Trao đổi phụ nữ trong huyền sử
Le Minh Khai
Người dịch:
Hà Hữu Nga
Trong cuốn sách Triết Lý Cái Đình của
mình, Kim Định
viết một chương có tựa đề Ba giai tầng Thông giao, trong đó ông bắt đầu bằng việc trích dẫn một câu của Claude Lévi-Strauss trong Nhân học Cấu trúc nói rằng “Trong bất kỳ xã hội nào, thì giao dịch cũng đều vận hành dựa trên ba cấp độ khác nhau: giao
dịch phụ nữ, giao dịch hàng hóa và dịch vụ, và
giao dịch thông tin."
Vấn đề đầu tiên, giao dịch hoặc trao đổi phụ nữ (trao đổi đàn bà) là một khái niệm chủ chốt mà Lévi-Strauss đã phát triển liên quan đến nguồn gốc của xã hội loài người,
và đó là một vấn đề mà Kim Định chứng tỏ rằng ông hiểu rõ trong tác phẩm Cơ cấu Việt Nho của
mình.
Lévi-Strauss thảo luận về khái niệm trao đổi phụ nữ trong công trình Cấu
trúc Cơ bản của Quan hệ Thân tộc (Structures élémentaires
de la Parente) của ông, công bố năm 1949. Trong tác phẩm
này, Lévi-Strauss tìm cách chứng minh rằng bên dưới bề mặt của nhiều hệ thống phức tạp và đa dạng của các mối quan hệ thân tộc trên
toàn thế giới là một số khái niệm cơ bản và phổ quát thông tin về các mối quan hệ
này, thì khái niệm cơ bản nhất trong số đó là việc cấm loạn luân.
Trong tự nhiên thì không có cái gì ngăn cản được những
cá thể thân cận giao phối với nhau. Do đó việc cấm loạn luân là một cấu trúc xã hội,
và đối với Lévi-Strauss, nó đánh dấu nguồn gốc của các xã hội loài người, hay một "quá trình chuyển đổi từ tự nhiên sang văn hóa."
Hơn nữa, việc cấm loạn luân đòi hỏi người ta phải kết hôn với người ngoài nhóm trực tiếp của mình, Lévi-Strauss đã chấp nhận ý tưởng của nhà xã hội học Pháp Marcel
Mauss cho rằng trao đổi là một kỹ thuật cơ
bản cho việc tạo ra sự gắn kết xã hội để lập luận rằng không chỉ những người bắt đầu thực
hành hôn nhân ngoại nhóm bằng cách cung cấp con gái của họ cho một nhóm khác, mà họ còn yêu cầu các nhóm khác cũng đưa con gái của họ cho nhóm mình, do đó tạo ra một nền tảng cho các mối quan hệ
xã hội.
Trong khi rõ ràng là Kim Định hiểu khái niệm này, thì trong cuốn Triết lý Cái đình ông lại đưa ra một lập luận khác liên
quan đến việc trao đổi phụ nữ. Thực chất lập luận của ông là chúng ta có thể tìm thấy các ví dụ lặp đi lặp lại trong các văn bản cổ xưa về các cuộc hôn nhân giữa những người
đàn ông từ khu vực ngày nay là vùng trung nguyên Trung Quốc (lưu vực sông Hoàng Hà) và phụ nữ từ các vùng ngoại biên. Ví dụ,
con trai của
Hoàng Đế, Chiêm Ích kết hôn với
một người phụ nữ Thục Sơn thị, mà ngày nay là vùng Tứ Xuyên. Đế Minh, trong biên niên sử Việt,
đi về phía Nam và kết hôn với Vụ Tiên, Chu
Mục vương của nhà Chu về phía nam (trên thực tế, tôi nghĩ rằng đó là phía tây) và kết hôn với 盛姬 Thịnh Cơ, và Triệu Đà kết hôn với
một người phụ nữ Việt , vv
Đối với Kim Định, ba ví dụ đầu tiên thuộc
về lĩnh vực huyền sử, có nghĩa là chúng ta không thể chắc chắn liệu các sự kiện ấy có thực sự xảy ra
không, nhưng
đối với ông, chúng vẫn đại diện cho một loại sự thực, và đối với Kim Định thì sự thực đó chính là nơi mà một người kết hôn với một phụ nữ thì
nơi đó có một
nền văn hóa cao hơn (Theo huyền sử. . . lấy vợ đâu thì đấy
kể là có văn minh cao hơn).
Đồng thời, một cách diễn giải khác cho quá trình này là đó là một bước tiến trong việc chinh phục các vùng ngoại
vi. Tuy nhiên, Kim Định cho rằng tiến trình chinh
phục chính
trị này vẫn kết nối với nền văn hóa mà ở đó các vùng bị chinh phục được ghi nhận là có nền văn hóa cao hơn văn hóa của kẻ chinh phục.
Kim Định đưa ra các quan điểm này bởi vì ông muốn
chứng tỏ rằng vùng lõi của văn hóa “Hán”, lưu vực sông Hoàng Hà, ban đầu không phức tạp như các khu vực
khác, chẳng hạn như khu vực Tứ Xuyên, nơi
mà người ta cho là người Viêm tộc (mà người Việt là một bộ phận) sinh sống. Tuy nhiên, không hề có
lập luận xã hội học / nhân học nào cho rằng “lấy vợ đâu thì đấy kể là có văn minh
cao hơn”, và
Lévi-Strauss chắc chắn đã không đưa ra một
lập luận như vậy.
Khi đưa ra các quan điểm này, Kim Định đã trích tác phẩm Sự bành trướng của người Hán ở Nam Trung
Quốc (Han Chinese Expansion in South China, trước đó có tiêu đề là China’s
March Toward the Tropics), trong đó Wiens đưa ra lập luận cho rằng Tứ Xuyên là một khu vực văn hóa phát triển trong thời cổ đại, tuy nhiên Wiens không khẳng định rằng Tứ Xuyên đã ở một trình độ phát triển văn hóa cao hơn so với khu vực xung
quanh sông Hoàng Hà.
Chẳng hạn, Wiens viết rằng “Trung tâm văn hóa sớm nhất
của Nam Trung Quốc dường như là Tứ Xuyên tại một thời điểm đồng thời với hoặc thậm chí trước khi xuất hiện đầu tiên của văn hóa Hán-Trung Quốc ở lưu vực sông Hoàng Hà,” và nếu các thông tin về
cuộc hôn nhân giữa gia đình Hoàng Đế và người Tứ Xuyên là đúng, thì đã có “những kết nối rất gần gũi” giữa khu vực Tứ Xuyên với nền văn minh sông Hoàng Hà.
Tuy nhiên, Wiens không mô tả những mối quan hệ đó như là các quan hệ thứ bậc về phương diện văn hóa. Nếu, mặt khác, chúng ta đi theo những ý tưởng của
Lévi-Strauss một cách trung thành hơn Kim Định, thì chúng ta có thể đi đến kết
luận ngược lại với kết luận của ông.
Lévi-Strauss cảm thấy rằng khía cạnh cơ bản nhất của việc tạo ra một xã hội
là việc trao đổi con gái ra ngoài khỏi nhóm, và hình
thức xã hội phức tạp hơn đòi hỏi nhóm “tiếp
nhận” cũng phải đưa con gái của họ cho nhóm này.
Trong những câu chuyện về lịch sử sớm của Trung Quốc, người từ
lưu vực sông Hoàng Hà kết hôn với phụ nữ từ bên ngoài khu vực đó, nhưng đến lượt mình, lại không có trao đổi phụ nữ vùng sông Hoàng Hà với
các vùng khác. Do đó, sẽ không thể thể lập luận ngược lại với quan điểm mà Kim Định đã đưa
ra, đó là,
sông Hoàng Hà cao hơn về phương diện văn
hóa và các dân tộc xung quanh đã sẵn sàng cung cấp con gái của họ với thế giới đó để xây dựng mối kết nối với vùng đó, trong khi người dân khu vực sông Hoàng Hà lại cảm thấy không cần thiết phải làm như vậy?
____________________________________
Nguồn: Le Minh Khai, The Exchange of Women (trao đổi đàn bà) in
Obscure History (huyền sử), Đăng trong trang mạng https://leminhkhai.wordpress.com/2015/06/27/the-exchange-of-women-trao-doi-dan-ba-in-obscure-history-huyen-su/