Powered By Blogger

Thứ Ba, 21 tháng 4, 2020

Triết Khảo cổ học (I)

Robert W. Preucel

Người dịch: Hà Hữu Nga

Khảo cổ học, xét cho cùng, một môn học mà sự thống nhất chủ yếu ẩn tàng trong lý thuyết khảo cổ - một mớ lý thuyết con rời rạc không đầy đủ đòi hỏi phải tìm cách hệ thống hóa và cấu trúc thành một hệ thống mạch lạc và toàn diện, thành một giá đỡ lý thuyết chung treo mắc mọi chiếc mão nghiên cứu nhỏ hẹp của bọn ta. [David L. Clarke 1973]

Mười bảy năm trước, trong một động bút kinh điển của nghỉ về “thời đồng ấu quá vãng” [the "loss of disciplinary innocence,"] của ngành học, David Clarke (1973) đắc ý rằng khảo cổ học Anh-Mỹ đã cưỡi cổ được ba ngưỡng phát triển trí tuệ. Đó là ý thức, tự thức và tự thức phê phán. Theo nghỉ, khảo cổ học đạt được ngưỡng ý thức khi lần đầu tiên được ngã giá là một ngành học và bắt đầu được thực hành bởi bọn chuyên gia. Khảo cổ học nổi lên thành giai đoạn tự thức khi hắn bắt đầu ngã giá các thủ tục và mẹo mực riêng của mình. Cuối cùng, khảo cổ học đạt đến giai đoạn tự thức phê phán với những nỗ lực của ngành học nhằm nhận thức được nền tảng triết học của chính hắn. Clarke (1973: 8) lưu ý thêm rằng việc leo trèo từ giai đoạn này sang giai đoạn tiếp theo là cả một quá trình thích ứng, liên quan đến cả sự thay đổi nội dung của ngành học lẫn tinh thần thời đại bên ngoài.

Ngày nay khảo cổ học đang phải đánh vật với những hàm ý sâu xa hơn của giai đoạn thứ ba. Đó là các vấn đề nền tảng về hữu thể học, tri thức luận và thực tiễn. Liệu có phải bọn khảo cổ học phát hiện ra một ngày xưa khách quan, hay bọn hắn tạo ra những ngày xưa thế chỗ? Phải coi khảo cổ học đúng khoa học nhân văn hay khoa học tự nhiên? Trách nhiệm xã hội của bọn hắn liên quan đến việc sử dụng ngày xưa cho bây giờ là gì? Trong quá trình xử lý những câu hỏi này và những vấn đề liên quan, khảo cổ học đã một lần nữa nghẹo cổ sang triết học để cầu tầm hướng dẫn. Hệt như thực chứng luận đã được khảo cổ học quá trình chấp nhận vào những năm 1960, giờ đây hậu thực chứng luận lại đang được trào lưu khảo cổ học hậu quá trình bấu víu. Trào lưu hậu quá trình này được biểu thị bằng cuộc ẩu đả khoa học luận của khảo cổ học quá trình (Hodder 1982b, 1984a; Shanks và Tilley 1987) và việc dựng đặt các khuôn viên diễn giải thay thế (Hodder 1986; Leone et al 1987).

Trong chương này, tôi xem xét nội dung triết học của ba chương trình nghiên cứu có ảnh hưởng trong khảo cổ học Anh-Mỹ. Cụ thể, tôi tập trung vào khảo cổ học thực chứng, khuôn viên thống trị của nó được thực hành cho khảo cổ học ngày nay, và hai quá trình phát triển gần đây, nhưng vẫn còn cận biên, được gọi là khảo cổ học tường giải khảo cổ học phê phán. [1] Tôi bắt đầu bằng cách xem xét các cội nguồn tri thức của các quá trình đó trong triết học và sau đó dẫn chứng việc sử dụng chúng trong khảo cổ học, dựa trên các bài viết của bọn đại diện hàng đầu tương ứng Lewis Binford, Ian Hodder, và Mark Leone. Tôi không dám đảm bảo trọn vẹn, và trên thực tế, tôi hoàn toàn thừa nhận rằng mình bất công với nhiều lập trường đầy sắc thái trong mỗi chương trình để làm nổi bật những điểm tương phản cụ thể giữa bọn hắn. Cuối cùng, tôi lẩm bẩm v một vài mối quan thiết mang tính nhận thức dựa trên ba cách tiếp cận để nhủ rằng thay vì mang tính đối nghịch, như vẫn thường được xuất trình trong các cuộc cãi cọ, trên thực tế bọn hắn lại là các dự án bổ sung, cần phải được đồng thời theo đuổi nếu khảo cổ học dám nhận trách nhiệm một khoa học xã hội.

Mẹo mực tiếp cận thực chứng

Mặc dù có tác động lớn đến triết học khoa học, nhưng thuật ngữ thực chứng luận rất khó xác định bằng bất kỳ sự ngã giá nào. Một ngã giá gần đây đã phân biệt không dưới mười hai thánh phán khác nhau về khái niệm trên (Halfpenny 1982). Bất chấp đặc tính khả biến này, hầu hết các triết bút đều nhao nhao rằng thực chứng luận bao gồm lý thuyết về tri ​​thức tìm cách giải thích các khẳng định có thể quan sát dựa trên kinh nghiệm, theo các quy luật chung. Ba học phái riêng biệt nhưng liên quan có thể được xác định, đó là thực chứng luận Comte, kinh nghiệm luận logic và thực chứng luận logic (Outhwaite 1978). Chủ yếu loại sau, thực chứng luận lo gic, đã được Khảo cổ học mới tiếp nhận.

Thực chứng luận nguyên ủy được nhà xã hội học người Pháp Auguste Comte khới ra vào đầu thế kỷ XIX. Hắn được gọi là tri ​​thức khoa học hoặc tri thức thực chứng để phân biệt với đặc trưng tri thức phi khoa học phi thực chứng của thần học và siêu hình học. Thực chứng luận Comte có ba nguyên lý cơ bản (Halfpenny 1982). Thứ nhất, loại tri ​​thức duy nhất được chấp nhận là những tri ​​thức thâu được thông qua các giác quan bằng mẹo mực khoa học. Đó là, chỉ những phán đoán về các hiện tượng có thể quan sát nào khả chứng thì mới có ý nghĩa. Thứ hai là tất cả các ngành khoa học có thể được tích hợp theo một mô hình khoa học tự nhiên duy nhất. Luận đ khoa học-thống nhất này phản ánh quan điểm cho rằng, về nguyên tắc, không có sự khác biệt giữa các hiện tượng tự nhiên và các hiện tượng xã hội. Thứ ba là sự tăng trưởng của tri ​​thức chịu trách nhiệm về tiến bộ xã hội. Cụ thể, việc khám phá các quy luật của xã hội là điều cần thiết để đạt được cả ổn định lẫn cải biến xã hội.

Trường thứ hai là kinh nghiệm luận logic của Học phái Vienna, nổi lên trong những thập kỷ 1920 và 1930. Do Moritz Schlick chủ xướng, các thành viên thường trực bọn hắn là Rudolph Carnap, Herbert Feigl, Hans Hein, Viktor Kraft, Otto Neurath và Friedrich Weismann. Học phái Vienna đã đả Comte về hai vấn đề chính (Outhwaite 1987). Bọn hắn cãi rằng quy luật phát triển xã hội của Comte là không thể xác chứng và do đó mang tính siêu hình. Bọn hắn cũng cho rằng hành vi của con người cuối cùng có thể được quy giản thành các nguyên tắc vật lý. Nền tảng triết học của bọn hắn là sự phân biệt mang tính phân tích / tổng hợp. Các phán đoán phân tích là những phán đoán chân theo nghĩa của các thuật ngữ được sử dụng, trong khi các phán đoán tổng hợp là chân dựa trên cách thức mà mọi sự vật tồn tại trong thế giới thực. Do đó, nhiệm vụ kép của bọn khoa học là phát triển một lý thuyết về ngôn ngữ và một lý thuyết xác chứng.

Trường thứ ba là thực chứng
luận logic trong các thập niên 1940 và 1950, thường được gọi là quan điểm thụ nhận của khoa học. Các đại diện chính bọn hắn là Rudolph Camap, Carl Hempel, Ernest Nagel và Karl Popper giai đoạn sớm. Bọn thực chứng logic đã bác bỏ sự phân biệt phân tích/ tổng hợp với lý do ý nghĩa của các phán đoán không thể được xác lập mà không cần tham khảo các phán đoán khác mà bản thân bọn hắn cần được phân tích. Kết quả là, dự phóng trung tâm của thực chứng luận logic đã chuyển từ ngôn ngữ sang cấu trúc giải thích khoa học và nguyên tắc xác chứng. Đối với bọn thực chứng logic, cách giải thích nhân quả về một sự kiện liên quan đến việc diễn dịch một phán đoán mô tả về sự kiện từ một hoặc nhiều quy luật chung liên quan đến các phán đoán duy nhất về các điều kiện ban đầu. Quy trình này được Hempel chính thức hóa là thức diễn dịch - danh pháp học (D-N deductive-nomological) (Hempel 1942; Hempel và Oppenheim 1948). Các phiên bản gần đây đã nhấn mạnh đến xác suất hơn là các mô thức quyết định luận (ví dụ: Salmon et al. 1971).

Cần phải phân biệt hai mẹo mực tiếp cận xác chứng khác nhau đó. Bọn xác chứng luận (confirmationist), chẳng hạn như Hempel thời kỳ đầu, cãi rằng bằng chứng thực nghiệm có thể được sử dụng để hỗ trợ cho các phán đoán. Số trường hợp lớn hơn được cho là phù hợp với các dự phóng từ phán đoán và sự đa dạng của các hoàn cảnh mà các trường hợp này xảy ra, trong đó trường hợp được xác chứng vững chắc hơn chính là trường hợp phán đoán. Bọn chứng ngụy luận (falsificationist), như Popper, giữ lập trường cho rằng không có khoản hỗ trợ kinh nghiệm nào có thể ngã giá hiệu lực cho phán đoán vì lần quan sát tiếp theo cũng có thể hệt như chối đây đẩy việc xác chứng hắn. Sử dụng logic này, Popper đã khới lên rằng trong việc ngã giá hiệu lực của các phán đoán, bọn khoa học gia nên nỗ lực chối đây đẩy hơn là xác chứng các lý thuyết của bọn hắn. 

Trong khảo cổ học, Lewis Binford đã bán sỉ một phiên bản thực chứng luận logic để đả lại kinh nghiệm luận phi cấu trúc của khảo cổ học truyền thống. Có một rắc rối với mẹo mực tiếp cận truyền thống là các lập luận chỉ có thể được ngã giá dựa vào thẩm quyền của người đề xướng. Thực chứng luận mẹo mực khoa học đã được chấp nhận bọn hắn cung cấp một phương tiện khách quan để được tin vào những phán đoán về ngày xưa. Binford cố cãi cho việc sử dụng mẹo mực khoa học trong khảo cổ học từ quan điểm khoa học-thực tiễn (Binford 1972a: 78). Phán đoán ấy cho thấy lập trường công cụ luận của nghỉ, đó là quan điểm cho rằng khoa học thực sự hữu ích bởi vì hắn cho ta một khuôn viên ngã giá các ý tưởng được đề xuất (Binford 1977a: 18). Do đó khoa học có thể kiểm soát được khí chất cá nhân.

Ngay từ sớm, Binford và bọn khác (ví dụ, Watson et a1.1971) đã nhấn mạnh mô hình diễn giải quy luật bao trùm mẹo mực thử nghiệm như là hai đặc điểm nổi bật trong mối liên hệ của các quan sát bây giờ với các sự kiện ngày xưa thông qua các quy luật hoạt động văn hóa (Binford 1968b: 269) . Theo Binford, tính chính xác tri ​​thức của bọn ta về ngày xưa phải được kiểm nghiệm một cách nghiêm ngặt và tính nghiêm ngặt ấy phải được duy nhất thực hiện thông qua quy trình thử nghiệm bằng mẹo mực khoa học (Binford 1968a: 16). Trong thực tế, hắn liên quan đến việc thực hiện các quan sát đối với hồ sơ khảo cổ học, hình thành các giả thuyết để giải thích cho mô thức quan sát, và kiểm nghiệm các giả thuyết đó dựa trên nguồn dữ liệu thực nghiệm độc lập.

Vào cuối những năm 1970, Binford bắt đầu thừa nhận một vấn đề nhận thức luận cơ bản với chương trình của nghỉ. Đây là vấn đề gán nghĩa cho hồ sơ khảo cổ trong trường hợp không quan sát trực tiếp. Trong cái được gọi là đối số “động - tĩnh” của mình, nghỉ đã chỉ ra rằng không có lượng thống kê nghiên cứu nào có thể cung cấp thông tin cần thiết cho mô hình và kiểm tra các đối số về mối quan hệ giữa động và tĩnh (Binford 1983b: 67). Đó là do nghịch lý mà bọn khảo cổ học phải sử dụng một bộ công cụ khái niệm để ngã giá một bộ công cụ khái niệm khác được làm ra để giải thích ngày xưa(Binford 1977a: 2). Ở đây chúng ta thấy Binford phải vật lộn với vấn đề duy trì sự khác biệt giữa các phán đoán lý thuyết (phân tích) và các phán đoán kinh nghiệm (tổng hợp).

Để túm cổ nghịch lý này, Binford đề nghị bọn khảo cổ học nghiên cứu các tình huống ở những nơi hành vi liên tục diễn ra. Nghỉ cho rằng nghiên cứu thực địa nên tập trung vào những bối cảnh mà ở đó việc sản xuất, sử dụng và loại bỏ các di vật văn hóa vật chất có thể quan sát được bằng kinh nghiệm. Chỉ bằng cách thực hiện các quan sát bây giờ, thì bọn khảo cổ học mới có thể vẽ ra được một “Phiến đá Rosetta”* để diễn giải ý nghĩa của văn hóa vật chất ngày xưa. Cách tiếp cận của Binford được gọi là lý thuyết tầm trung (Binford 7977a: 6). Mặc dù có một số rắc rối lý thuyết nhất định (xem Raab và Goodyear 1984), nhưng lý thuyết tầm trung đã được chứng minh là một khuôn viên nghiên cứu cực kỳ hiệu quả xoay quanh các tiểu khuôn viên thuộc dân tộc khảo cổ học, nghiên cứu văn hóa vật chất hiện đại, và khảo cổ học thực nghiệm. Trong thực tế, việc tích hợp một cách hệ thống các tiểu khuôn viên này chính là cái mà Schiffer (1976) gọi là khảo cổ học hành vi.

Có một sự thật
rất đáng tò mò là, trong việc ứng dụng thực chứng luận logic, bọn khảo cổ học quá trình hầu như không chú ý đến việc phê phán thực chứng luận trong chính triết học. Binford, bằng sự im lặng tuyệt đối về chủ đề này, dường như ngụ ý rằng đó không phải là vấn đề của bọn khảo cổ học. Tuy nhiên, trong triết học, tòa dinh thự ấy lại đã bị rung lắc bởi chính bàn tay của bọn tạo dựng nó. Cả Hempel (1965) và Quine (1951) đều thẳng tay đả hai trụ cột của thực chứng luận: bản chất độc lập với lý thuyết của dữ liệu và cấu trúc logic của diễn giải khoa học. Kuhn (1970) và Feyerabend (1975) đã dự phần vào tình huống này bằng cách cãi rằng các nhân tố phi khoa học (xã hội học) ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả nghiên cứu khoa học. Trong triết học, việc tái ngã giá này đã dẫn đến một số thay đổi căn bản đối với thực chứng luận (Glymour 1980) và khuyến khích sự hưng thịnh của các mẹo mực tiếp cận hậu thực chứng (Dallmayr và McCarthy 1977).

Các vấn đề như vậy đã xuất hiện liên quan đến chương trình khảo cổ học quá trình của Binford. Alison Wylie (1989a) cho rằng nỗ lực diễn giải khảo cổ học dựa vào một tập hợp các mối quan hệ dẫn xuất mang tính quan sát, liên kết hành vi và văn hóa vật chất được thị cho là thiếu sót. Điều này là do dữ liệu dân tộc học về phương diện lý thuyết chất đầy dữ liệu khảo cổ học dẫn đến kết quả là vấn đề diễn giải chỉ đơn giản là chuyển từ môn học này sang môn học khác. Patty Jo Watson (1986) đã chỉ ra rằng ngay cả khi bọn thị có được các nguyên tắc xác chứng chắc chắn trong hiện tại, thì vẫn không thể biện minh được cho việc sử dụng chúng để giải thích các xã hội ngày xưa bởi bọn thị không bao giờ có thể biết được phép ngoại suy của mình chính xác đến mức độ nào. Hai phê phán trên dù đầy uy lực, nhưng bọn thị cũng không dại gì vồn vã nhảy vào kết án rằng thực chứng luận đã bị phá sản và tất cả những gì còn lại đều chỉ là bóng ma của tương đối luận. Mẹo mực kiểm nghiệm chí ít cũng có thể đem đến một xác chứng hạn chế cho các ý tưởng của bọn họ, đặc biệt là khi nó liên quan đến các chuỗi dữ liệu khác nhau được rút ra từ các nguồn khác nhau (Wylie 1989a: 15). Trigger (1989) đã đi tới một quan điểm hệt như vậy khi nghỉ cho rằng sự tích cóp mạnh mẽ nguồn dữ liệu khảo cổ thực sự hạn chế việc diễn giải.

Các cách tiếp cận tường giải

Phép tường giải (hermeneutics) thuộc về một nhóm các cách tiếp cận triết học đa dạng, có chung mối quan thiết đến việc suy luận ý nghĩa thông qua diễn giải. Hắn có nguồn gốc thần học trong việc diễn giải các văn bản tôn giáo và đã phát triển thành một khuôn viên triết học để nhận thức các hiện tượng văn hóa. Hầu hết các cách tiếp cận tường giải đều giữ lại di sản triết học của mình và áp dụng phép ẩn dụ văn bản, theo đó việc nhận thức được ý nghĩa của thực tiễn xã hội có liên quan đến việc giải mã ý nghĩa của một tài liệu lịch sử. Có thể phân tách thành ba trường khác biệt: Tường giải lãng mạn, Tường giải triết học, và Tường giải văn bản. Trong khảo cổ học hậu quá trình, trường thứ nhất và thứ ba được bọn họ chú ý nhiều nhất.

Tường giải lãng mạn được phát triển ở Đức vào cuối thế kỷ XIX để cung cấp một nền tảng  nhận thức luận cho các khoa học văn hóa** (Geisteswissenschaften) (Gadamer 1987). Hắn liên quan đến các tác phẩm của Wilhelm Dilthey và các môn đệ của nghỉ, Herman Nohl, George Misch, và Bernhard Groethuysen. Dự phóng của Dilthey là túm cổ cái nan đề về tri ​​thức lịch sử, nghĩa là các khuôn viên tham chiếu khác nhau của sử bútnền văn hóa được nghiên cứu. Để giải quyết vấn đề đó, nghỉ đã phát triển mẹo mực luận về sự chuyển dẫn phi lịch sử hoặc sự thấu cảm (Verstehen). Theo Dilthey, sử bút phải thực hiện hành vi đồng cảm tự chuyển dẫn bản thân v ngày xưa để từ đó trở thành một phần của nền văn hóa đang được nghiên cứu. Quy trình này bao gồm toàn bộ sự bao dong bản thân để siêu vượt kinh nghiệm sống, thế giới quan và mối quan thiết chuyên môn.

Phép tường giải triết học được liên đới tới các tác phẩm của Hans-Georg Gadamer. Hắn khác với phép tường giải truyền thống trong việc bác bỏ sự chuyển dẫn phi lịch sử và sự biện hộ của hắn cho một mẹo mực điều giải biện chứng (Gadamer 1987; Outhwatte 1987). Các khái niệm về sử tính và định kiến ​​đặc biệt quan trọng trong mẹo mực của Gadamer. Theo quan điểm của nghỉ, việc diễn giải về ngày xưa luôn dựa trên quan điểm bây giờ. Thế có nghĩa là, diễn giải chỉ có thể dự phần bởi sử tính của chính hắn. Nghỉ còn khẳng định rằng khách tính là ảo tưởng vì hắn là một phần thực tiễn lịch sử của việc là một cá thể (Gadamer 1975: 267). Các định kiến, thay vì là một cái gì đó để loại trừ hoặc kìm nén, do đó là điều kiện cần cho việc nhận thức. Và nhận thức chỉ có thể đạt được thông qua sự đối đầu biện chứng của định kiến ​​và khải tính dẫn đến việc thực hiện một dự phóng thông qua sự vận động có kiểm soát giữa ngày xưabây giờ. Vận động kiểm soát này chính quyển tường giải (hermeneutic circle) trứ danh của Gadamer.

Trường thứ ba có thể được phân lập t các công trình của Paul Ricoeur, kẻ đã xưng suất một lý thuyết hành động như một văn bản. Ricoeur (1971) phân biệt hai kiểu đọc văn bản, đọc ngây thơ và phân tích cấu trúc. Đọc ngây thơ thích hợp với một số văn bản nhất định trong đó ý nghĩa khới lên trực tiếp từ năng lực phán đoán đến chỉ vật (referent) và do đó, không trở ngại   cho nhận thức. Phân tích cấu trúc là cần thiết cho các văn bản chẳng hạn như các tác phẩm văn học, mà ở đó có một chỉ vật gián tiếp thứ hai cùng với chỉ vật trực tiếp. Việc đọc được các văn bản văn học là nhờ ở việc “đoán ý nghĩa hình tượng bằng cách đọc ngây thơ và sau đó sửa đổi cách đọc đó theo các chỉ vật cấu trúc ngoại giới. Sau đó “các cú đoán được ngã giá bằng cách sử dụng logic xác suất sao cho cách đọc tốt nhất là cách đọc có thể liên đới ý nghĩa hình tượng với ý nghĩa cấu trúc theo cách sâu sắc, nhất quán nhất.

Việc khới lên phép tường giải đối với khảo cổ học là do Ian Hodder lọ mọ tự nghỉ thực hiện. Vào cuối những năm 1970, Hodder, một cựu sinh viên của David Clarke, đã trải qua một cơn điên trí tuệ khiến nghỉ phải mày mò lại cơ sở triết học của khảo cổ học quá trình. Nghỉ tự lẩn thẩn cãi: [N]an đề hơ hớ đối với bọn khảo cổ học là thèm giỏ dãi các thử nghiệm khoa học và khách quan, sợ suy đoán thói chủ quan, nhưng cứ ngắc ngứ một điều gì đó về ngày xưa… Phải, cứ hấm hứ bất cứ điều gì về ngày xưa và những tưởng ngày xưa, như gà mắc tóc trong dữ liệu mà lại muốn vọt khỏi dữ liệu để diễn giải dữ liệu, chẳng tài nào mà kiểm chứng được những diễn giải này bởi vì chính dữ liệu cũng dự phần cãi cọ chẳng khác nào các lý thuyết vậy” (Hodder 1984a: 28 ). Do đó, Hodder đã đây đẩy chối khảo cổ học quá trình dựa trên hai lý do: thứ nhất, vì không giải quyết được các vấn đề nhân học cơ bản như ý hướng tính lẫn hành động xã hội, và thứ hai, vì những hạn chế của chương trình kiểm nghiệm thực chứng của hắn do dữ liệu quá đẫm lý thuyết.

T
ơ tưởng của Hodder thậm chiết trung, tự nghỉ lọ mọ rút ​​tỉa từ phép tường giải truyền thống và tường giải văn bản. Một trong những thần tượng trí tuệ được nghỉ mải dẫn là triết bút lịch sử R. G. Collingwood còn kiêm cả đào bới khảo cổ nghiệp dư. Là môn đệ của Dilthey, Collingwood tin rằng cách duy nhất để biết ngày xưaphải hồi tưởng lại hắn. Về cơ bản, bọn sử bút (hay bọn khảo cổ) tìm cách phóng chiếu bản thân nghỉ/ thị quay ngược thời gian v một bối cảnh cụ thể để khám phá ý nghĩa tiềm ẩn một hành động nhất định. Giống như Dilthey và Collingwood, Hodder cãi rằng quy trình thấu cảm được biện minh dựa trên tính liên tục giữa ngày xưa bây giờ, một thứ cộng cảm cứ như thể mỗi sự kiện, mặc dù là duy nhất, đều có một ý nghĩa được tất cả mọi người của mọi thời thấu hiểu” (Hodder 1986: 95). Để ví dụ về quy trình này, nghỉ mải dẫn nghiên cứu của mình về thời đại đá mới ở Tây Âu để cho thấy ý nghĩa biểu tượng suy luận về nghi lễ và kiến ​​trúc nhà cửa có ý nghĩa như thế nào trong các chiến lược xã hội tích cực liên quan đến việc hợp thức hóa việc kiểm soát các nguồn lực sản xuất và sinh sản.

Cách tiếp cận văn bản của Hodder được phác ra trong cuốn sách Đọc quá khứ (Hodder 1986) và được thêu thùa trong một loạt bài viết gần đây (Hodder 1988, 1989c). Trong đó nghỉ xuất trình tơ tưởng đọc văn hóa vật chất theo những cách tương tự như đọc văn bản văn học vậy. Tuy nhiên, việc đọc này không phải là trực tiếp vì văn hóa vật chất là một thứ “ngôn ngữ ít logic, mơ hồ hơn diễn ngôn (Hodder 1989c: 72). Do đó, hành động đọc quá khứ liên quan đến một cuộc đối thoại liên tục vận động giữa năng lực phán đoán chỉ vật. Nói cách khác, cách đọc này liên quan đến việc chuyển ý nghĩa từ ngữ cảnh này sang ngữ cảnh khác thông qua việc thực hành diễn giải, trong đó mỗi cá nhân tác nhân phải quyết định khi có ý nghĩa phù hợp. Vậy thì, liệu các bọn đọc khác nhau có thể đạt đến cùng một ý nghĩa hoặc những ý nghĩa tương tự không? Hodder trả lời câu hỏi này theo hai cách. Đầu tiên, nghỉ lưu ý rằng tính mơ hồ lúc nào cũng chường mặt ra đó, vì ý nghĩa của một đối tượng không bao giờ cố định, mà luôn luôn phụ thuộc vào việc tái diễn giải. Thứ hai, nghỉ cho rằng ngữ cảnh, được định nghĩa là kinh nghiệm có tổ chức liên quan đến một sự kiện, xác định mức độ mà điều tương tự có thể được coi cùng một ý nghĩa.

Việc phê phán khảo cổ học tường giải vẫn còn tương đối thơ dại (xem Binford 1988; Earle và Preucel 1987; Watson 1986). Hầu hết các nghiên cứu đã chấp nhận một lập trường ngoại tại luận mà chỉ cãi rằng cách tiếp cận tường giải bị hết hơi do thiếu mọi mối quan thiết minh bạch về lý thuyết hoặc mẹo mực. Tuy nhiên, cách cãi đó khó đứng vững, nếu người ta khẳng định nghiêm túc lập trường tường giải là không nên mã hóa việc diễn giải, mà trên thực tế nên phân biệt các ngữ cảnh khác nhau. Hơn nữa, điều tôi muốn nói là việc Hodder sử dụng phép ẩn dụ văn bản. Trong phê bình văn học, người ta dự phóng điều giải giữa văn bản và tác giả vì độc giả. Khi mẹo mực này được du nhập vào khảo cổ học, lập tức xuất hiện một số khó khăn. Ngoại trừ trong một số trường hợp cực kỳ hiếm, không có tác giả nào được diễn giải bằng việc đọc văn bản khảo cổ. Hồ sơ khảo cổ là một văn bản da cừu gồm các hành động của nhiều tác giả, mỗi tác giả đều có sở thích và bản sắc riêng. Thực tế này cho thấy chúng ta cần chú ý hơn đến những tác giả này là ai, cách các văn bản được tạo ra và được gán ý nghĩa, ai là độc giả của chúng ta và lợi ích của họ là gì.
_______________________________

Còn nữa…

Nguồn: Preucel, Robert W. (1991), The Philosophy of Archaeology. In Processual and Postprocessual Archaeologies, Multiple Ways of Knowing the Past, edited by Robert W. Preucel. Center for Archaeological Investigations, Occasional Paper No. 10:17–29. Southern Illinois University, Carbondale.

Tác giả: Robert Preucel là Giáo sư Nhân học James Manning và Giám đốc Bảo tàng Nhân học Haffenreffer, Đại học Brown. Nghỉ nhận bằng tiến sĩ của UCLA - University of California, Los Angeles năm 1988. Luận án của nghỉ khảo sát về lưu chuyển nông nghiệp theo mùa thời tiền sử trên cao nguyên Pajarito, New Mexico. Nghỉ là Học giả thỉnh giảng thường niên của CAI (Center for Archaeological Investigations) lần thứ 6 tại SIU (Southern Illinois University) Carbondale) năm 1989 và đã tổ chức một hội nghị về cuộc luận chiến về triết học Quá trình / Hậu Quá trình. Năm 1990, nghỉ đảm nhận vị trí Trợ lý Giáo sư tại Đại học Harvard. Năm 1995, nghỉ rời Harvard để nhận vị trí Phó giáo sư tại Đại học Pennsylvania. Nghỉ đã trở thành Giáo sư Nhân học Sally và Alvin V. Shoemaker năm 2009 và giữ chức Chủ nhiệm Khoa (2009-2012) và Giám đốc phụ trách Bộ phận Nhân học và Khảo cổ học của Đại học Pennsylvania (2010-2012).

Ghi chú của người dịch:

* Phiến đá Rosetta là một tấm bia Ai Cập cổ đại có khắc một sắc lệnh của nhà vua Ptolemy V ban hành ở Memphis năm 196 TCN, được viết bằng ba ngôn ngữ: chữ tượng hình Ai Cập Cổ đại, chữ Demotic, và chữ Hy Lạp cổ đại. Bởi vì trình bày cùng một văn bản bằng ba hệ chữ viết nên tấm bia đã cung cấp chiếc chìa khóa vô giá giúp cho khoa học hiện đại giải mã được chữ tượng hình Ai Cập.

** Trong ngữ cảnh của bài viết, cụm từ tiếng Anh “sciences of culture” dễ gây hiểu lầm nếu không được Robert Preucel ghi chú đúng đắn bằng tiếng Đức là Geisteswissenschaften (Gadamer 1987).  Thuật ngữ này thường được dịch ra tiếng Anh là Humanities – các khoa học nhân văn, hoặc sciences of mind là một tập hợp các khoa học nhân văn như triết học, lịch sử, ngữ văn, âm nhạc học, ngôn ngữ học, văn học, luật học, thần học…v.v,các môn học truyền thống trong các trường đại học Đức. Từ Geist tiếng Đức có các nghĩa: tinh thần, linh hồn, tri thức, trí tuệ, trí năng, thần linh, ma quỷ, thần kinh, rượu, v.v…Về phương diện khoa học nhân văn, từ này có nguồn gốc từ chủ nghĩa duy tâm của Đức thế kỷ XVIII-XIX, đặc biệt là khái niệm Volksgeist của Herder và Hegel, mang nghĩa tinh thần của một dân tộc. Từ Wissenschaft là hiểu biết, khoa học. Thuật ngữ Geisteswissenschaften nhắc người ta nhớ rằng hệ triết học Cựu lục địa được thừa hưởng từ các nghệ thuật thời trung cổ. Bên cạnh triết học, nó còn bao gồm các khoa học tự nhiên, toán học, các ngành học lịch sử, ngữ văn, và sau đó là tâm lý học và các khoa học xã hội. Thuật ngữ Geisteswissenschaften đầu tiên được sử dụng để dịch cụm từ “moral sciences” – các khoa học đạo đức - của John Stuart Mill. Nhà sử học, triết gia và nhà xã hội học Wilhelm Dilthey đã phổ biến thuật ngữ này, khi cãi rằng tâm lý học và lĩnh vực xã hội học mới nổi – giống như các ngành ngữ văn và lịch sử - phải được coi là Geisteswissenschaft chứ không thểNaturwissenschaft (khoa học tự nhiên). Lập luận của nghỉ có ảnh hưởng rất lớn đến các lý thuyết của nhà xã hội học nổi tiếng người Đức Max Weber, mặc dù Weber ưa thích hơn thuật ngữ Kulturwissenschaft (các khoa học văn hóa) vốn được các đồng nghiệp Neokantian của nghỉ Wilhelm Windelband và Heinrich Rickert xướng suất. Nếu không để ý đến lịch sử của thuật ngữ Geisteswissenschaft thì rất dễ nghi oan là Robert Preucel kém tiếng Đức khi nghỉ dùng cụm từ “sciences of culture” tương đương nghĩa với Geisteswissenschaft.

Tài liệu dẫn

Alison Wylie (1989). Archaeological Cables and Tacking: The Implications of Practice for Bernstein's 'Options Beyond Objectivism and Relativism', Philosophy of the Social Sciences 19 (1989): 1-18.
Binford, . R. (1987). Data, relativism and archaeological science. Man 22: 391-404.
Binford, L. R. (1989). The "new archaeology" then and now. In Lamberg-Karlovsky, . C (ed.), Archaeological Thought in America, Cambridge University ress, Cambridge pp. 50-62.
Binford, L. R. (1968a). Archaeological perspectives. in New Perspectives in Archaeology, eds. S. R. Binford and L. R. Binford, pp. 5-32. Chicago: Aldine Publishing.
Binford, L. R. (1968b). Methodological considerations of the archaeological use of ethnographic data. in Man the Hunter, eds. R. B. Lee and I. De Vore, pp. 268-273. Chicago: Aldine Publishing.
Binford, L. R. (1968c). Post-Pleistocene adaptations. in New Perspectives in Archaeology, eds. S. R. Binford and L.R. Binford, pp. 313-342. Chicago: Aldine Publishing.
Binford, L. R. (1968d). Some comments on historical versus processual archaeology. Southwest. J. Anthropol. 24: 267-275.
Binford, L.R. (1972). An Archaeological Perspective. New York: Seminar Press.
Binford, L.R. (1977). General introduction. in For Theory Building in Archaeology, ed. L.R. Binford, pp. 1-13. New York: Academic Press.
Binford, L.R. (1983a). In Pursuit of the Past: Decoding the Archaeological Record. London: Thames and Hudson.
Binford, L.R. (1983b). Working at Archaeology. New York: Academic Press.
Clarke, D. (1973). Archaeology: The loss of innocence, Antiquity, 47(185), pp. 6 –18.
Dallmayr, Fred R., McCarthy, Thomas A. (1977a). Introduction: The Crisis of Understanding. In Understanding and Social Inquiry, edited by Dallmayr, Fred R., McCarthy, Thomas A., 1–15. Notre Dame: University of Notre Dame Press.
Dallmayr, Fred R., McCarthy, Thomas A. (1977b). Max Weber on Verstehen: Introduction. In Understanding and Social Inquiry, edited by Dallmayr, Fred R., McCarthy, Thomas A., 19-23. Notre Dame: University of Notre Dame Press.
Earle, T. K., and Preucel, R. W. (1987). Processual archaeology and the radical critique. Current Anthropology 8: 501-538.
Fay, B. (1987). Critical Social Science: Liberation and its Limits. New York: Cornell University Press
Feyerabend, P. (1975). Against method. Outline of an anarchistic theory of knowledge, London.
Gadamer, Hans-Georg (1975). Hermeneutics and Social Science. First Published December 1, 1975.
Gadamer, Hans-Georg (1987). The Relevance of the Beautiful and Other Essays, published on March, 1987.
Glymour, Clark (1980). Theory and Evidence, Princeton University Press. 
Halfpenny, Peter (1982). Positivism and sociology: explaining social life. Controversies in sociology, series: 13, edited by T.B. Bottomore and M.J. Mulkay. London, George Allen & Unwin, 1982. 141 pp. 
Hall, M. (1990). ‘Hidden history’: Iron Age archaeology in southern Africa. In: Robertshaw, P.T. (ed.) A History of African Archaeology: 59–77. London: James Currey.
Habermas, J. (1972). Knowledge and Human Interests, London: Heinemann
Habermas, J. (1982). A Reply to My Critics, in Habermas: Critical Debates, J. Thompson and D. Held (eds.), Cambridge, MA: The MIT Press.
Habermas, J. (1987). The theory of communicative action: The critique of functionalist reason (Vol II). Boston, MA: Beacon Press.
Held, Davis (1980). Introduction to Critical Theory: Horkheimer to Habermas First Edition, University of California Press.
Hempel, Carl G. (1942). The Function of General Laws in History, The Journal of Philosophy39, no. 2 (1942): 35.
Hempel, Carl G. (1965). Aspects of Scientific Explanation. Media type Print, USA.
Hempel, Carl G., and Paul Oppenheim (1948). Studies in the Logic of Explanation, Philosophy of Science, Vol. 15, No. 2. (Apr., 1948), pp. 135-175.
Hodder I., (I982a) Symbolic and structural archaeology, Cambridge University Press, Cambridge.
Hodder I., (1982b). Theoretical  Archaeology: A reactionary view. In Hodder, . (ed.), Symbolic and Structural Archaeology, Cambridge University Press, Cambridge, p. 1-16. Hodder, . (1982c).
Hodder I, . (1984). Burials, houses, women and men in the European Neolithic’, in D. Miller and C.Tilley (eds) Ideology, Power and Prehistory, Cambridge: Cambridge University Press.
Hodder I., (1986). Reading the Past, Cambridge University Press, Cambridge. 
Hodder, . (1988a). Material Culture Texts and Social Change: A Theoretical Discussion and some Archaeological Examples. Proceedings of the Prehistoric Society 4: 67-75. 
Hodder I, . (1989). Writing archaeology: site reports in context. Antiquity 3: 268-27.
Kuhn, Thomas S., (1970). The structure of scientific revolutions, 2nd ed. Chicago, London: University of Chicago Press Ltd. 
Leone, Mark P., (1978). Archaeology as the science of technology: Mormon town plans and fences. Journal Historical Archaeology: A guide to substantive and theoretical contributions, Pages 191-200
Leone, Mark P., (1981a). Archaeology’s Relationship to the Present and the Past. In Modern Material Culture, Richard A. Gould and Michael B. Schiffer, editors, pp. 5–13. Academic Press, New York, NY.
Leone, Mark P., (1981b). Childe’s Offspring. In Symbolic and Structural Archaeology, Ian Hodder, editor, pp. 179–184. Cambridge University Press, New York, NY.
Leone, Mark P., P.B. Potter & P.A. Shackel. (1987). Toward a critical archaeology. Current Anthropology 28: 283-302.
Outhwaite, W. (1976), Review of A Realist Theory of Science’, Social Studies of Science, February 1976.
Outhwaite, W. (1987), New philosophies of social science : realism, hermeneutics and critical theory, London: Macmillan.
Quine, W. V. (1951). Main trends in recent philosophy: two dogmas of empiricism. In Philosophical Review. New York, 60, 20–43.
Raab, L. Mark; Goodyear, Albert C. (1984). Middle-Range Theory in Archaeology: A Critical Review of Origins and Applications. American Antiquity. 49 (2): 255–268.
Ricoeur, Paul (1971). What is a Text? Explanation and Understanding. In idem (Eds.), From Text to Action: Essays in Hermeneutics. Vol. 2 (pp. 105-124). Evanston, IL: Northwestern University Press.
Salmon, W. C., J. G. Greeno, and R. C. Jeffrey (1971). Statistical Explanationand Statistical Relevance, University of Pittsburgh Press, Pittsburgh.
Schiffer M.B., (1976). Behavioral Archaeology. Academic Press, New York.
Shanks, M., and Tilley, C. (1987a). Re-constructing Archaeology: Theory and Practice, Cambridge University Press, Cambridge.
Shanks, M., and Tilley, C (1987b). Social Theory and Archaeology, Polity Press, Cambridge.
Trigger B.G., (1989). A History of Archaeological Thought. Cambridge University Press.
Watson, Patty Jo (1986)  Archeological Explanation: The Scientific Method in Archeology.
Watson PJ, LeBlanc SA, Redman CL. (1971). Explanation in Archeology. New York: Columbia Univ. Press



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét