Powered By Blogger

Thứ Sáu, 3 tháng 11, 2017

Cấu trúc và quá trình trong nghiên cứu biến đổi xã hội* (II)

Hà Hữu Nga

1.5. Bối cảnh lịch sử của quan niệm biến đổi xã hội

Một số ý tưởng về biến đổi xã hội đã được phát triển trong nhiều nền văn hoá và giai đoạn lịch sử khác nhau. Trong đó có ba ý tưởng được coi là cơ bản nhất: 1) tưởng về sự suy thoái hoặc thoái hóa; 2) tưởng thay đổi theo chu kỳ, một mô hình tăng trưởng và suy thoái bao gồm các giai đoạn tiếp diễn lặp đi lặp lại; và 3) tưởng tiến bộ liên tục. Ba tưởng này đã xuất hiện trong thời cổ Hy Lạp và La Mã và đã đặc trưng cho tư duy xã hội phương Tây kể từ thời điểm đó. Tuy nhiên, khái niệm tiến bộ đã trở thành tưởng có ảnh hưởng nhất, đặc biệt là từ Kỷ nguyên Khai sáng của thế kỷ 17 và 18. Các nhà tư tưởng xã hội như Anne-Robert-Jacques Turgot và Hầu tước de Condorcet ở Pháp; Adam Smith và John Millar ở Scotland đã đưa ra những lý thuyết tiên tiến về sự tiến bộ của tri ​​thức và công nghệ của con người (Ekelund, R. & Hebert, R. (2007).

Tiến bộ cũng là ý tưởng quan trọng trong các lý thuyết tiến hóa xã hội của thế kỷ 19, và tiến hóa luận là cốt lõi chung được các lý thuyết xã hội có ảnh hưởng nhất trong thế kỷ đó cùng chia sẻ. Tiến hoá luận cho rằng con người tiến triển theo một hướng phát triển, và quá trình phát triển này mang tính tiền định và không thể tránh khỏi, vì nó tương hợp với các quy luật nhất định. Trong quá trình phát triển này một số xã hội tiến bộ hơn so với các xã hội khác, và phương Tây là xã hội phát triển cao nhất, do đó nó ấn định tương lai của phần còn lại của thế giới. Từ đó tư tưởng này luôn bị tranh cãibị bác bỏ. Theo một cách tiếp cận khác, triết gia Pháp Auguste Comte đã đưa ra “quy luật ba giai đoạn, theo đó các xã hội con người tiến bộ từ giai đoạn thần học, bị chi phối bởi tôn giáo, thông qua giai đoạn siêu hình, trong đó tư duy tư biện trừu tượng là nổi bật nhất; tiếp đến là giai đoạn thực chứng, trong đó các lý thuyết khoa học dựa trên thực nghiệm chiếm ưu thế (Comte, A. 1974; Lepenies Wolf, 2010).

Khác với Comte liên kết tiến hoá xã hội với tiến hóa sinh học, Herbert Spencer đã phát triển một lý thuyết tiến hóa xã hội bao quát hơn. Theo Spencer, các cơ thể sinh học và xã hội loài người tuân theo cùng một quy luật tiến hoá tự nhiên phổ quát, đó là: sự thay đổi từ một trạng thái tương đối vô hạn, rời rạc, đồng nhất tính đến một trạng thái tương đối rõ ràng, mạch lạc và không đồng nhất” (Carneiro, Robert L. and Perrin, Robert G. 2005). Nói cách khác, khi các xã hội phát triển về kích cỡ, thì chúng trở nên phức tạp hơn; các bộ phận của chúng phân chia, chuyên về các chức năng khác nhau, và do đó trở nên phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn. Tư tưởng tiến hóa luận cũng thống trị lĩnh vực mới của nhân học xã hội và văn hoá vào nửa sau thế kỷ 19. Các nhà nhân học như Sir Edward Burnett Tylor và Lewis Henry Morgan phân loại các xã hội đương đại dựa trên quy mô tiến hóa. Tylor đã xác lập một quá trình tiến hóa của những ý tưởng tôn giáo từ vạn vật hữu linh qua đa thần giáo đến chủ thuyết độc thần. Morgan đã xếp hạng các xã hội từ mông muội” qua “dã man” đến văn minh và phân loại các xã hội đó theo trình độ công nghệ hoặc các nguồn sinh nhai của họ, được ông kết nối với hệ thống thân tộc. Ông cho rằng trước chế độ hôn nhân một vợ một chồng là chế độ hôn nhân đa thê và trước chế độ phụ hệ là chế độ mẫu hệ (Knight, C. 2008; Stern, Bernhard J. 1946).

Karl Marx và Friedrich Engels chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những tưởng tiến hóa. Sự phân biệt Marxian giữa chủ nghĩa cộng sản nguyên thủy, phương thức sản xuất châu Á, chế độ nô lệ cổ đại, chế độ phong kiến, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội tương lai có thể được diễn giải như một danh mục các giai đoạn trong quá trình phát triển tiến hóa luận. (Mặc dù phương thức sản xuất châu Á không thật tương hợp với lược đồ này). Marx và Engels đã ấn tượng mạnh với lý thuyết tiến hóa nhân học Morgan, điều này đã trở nên hiển nhiên trong cuốn sách của Engels, Nguồn gốc của gia đình, Chế độ tư hữu Nhà nước (1884). Tính độc đáo của lý thuyết Marxian về phát triển xã hội nằm trong sự kết hợp giữa phép biện chứng và quá trình tiệm tiến. Theo quan điểm của Marx, phát triển xã hội là một quá trình biện chứng: quá trình chuyển đổi từ giai đoạn này sang giai đoạn khác đã diễn ra thông qua một cuộc chuyển đổi mang tính cách mạng, trước đó là sự suy thoái ngày càng tăng của xã hội và càng ngày cuộc đấu tranh giai cấp càng trở nên mạnh mẽ. Nền tảng của sự phát triển mang tính đứt đoạn này chính là sự phát triển dần dần của các lực lượng sản xuất (Althusser, Louis 2014).

Marx còn chịu ảnh hưởng bởi dòng nước ngược của Chủ nghĩa Lãng mạn, vốn đối lập với tưởng tiến bộ. Ảnh hưởng này thể hiện rất rõ ràng trong quan niệm của Marx về sự tha hóa, một h quả của quá trình phát triển xã hội, làm cho con người bắt đầu tách khỏi các lực lượng xã hội mà họ đã tạo ra bằng các hoạt động của chính họ. Tuy nhiên, phản tiến bộ luận của chủ nghĩa lãng mạn lại mạnh hơn nhiều trong các công trình của các nhà lý thuyết xã hội ở thế kỷ 19 như nhà xã hội học người Đức Ferdinand Tönnies. Ông phân biệt giữa cộng đồng (Gemeinschaft) - trong đó mọi người bị ràng buộc với nhau bởi các truyền thống chungcác mối gắn bó quan hệ tình cảm - và xã hội (Gesellschaft), trong đó các quan hệ xã hội đã trở thành các quan hệ hợp đồng, duy lý, và không mang tính tình cảm (Bond N. 1991; Clausen Lars, Carsten Schlüter 1991). Émile Durkheim và Max Weber, là những nhà xã hội học bắt đầu sự nghiệp của họ vào cuối thế kỷ 19, lại cho thấy sự mâu thuẫn đối với những ý tưởng tiến bộ. Durkheim coi phân công lao động gia tăng là một quá trình cơ bản, bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân hiện đại có thể dẫn đến tình trạng “vô tổ chức” hoặc thiếu các chuẩn mực đạo đức (Giddens, Anthony (ed.) 1986). Weber đã bác bỏ tiến hóa luận bằng cách lập luận rằng sự phát triển của xã hội phương Tây hoàn toàn khác với sự phát triển của các nền văn minh khác và vì vậy mà là độc nhất về phương diện lịch sử. Theo Weber, phương Tây được đặc trưng bởi một loại lý tính duy nhất, đã tạo dựng nên chủ nghĩa tư bản hiện đại, khoa học hiện đại, và quy luật hợp lý, nhưng cũng tạo ra những tiêu cực, đó là “làm khô cứng thế giớixã hội ngày càng quan liêu hóa (Giddens, Anthony 1971).

Tác phẩm của Durkheim, Weber và các nhà lý thuyết xã hội khác vào đầu thế kỷ XX đã đánh dấu sự chuyển đổi từ thuyết tiến hóa sang những lý thuyết tĩnh hơn. Các lý thuyết tiến hóa đã bị chỉ trích dựa trên cơ sở thực nghiệm, và có thể bị bác bỏ bởi một số lượng lớn các phát hiện nghiên cứu, và vì quyết định luận cũng như chủ nghĩa lạc quan lấy các mô hình phương Tây làm trung tâm. Các lý thuyết biến đổi xã hội theo chu kỳ lại phủ nhận tiến bộ lâu dài đã trở nên phổ biến trong nửa đầu của thế kỷ XX. Đó là lý thuyết của nhà kinh tế và xã hội học người Ý Vilfredo Pareto về sự lưu chuyển của giới tinh hoalý thuyết của Oswald Spengler và Arnold Toynbee về chu kỳ sống của các nền văn minh. Giáo sư Pitirim Sorokin của Đại học Harvard đã phát triển một lý thuyết tuần hoàn về sự biến đổi văn hoá ở phương Tây, miêu tả sự lặp đi lặp lại của quá trình biến đổi từ văn hóa mang tính tư tưởng tới văn hóa mang tính lý tưởng, sau đó là văn hóa mang tính tri giác, rồi lại quay trở lại (Sorokin P. 1937, 1947, 1957).  Mặc dù mối quan tâm đến biến đổi xã hội dài hạn không bao giờ biến mất, nhưng từ năm 1920 đến những năm 1950, chức năng luận, bằng cách nhấn mạnh vào một hệ thống xã hội phụ thuộc, đã trở thành mô hình chi phối cả trong nhân học học và trong xã hội học. Tiến hóa xã hội đã được thay thế cho khái niệm tổng quát và trung lập “biến đổi xã hội”. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về biến đổi xã hội dài hạn đã hồi sinh trong những năm 1950 và tiếp tục phát triển trong thập kỷ 60 và 70. Các lý thuyết tân tiến hóa luận đã được một số nhà nhân học khẳng định, bao gồm Ralph Linton, Leslie A. White, Julian H. Steward, Marshall D. Sahlins, và Elman Rogers Service. Các tác giả này chủ trương ý tưởng về tiến hóa xã hội như là một sự phát triển dài hạn, kể cả tiến hóa theo các thứctiến hóa tích lũy (White, Leslie A. (1959). Không giống như thuyết tiến hóa thế kỷ 19, tân tiến hóa luận không cho rằng tất cả các xã hội đều trải qua cùng một giai đoạn phát triển. Thay vào đó, người ta chú ý nhiều tới các biến thể giữa các xã hội cũng như tới các mối quan hệ ảnh hưởng giữa chúng. Và việc chú ý đến các mối quan hệ giữa các xã hội đã làm cho khái niệm tích hợp văn hóa (acculturation) đã trở nên nổi tiếng và rất thông dụng. Thêm vào đó, tiến hóa xã hội không được coi là tiền định hoặc không thể tránh được, mà được xem xét trong khuôn khổ của các khả năng, và phát triển tiến hóa không được coi là ngang bằng với tiến bộ (Sahlins, Marshall D. 1960).

Sự phục hồi mối quan tâm đến biến đổi xã hội lâu dài đã được củng cố bởi những nỗ lực nhằm giải thích những khoảng chênh lệch lớn giữa các nước giàu và nước nghèo. Trong những năm 1950 và 60, các nhà xã hội học và các nhà kinh tế phương Tây đã phát triển các lý thuyết hiện đại hóa để nhận thức những vấn đề của cái gọi là các nước kém phát triển. Tuy nhiên, một số lý thuyết hiện đại hóa đã bị chỉ trích là áp đặt cho các nước nghèo chỉ có thể và nên phát triển hoặc hiện đại hóa theo cách của các xã hội phương Tây (Harrison, D. (1988). Các lý thuyết hiện đại hoá cũng đã bị chỉ trích vì thiếu quan tâm đến các quan hệ quyền lực quốc tế, trong đó các nước giàu chiếm ưu thế hơn hẳn so với những nước nghèo (Allen T, Thomas A (1992; Hout, W. 1993; Kenneth, A. 2006; Coetzee KJ, Graaf J, Heindricks F, Wood G 2007). Các mối quan hệ này đã được chú ý bởi các lý thuyết gần đây về sự phụ thuộc quốc tế, điển hình là hệ thống tư bản thế giới được nhà xã hội học người Mỹ Immanuel Wallerstein (Wallerstein, I. 1974) mô tả. Tuy nhiên, lý thuyết hệ thống thế giới của ông đã bị tấn công vì những lý do thực nghiệm và vì sự thất bại của nó trong việc giải thích cho sự sụp đổ của các chế độ Xô viết và sự vận động tuần tự đến chủ nghĩa tư bản và nền dân chủ. Lý thuyết của Wallerstein còn bị chỉ trích vì đã không giải thích được sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của Thế giới Thứ ba (Worsley P. 1979; Pieterse N.J. 1988; Bairoch P. 1995; Waites B. 1999).

1.6. Các mô thức biến đổi xã hội

Các lý thuyết về biến đổi xã hội, cả cũ và mới, thường cho rằng quá trình biến đổi xã hội không tùy tiện, mà ở một mức độ nhất định, đó là các biến đổi thường xuyên hoặc theo khuôn mẫu. Ba ý tưởng truyền thống về biến đổi xã hội - suy giảm, biến đổi theo chu kỳ và tiến bộ - đã ảnh hưởng đáng kể đến các lý thuyết hiện đại. Tuy nhiên, vì những lý thuyết này không được xác định về phương diện khoa học, nên chúng không đưa ra được những phân biệt rõ ràng giữa sự suy giảm và tiến bộ. Trên thực tế, những phẩm chất của sự suy giảm và tiến bộ, về phương diện khoa học, không thể chỉ bắt nguồn từ các quan sát thực nghiệm, thay vào đó, nó được xác định bằng các đánh giá định tính và đánh giá giá trị. Nếu nghiên cứu về biến đổi xã hội phải được thực hiện trong khuôn khổ khoa học và phi quy chuẩn, thì chỉ có thể xem xét hai mô hình biến đổi xã hội: là biến đổi theo chu kỳ, như đã xác định ở trên, và biến đổi một chiều. Thông thường khoảng thời gian của biến đổi xác định mô thức nào được quan sát (Ginsberg M. 1958; Edari R. 1976).

Mô thức biến đổi tuần hoàn: Phần lớn cuộc sống xã hội thông thường được tổ chức theo những biến đổi chu kỳ: các biến đổi của những ngày, tuần, tháng và năm. Những biến đổi theo chu kỳ ngắn hạn này có thể được coi là những điều kiện cần thiết cho sự ổn định về cấu trúc. Những biến đổi khác ít nhiều có mô thức chu kỳ thì ít có khả năng dự báo hơn. Một ví dụ là chu kỳ kinh doanh, một hiện tượng tái diễn của chủ nghĩa tư bản, có vẻ ít nhiều theo mô thức, nhưng lại khó dự đoán. Một lý thuyết nổi bật về chu kỳ kinh doanh là của nhà kinh tế học Xô viết Nikolay D. Kondratyev, ông đã cố gắng cho thấy tính lặp lại của những đợt sóng kinh tế bùng nổ và suy thoái kinh tế trên quy mô quốc tế (Kondratieff N. (1935, 2002, 2004). Ông vẽ biểu đồ sóng từ cuối thế kỷ 18, với mỗi đợt hoàn chỉnh gồm khoảng thời gian khoảng 50 năm. Tuy nhiên, các nghiên cứu sau đó đã chỉ ra rằng các mô thức biến đổi ở các quốc gia khác nhau thì không giống nhau. Những biến đổi theo chu kỳ dài hạn được đề cập đến trong các lý thuyết về sự ra đời, tăng trưởng, thịnh vượng, suy giảm và sự tàn lụi của các nền văn minh. Toynbee đã xây dựng lịch sử thế giới bằng cách này trong những tập đầu tiên của tổng tập Nghiên cứu Lịch sử (1934-61), giống như Spengler đã thực hiện trong công trình Sự suy tàn của phương Tây (1918-22). Những lý thuyết này đã bị chỉ trích vì đã hình dung nền văn minh như những thực thể tự nhiên với những ranh giới rõ ràng, bằng lối tư duy bỏ qua các mối tương quan giữa các nền văn minh (Toynbee, Arnold J. 1939; McIntire, C. T.; Perry, Marvin, eds., 1989).

Mô thức biến đổi một chiều: Kiểu biến đổi này ít nhiều mang tính liên tục theo cùng một hướng, thường mang tính tích lũy và ẩn chứa sự tăng trưởng, chẳng hạn như mật độ dân số, quy mô tổ chức xã hội, hoặc cấp độ sản xuất. Tuy nhiên, hướng biến đổi này có thể là hướng suy giảm hoặc kết hợp tăng trưởng và suy giảm. Một ví dụ của quá trình kết hợp nàythứ mà nhà nhân loại học người Mỹ Clifford Geertz đã gọi là “xoắn ốc”, được phát hiện ra trong một số xã hội nông nghiệp khi tăng trưởng dân số song hành cùng với sự suy giảm mức độ thịnh vượng tính theo đầu người. Tuy nhiên, một sự biến đổi khác có thể là sự chuyển đổi từ một cực này sang cực kia - từ cách suy nghĩ tôn giáo sang thế tục. Sự biến đổi như vậy có thể được định nghĩa vừa là sự tăng trưởng (tri thức khoa học) hoặc vừa là sự suy giảm (tôn giáo). Loại biến đổi một hướng đơn giản nhất là biến đổi tuyến tính, xảy ra khi mức độ biến đổi xã hội không đổi theo thời gian (Geertz, Clifford 1963). Một loại biến đổi xã hội khác là tăng trưởng theo cấp số nhân, trong đó tỷ lệ phần trăm tăng trưởng liên tục theo thời gian và sự biến đổi tăng nhanh tương ứng. Tăng trưởng dân số và tăng trưởng sản xuất là theo mô thức này trong những khung thời gian nhất định. Một mô thức tăng trưởng dài hạn cũng có thể phù hợp với một đường cong S ba giai đoạn. Trong giai đoạn đầu,sự biến đổi chậm, hầu như không thể cảm nhận. Tiếp theo sự biến đổi tăng tốc. Trong giai đoạn thứ ba, tốc độ biến đổi sẽ giảm dần cho đến khi đạt đến một giới hạn trên được giả định. Mô hình biến đổi nhân khẩu học ở các nước công nghiệp hóa thể hiện mô thức này. Trong giai đoạn đầu (tiền hiện đại hoặc tiền công nghiệp) cả tỷ lệ sinh và tỷ lệ chết đều cao, và do đó dân số tăng rất chậm; sau đó tỷ lệ chết giảm, và dân số phát triển nhanh hơn; giai đoạn thứ ba cả tỷ lệ sinh và tỷ lệ chết đều trở nên thấp, và sự tăng trưởng dân số tiếp cận bằng không. Loại mô hình tương tự mang tính giả thuyết nhiều hơn, cũng đã được đưa ra cho các mức biến đổi về công nghệ và khoa học (Young, P. 1993; Modis, T. 2007).

Mô thức biến đổi kết hợp: Những biến đổi theo chu kỳ và một chiều có thể được quan sát đồng thời. Điều này xảy ra một phần bởi vì biến đổi ngắn hạn có xu hướng xoay vòng trong khi biến đổi dài hạn có xu hướng đi theo một hướng. Ví dụ, tỷ lệ sản xuất của các nước công nghiệp hoá thể hiện mô hình chu kỳ kinh doanh ngắn hạn xảy ra trong quá trình phát triển kinh tế dài hạn. Những mô hình này không thể áp dụng một cách đơn giản và dễ dàng đối với thực tế xã hội. Lý tưởng nhất thì chúng cũng chỉ các xấp xỉ của thực tế xã hội. Không phải lúc nào cũng có thể so sánh mô hình với thực tế, bởi vì không phải lúc nào cũng có sẵn các nguồn dữ liệu đáng tin cậy. Hơn nữa, và quan trọng hơn, nhiều quá trình xã hội không cho phép đo lường chính xác bằng định lượng. Ví dụ, các quy trình như quan liêu hoặc phi tôn giáo hóa trong xã hội, có thể được định nghĩa thông qua những thay đổi theo một hướng nào đó, nhưng rất khó đạt được thỏa thuận về các kích cỡ cần đo (Frisbie P. 1975;

Tschannen O. 1991; Gorski Ph. 2008; Hout M. and C. Fischer 2014). Cần phải xem liệu biến đổi xã hội dài hạn theo một hướng nào đó được duy trì không. Quá trình chuyển đổi của xã hội thời trung cổ thành các quốc gia phương Tây của thế kỷ 20 có thể được hình thành dựa trên một số biến đổi một hướng, tương liên với nhau trong một thời gian dài. Một số biến đổi quan trọng nhất trong số đó bao gồm quá trình thương mại hóa, tăng cường phân công lao động, tăng trưởng sản xuất, hình thành các quốc gia, quá trình quan liêu hóa, tăng trưởng công nghệ và khoa học, quá trình thế tục hóa, đô thị hóa, sự phát triển của tri thức, tăng tính di động về địa lý và xã hội, tăng trưởng của các tổ chức xã hội. Nhiều biến đổi tương tự cũng đã diễn ra ở các xã hội phi phương Tây. Rất nhiều biến đổi không bắt nguồn từ phương Tây, nhưng một số biến đổi quan trọng thuộc về phương Tây, như Cách mạng Công nghiệp và sự trỗi dậy của chủ nghĩa tư bản. Sau đó các biến đổi này đã có tác động mạnh mẽ đến xã hội không phương Tây. Ngoài ra, các xã hội bên ngoài Tây Âu đã bị thu hút vào một bộ phận lao động toàn cầu, đến với các quốc gia phương Tây có ưu thế về cả kinh tế, chính trị và xã hội.

1.7. Đi tìm các nguyên nhân biến đổi xã hội

Một cách để giải thích biến đổi xã hội là chỉ ra mối quan hệ nhân quả giữa hai hoặc nhiều quá trình. Điều này có thể mang hình thức quyết định luận hay quy giản luận, cả hai đều có xu hướng giải thích biến đổi xã hội bằng cách quy giản vào một quá trình nhân quả độc lập và hoàn toàn xác định. Một giả định thận trọng hơn cho rằng một quá trình có ưu tiên nhân quả tương đối, không hàm ý rằng quá trình này là hoàn toàn độc lậphoàn toàn xác định. Sau đây là một số quá trình được cho là đóng góp vào các biến đổi xã hội.

Môi trường  tự nhiên:

Những biến đổi trong môi trường tự nhiên có thể là kết quả của các biến đổi khí hậu, thiên tai, hoặc sự lây lan của bệnh tật. Ví dụ, cả sự suy thoái của điều kiện khí hậu và đại dịch Cái chết Đen (ước tính làm chết từ 75-200 triệu người châu Âu trong thời gian 1340-1353 do dịch hạch) đều góp phần vào cuộc khủng hoảng của chế độ phong kiến ​​trong thế kỷ 14 ở châu Âu. Những thay đổi trong môi trường tự nhiên vừa có thể độc lập với các hoạt động xã hội của con người lại vừa có thể gây ra đại dịch đó. Nạn phá rừng, xói mòn đất đai, và ô nhiễm không khí thuộc về trường hợp sau, và đến lượt mình, chúng có thể gây ra những hậu quả xã hội sâu rộng (Alchon A. S. 2003, 2016; Sussman G.D 2011). Trong lịch sử hàng thiên niên kỷ trải nghiệm và quan sát các biến đổi môi trường tự nhiên dẫn đến biến đổi xã hội, đã có bốn cách diễn giải lý thuyết cơ bản về nguyên nhân: i) Hành vi định mệnh, hành động của Thượng đế/ Trời/ Thiên Chúa tùy theo quan niệm của từng tộc người, từng tôn giáo khác nhau; ii) Hành vi của tự nhiên; iii) Các tác động chung của cả tự nhiên và xã hội; iv) Các tác động của hệ thống công trình xã hội. Hành động của Thượng đế/ Trời/ Thiên Chúa: Trong hàng thiên niên kỷ, thiên tai/ thảm họa được cho là phát sinh từ các lực lượng không có giới hạn và không kiểm soát được, và được coi là các hành động của Thượng đế/ Trời/ Thiên Chúa, vượt quá sự hiểu biết của con người, gây ra những thất bại của xã hội. Hành vi của thiên nhiên: Theo thời gian, kiến ​​thức khoa học gia tăng đã khiến nhiều người thay thế nguyên nhân siêu nhiên bằng những nguyên nhân tự nhiên. Do đó các biến đổi xã hội do tự nhiên gây ra đã được quy cho “một cuộc tấn công từ bên ngoài vào các hệ thống xã hội gây ra đổ vỡ khi phải đối mặt với một cuộc tấn công như vậy từ bên ngoài (Quarantelli, 1998, p. 266). Kết quả làm nảy sinh quan niệm về con người chống lại tự nhiên đã trở nên đặc biệt mạnh mẽ. Các tương tác giữa T nhiên và Xã hội: Tuy nhiên, sau đó, người ta lại cho rằng những mối nguy hiểm phát sinh từ sự tương tác giữa các hệ thống sự kiện vật các hệ thống do con người tạo ra. Do đó, biến đổi xảy ra là do mối tương tác của cả hai hệ thống này. Theo Carr (1932, p. 211), xã hội loài người thích ứng với các điều kiện môi trường hiện tại (ví dụ: nhiệt độ, tốc độ gió, lượng mưa, hoạt động địa chấn) tại một vị trí nhất định. Các công trình xã hội: Gần đây, các nhà nghiên cứu đã nhận ra rằng biến đổi gây hại một cách hệ thống đối với một số loại người, cũng như các loại vị trí địa lý và các hệ thống sử dụng con người. Đối với các hiệu ứng tương tác, thì các mối quan tâm về bộc lộ nguy cơ ở những vị trí cụ thể và tính dễ tổn thương vật lý của các cấu trúc cụ thể, lý thuyết công trình xã hội chú trọng đến những biến đổi xã hội với các nhóm dễ bị tổn thương. Các phân đoạn dân cư dễ bị tổn thương về phương diện xã hội xuất hiện bởi vì các quá trình tâm lý, nhân khẩu học, kinh tế và chính trị của chúng ta thường có xu hướng tạo ra các phân đoạn đó. Mối quan tâm đặc biệt đối với các nhà quản lý biến đổi xã hội cần phải có nhiều cách thức có thể giảm nguy cơ dễ bị tổn thương, trong đó có hỗ trợ xã hội, tăng cường quyền lực chính trị cho những người nghèo nhất về phương diện kinh tế, chính trị và xã hội (Lindell, Michael K.; Carla S. Prater; Ronald W. Perry; William C. Nicholson, 2006).

Các quá trình nhân khẩu học: Tăng trưởng dân số và mật độ dân số gia tăng thể hiện những hình thái nhân khẩu học của biến đổi xã hội. Sự tăng trưởng dân số có thể dẫn đến sự mở rộng về mặt địa lý của một xã hội, dẫn đến xung đột quân sự và sự hòa trộn giữa các nền văn hoá. Tăng mật độ dân số có thể kích thích các đổi mới công nghệ, từ đó có thể làm tăng các quá trình xã hội như phân công lao động, khác biệt xã hội, thương mại hoá, và đô thị hóa. Loại quá trình này xảy ra ở Tây Âu từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIII và ở Anh vào thế kỷ XVIII, mà ở đó tăng trưởng dân số đã thúc đẩy cuộc Cách mạng Công nghiệp. Mặt khác, tăng dân số có thể góp phần làm trì trệ kinh tế và gia tăng nghèo đói, như đã được chứng kiến ​​ở một số nước thuộc Thế giới Thứ ba ngày nay (Barlow, Robin 1994; Ahlburg, Dennis A. 1996).

Các đổi mới công nghệ: Một số lý thuyết tiến hóa xã hội xác định những đổi mới công nghệ là những yếu tố quyết định quan trọng nhất đối với biến đổi xã hội. Những đột phá về công nghệ như luyện kim, sự ra đời của cày trong nông nghiệp, sự phát minh ra động cơ hơi nước và sự phát triển của máy tính đã để lại những h quả xã hội lâu dài (Samapti, Marakkath, Nadiya (Eds.), 2015).

Các quá trình kinh tế: Các biến đổi công nghệ thường được xem xét kết hợp với các quá trình kinh tế, bao gồm việc hình thành và mở rộng thị trường, thay đổi các quan hệ về tài sản, chẳng hạn như sự thay đổi từ mối quan hệ giữa chúa đất và tá điền thời phong kiến thành quan hệ giữa người chủ sở hữu và người thuê đất thông qua hợp đồng, và những thay đổi trong tổ chức lao động như thay đổi từ các thợ thủ công độc lập với quy mô gia đình thành các nhà máy tập trung đong đảo đội ngũ công nhân làm thuê. Chủ nghĩa duy vật lịch sử, Marx và Engels xây dựng, là một trong những lý thuyết nổi bật hơn dành ưu tiên cho các quá trình kinh tế, và bên cạnh đó còn có những quan điểm duy vật khác, thậm chí chống lại chủ nghĩa Marxism, chẳng hạn học giả duy vật Clark Kerr và các đồng sự của ông, bằng cách bỏ qua học thuyết xung đột và đấu tranh giai cấp của Marx, và khẳng định rằng công nghiệp hóa ở mọi nơi đều có những h quả tương tự, cho dù các biến đổi xã hội trong quan hệ tài sản được gọi là tư bản hay cộng sản (Kerr C., J. T. Dunlop, F. H. Harbison and C. A. Myers, 1962).

Các hệ tư tưởng: Các lý thuyết khác đã nhấn mạnh tầm quan trọng của hệ tư tưởng và coi đó là nguyên nhân của biến đổi xã hội. Quy luật phát triển ba giai đoạn của A. Comte là một lý thuyết như vậy. Auguste Comte quan tâm đặc biệt đến bộ phận mà ông gọi là động học xã hội (social dynamics). Đó là lĩnh vực nghiên cứu các quy luật biến đổi xã hội trong các hệ thống xã hội theo thời gian. Comte đưa ra quy luật ba giai đoạn để giải thích sự phát triển của các hệ thống tư tưởng và hệ thống cơ cấu xã hội tương ứng. Lịch sử loài người phát triển qua ba giai đoạn: i) Thần học; ii) Siêu hình; và iii) Thực chứng. Theo quy luật ba giai đoạn, mỗi giai đoạn trước là điều kiện phát triển của giai đoạn sau. Việc biến đổi từ giai đoạn này sang giai đoạn khác không trôi chảy, nhẹ nhàng, mà thường trải qua thời kỳ bất ổn định, mâu thuẫn giữa cái cũ và cái mới. Comte cho rằng, hệ thống văn hóa bao gồm đạo đức và tinh thần quy định sự phát triển của hệ thống xã hội, cơ cấu xã hội. Dựa vào quy luật ba giai đoạn, Comte cho rằng việc “xã hội học” ra đời ở giai đoạn cuối của quá trình tiến hóa là một tất yếu lịch sử; và xã hội học là khoa học đứng trên tất cả các khoa học khác. Xã hội học ra đời ở giai đoạn cuối của quá trình tiến hóa - giai đoạn thực chứng và đó là khoa học phức tạp nhất, phải dựa trên nền tảng khoa học khác. Vì ra đời muộn nên xã hội học ngay lập tức đã phải là một khoa học thực chứng và chiếm vị trí cao nhất trong hệ thống thứ bậc các khoa học (Comte, Auguste (1896, 1974). Đối với M. Weber, những ý tưởng tôn giáo lại có những đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế và đặc biệt là biến đổi xã hội. Các nghiên cứu của Weber về xã hội học tôn giáo khởi đầu với tác phẩm Nền đạo đức Tin lành và Tinh thần của Chủ nghĩa tư bản, rồi tiếp nối với những biên khảo phân tích về Tôn giáo Trung Hoa: Khổng giáo và Lão giáo, Tôn giáo Ấn Độ: Xã hội học Ấn giáo và Phật giáo, và Do Thái giáo cổ đại. Các nghiên cứu về các tôn giáo khác bị gián đoạn khi ông đột ngột từ trần năm 1920. Ba luận đề chính của Weber gồm có: Ảnh hưởng của ý thức tôn giáo đến các hoạt động kinh tế, mối quan hệ giữa tôn giáo và phân tầng xã hội, và những đặc điểm của văn minh phương Tây. Weber tin rằng các giá trị của tôn giáo đã có ảnh hưởng lớn trên những cải cách xã hội, và phát triển hệ thống kinh tế tại Âu châu cũng như ở Hoa Kỳ (Weber, Max 2008).

Các phong trào xã hội: Những biến đổi xã hội trong các tư tưởng tập thể không chỉ đơn thuần là một quá trình tri thức; nó thường liên quan đến sự hình thành các phong trào xã hội mới. Bản thân nó có thể được coi là một nguyên nhân tiềm tàng của biến thay đổi xã hội. Weber đã chú ý đến yếu tố này bằng khái niệm lãnh đạo có ma lực lôi cuốn” (charisma) trong gây dựng phong trào làm biến đổi xã hội. Vị lãnh đạo có sức thu hút, nhờ đức tính cá nhân phi thường của ông, có thể tạo ra một nhóm tín đồ sẵn sàng phá bỏ các quy tắc đã được thiết lập. Ví dụ như Chúa Giêsu, Napoleon, và Hitler. Để gây dựng phong trào xã hội, Weber phân biệt ba hình mẫu lãnh đạo chính trị, thống trị và thẩm quyền: gây ảnh hưởng thống trị bởi sự thu hút cá nhân kể cả trong gia đình và tôn giáo, có ảnh hưởng thống trị bởi truyền thống, chẳng hạn hình tượng các bậc tổ phụ trong chế độ chuyên chế, và ảnh hưởng thống trị bởi quy định luật pháp (nhà nước và luật pháp đương đại, bộ máy hành chính). Ông nhận thấy trong hình thái cai trị bởi truyền thống, một sự đề kháng đủ mạnh có thể trở thành một phong trào cách mạng theo truyền thống, đủ làm biến đổi xã hội một cách toàn diện (Mommsen, Wolfgang J. 1992). 

Các quá trình chính trị: Những biến đổi trong việc điều chỉnh bạo lực chính trị, trong việc tổ chức nhà nước, và trong quan hệ quốc tế cũng có thể góp phần to lớn vào quá trình biến đổi xã hội. Ví dụ, nhà xã hội học người Đức Norbert Elias (1994) giải thích sự hình thành các tiểu bang ở Tây Âu như một quá trình tương đối tự trị dẫn tới việc gia tăng kiểm soát bạo lực và cuối cùng là tăng các tiêu chuẩn tự chủ. Theo các lý thuyết khác về quá trình chính trị, đặc biệt là những lý thuyết được đề xuất bởi nhà xã hội học lịch sử Mỹ Charles Tilly, thì hoạt động của bộ máy nhà nước và bản chất của các mối quan hệ giữa các tiểu bang có tầm quan trọng quyết định trong sự bùng phát những cuộc cách mạng từ các quá trình chính trị: đó là khi nhà nước không thể hoàn thành các chức năng cơ bản của nó trong việc duy trì luật và trật tự và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ thì các quá trình chính trị của những tổ chức chính trị khác nhau sẽ có cơ hội thành công (Tilly, Charles 1984). Đối với các nhà xã hội học nghiên cứu biến đổi xã hội thì mỗi quá trình đó đều có thể đóng góp cho các quá trình khác; không quá trình nào là yếu tố duy nhất quyết định sự thay đổi xã hội. Hơn nữa, các quá trình xã hội thường có mối quan hệ xoắn xuýt với nhau đến mức khó có thể xem xét chúng một cách riêng biệt. Chẳng hạn, không có biên giới cố định giữa các quá trình kinh tế và chính trị, cũng không có ranh giới cố định giữa các quá trình kinh tế và các quá trình công nghệ. Thay đổi công nghệ có thể tự nó được coi là một loại hình cụ thể của sự thay đổi về tổ chức hay khái niệm. Các mối quan hệ nhân quả giữa các quá trình xã hội có thể phân biệt là vấn đề về mức độ và thay đổi theo thời gian mà thôi (Wilterdink Nico, William Form 1998).

1.8. Các cơ chế biến đổi xã hội

Các cách diễn giải nguyên nhân biến đổi xã hội có một phạm vi giới hạn, đặc biệt khi chủ đề nghiên cứu liên quan đến các điều kiện ban đầu hoặc các quá trình cơ bản. Vì vậy các nhà xã hội học thuộc thế hệ gần đây đã đưa ra một cách diễn giải mang tính lý thuyết tổng quát hơn về biến đổi xã hội là xây dựng một mô hình cơ chế lặp lại của sự biến đổi xã hội (Wilterdink Nico, William Form 1998). Các cơ chế như vậy, được kết hợp trong các mô hình lý thuyết khác nhau, bao gồm những điều sau. Cơ chế thay đổi một chiều: tích lũy, lựa chọn và phân biệt. Một số lý thuyết tiến hóa nhấn mạnh thực chất tích lũy cơ bản của tri ​​thức con người. Theo lý thuyết này, việc mở rộng tri ​​thức và năng lực tập thể vượt quá giới hạn nhất định chỉ có thể được thực hiện theo chuyên môn hóa và sự phân biệt. Sự tăng trưởng tri ​​thức kỹ thuật kích thích tích tụ vốn, dẫn đến tăng sản lượng. Tăng trưởng dân số cũng có thể được kết hợp vào mô hình tiến hóa tích lũy này: do sự tích tụ tri ​​thức kỹ thuật tập thể và các phương tiện sản xuất mà con người có thể tăng được các số lượng; sự tăng trưởng này dẫn đến các vấn đề mới, được giải quyết bằng cách đổi mới thành công (Wilterdink Nico, William Form 1998).

Cơ chế biến đổi xã hội theo đường cong và biến đổi tuần hoàn: Các mô hình biến đổi một chiều cho rằng thay đổi theo một hướng nhất định sẽ dẫn đến thay đổi hơn nữa theo cùng một hướng; mặt khác, các mô hình biến đổi theo đường cong hoặc chu kỳ, lại giả định rằng thay đổi theo một hướng nhất định tạo ra các điều kiện cho sự thay đổi theo một hướng khác (có thể ngược lại). Cụ thể hơn, người ta thường giả định rằng tăng trưởng có giới hạn và trong việc tiếp cận các giới hạn này, đường cong thay đổi chắc chắn sẽ bị uốn cong. Các điều kiện sinh thái, chẳng hạn như khả năng sẵn có của tài nguyên thiên nhiên, có thể giới hạn dân số, tăng trưởng kinh tế và tổ chức. Các thay đổi theo chu kỳ ngắn hạn được giải thích bằng các cơ chế tương đương. Một số lý thuyết chu kỳ kinh doanh, giả định rằng nền kinh tế là bão hòa định kỳ với hàng hoá vốn; các khoản đầu tư trở nên ít cần thiết và không có lãi, tỷ lệ đầu tư sẽ giảm, và xu hướng giảm này dẫn đến suy thoái. Tuy nhiên, sau một khoảng thời gian, những hàng hoá cần thiết sẽ phải được thay thế; đầu tư lại được đẩy lên và một giai đoạn mở rộng kinh tế mới lại bắt đầu (Eaton, Jonathan and Samuel Kortum (2001).

Xung đột, cạnh tranh và hợp tác: Mâu thuẫn nhóm thường được xem như là một cơ chế cơ bản của sự thay đổi xã hội, đặc biệt là những biến đổi xã hội cấp tiến và bất ngờ được xác định là những cuộc cách mạng. Những người theo chủ nghĩa Mác nói riêng có khuynh hướng miêu tả cuộc sống xã hội trong xã hội tư bản như là một cuộc đấu tranh giữa một giai cấp cầm quyền, muốn duy trì hệ thống, và một tầng lớp thống trị, cố gắng thay đổi triệt để. Thay đổi xã hội là kết quả của cuộc đấu tranh đó. Những ý tưởng này là những gì cơ bản mà nhà xã hội học Ralf Dahrendorf đã gọi là một mô hình xung đột của xã hội (Dahrendorf, Ralf 1959). Vậy là khái niệm xung đột trở nên liên quan hơn đến việc giải thích về biến đổi xã hội nếu nó được mở rộng để bao gồm cả việc cạnh tranh giữa các nhóm đối thủ. Về nhiều phương diện, các quốc gia, các công ty, các đại học, các hiệp hội…vv, đều là những nhóm sự cạnh tranh lẫn nhau. Cạnh tranh kích thích việc tìm tòi và phổ biến các đổi mới, đặc biệt là khi chúng có tiềm năng tăng sức mạnh. Do đó, các nhà lãnh đạo các quốc gia không phải phương Tây cảm thấy cần thiết phải chấp nhận khoa học và công nghệ phương Tây, mặc dù hệ tư tưởng của họ có thể là chống phương Tây, bởi vì chỉ bằng những phương tiện này họ mới có thể duy trì hoặc tăng cường quyền tự trị và quyền lực quốc gia. Ngoài ra, cạnh tranh còn có thể dẫn đến tăng trưởng về quy mô và tính phức tạp của các thực thể liên quan. Ví dụ điển hình của quá trình này, như đề xuất đầu tiên của Adam Smith, là khuynh hướng của chủ nghĩa tư bản đối với việc thông đồng và thành lập các độc quyền khi các công ty nhỏ bị đẩy khỏi thị trường cạnh tranh. Bên cạnh đó, Norbert Elias (1994) cho rằng các quốc gia Tây Âu được sinh ra từ những cuộc đấu tranh cạnh tranh giữa các lãnh chúa phong kiến. Cạnh tranh cũng thống trị các lý thuyết về chủ nghĩa cá nhân, trong đó biến đổi xã hội được nhìn nhận như là kết quả của các cá nhân theo đuổi lợi ích tự thân của họ. Lý thuyết trò chơi và các công cụ toán học khác đã cho thấy rằng các cá nhân hành động vì lợi ích riêng của họ, trong những điều kiện nhất định, sẽ hợp tác với nhau và do đó mở rộng  được các mạng xã hội hiện có.

Căng thẳng và thích ứng: Theo chức năng luận cấu trúc thì biến đổi xã hội được coi là một phản ứng thích ứng đối với tình trạng căng thẳng nào đó trong hệ thống xã hội. Khi một phần của một hệ thống xã hội hội nhập thay đổi, thì sẽ tạo ra tình trạng căng thẳng giữa các bộ phận của hệ thống, và sẽ được giải quyết bằng sự thay đổi thích ứng của các bộ phận khác. Điển hình cái mà nhà xã hội học người Mỹ Ogburn đã gọi là “trễ” về văn hoá (Ogburn, William F. 1966). Thuật ngữ “trễ” về văn hoá đề cập đến quan niệm cho rằng văn hoá cần có thời gian để bắt kịp với những đổi mới công nghệ, và các vấn đề biến đổi xã hội do sự trễ này. Sau đó, “trễ” văn hoá không chỉ áp dụng cho ý tưởng này mà còn giúp xác định và giải thích các biến đổi xã hội để dự đoán các vấn đề trong tương lai. Theo James W. Woodward (1934), khi các điều kiện vật chất thay đổi, những biến đổi xảy ra trong văn hoá là mang tính thích ứng, nhưng không đồng bộ hóa chính xác với các biến đổi trong văn hoá vật chất, và độ trễ này gây ra tụt hậu về văn hoá. Sự tụt hậu về văn hoá được coi là vấn đề đạo đức quan trọng bởi vì nó kéo theo tình trạng thất bại trong việc phát triển đồng thuận xã hội rộng rãi đối với việc ứng dụng thích hợp các công nghệ hiện đại có thể dẫn đến sự đổ vỡ cố kết xã hội và gia tăng xung đột xã hội  (Ogburn, William F. 1966).

Truyền bá đổi mới: Một số biến đổi xã hội là kết quả của những đổi mới đã được chấp nhận trong một xã hội. Chúng có thể bao gồm các phát minh công nghệ, kiến ​​thức khoa học mới, niềm tin mới, hoặc một phong cách mới trong lĩnh vực giải trí. Truyền bá không phải là tự động có tính chọn lọc; một sự đổi mới chỉ được chấp nhận bởi những người có động cơ thực hiện đổi mới. Hơn nữa, đổi mới phải phù hợp với các khía cạnh quan trọng của văn hoá. Một lý do để các nhóm xã hội lớn chấp nhận các sáng kiến đổi mới ​​là hình mẫu được xác lập bởi các nhóm xã hội có vị thế cao hơn, hành động với tư cách là nhóm tham chiếu cho những người khác. Nhiều đổi mới có xu hướng đi theo một mô thức truyền bá từ các nhóm có vị thế cao hơn đến các nhóm có vị thế thấp hơn. Cụ thể hơn, hầu hết những người áp dụng sớm các sáng kiến ​đổi mới ​trong các xã hội phương Tây hiện đại, theo một số nghiên cứu, là thuộc giới trẻ, sống ở đô thị, giàu có và có trình độ học vấn cao, với vị thế nghề nghiệp cao. Thường thì họ có động lực bởi mong muốn phân biệt mình khỏi đám đông. Tuy nhiên, sau khi truyền bá diễn ra, đổi mới không còn là biểu hiện của sự phân biệt nữa. Điều này thúc đẩy chính nhóm đó tiếp tục tìm kiếm một cái gì đó mới khác nữa. Cơ chế này có thể giải thích sự biến đổi liên tục của mốt, thời trang, và các phong trào xã hội.

1.9. Lập kế hoạch và thể chế hoá biến đổi xã hội

Biến đổi xã hội có thể là kết quả của kế hoạch xã hội quy mô lớn hướng đến các mục tiêu xác định. Khả năng lập kế hoạch của các quan chức chính phủ và các tổ chức lớn khác đã gia tăng trong các xã hội hiện đại. Tuy nhiên, hầu hết kế hoạch phát triển xã hội thường ngắn hạn; các mục tiêu của kế hoạch thường không đạt được, và thậm chí nếu kế hoạch thành công theo các mục tiêu đã đề ra, nó thường để lại những hậu quả không lường trước được. Phạm vi càng rộng hơn và khoảng thời gian của kế hoạch càng dài thì càng khó đạt được các mục tiêu và khó tránh được những hậu quả không mong muốn hoặc không lường trước được. Hầu hết các phát triển xã hội ở quy mô lớn và dài hạn trong bất kỳ xã hội nào, phần lớn cũng vẫn còn ở tình trạng không có kế hoạch, tuy nhiên những thay đổi quy mô lớn dựa trên cơ sở luật pháp để thành lập các cơ quan chính phủ lớn như bảo hiểm thất nghiệp, trợ cấp tuổi già hoặc chăm sóc y tế, đều tạo ra những thay đổi thể chế quan trọng trong các xã hội đã công nghiệp hóa. Việc lập kế hoạch bao hàm việc thể chế hóa quá trình biến đổi, nhưng việc thể chế hóa lại không bao hàm việc xây dựng kế hoạch. Nhiều biến đổi xã hội không có kế hoạch trong các xã hội hiện đại được thể chế hoá; chúng có nguồn gốc từ các tổ chức thường xuyên định hướng đổi mới, chẳng hạn như các trường đại học và các phòng nghiên cứu của các chính phủ và các công ty tư nhân, nhưng tác động xã hội của các biến đổi này lại không được kiểm soát. Trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, quá trình biến đổi đặc biệt được thể chế hoá, tạo ra biến đổi xã hội, một phần là có chủ đích một phần thì không hề có chủ đích. Nguyên nhân của các biến đổi xã hội rất đa dạng, và các quá trình biến đổi có thể được xác định là xu thế ngắn hạn hoặc sự phát triển dài hạn. Biến đổi có thể mang tính chu kỳ hoặc một chiều. Các cơ chế biến đổi xã hội có thể khác nhautương liên với nhau. Một số cơ chế có thể được kết hợp trong một mô hình giải thích về biến đổi xã hội. Ví dụ, đổi mới bằng kinh doanh có thể được kích thích bởi cạnh tranh và theo quy định của chính phủ. mức độ mà các quá trình biến đổi là thường xuyên và tương liên với nhau, thì bản thân biến đổi xã hội là có cấu trúc. Kể từ khoảng năm 1965 đã có một sự thay đổi từ cấu trúc sang “biến đổi trong lý thuyết xã hội. Biến đổi ở các cấp khác nhau – các động thái xã hội trong đời sống hàng ngày và các quá trình chuyển đổi ngắn hạn và phát triển lâu dài trong xã hội, nói chung đã trở thành tâm điểm chú ý nhiều trong nghiên cứu xã hội (Wilterdink Nico, William Form 1998).

1.9.1. Quá trình Tích hợp văn hóa (Acculturation): Khái niệm Tích hợp văn hóa, vốn phổ biến trong nhân học Mỹ trong thế kỷ 19, đã được J. Powell, một cán bộ của Văn phòng Dân tộc học Hoa Kỳ đề xuất, trong công trình Nhập môn Nghiên cứu Ngôn ngữ Anh điêng (1880). Franz Boas, một nhà nhân chủng học văn hoá Mỹ gốc Đức, đã sử dụng nó vào năm 1896. Mặt khác, người Anh gọi đó là quá trình tiếp xúc văn hóa. Rõ ràng là Tích hợp văn hóa, có nguồn gốc từ lĩnh vực nhân học, điều này đã ảnh hưởng đến sự phát triển và tinh lọc của nó một cách đáng kể. Tích hợp văn hóa có thể được định nghĩa là sự biến đổi trong văn hoá của một người hoặc một nhóm thông qua quá trình tương tác trực tiếp với các nền văn hoá khác dẫn đến việc thụ đắc hoặc trao đổi các đặc điểm văn hóa. Ở cấp độ cá nhân, quá trình này giống như quá trình học hỏi xã hội chủ yếu dựa vào ngôn ngữ. Ở cấp xã hội, đó là quá trình chuyển đổi và truyền bá các thành tố văn hoá. Bằng cách này, các đặc điểm văn hoá cũ có thể biến mất hoặc thay đổi, trong khi các tập tục mới và các yếu tố văn hoá khác có thể hiện diện. Tóm lại, tiếp biến văn hoá là một hình thức biến đổi xã hội về phương diện văn hoá.

1.9.2. Quá trình Thích ứng (Accommodation): Ngay cả loại xung đột xã hội có tính huỷ hoại và bạo lực nhất cũng vẫn thường tiếp theo bởi quá trình thích ứng. Đó chính là quá trình điều chỉnh tương tác đối với tình trạng xung đột giữa các nhóm, trong đó, những lợi ích đắp đổi khác nhau, những người có liên quan gắng duy trì các bản sắc riêng của mình và luôn tránh thù hằn công khai. Do đó, quá trình thích nghi là sự hỗn hợp giữa các định kiến, khuôn mẫu và tương tác thân thiện tạo điều kiện thích nghi với môi trường xã hội. Quá trình này dựa trên cơ sở học hỏi xã hội, chứ không dựa trên cơ sở di truyền sinh học. Quá trình này có thể có ý thức hoặc vô thức, và nó có thể mang tính điều chỉnh cá nhân hoặc điều chỉnh nhóm. Những người có liên quan sửa đổi thái độ, thói quen, hành vi, phong tục, và thậm chí là toàn bộ các thể chế xã hội. Tất nhiên, các yếu tố dẫn đến xung đột không còn được duy trì. Do đó, mâu thuẫn bị loại bỏ, dẫn đến thiết lập trạng thái xã hội mới dựa trên cơ sở thoả hiệp, khoan dung, chuyển đổi, phụ thuộc, và quan hệ tương hỗ. Thích ứng XH đem lại rất nhiều lợi ích về mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội, VH, an ninh, …v.v.

1.9.3. Quá trình Đồng hóa (Assimilation): Đồng hóa là sự hấp thu xã hội của một dân tộc, chủng tộc hoặc văn hóa, hoặc của một người nhập cư, vào một xã hội được chấp nhận, sản xuất ra một văn hóa mới, phổ biến, và khá đồng nhất. 5 Trong quê hương mới của họ, các thành viên của một nhóm thiểu số bị đồng hóa sống rải rác đây đó và tham gia vào cuộc sống xã hội của nhóm đa số, làm giảm bớt đi sắc thái (visibility) và sự khác biệt của họ. Bằng cách này, vẫn còn những khác biệt không phải là về phương diện văn hoá, khi một quốc tịch này biến đổi thành một quốc tịch khác. Thông thường, nhóm yếu thế hơn hoặc nhóm thiểu số bị nhóm mạnh hơn hoặc đa số hấp thụ. Hơn nữa, sự đồng hoá thường xảy ra nhất thông qua di dân hoặc chinh phục. Hôn nhân dị tộc có xu hướng đẩy nhanh quá trình này, vì nó dẫn đến việc chấp nhận các giá trị, thái độ, ký ức, tình cảm và tập quán mới. Đối với yếu tố thời gian, sự đồng hoá, có thể là quá trình một chiều, hoặc là một quá trình tương hỗ, lại nhanh chóng, như trong trường hợp các dân tộc thiểu số Châu Âu ở Hoa Kỳ, hoặc chậm, như trường hợp người Mỹ da đen.

1.9.4. Quá trình Hợp tác (Cooperation): Quá trình hợp tác liên quan đến hai hoặc nhiều cá nhân hoặc các nhóm cố kết hợp các hoạt động của họ để đạt được lợi ích chung hoặc các mục tiêu chung mà những người tham gia chia sẻ. Các hoạt động kết hợp thực sự có tổ chức và có thể giống nhau hoặc không giống nhau. Loại thứ nhất là điển hình của các xã hội truyền thốngloại sau là của xã hội hiện đại. Hợp tác, là điều cần thiết cho sự sống còn của mọi xã hội, có thể là một mục đích tự thân hoặc một phương tiện để đạt được một mục đích nào đó. Ngay cả thế giới hữu cơ cũng được đặc trưng bởi mức độ hợp tác nào đó. Needles cho rằng, các nhóm hợp tác thường phải từ bỏ một phần của sự tự chủ của họ. Là một chuẩn mực về đạo đức và xã hội, hợp tác đã thực sự tạo ra tất cả các tôn giáo và hệ thống triết học quan trọng của thế giới.

1.9.5. Quá trình Cạnh tranh (Competition) là sự đấu tranh của các cá nhân hoặc nhóm đối với việc sở hữu và sử dụng hàng hoá bị hạn chế hoặc được cho là bị hạn chế. Cầu về hàng hoá thường lớn hơn cung. Quá trình cạnh tranh, đối nghịch với sự hợp tác, là do bản chất hữu hạn của hành tinh chúng ta và thực tế là nguồn nhân lực khan hiếm. Mục tiêu cụ thể của nó có thể là hàng hóa vật chất, địa vị xã hội, quyền lực, vị trí, v.v. Hơn nữa, cạnh tranh có thể là cá nhân, có ý thức, trực tiếp hoặc vô tình, vô thức, và gián tiếp - ví dụ như một doanh nhân có thể có ý thực hoặc vô thức về sự thành công của mình đã gây ra sự thất bại của một doanh nhân khác. Cũng cần lưu ý rằng cạnh tranh và mâu thuẫn khác nhau theo bốn cách chính: Thứ nhất, cạnh tranh chủ yếu hướng tới mục tiêu, chứ không phải đối thủ cạnh tranh, trong khi xung đột xảy ra với đối thủ. Thứ hai, cạnh tranh diễn ra liên tục cho đến khi một trong những đối thủ cạnh tranh đạt được mục tiêu mong muốn, trong khi xung đột thường bị gián đoạn. Thứ ba, cạnh tranh dựa trên các quy tắc bao quát hơn nhiều so với xung đột. Và thứ tư, cạnh tranh không bao giờ bao gồm sức mạnh hoặc bạo lực, trong khi xung đột có thể làm như vậy. Trong lĩnh vực đời sống kinh tế, cạnh tranh là đối nghịch của độc quyền, là sự kiểm soát về một loại dịch vụ hoặc hàng hoá bởi duy nhất một người bán. Cạnh tranh có ý thức thường được gọi là sự ganh đua. Ví dụ, sự ganh đua nảy sinh khi hai ngành công nghiệp tự động cạnh tranh cùng một nhóm khách hàng hoặc khi hai đảng chính trị theo đuổi cùng một chức v.

1.9.6. Quá trình Xung đột (Conflict) ngược lại với hợp tác, là một hình thức tương tác xã hội liên quan đến hai hoặc nhiều cá nhân hay nhóm người có ý thức nhằm cản trở mục đích của nhau hoặc để đánh bại, làm bị thương hoặc thậm chí hủy diệt đối thủ. Như vậy, xung đột là một dạng cạnh tranh khốc liệt, nhưng không giống với xung đột, cạnh tranh được hướng dẫn bởi các quy tắc khá bao quát và không bao gồm sức mạnh hoặc bạo lực. Tuy nhiên ngay cả xung đột cũng có thể không kèm theo bạo lực, chẳng hạn như trong những trường hợp đình công và các cuộc tranh luận nóng bỏng tại nghị viện. Hơn nữa, xung đột có thể được định hướng tới các đối tượng vô tri vô giác, nhưng trong xã hội học quá trình này chỉ dành riêng cho con người. Tập tính học, khoa học về hành vi xã hội của động vật, đã nghiên cứu xung đột một cách sâu rộng. Một trong những nhà Tập tính học người Áo rất nổi tiếng Konrad Lorenz, nhận giải Nobel năm 1973 và là tác giả của cuốn Về sự gây hấn (On Aggression) [9]. Theo tập tính học, bốn bản năng cơ bản ảnh hưởng đến hành vi của động vật: đói, sinh sản, gây hấn và sợ hãi. Đối với các loại xung đột, đó là hai: giữa các thành viên của cùng loài và giữa các loài khác nhau. Các chức năng của xung đột cùng loài, rất phổ biến, bao gồm ba chức năng: i) thiết lập sự cân bằng giữa dân số và môi trường, ii) bảo vệ thành viên non trẻ, và iii) tái sinh sản bởi các thành viên mạnh nhất của loài. Bên cạnh đó, xung đột khác loài dựa trên ba nguyên tắc: i) sự thống trị, hoặc ưu thế của một thành viên đối với các thành viên khác; ii) lãnh thổ, hoặc sự chiếm đoạt một vùng đất bởi một số thành viên; và iii) liên kết, hoặc các mối quan hệ hòa bình và độc lập giữa các thành viên của loài.
_______________________________________

Còn nữa….

* Ghi chú: Phần tổng quan cho Đề cương nghiên cứu của Đề tài Tác động của biến đổi xã hội đến ổn định và phát triển vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện nay (Thuộc Ch­ương trình Khoa học và Công nghệ cấp quốc gia giai đoạn 2016-2020: Những vấn đề cơ bản và cấp bách về dân tộc thiểu số và chính sách dân tộc ở Việt Nam đến năm 2030”, Mã số CTDT/16-20) của Viện Văn hóa Dân gian Ứng dụng, Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam.


Tài liệu dẫn

Adams, Robert (2008). Empowerment, participation and social work. New York: Palgrave Macmillan.

Ahlburg, Dennis A. (1996). Population Growth and Poverty, In The Impact of  Population Growth on Well-Being in Developing Countries, ed. Dennis A. Ahlburg, Allen C. Kelley, and Karen Oppenheim Mason (Berlin: Springer, 1996), 219-258.

Alchon, Austin Suzanne (2003). A pest in the land: new world epidemics in a global perspective. University of New Mexico Press. p. 21.

Alchon, Austin Suzanne (2016). Historical Estimates of World Population. Census.gov. Retrieved November 12, 2016.

Allen T, Thomas A (1992). Poverty and Development into the 21st Century. Oxford: The Open University.

Al-Rodhan, R.F. Nayef and Gérard Stoudmann. (2006). Definitions of Globalization: A Comprehensive Overview and a Proposed Definition. Program on the Geopolitical Implications of Globalization and Transnational Security. 

Althusser, Louis (2014). On The Reproduction Of Capitalism: Ideology And Ideological State Apparatuses, trans. and ed. G.M. Goshgarian (Verso, 2014).

Anderson, Benedict (1983). Imagined Communities: Reflections on the Origin and Spread of Nationalism, rev. ed., London: Verso.  

Bairoch, Paul (1995). Were Third World Raw Materials Central to Western Industrialization?" in his Economics and World History (Chicago, 1995), 59-71;

Barlow, Robin (1994). Population Growth and Economic Growth: Some More  Correlations,” Population and Development Review 20, no. 1 (1994): 153-165.

Barry, B., & Robinson, R.J. (2002). Ethics in conflict resolution: The ties that bind. In International Negotiation, 7: 137-142.

Bauman, Z. (1998). Globalization: The Human Consequences. Columbia University Press.

Beck, Ulrich & Giddens, Anthony & Lash Scott (1994). Reflexive Modernization. Politics, Tradition and Aesthetics in the Modern Social Order. Cambridge: Polity Press.

Bell, Daniel (1966). Work, Alienation and Social Control, in Irving Howe (ed.), The Radical Papers. Garden City, NY: Doubleday and Co., 1966; pp. 86-98.

Bell, Daniel (1973). The Coming of Post-Industrial Society: A Venture in Social Forecasting. New York: Basic Books.

Berger, Peter L; Kellner, Hansfried (1965). Arnold Gehlen and the Theory of Institutions, In Social Research, Camden, N. J.Description: Description: https://search.proquest.com/assets/r20171.5.0.370.1211/core/spacer.gif32.1Description: Description: https://search.proquest.com/assets/r20171.5.0.370.1211/core/spacer.gif (Spring 1965): 110.

Berger, Peter L.; Brigitte Berger and Hansfried Kellner (1974). The Homeless Mind, Published by Penguin Books Ltd.

Bilance (1997). A world in balance – Bilance stands for Social Development: Policy paper”. Oegstgeest, September 1997.

Birnbaum, Norman, and Gertrud Lenzer, eds. (1969). Sociology and Religion: A Book of Readings. Englewood Cliffs: Prentice-Hall, 1969.

Black, Max (1961). Social theories of Talcott Parsons: a critical examination. Topics Sociology, Sociologie. Publisher Englewood Cliffs, N.J.,: Prentice-Hall

Bock, Philippe. K. (1969). Modern Cultural Anthropology – An Introduction. Alfred A. Knopf, New York.

Bond, Niall (1991). Sociology and ideology in Ferdinand Tönnies’ Gemeinschaft und Gesellschaft. Freiburg 1991 (Freiburg (Breisgau), Univ., Diss., 1991).

Bourdieu, P. (1983). Ökonomisches Kapital, kulturelles Kapital, soziales Kapital. in Soziale Ungleichheiten (Soziale Welt, Sonderheft 2), edited by Reinhard Kreckel. Goettingen: Otto Schartz & Co.. 1983. pp. 183-98.

Bourdieu, P. (1984a). Homo Academicus, (French Edition) Les Éditions de Minuit, Paris, 1984

Bourdieu, P. (1984b). Distinction: A Social Critique of the Judgment of Taste, trans. Richard Nice, 1984. Harvard University Press.

Bourdieu, P. (1989). The Corporatism of the Universal: The Role of Intellectuals in the Modern World. Telos 81 (Fall 1989). New York

Bourdieu, Pierre and Jean-Claude Passeron (1990). Reproduction in Education, Society and Culture, Second Edition, SAGE Publications Ltd.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2015). Đề án tổng thể chuyển đổi phương pháp tiếp cận đo lường nghèo từ đơn chiều dựa vào thu nhập sang đa chiều áp dụng trong giai đoạn 2016-2020. Hà Nội. 

Brandt R (1980). North- South: a Programme for Survival, the report of the Independent Commission on International Development Issues. London: Pan Books.

Buxton, William J. and David Rehorick (2001). The Place of Max Weber in the Post-Structure Writings of Talcott Parsons. In A. Javier Trevino (ed.) Talcott Parsons Today: His Theory and Legacy in Contemporary Sociology. Lanham: Rowman & Littlefield.

Carneiro, Robert L. and Perrin, Robert G. (2005). Herbert Spencer's 'Principles of Sociology:' a Centennial Retrospective and Appraisal. In Annals of Science 2002 59(3): 221–261.

Carr, L. (1932). Disaster and the sequence-pattern concept of social change. In American Journal of Sociology, 38, 209-215.

Chirot, Daniel (1977). Social Change in the Twentieth Century. New York: Harcourt Brace Jovanovich.

Clausen Lars, Carsten Schlüter (Hrsg.) (1991). Hundert Jahre „Gemeinschaft und Gesellschaft“. Ferdinand Tönnies in der internationalen Diskussion. Leske + Budrich, Opladen 1991.

Coetzee KJ, Graaf J, Heindricks F, Wood G (2007). Development: Theory, Policy and Practice. Cape Town: Oxford University Press.

Cohen, R.B. (1988). State Formation and Political Legitimacy. Edited by Ronald Cohen and Judith D. Toland. Myron J. Aronoff. 

Coleman James S. (1988). Social Capital in the Creation of Human Capital, article in The American Journal of Sociology, Vol. 94, Supplement: Organizations and Institutions: Sociological and Economic Approaches to the Analysis of Social Structure, pp. S95–120 (1988).

Coleman James S. (1990). Equality and Achievement in Education. Publisher: Westview Press.

Coleman, J. S., Campbell, E. Q., Hobson, C. J., McPartland, J., Mood, A. M., Weinfeld, F. D., and York, R. L. (1966). Equality of Educational Opportunity. 2 volumes. Washington, D.C.: Office of Education, U. S. Department of Health, Education, and Welfare, U. S. Government Printing Office.

Collins, Patricia Hill (1998). Toward a new vision: race, class and gender as categories of analysis and connection. In Social Class and Stratification: Classic Statements and Theoretical Debates. Boston: Rowman & Littlefield. pp. 231–247.

Comte, Auguste (1896,1974). The Positive Philosophy of Auguste Comte, Volumes I, II, and III. London: Bell. Translated by Martineau, Harriet.

Dahrendorf, Ralf (1959). Class and Class Conflict in Industrial Society. Stanford: Stanford University Press.

Dahrendorf, Ralf (1968). Essays in the Theory of Society. Stanford: Stanford University Press

Dahrendorf R. (1992). Der moderne soziale Konflikt: Essay zur Politik der Freiheit. DVA, Stuttgart.

Day, R.J. F. 2000. Multiculturalism and the History of Canadian Diversity. University of Toronto Press, 2000.

Deji, Olanike F. (2011). Gender and Rural Development. London: LIT Verlag Münster. p. 93.

Domhoff, G. William (2013). Who Rules America? The Triumph of the Corporate Rich. McGraw-Hill. p. 288.

Doob, Christopher (2012). Social Inequality and Social Stratification in US Society (1st ed.), Pearson Education.

Doob, Christopher (2013). Social Inequality and Social Stratification in US Society. Upper Saddle River, New Jersey: Pearson Education Inc. p. 38

Douglass C. North, John Joseph Wallis, and Barry R. Weingast (2012). Violence and Social Orders: A Conceptual Framework for Interpreting Recorded Human History. Cambridge: Cambridge University Press (2012).

Drèze, Jean, and Amartya Sen (1995). India: Economic Development and Social Opportunity. Delhi, Oxford University Press, New York.

Durkheim, Émile (1893, 2008). De la division du travail social: étude sur l'organisation des sociétés supérieures. Paris: Alcan, 1893., https://archive.org/detail/.

Durkheim, Émile (1982). Preface to the second edition. In The Rules of Sociological Method and Selected Texts on Sociology and its Method. Edited with an introduction by Steven Lukes; translated by W. D. Halls. New York: The Free Press. pp. 34–47.

Eaton, Jonathan and Samuel Kortum (2001). Trade in Capital Goods. European Economic Review 45:1195–1235.

Elias, J. (2007). Women Workers and Labour Standards: The Problem of “Human Rights”’, Review of International Studies, 33(1):45-57

Ekelund, R. & Hebert, R. (2007).  A History of Economic Theory and Method 5th Edition. Waveland Press, United States, p. 105.

Ellis Jones, Ross Haenfler and Brett Johnson (2001). Bringing Social Change to Average Folks: The Power of Everyday Actions. Left Hand Books. December 2001. Boulder, CO.

Esping-Andersen, Gøsta (1993). Changing classes stratification and mobility in post-industrial societies. London Newbury Park, California: Sage Publications.

Form William, Nico Wilterdink (2002). Social structure, https://www.britannica.com/ 

Friedman, Ellen & Jennifer Marshall (2004). Issues of Gender. New York: Pearson Education, Inc. 

Frisbie, Parker (1975). Measuring the Degree of Bureaucratization at the Societal Level. Soc Forces (1975) 53 (4): 563-573.

Geertz, Clifford (1963) Agricultural Involution: The Processes of Ecological Change in Indonesia. Berkeley and Los Angeles, California: University of California Press.

Gehlen, Arnold (1914). Der Mensch, seine Natur und seine Stellung in der Welt. AULA-Verlag, Wiebelsheim 2014.

Gellner, Ernest (1983). Nations and Nationalism. Ithaca: Cornell University Press.

Giddens, Anthony (1971). Capitalism and Modern Social Theory: an Analysis of the Writings of Marx, Durkheim and Max Weber. Cambridge University Press.

Giddens, Anthony (1973). The Class Structure of the Advanced Societies. London : Hutchinson.

Giddens, Anthony (ed.) (1986). Durkheim on Politics and the State. Cambridge: Polity Press.

Ginsberg M. (1958). Social Change, The British Journal of Sociology, Vol. 9, No. 3, Sep., 1958.

Goldthorpe J. (1987). Social mobility and class structure in modern Britain. Oxford: Clarendon Press.

Gorski, Philip (2008). After Secularization? In Annual Review of Sociology 34(1): 55-85.

Gouldner, Alvin (1970). The Coming Crisis of Western Sociology. London: Heineman, 1970.

Gowdy, John (2006). Hunter-gatherers and the mythology of the market. In Lee, Richard B. and Richard H. Daly. The Cambridge Encyclopedia of Hunters and Gatherers. Cambridge University Press. pp. 391–393.

Greenwood C. Lawrence Jr. (Vice President, Asian Development Bank) 2008. Sustainable Natural Resource Use and Economic Competitiveness: Challenges and Opportunities. Greater Mekong Subregion Economic Cooperation Program Second Environment Minister’s Meeting.

Grusky, David B. (2011). Theories of Stratification and Inequality. In Ritzer, George and J. Michael Ryan. The Concise Encyclopedia of Sociology. Wiley-Blackwell. pp. 622–624. Retrieved 23 June 2014.

Grusky, David B. (2011a). Theories of Stratification and Inequality. In Ritzer, George and J. Michael Ryan. The Concise Encyclopedia of Sociology. Wiley-Blackwell. pp. 622–624.

Grusky, David B (2011b). The Past, Present and Future of Social Inequality. In Social Stratification: Class, Race, and Gender in Sociological Perspective (Second Edition). Boulder: Westview Press. pp. 3–51.

Grusky, David B. & Ann Azumi Takata (1992). Social Stratification. The Encyclopedia of Sociology. Macmillan Publishing Company. pp. 1955–70.

Guess,Teresa J (2006). The Social Construction of Whiteness: Racism by Intent, Racism by Consequence. Critical Sociology. 32 (4): 649–673.

Habermas, Jürgen (1987). The Theory of Communicative Action Volume 2. Lifeworld and System: A Critique of Functionalist Reason. Boston: Beacon, 1987.

Hall, Stuart (1977). Rethinking the Base and Superstructure Metaphor. Papers on Class, Hegemony and Party. Bloomfield, J., ed. London: Lawrence & Wishart, 1977.

Halsall, Paul (1997). Modern History Sourcebook: Summary of Wallerstein on World System Theory, Fordham University.

Harman, Chris (1986). Base and Superstructure. International Socialism 2:32, Summer 1986, pp. 3–44.

Harris, Marvin (1967). The Rise of Anthropological Theory: A History of Theories of Culture. Routledge.

Harrison, D. (1988). The Sociology of Modernization and Development. London: Unwin Hyman Ltd.

Hechter, M. and Horne, C. (2003). Theories of Social Order: A Reader. Stanford University Press.

Henrard, Kristen (2000). Devising an Adequate System of Minority Protection: Individual Human Rights, Minority Rights and the Right to Self-Determination. New York: Springer.

Hilary Silver (1994). Social Exclusion and Social Solidarity. International Labour Review 133, nos. 5-6 (1994): 531-78.

Holborn, M. & Langley, P. (2004). Sociology: Themes and perspectives, AS & A level Student Handbook, accompanies the Sixth Edition: Haralambos & Holborn,London: Collins Educational.

Holmwood, John (2006). Society. The Cambridge Dictionary of Sociology, Edited by Bryan S. Turner. Cambridge University Press.

Hout, Michael and Claude Fischer (2014). Explaining Why More Americans Have No Religious Preference: Political Backlash and Generational Succession, 1987-2012.” Sociological Science 1(9).

Hout, W. (1993). Capitalism and the Third World: Development, dependence and the world system, Hants: Edward Elgar, 1993.

Ingold, Tim (2006). On the social relations of the hunter-gatherer band, in Richard B. Lee and Richard H. Daly (eds.), The Cambridge Encyclopedia of Hunters and Gatherers, p. 400. New York: Cambridge University Press.

Innes M. (2003). Understanding Social Control: Crime and Social Order in Late Modernity - Deviance, crime and social order. McGraw-Hill Education (UK).

Isaacs, Harold  2004 (Ed.)  Exploring Conflicts and conflict Resolution in the Contemporary Third World. In ATWS Proceedings, Twenty Second Annual Meeting (2004) Americus, GA: Association of Third World Studies, Inc., 2005, 97 pp.

Janowitz, Morris (1975).  Sociological Theory and Social Control. American Journal of Sociology. The University of Chicago Press Article. 81 (1): 82–108.

Joseph E. Davis ed. (2000). Identity and Social Change. Routledge, Taylor & Francis Group. First published by Transaction Publisher. 

Karl Marx - Friedrich Engels (1969). Die deutsche Ideologie, Werke, Band 3, S. 5 – 530 Dietz Verlag, Berlin/DDR 1969.

Kenneth, A. (2006). Contemporary social and sociological theory: visualizing social worlds. Thousand Oaks, CA: Pine Forge Press, 2006.

Kerr C., J. T. Dunlop, F. H. Harbison and C. A. Myers (1962). Industrialism and Industrial Man. Heinemann, London.

Knight, C. (2008). Early Human Kinship was Matrilineal. In N. J. Allen, H. Callan, R. Dunbar and W. James (eds), Early Human Kinship. London: Royal Anthropological Institute, pp. 61–82.

Kondratieff N. (1935). The Long Waves in Economic Life. Review of Economics and Statistics 18(6): 105–15.

Kondratieff N. 2002. Big Cycles of Conjuncture and Theory of Prevision, Selected Works / Ed. by Y. V. Yakovets, and L. I. Abalkin. In Russian (Кондратьев Н. Д. Большие циклы конъюнктуры и теория предвидения. Избранные труды / Pед. Я. В. Яковец, Л. И. Абалкин. М.: Экономика).

Kondratieff N. 2004 [1922]. The World Economy and its Conjunctures During and After the War / Ed. by Y. V. Yakovets, and N. A. Makasheva; transl. by V. Wolfson. Moscow: International Kondratieff Foundation.

Krugman, Paul (2011). More Thoughts on Equality of Outcome. Published in The New York Times. (January 11, 2011)

Kymlicka, Will (1995). Multicultural Citizenship: A Liberal Theory of Minority Rights. Oxford University Press, 1995.

Lepenies Wolf (2010). Auguste Comte: die Macht der Zeichen, Carl Hanser, Munich.

Lindell, Michael K.; Carla S. Prater; Ronald W. Perry; William C. Nicholson (2006). Fundamentals of Emergency Management. United States, Federal Emergency Management Agency.

Lockwood, David (1958). Some Remarks on the Social System. In British Journal of Sociology vol.7. no.2. 1958. pp. 115–124.

Luhmann, Niklas (1984, 1995). Soziale Systeme: Grundriß einer allgemeinen Theorie, Frankfurt: Suhrkamp (English translation: Social Systems, Stanford: Stanford University Press, 1995).

MacIver R. and Page C. (1949). Society: An Introductory Analysis. New York: Holt, Rinehart.

Macionis, Gerber, John, Linda (2010). Sociology 7th Canadian Ed. Toronto, Ontario: Pearson Canada Inc. p. 243.

Mason, K. & H. Carlsson (2004). The Impact of Gender Equality in Land Rights on Development. In Human Rights and Development: Towards Mutual Reinforcement. New York.

Maslow A. (1943). A Theory of Human Motivation, in Psychological Review, 1943, Vol. 50-4, pp. 370–396).

McIntire, C. T.; Perry, Marvin, eds. (1989). Toynbee: Reappraisals. University of Toronto Press.

McRoberts, Kenneth (1997). Misconceiving Canada: The Struggle for National Unity. Oxford University Press, 1997.

Merton, Robert K. (1968). Social Theory and Social Structure, Free Press.

Mies, Maria (1999). Patriarchy and Accumulation on a World Scale: Women in the International Division of Labour. London: Palgrave MacMillan.

Modis, T. (2007). Strengths and weaknesses of S-curves. In Technological Forecasting and Social Change, 2007, 74(6), 866-872.

Mommsen, Wolfgang J. (1992). The Political and Social Theory of Max Weber: Collected Essays, University of Chicago Press.

Moore, Wilbert E. (1964) Social Change, Prentice Hall: New Jersey.

Murdock, George Peter (1949). Social Structure. New York: The MacMillan Company.

Neumayer, Eric (2010). Human Development and Sustainability. In Human Development Research Paper, United Nations Development Programme.
     
Ngân hàng Thế giới (2005). Sổ tay hoạt động của Ngân hàng Thế giới – Chính sách hoạt động OP 4.10, tháng 7 năm 2005. Văn phòng Ngân hàng Thế giới tại Hà Nội.

Nielsen, Kai 1987. Rejecting Egalitarianism, Political Theory, Vol. 15, No. 3 (Aug., 1987), pp. 411-423.

Noel, Donald L. (1968). A Theory of the Origin of Ethnic Stratification. Social Problems. 16 (2): 157–172.

Norbert, Elias (1994). The Civilizing Process. Sociogenetic and Psychogenetic Investigations. Oxford: Basil Blackwell.

Ogburn, William F. (1966). Social change: With respect to cultural and original nature. Oxford England: Delta Books.

Olinto, Pedro & Jaime Saavedra (April 2012). An Overview of Global Income Inequality Trends". Inequalitty in Focus. 1 (1).

Ostergren R. C. and Rice J. G. (2004). The Europeans: A Geography of People, Culture and Environment (New York: Guilford Press).

Oxfam International (2014). Rigged rules mean economic growth increasingly "winner takes all" for rich elites all over world. Oxfam, 20 January 2014.

Pakulsky, Jan (2006). Social Stratification. The Cambridge Dictionary of Sociology, Edited by Bryan S. Turner. Cambridge University Press, pp. 586-7.

Parsons, Talcott (1951). The social system. First published in England, 1951by Routledge & Kegan Paul Ltd.

Parsons, Talcott (1961). An Outline of the Social System, pp. 36-43, 44-7, 70-2 from Talcott Parsons, Edward A. Shils, Kaspar D. Naegle, and Jesse R. Pitts (eds.), Theories
of Society (New York: Simon & Schuster, The Free Press, 1961).

Parsons, Talcott 1983. The Structure and Change of the Social System Edited by Washio Kurata (lectures from Parsons' second visit to Japan).

Perry-Rivers, P. (2014). Stratification, Economic Adversity, and Entrepreneurial Launch: The Converse Effect of Resource Position on Entrepreneurial Strategy". Entrepreneurship Theory & Practice.

Phan Xuân Sơn (2015). Phát triển xã hội. Tạp chí Lý luận chính trị số 5-2015, Hà Nội.

Pieterse, Nederveen Jan (1988). A Critique of World System Theory, International Sociology, Volume: 3 issue: 3, page(s): 251-266, September 1, 1988.

Poore, S. (2007). Overview of Social Control Theories. The Hewett School. Retrieved on: September 2, 2007. 

Population Reference Bureau (2013). World Population Data Sheet". Population Research Bureau.

Power, A., Wilson, W.J., (2000). Social Exclusion and the Future of Cities, Centre for Analysis of Social Exclusion, London School of Economics, London.

Prescott-Allen, R. (2001). The wellbeing of nations. Washington DC: Island Press.

Putman R. 1993. The Prosperous Community: Social Capital and Public Life, in : The American Prospect, Volume 4, Issue 13, March 21, 1993, 35-42.

Quarantelli E.L. (editor) (1998). Where We Have Been and Where We Might Go, What is a Disaster?: A Dozen Perspectives on the Question, London, Routledge, 1 edition 1998, pp.146-159

Radcliffe-Brown A.R. (1940). On Social Structure, The Journal of the Royal Anthropological Institute of Great Britain and Ireland, Vol. 70, No.1 (1940), 1-12.

Rapley, Mark & Susan Hansen (2006). Society. In The Cambridge Dictionary of Sociology, Gen. Ed. Bryan S. Turner, Cambridge University Press.

Raskin, P. 2006. The Great Transition Today: A Report from the Future. Boston.

Reckwitz, Andreas (2002). The Status of the “Material” in Theories of Culture: From “Social Structure” to “Artefacts”, Journal for the Theory of Social Behaviour 32:2, The Executive Management Committee/ Blackwell Publishers Ltd. 2002

Robèrt, Karl-Henrik 2002. The Natural Step Story: Seeding a Quiet Revolution. Gabriola Island, BC: New Society Publishers.

Robertson I. (1989). Society: A Brief Introduction. New York: Worth Publishing Co.

Robinson A.M. (2007). Multiculturalism and the Foundations of Meaningful Life. UBC Press, 2007.

Sahlins, Marshall D. (1960). Evolution and Culture, edited with Elman R Service. Ann Arbor: University of Michigan Press.

Samapti, Marakkath, Nadiya (Eds.) (2015). Technology and Innovation for Social Change, Publisher Springer India.

Sass, J., and Crosbie, T. (2013). Democracy and Scandal: A esearch Agenda. Comparative Sociology. 12(6): 851-862.

Saunders, Peter (1990). Social Class and Stratification. Routledge.

Segnestam, Lisa (2002). Indicators of Environment and Sustainable Development Theories and Practical Experience, The World Bank Environment Department, Room MC-5-126. Paper No.89, Environmental Economics Series.

Sen, A., (1980). Equality of What? in McMurrin (ed.), Tanner Lectures on Human Values, Cambridge: Cambridge University Press.

Sen, A. (1984). Rights and Capabilities, in Resources, Values and Development, Cambridge, MA: Harvard University Press, pp. 307–324.

Sen, A. (1985). Commodities and Capabilities, Amsterdam: North-Holland.

Sen, A., (1993). Capability and Well-being, in Nussbaum and Sen (eds.), The Quality of Life, Oxford: Clarendon Press, pp. 30–53

Sen, A. (2005). Human Rights and Capabilities, in Journal of Human Development, 6(2): 151–66.ane.

Shils, Edward (1961). The Intellectual Between Tradition and Modernity: The Indian Situation. Comparative Studies in Society and History, Supplement 1. The Hague: Mouton.

Silver, Hilary (2007). Social Exclusion: Comparative Analysis of Europe and Middle East Youth, Middle East Youth Initiative Working Paper (September 2007), p.15

Sorokin, Pitirim (1937). Social and Cultural Dynamics, Cincinnati: American Book Company, 1937-41. 4 vol.

Sorokin, Pitirim (1947). Society, Culture, and Personality: Their Structure and Dynamics, A System of General Sociology, Harper & Brothers Publishers, New York & London.

Sorokin, Pitirim (1957). Social and Cultural Dynamics: A Study of Change in Major Systems of Art, Truth, Ethics, Law and Social Relationships, Boston: Extending Horizons Books.

Spencer, Herbert (1896, 1962). The study of sociology. New York, D. Appleton and Company.

Stark, Rodney (2007). Sociology, Tenth Edition. Thompson Wadsworth.

Stern, Bernhard J. (1946) Lewis Henry Morgan Today; An Appraisal of His Scientific Contributions, In Science & Society, vol. 10, no. 2 (Spring 1946), pp. 172–176.

Struening, Karen (2002). New Family Values: Liberty, Equality, Diversity. New York: Rowman & Littlefield.

Stutz, John 2006. The Role of Well-being in a Great Transition. Tellus Institute 11 Arlington Street Boston, USA.

Sullivan, Shannon (2006). Revealing Whiteness: The Unconscious Habits of Racial Privilege. Indiana University Press.

Sussman G.D (2011). Was the black death in India and China?. Bulletin of the history of medicine. 85 (3): 319–55.

Talcott Parsons, ed. (1968). Knowledge and Society - American Sociology. New York: Basic Books, 1968.

Talcott Parsons (1983). The Structure and Change of the Social System Edited by Washio Kurata.

Taylor, Charles (1994). Multiculturalism: Examining The Politics of Recognition. Ed. Amy Gutmann. Princeton University Press, 1994.

Throsby, David (1994). The Production and Consumption of the Arts: A View of Cultural Economics, In Journal of Economic Literature, V. XXXII, 1994, pp. 1-29

Throsby, David 2001. Economics and Culture, Cambridge University Press, 2001.

Thủ tướng Chính phủ (2015). Quyết định số 1614/QĐ-TTg Phê duyệt Đề án tổng thể Chuyển đổi phương pháp tiếp cận đo lường nghèo từ đơn chiều sang đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020. Hà Nội, ngày 15 tháng 9 năm 2015.

Tönnies, Ferdinand (1887, 1995). Gemeinschaft und Gesellschaft, Leipzig: Fues's Verlag. An English translation of the 8th edition 1935 by Charles P. Loomis appeared in 1940 as Fundamental Concepts of Sociology (Gemeinschaft und Gesellschaft), New York: American Book Co.; in 1955 as Community and Association (Gemeinschaft und gesellschaft[sic]), London: Routledge.

Toye, David L. (May 2004). The Emergence of Complex Societies: A Comparative Approach. World History Connected. 11 (2).

Toynbee, Arnold J. (1939)  A Study of History, In volume V The Disintegration of Civilizations (Part One) (Oxford University 1939).

Tilly, Charles (1975). Western State-Making and Theories of Political Transformation. Chapter 9 in Tilly (ed.), 1975.

Tilly, Charles (1984). Social Movements and National Politics. In Bright and Harding.

Tschannen, Oliver (1991). The Secularization Paradigm: A Systematization. In Journal for the Scientific Study of Religion 30:395-415

Turner, Bryan S. (1993). Citizenship and Social Theory, London: Sage.

Turner, Bryan S. (2006). Institution(s). The Cambridge Dictionary of Sociology, Edited by Bryan S. Turner. Cambridge University Press.

UNEP (United Nations Environment Programme) (1980). World Conservation Strategy: Living Resource Conservation for Sustainable Development. International Union for Conservation of Nature and Natural Resources, Gland.

United Nations (1987). Report of the World Commission on Environment and Development. General Assembly Resolution 42/187, 11 December 1987.

United Nations (1995). Indicators of Sustainable Development: Guidelines and Methodology (UN, Division for Sustainable Development; approved by the Commission on Sustainable Development at its Third Session in 1995).

United Nations (1996). Work Programme on Indicators of Sustainable Development of the Commission on Sustainable Development, prepared by The Division for Sustainable Development in the Department for Policy Coordination and Sustainable Development, United Nations, New York.

Uỷ ban về các vấn đề Xã hội của Quốc hội (2009). Tuyên ngôn về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ của Liên hợp quốc - Trang tin của Nhóm nữ Nghị sĩ Việt Nam - Uỷ ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội, Văn phòng Quốc hội. 

Vincent J. 2002. Anthropology of Politics: A Reader in Ethnography, Theory, and Critique. Blackwell Publisher. 

von Herder, Johann Gottfried (1774 – 1776). Oldest Document of the Human Race (1774-76).

Waites, Bernard (1999). Europe and the Third World: From Colonisation to Decolonisation, c. 1500 - 1998 (New York, 1999), 225.

Wallerstein, I. (1974). The Modern World System: Capitalist Agriculture and the Origins of the European World Economy in the Sixteenth Century, New York: Academic Press, 1974.

Wallerstein, Immanuel Maurice (1974). The Modern World-System I: Capitalist Agriculture and the Origins of the European World-Economy in the Sixteenth Century. New York: Academic Press.

Wallerstein, Immanuel Maurice (2004). World-systems analysis: An introduction. Duke University Press.

Warner, W. Lloyd (1945). The Social Systems of American Ethnic Groups. New Haven, Yale University Press.

Warner, W. Lloyd (1960). Social class in America: A Manual of Procedure for the Measurement of Social Status. Gloucester, Mass., P. Smith.

Weber, Max (2008). Nền đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản. Dịch giả: Bùi Văn Nam Sơn, Nguyễn Nghị, Nguyễn Tùng, Trần Hữu Quang. Nhà xuất bản Tri Thức. Hà Nội 2008. 

White, Leslie A. (1959). The Evolution of Culture: The Development of Civilization to the Fall of Rome, published by Left Coast Press.

Wilterdink Nico, William Form (1998). Social change. https://www.britannica.com/

Woodard, James W. (1934). Critical Notes on the Culture Lag Concept. Social Forces 12.3 (Mar. 1934): 388-398.

World Bank (2006). Social Development Papers, South Asia Series. Social Development Department.

Worsley, Peter (1979). One World or Three? A Critique of World System Theory of Immanuel Wallerstein. This paper was prepared for a Conference in Berlin in September 1979 organised by the Institut fiir Vergleichende Sozialforschung (Viện Nghiên cứu So sánh Xã hội).

Wright, Erik Olin (1997). Class counts: comparative studies in class analysis. Cambridge New York Paris: Cambridge University Press.

Young, P. (1993). Technological growth curves: A competition of forecasting models. In Technological Forecasting and Social Change, 1993, 44(4), 375-389.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét