Kim Định, Trang Tử và Lévi-Strauss
Le Minh Khai
Người dịch:
Hà Hữu Nga
Trong công trình năm 1973, Cơ cấu Việt Nho, Kim Định đã giới thiệu lý thuyết cấu trúc luận đến độc giả của mình. Phụ thuộc nhiều vào thông
tin trong tác phẩm Nhân
học Cấu trúc của Claude
Lévi-Strauss, Kim Định lưu ý người đọc về tầm quan trọng của những phát hiện mà
nhà ngôn ngữ học Thụy Sĩ
Ferdinand de Saussure đã thực hiện trong những năm đầu thế kỷ XX
đối với cấu trúc luận.
Khi cho rằng ngôn ngữ bao gồm các “ký hiệu” ngôn ngữ học chứa đựng một hình ảnh-âm thanh (cái biểu đạt) và một khái niệm hoặc những khái
niệm, liên kết với nó (cái được biểu đạt), và ý nghĩa của cái biểu đạt đã được xác lập thông qua các mối quan hệ của chúng với những cái biểu đạt
khác trong ngôn ngữ, de
Saussure lập luận rằng ngôn ngữ phải được nghiên cứu như là nó tồn tại ở một thời
điểm (đồng đại) để hiểu được cách thức toàn bộ hệ thống các ký hiệu ngôn ngữ liên
quan
vận hành, chứ không phải
là để xem xét các ký hiệu đơn lẻ đã thay đổi ra sao theo thời gian (lịch đại) như các nhà ngôn ngữ học đã thực hiện trước thời
ông.
Vì vậy, khi giới thiệu khái niệm cách tiếp cận đồng đại
này cho
việc nghiên cứu ngôn ngữ, Kim
Định tiếp tục giải thích cách tiếp cận này có thể được áp dụng cho việc
nghiên cứu lịch sử ra sao.
Kim Định giới thiệu
với độc giả của mình
về sự khác biệt giữa lịch sử đồng đại (sử hàng dọc) và lịch sử lịch đại (sử ngang dọc), hoặc những
gì mà ông gọi là chủ nghĩa lịch sử (duy sử). Cách tiếp cận thứ hai này tập trung vào việc
dẫn chứng bằng tài liệu những
thay đổi quan sát được qua thời gian, hoặc cái được giới học thuật lịch sử Pháp trong thế kỷ XX gọi
là “các
sự kiện”
(événements). Lịch sử đồng
đại, Kim Đinh giải
thích, khác nhau vì “nó hoạt động bằng tiềm thức, không cần phải tự thể hiện bản thân trong một cá nhân và do đó
không thể được ghi lại trong thời gian hoặc không gian, nhưng nó vẫn có thể được
gọi là lịch sử vì nó là chân thật mặc dù không có thực (vraie mais irréelle).” Cách Kim Định lý giải iết bằng tiếng Việt là “thật tuy không thực (vraie mais irréelle).”
Ý tưởng về một cái gì đó có thể là “thật tuy không thực” ấy là một thứ mà Kim Định nhìn nhận giống với một dòng trong sách Trang Tử mô tả vũ trụ như sau: 有實而無乎處者,宇也;有長而無本剽者,宙也。Hữu thực nhi vô hồ xứ giả, vũ dã ; Hữu trường nhi vô bản
phiểu giả, trụ dã: dịch ý: Cái có thực mà không định được nơi chốn thì là vũ (không gian) vậy; Cái lâu
dài mà không truy được gốc ngọn thì gọi là trụ (thời gian) đấy. [莊子•庚桑楚, Trang Tử - Canh Tang Sở]. Liên
hệ quan niệm này với
lịch sử, Kim Định cho rằng
“cái hiện hữu đó” là một tác động hoặc nguyên lý có thể hướng dẫn, hoặc là một lý tưởng có thể hỗ trợ, con người, nhưng
thực tế là nó “không có nơi chốn” có nghĩa là nó không cần kết tinh hoặc có
hình dạng trong một cá nhân
cụ thể. Do đó nó là một nguyên mẫu (sơ nguyên tượng) hoặc một mô hình (điển loại)
tồn tại trong một loại thiên đường (thiên thai) mà người ta đều mong muốn nó trở nên hiển hiện.
Để minh
họa cho các khái niệm trừu
tượng này, Kim Định quay trở về với tích truyện trong Lĩnh Nam
chích quái
và Đại Việt sử ký toàn thư về Đế Minh, hậu duệ đời
thứ ba của Thần Long,
là người đã đi về phương nam đến vùng Ngũ Lĩnh và thành thân với một người phụ nữ tên là Vụ Tiên.
Trước thế kỷ XX, các
học giả ở Việt Nam đã
nghi ngờ tính xác thực của
tích truyện đó, tuy
nhiên họ vẫn coi
đó như là một dấu hiệu của một
dòng chính thống liên kết các triều đại Việt nối tiếp nhau với một cội nguồn cổ xưa của quyền lực chính trị. Vào những
năm đầu thế kỷ XX, tích truyện này được các học giả Pháp và Việt Nam đầu tiên giải
thích bởi nhằm chỉ các cuộc di cư có thực, có thể giúp xác định rõ người Việt là ai (về phương diện chủng tộc).
Trong Cơ cấu Việt Nho, Kim Định xuất trình một giải thích mới về tích truyện này, một tích truyện được lấy cảm hứng - nhưng không theo đúng với những ý tưởng
- của cấu trúc luận. Theo
Kim Định, không có lý do gì để nghĩ rằng những con người được đề cập đến trong tích
truyện này đã từng tồn tại.
Thay vào đó, cái mà tích truyện này khải lộ với ông chính là
các nguyên tắc và các nguyên
mẫu mà người ta tìm thấy trong cấu trúc của xã hội.
Trước hết, Kim Định thấy trong tích truyện này một nguyên tắc di chuyển về phía ánh sáng ("minh" trong tên Đế Minh, có nghĩa là “ngời sáng” hay “ánh sáng”), một cách quy chiếu đến phương nam. Thứ hai, ông lập luận rằng nó cho thấy một tác động của cuộc rút lui trước một đội quân xâm lược. Và thứ ba, việc quy chiếu đến Ngũ Lĩnh là một chỉ dấu cho Kim Định về sự hiện diện của một nền văn hóa theo quan niệm Ngũ Hành trong Kinh dịch.
Làm thế quái nào mà Kim Định lại dựng đặt lên
các ý tưởng này? Một
phần đó là bằng cách sử dụng
một số các khái niệm của cấu trúc luận. Đặc biệt, cách đọc cấu trúc luận về một tích truyện tìm kiếm các khái niệm, nhất là cái các khái niệm ở thế đối lập nhị phân với nhau, để cố gắng tìm được
một mô thức chung để trình bày các tình tiết này.
Các đối lập nhị phân trong tích truyện này là gì vậy? Ừ thì, cái đối lập của ánh sáng là bóng tối. Ánh sáng thường được kết hợp với những điều tốt, còn bóng tối thì với những điều xấu. Sự đối lập của hành động di chuyển về phương nam là sự di chuyển về phương bắc.
Tuy nhiên, làm thế nào, mà chúng ta biết được Ngũ Lĩnh, bằng cách nào đó lại chỉ định một nền văn hóa dựa trên cơ sở Ngũ hành? Đó chính là chỗ mà Kim Định rơi vào thế rắc rối…
Một trong những chỉ
trích chủ yếu đối với cấu trúc luận là nó trao quá nhiều quyền lực cho “nhà
cấu trúc
luận” (tức là, người sản xuất ra
tri thức học thuật) để xác định ý nghĩa. Điều này chắc chắn đã
xảy ra trong trường hợp của Kim Định. Trước hết, Kim Định đã không tiếp cận
nghiên cứu về quá khứ từ một quan điểm trung lập. Ông đã có một chương trình
nghị sự rõ ràng. Ông muốn tạo ra một loại nền tảng đạo đức/tâm linh cho người dân Việt, và ông muốn nền
tảng đó là của riêng họ, chứ không phải là một thứ được “nhập khẩu” từ Trung Quốc hoặc phương Tây.
Vì vậy, cái
cung cách mà ông đã thực hiện điều này chính là bằng cách tuyên bố rằng “trước khi Trung Quốc là Trung Quốc” thì đã có một nền văn hóa ở đó, và nền văn hóa đó chính
là “Việt”. Tuy nhiên, để chứng minh điều này, ông cần bằng chứng, và
đối với các giai đoạn sớm
nhất của lịch sử trong khu vực (ví dụ, thời đại của các bậc trị vì huyền thoại như Thần Nông và Hoàng Đế) thì
chỉ có rất ít thông tin. Tuy
nhiên, cấu trúc luận
đã cung cấp cho
Kim Định “bằng chứng” bởi vì nó cho phép ông diễn giải những thông tin hạn chế để
ông xử lý theo những cách thức
mới lạ. Và đó chính xác
là những gì ông đã làm.
Vậy thì những kết luận của ông có chính xác không? Không.
Các kết luận của ông là quá
hỏng. Tuy nhiên, nếu chúng ta
xem xét công trình của ông từ viễn cảnh thời gian khi ông tạo ra nó, thì
dẫu sao nó cũng cực kỳ ấn tượng.
Đó là ông đã có thể làm chủ được các khái niệm trừu tượng mà những con người như Claude Lévi-Strauss đã nói đến, ông đã có thể kết nối những khái niệm đó
với các mô
tả trong các văn bản Trung Hoa cổ đại, và đưa ra một cách
giải thích/diễn
giải mới lạ
về tiền sử Việt, (ít nhất là ở một mức độ nào đó) dựa
trên tất cả các ý tưởng
này, đó là điều cực kỳ ấn tượng.
Nói cách khác, việc
cố gắng nhận
thức được
những gì Kim Định đã tìm
cách thực hiện, và việc luận ra được cách thức và lý do tại sao ông thất
bại, đó đơn giản là một
điều thật hấp dẫn.
_______________________________________
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét