: Evidence and Prospects. In Assessing the Values of Cultural Heritage, The Getty Conservation Institute, Los Angeles.

Ngô Đức Thịnh (2007). Văn hóa dân gian và văn hóa dân tộc, đăng trên Tạp chí Cộng sản (http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2007/2441/Van-hoa-dan-gian-va-van-hoa-dan-toc.aspx, posted 26/2/2007).

Ngô Sĩ Liên (1967). Đại Việt sử ký Toàn thư, T.I, Hà Nội.

Nguyễn Công Hoan (1974). Song viết hay song kiết, song viết. Tạp chí Văn học, số 5. Hà Nội. 

Nguyễn Hồng Phong (1963). Tìm hiểu tính cách dân tộc. Nxb. Khoa học.

Nguyễn Khải Hoàn 2011. Tục kết chạ ở các làng cổ ven song Cầu: Kim Thượng Trâu Lỗ sắt son một lời thề. http://cema.gov.vn/modules.php?name.

Nguyễn Khắc Sử (2005). Khảo cổ học vùng duyên hải Đông Bắc Việt Nam. NXB Khoa học Xã hội 2005.

Nguyễn Kim Dung (1996). Công xưởng và kỹ thuật chế tạo đồ trang sức bằng đá thời đại đồng thau ở Việt Nam. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Nguyễn Kim Dung, Nguyễn Đình Bướng, Bùi Thu Phương, Nguyễn Trường Đông (2001). Khai quật Bãi Bến (Đảo Cát Bà, Hải Phòng). Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 2000, tr.110-111.

Nguyễn Ngọc Chất, Vũ Quốc Hiền, Lê Ngọc Hùng (2008). Nghiên cứu Hệ thống di tích thương cảng Vân Đồn thực trạng và những vấn đề. Thông báo Khoa học của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, tr.129-143.

Nguyễn Ngọc Chất và các cộng sự (2009). Báo cáo kết quả Điều tra, thám sát và khai quật di tích Bảo Tháp (Vân Đồn, Quảng Ninh) năm 2009Tư liệu của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Hà Nội.

Nguyễn Ngọc Chất và các cộng sự (2010). Báo cáo kết quả Điều tra, thám sát và khai quật di tích Bảo Tháp (Vân Đồn, Quảng Ninh) lần thứ 2 - năm 2010Tư liệu của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Hà Nội.

Nguyễn Phú Trọng (2021). Bài phát biểu tại chỉ đạo tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24 tháng 11 năm 2021. Hà Nội.

Nguyễn Tài Cẩn (1974, 1985). Thử tìm cách đọc nôm hai chữ «song viết». Tạp chí Văn học, số 2 năm 1974; Đăng lại trong Một số vấn đề về chữ Nôm, Nxb. Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội 1985, tr. 181-209. 

Nguyễn Tài Cẩn (1975, 1985). Bàn thêm về “song viết? song biết? song kiết?. Tạp chí Văn học, số 6. 1975 ; Đăng lại trong Một số vấn đề về chữ Nôm, Nxb. Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội 1985, tr. 210-227. 

Nguyễn Tài Cẩn (2005). Xin trở lại vấn đề Song Viết. Trong Tập biên khảo về Khoa học xã hội và nhân văn Từ Đông sang Tây do Cao Huy Thuần, Nguyễn Tùng, Trần Hải Hạc, Vĩnh Sính chủ biên. Nxb. Đà Nẵng, Tp. Đà Nẵng 2005.

Nguyễn Tài Cẩn (2011). Xin trở lại vấn đề SONG VIẾT. http://vanhoanghean.com.vn/chi-tiet-tin-tuc/2076-xin-tro-lai-van-de-song-viet

Nguyễn Thị Phương Chi, Nguyễn Tiến Dũng. (2007). Về các mối giao thương của quốc gia Đại Việt thời Lý - Trần (thế kỷ XI-XIV). Nghiên cứu Lịch sử. Số 7.

Nguyễn Thị Phương Chi (2013). Chiến lược phòng thủ đất nước qua hệ thống thái ấp thời Trần (Thế kỷ XIII-XIV). Nghiên cứu Lịch sử. Số 2 (442).

Nguyễn Thị Phương Thảo (2015). Văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh (Qua nghiên cứu các lễ hội truyền thống). Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.

Nguyễn Thị Tâm (2018). Quản lý di tích và lễ hội đình Giang Võng, phường Hà Khánh, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Luận văn Thạc sĩ Quản lý Văn hóa khóa 5 (2016-2018), Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương.

Nguyễn Tiến Dũng (2010). Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư và những hoạt động ở Vân Đồn nửa cuối thế kỷ XIII. Di tích lịch sử - văn hóa thương cảng Vân Đồn. Nxb. Khoa học xã hội.

Nguyễn Trãi (1976). Nguyễn Trãi Toàn tập. Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam – Viện Sử học. In lần thứ hai có sửa chữa và bổ sung. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Nguyễn Trường Đông (2001). Mũi khoan ở di chỉ Bãi Bến (Đảo Cát Bà, Hải Phòng). Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 2000, tr.124-127.

Nguyễn Văn Huyên 1938, 1996a. Hội Phù Đổng (Một trận đánh thần kỳ trong truyền thuyết Việt Nam-1938). Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, tập II, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.7-26.

Nguyễn Văn Huyên 1938, 1996b. Hát và múa Ải Lao ở hội Phù Đổng (Bắc Ninh). Trong Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, tập II, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.45-68.

Nguyễn Văn Kim (2010). Kinh tế công thương thời Mạc. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 12, năm 2010.

Nguyễn Văn Kim (2023). Thương cảng quốc tế Vân Đồn tiềm năng vị thế và các quan hệ vùng liên vùng. Tạp chí Khoa học xã Hội Việt Nam, Số 6 (186), 2023.

Oberai A. S. 1993. Population growth, employment and poverty in thirdworld mega-cities: analytical and policy issues. New York: St. Martin's Press, xv-224 p.

Pagiola, S. (1996). Economic Analysis of Investments in Cultural Heritage: Insights from Environmental Economics, World Bank Staff Paper, Washington DC.

Perroux, François (1955). Note sur la notion de pole de croissance? In Économie appliquée Année 1955,  pp. 307-320.

Perroux, François (1967). Note sur la ville considérée comme pôle de développement et comme foyer du progress. In Revue Tiers Monde Année 1967, No. 32, pp. 1147-1158.

Peterson George E., G. Thomas Kingsley and Jeffrey P. Telgarsky 1991. Rethinking the Role of Urban Areas in National Economic Development. In Urban Economies and National Development, editedby George E. Peterson, G. Thomas Kingsley and Jeffrey P. Telgarsky, Policy Research Series, USAID Washington, D. C., 1991, Chapter 1, pp. 5-21.

Phạm Đình Hổ (1989). Vũ trung tùy bút. Dựa theo bản dịch của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Quảng Tuân khảo đính và chú thích. Nxb. Trẻ - Hội Nghiên cứu Giảng dạy Văn học TP. Hồ Chí Minh. Tp. Hồ Chí Minh.

Phạm Minh Huyền, Nguyễn Văn Huyên, Trịnh Sinh 1987. Trống Đông Sơn. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

Phan Huy Chú (1992). Lịch triều Hiến chương Loại chí. Tập II: Lễ nghi chí, Khoa mục chí, Quốc dụng chí, Hình luật chí. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh 1991. Lịch sử Việt Nam, tập 1, NXB Đại học và Giáo dục Chuyên nghiệp.

Phan Ngọc (1994). Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb Văn hóa Thông tin.

Ptolemy K. (1885). Ancient India as described by Ptolemy. Translated by J.W. McCrindle, Publisher: Trübner.

Quốc hội (2022). Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở. Luật số: 10/2022/QH15, Hà Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2022.

Rappaport, Roy A. (1979). Ecology, Adaptation, and the Ills of Functionalism. In Ecology, Meaning, and Religion, by R. A. Rappaport, pp. 43-95. North Atlantic Books, Richmond, California.

Rappaport, Roy A. (1984). Pigs for the Ancestors: Ritual in the Ecology of a New Guinea People. 2nd edition. Yale University Press, New Haven, Connecticut.

Rappaport, Roy A. (1999). Ritual and Religion in the Making of Humanity. Cambridge Studies in Social and Cultural Anthropology No. 110. Cambridge University Press, Cambridge, UK.

Rawlinson, H. G. 1916. Intercourse between India and the Western World from the Earliest Times to the Fall of Rome. Cambridge : University Press, 1916. - vi, [2].

Ricker, William (1982). Liberalism against Populism: A Confrontation between the Theory of Democracy and the Theory of Social Choice. San Francisco: W. H. Freeman.

Riley T. M. (1995). Ptolemy’Use of his Predecessors’ Data. Transactions of the American Philosophical Association 125 (1995) 221 – 225, California State University, Sacramento.

Robbins L. (1932) An Essay on the Nature and Significance of Economic Science, London: Macmillan.

Rodgers S., Anne Summerfield, John Summerfield (2007). Gold Cloths of Sumatra: Indonesia’s “Songkets” from Ceremony to Commodity. Leiden: KITLV Press, Holland.

Rypkema, Donovan (2009). The Economics of Heritage, http://www.unescobkk.org/. 

Sahlins, Marshall (1972a). The Domestic Mode of Production: The Structure of Underproduction. In Stone Age Economics, by M. Sahlins, pp. 41-99. Aldine Publishing Company, New York.

Sahlins, Marshall (1972b). The Domestic Mode of Production: Intensification of Production. In Stone Age Economics, by M. Sahlins, pp. 101-148. Aldine Publishing Company, New York

Santiago,  L. Quindoza (2009). Many Stories, One Journey: Literary translation in the Philippines. University of Hawaii at Manoa, C&E Publishing.

Sarkar H.B. (1981). A geographical introduction to South-East Asia: The Indian perspective. Bijdragen tot de Taal-, Land- en Volkenkunde (hereafter BKI) 137-2/3 (1981): 293-323.

Solheim II, Wilhelm G. (2006). Origins of the Filipinos and their Languages. Nineth Philippine Linguistics Congress (25­27 January 2006). Organized by the Department of Linguistics, University of the Philippines.

Short, J.R., Y. Kim, M. Kuus and H. Wells (1996). The Dirty Little Secret of World Cities Research: Data problems in Comparative Analysis. International Journal of Urban and Regional Research, 20:4, 697-717.

Sở Văn hoá và Thể thao Quảng Ninh (2016). Hồ sơ di tích lịch sử đình Giang Võng. Tp. Hạ Long, Quảng Ninh.

Spencer-Oatey, H. (2012). What is culture? A compilation of quotations. GlobalPAD Core Concepts.

Summerfield A., Summerfield J., ed., (1999). Walk in splendor-ceremonial dress and the Minangkabau. Los Angeles, UCLA Fowler Museum of Cultural History 1999.

Super R. H. (1965). Culture and Anarchy with Friendship's Garland and Some Literary Essays, Volume V of The Complete Works of Matthew Arnold, The University of Michigan Press, 1965.

Tacoli, Cecilia (1998). Rural-urban interactions: a guide to the literature. In Environment and Urbanization, Vol. 10, No. 1, April 1998.

Thích Gia Quang (2024). Yên Tử trong sự nghiệp đoàn kết, xây dựng và phát triển đất nước. Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Số tháng 1/2024.

Throsby, T. (1997). Seven Questions in the Economics of Cultural Heritage. In Hutter, M. and Rizzo, I. (eds) Economic Perspectives on Cultural Heritage, MacMillan Press, London.

Tilden F., (1967). Interpreting Our Heritage, University of North Carolina Press.

Trần Ngọc Thêm (2009). Giá trị và sự chuyển đổi hệ giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam. Báo cáo trình bày tại Hội thảo khoa học Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập”, do Khoa Văn hóa học (Trường ĐH KHXH&NV – ĐHQG TP.HCM) phối hợp với Ban chủ nhiệm Đề tài  KX. 03.14/06-10 (Chương trình KX.03/06-10) tổ chức ngày 17-18/9/2009 tại Biên Hòa, Đồng Nai.

Trần Quốc Vượng (1974). Vài suy nghĩ tản mạn về trống đồng. Trong Khảo cổ học, số 14, Hà Nội, tr. 71-81.

Trần Quốc Vượng (1993). Mấy nét khái quát lịch sử cổ xưa về cái nhìn về biển của Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 1, 1993.

Trần Quốc Vượng (1996). Mấy ý kiến về trống đồng và Tâm thức Việt cổ. Trong Theo dòng lịch sử - Những vùng đất, thần và tâm thức người Việt. Nxb. Văn hóa, Hà Nội, tr 39-65.

Trần Quốc Vượng 2000. Việt Nam và biển Đông, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 3(71), 2000.

Trần Trọng Kim (2011). Việt Nam Sử Lược, Nxb.Văn Học

Trần Văn Giàu (1980). Giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội.

Trần Văn Giáp, Phạm Trọng Điềm (1956). Quốc âm thi tập, trong "Ức Trai di tập" - phiên âm chú giải, Nxb. Văn Sử Địa, H., 1956.

Trình Năng Chung, Nguyễn Kim Dung, Nguyễn Gia Đối, Lê Minh Tâm 1999. Phát hiện mới một số di chỉ hang động trên đảo Cát Bà (Hải Phòng), trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học 1999, Hà Nội 2000.

Trịnh Hoành Thái - Hoàng Thiệu Luân [鄭宏泰 - 黃紹倫] (2012)]. 身份:台,港,澳的比.香港大学洲研究中心 (trịnh hoành thái - hoàng thiệu luân (2012). Thân phần nhận đồng: Đài, Cảng, Áo đích bỉ giác. hương cảng đại học á châu nghiên cứu trung tâm. https://www.modernchinastudies.org/us/issues/past-issues/100-mcs-2008.html (Trịnh Hoành Thái - Hoàng Thiệu Luân (2012). Bản sắc: So sánh Đài Loan, Hồng Kông và Macao. Trung tâm nghiên cứu châu Á của Đại học Hồng Kông).

Trịnh Sinh (1988). A comment on the bronze drums dícovered in Thailand. Comparative Thai-Vietnamese Archaeoloy: Culture in Metal Age. Bangkok.

Trịnh Sinh (1997). Nhân chiếc trống đồng Đông Sơn mới tìm được ở Triết Giang, Trung Quốc. Tạp chí Khảo cổ học, số 3 năm 1997.

Tylor E. (1871). Primitive Culture. Volumes 1, 2. London: John Murray. London 1871.

UNESCO (2002). Universal Declaration on Cultural Diversity - A document for the World

Summit on Sustainable Development, Johannesburg,  26 Aug. – 4 Sept. 2002. Series 1.

Uchino M. (2005). Socio-cultural History of PalempangSongket”. In Indonesian and Malay World. Vol. 33, No. 96, July 2005.

United Nations Centre for Human Settlements (Habitat) (1992). Multilingual Glossary of Human Settlements Term, Nairobi 1992.

Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam – Viện Sử học (1976). Nguyễn Trãi Toàn tập. In lần thứ hai - có sửa chữa và bổ sung. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Vermeulen J. and Tony Whitten (1999). Biodiversity and Cultural Property in the Management of Limestone Resources – Lessons from East Asia, The World Bank, Washington D.C.

Viện Sử học Việt Nam (1991). Quốc triều Hình luật (Luật hình Triều Lê). Nxb. Pháp lý, Hà Nội.

Vũ Duy Mền (2002). Ngoại thương Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 292, tháng 9 năm 2002.

Vũ Duy Mền (2017).  Phật giáo ở Giao Châu trong thiên niên kỷ đầu Công nguyên. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 – 2017.

Wade G., (2009). The Polity of Yelang (夜郎) and the Origins of the Name ‘China’. Institute of Southeast Asian Studies, Singapore, Sino-Platonic Papers, 188 (May 2009).

Watanabe, John M. (2007). Ritual Economy and the Negotiation of Autarky and Interdependence in a Ritual Mode of Production. In Mesoamerican Ritual Economy - Archaeological and Ethnological Perspectives, Edited by E. Christian Wells and Karla L. Davis-Salazar, University Press of Colorado, Published by the University Press of Colorado.

White J.C. (1995). Incorporating Heterarchy into Theory on Socio-political Development: The Case from Southeast Asia. Heterarchy and the Analysis of Complex Societies. Archaeological Papers of the American Anthropological Association, No.6. 

Whitten T., (1998). Limestone Karst of Ha Long Bay, Vietnam. Nottingham Trent University, UK.

Wolf, Eric R. (1966). Peasants. Prentice-Hall, Englewood Cliffs, New Jersey.

Yea-Wen Chen and Hengjun Lin (2016). Cultural Identities, Subject: Communication and Culture, Online Publication Date: Jul 2016. https://oxfordre.com/communication/view/

Yúdice G. (2002). Las industrias culturales: más allá de la lógica puramente económica, el aporte social, Pensar Iberoamérica. Number 1, June-September 2002, OEI.

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét