Văn hóa như một hệ giá
trị phát triển
Hà Hữu Nga
Vấn đề định nghĩa
khái niệm văn hóa
Cho đến tận bây giờ giới học giả
trên toàn thế giới đều thừa nhận văn hóa là một khái
niệm rất khó định
nghĩa một cách toàn vẹn. Năm 1952, các nhà nhân chủng học
người Mỹ, Kroeber và Kluckhohn, đã đánh giá có
phê phán các khái niệm
và định nghĩa về văn hóa, và đưa ra danh sách 164 định nghĩa văn hóa khác nhau [Kroeber, A.L., & Kluckhohn, C. 1952]. Mặc dù đã
trải qua một thế kỷ nỗ lực
nhằm định nghĩa
đầy đủ về văn hóa, nhưng cho đến nay các học giả vẫn không thống
nhất được về bản chất
của nó. Phần lớn các khó khăn của việc
nhận thức khái niệm văn
hóa bắt nguồn từ việc sử dụng thuật ngữ này kể từ thế kỷ XIX. Người
ta đã tổng hợp được ba cách sử dụng khái niệm văn hóa chủ yếu
như dưới đây.
Trước hết, là
quan điểm mang tính thẩm mỹ thuần túy của Matthew Arnolds trong việc định nghĩa khái niệm văn hóa, được
minh họa trong công trình Văn hoá và Tình trạng Vô chính phủ (1867), trong
đó văn hóa được quy về các nỗ lực hoặc các sản phẩm nghệ thuật hoặc trí
tuệ đặc biệt, những
gì mà ngày nay chúng ta có thể gọi là
"văn hóa thượng lưu" trái ngược với "văn hóa đại chúng" (hoặc "các
cách thức dân dã" trong
cách sử dụng trước đó). Theo định nghĩa này, chỉ có một phần - thường là một phần nhỏ - của một
nhóm xã hội bất kỳ
"có" văn hóa. Phần còn lại là các
nguồn gốc tiềm tàng của tình trạng hỗn loạn. Cảm giác này về văn hóa có liên quan chặt chẽ với tính thẩm mỹ hơn là với khoa học xã hội [Robert
H. Super 1965].
Sau đó, phản ứng lại
lối nhìn thẩm mỹ về văn hóa, Edward Tylor trong
tác phẩm Văn hóa Nguyên thủy (1870), đã
đưa ra một lối nhìn bản chất luận lịch sử coi văn hóa tiến hóa liên tục - theo lược đồ của Lewis Henry Morgan - từ "mông muội" qua "dã man" đến "văn minh". Định nghĩa của Tylor được sử dụng rất rộng rãi, trước
hết bởi vì nó đã
trở thành một định nghĩa nền tảng cho nhân học. Theo Tylor thì văn hóa là "toàn bộ phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo
đức, pháp luật, tập quán, và bất kỳ khả năng và thói quen nào khác mà con người đạt được với tư
cách là một thành
viên của xã hội". Ngược lại với quan điểm của Matthew Arnolds, tất cả các tộc người "có" văn hóa, đạt được bằng phẩm chất của các thành viên trong một nhóm xã
hội nào đó được gọi là một
xã hội tổng thể. Và toàn bộ những sự
vật, từ tri thức, các phong tục tập quán đến các
năng lực, đều làm thành
nền văn hóa [Avruch 1998].
Tính cực kỳ độc đáo của định nghĩa Tylor đã được các nhà nhân học sử
dụng lâu dài; và đó cũng chính là một lý do để các nhà khoa học chính trị bắt đầu quan tâm đến vấn đề "văn hóa chính trị" vào cuối những năm 1950. Và di sản lớn nhất của định nghĩa của
Tylor được cho là nằm trong công thức "toàn bộ phức hợp" của ông. Công thức này được các nhà nhân học chấp nhận,
và sau này chính họ lại mạnh mẽ bác bỏ tiến hóa luận
của ông. Họ lấy
định nghĩa đó để nói
rằng các nền văn hóa là các tổng thể - các hệ thống tích hợp. Mặc dù khẳng định
này có giá trị tìm tòi rất lớn, nhưng
nó cũng góp phần đáng kể vào quá trình đơn giản hoá thế giới.
Tiếp theo là quan niệm tương đối
luận văn hóa của Franz Boas
và các học trò của ông
vào đầu thế kỷ XX, mặc dù có gốc rễ từ các tác phẩm thuộc thế kỷ XVIII của Johann von Herder. Vì Tylor đã phản ứng với Arnold để
xác lập một cơ sở khoa học, chứ không phải là thẩm mỹ cho khái niệm văn hóa, nên đến lượt
mình, Boas đã phản
ứng chống lại Tylor và các
nhà tiến hóa luận xã hội khác. Trong khi các nhà tiến hóa luận nhấn mạnh đặc tính phổ quát của một nền văn hóa duy nhất, với các xã hội khác nhau dàn hàng ngang tiến từ mông muội đến văn minh, thì Boas lại nhấn mạnh tính độc đáo của nhiều nền văn hóa khác nhau của các dân tộc hoặc các
xã hội khác
nhau. Hơn nữa, ông đã bác bỏ các phán đoán giá trị mà ông thấy vốn có ở cả quan điểm của Arnold và quan điểm của Tylor về văn hóa; đối với Boas, không bao giờ nên phân biệt văn hóa theo thứ bậc cao thấp, và không được
định giá trị cho các nền văn hóa là dã man hay văn minh, vì mỗi nền văn hóa đều có giá trị tương đối bình đẳng với nhau. Tương đối luận
văn hóa là nguyên tắc mà các niềm tin và các
hoạt động của một cá nhân con người cần được nhận thức theo khuôn
khổ văn hóa riêng của cá nhân đó. Lần đầu tiên vào
năm 1887, Boaz đã đề xuất ý tưởng cho rằng văn hóa và
văn minh “không phải là một cái gì đó tuyệt đối, mà là tương đối” [F. Boas 1887]. Theo
ông,
văn hóa là “tổng thể của các phản ứng
và hoạt động tinh thần và thể chất đặc trưng cho các hành vi của các cá nhân hợp
thành một nhóm xã hội mang
tính tập thể và cá nhân liên quan đến môi trường tự nhiên của họ, đến
các nhóm khác, đến các thành viên của bản thân nhóm, và bản
thân mỗi cá nhân”. [Boas,
Franz 1963 (1911); Glazer, Mark 1994]
Không
thể không đề cập đến định nghĩa quan trọng của UNESCO và các tổ chức có liên
quan về văn hóa như dưới đây: “Không kể những thứ khác, văn hóa
bao gồm lối sống, ngôn ngữ, văn học truyền miệng và văn
học viết, âm nhạc và bài hát, giao tiếp không bằng
văn bản hay lời nói, các hệ thống tôn giáo hoặc
tín ngưỡng, các nghi lễ và các
nghi thức, thể thao và các trò chơi, các phương pháp sản xuất, hoặc công nghệ, các môi trường tự
nhiên và nhân tạo, thực phẩm,
quần áo và nơi nương tựa và nghệ thuật, các phong tục và truyền thống thông qua
đó các cá nhân, các nhóm cá nhân và cộng đồng
thể hiện tính con người và ý nghĩa mà
họ đem đến cho sự tồn
tại của mình, và xây dựng thế giới quan của họ đại diện cho sự chạm trán của họ với các lực lượng bên ngoài ảnh hưởng đến cuộc sống của họ”. [UNESCO
2002] Định nghĩa của UNESCO thuần túy mang tính mô tả, không khác bao nhiêu với
phương pháp định nghĩa của Edward Tylor,
chỉ có điều nó được liệt kê với nhiều hạng mục hơn, và đặc biệt là nó được bổ
sung mới bằng một số lĩnh vực quan trọng mà định nghĩa của Taylor không có, đó
trước hết là việc đề cập đến văn hóa thông qua lĩnh vực cá nhân và lĩnh vực
nhóm; lĩnh vực nhân tính và lĩnh vực ý nghĩa của văn hóa.
Cuối
cùng cần phải nói đến định nghĩa văn hóa trong Tuyên bố Fribourg về các quyền
văn hóa của Viện Liên ngành Các tộc người và Quyền con người (Interdisciplinary
Institute of Ethnics and Human Rights), Đại học Fribourg cùng Tổ chức Quốc tế
Pháp ngữ và UNESCO vào ngày 7 tháng 5 năm 2007 như sau: “a. Thuật ngữ “văn hóa” bao gồm các
giá trị, các tín ngưỡng, niềm tin, ngôn ngữ, kiến thức và các loại hình nghệ thuật, các
truyền thống, các thể chế và lối
sống thông qua
đó một người hoặc một nhóm người thể hiện nhân
tính và các ý nghĩa mà họ đem lại cho sự tồn tại và cho sự phát triển của họ;
b. Việc thể hiện “bản sắc văn hóa” được hiểu là tổng của tất cả các mối
quan hệ văn hóa thông
qua đó mà một người, tự mình hoặc cùng với những người khác, tự xác định hoặc tạo lập
bản thân, giao
tiếp và mong muốn được thừa nhận về
phẩm giá của mình; c. “Cộng đồng văn hóa” bao hàm một nhóm người cùng chia sẻ các
mối quan hệ tạo thành một
bản sắc văn hóa chung mà họ có ý định bảo tồn và phát triển.” [Fribourg Declaration, Article 2]. Định nghĩa văn hóa của
Tuyên bố Fribourg đã kế thừa được tất cả các mặt mạnh trong định nghĩa của
UNESCO, kể cả những điểm mới về lĩnh vực cá nhân, lĩnh vực nhóm, về nhân tính
và ý nghĩa của văn hóa. Ngoài ra định nghĩa này còn có những đóng góp quan
trọng sau: i) văn hóa không chỉ là bản danh sách vô tận liệt kê các hạng mục
vật chất, tinh thần, mà nó còn bao gồm các giá trị; ii) ý nghĩa và nhân tính
của văn hóa không chỉ vì sự tồn tại mà còn vì sự phát triển của các cá nhân và
các nhóm người; iii) văn hóa là việc thể hiện bản sắc và chia sẻ bản sắc; iv)
văn hóa là tự xác định và tự tạo lập bản thân cá nhân và nhóm; v) văn hóa là
mong muốn được thừa nhận phẩm giá của cá nhân và nhóm; v) văn hóa là sự bảo tồn
và phát triển bản sắc văn hóa chung.
Có thể khẳng định rằng cho đến nay,
quan niệm văn hóa của Tuyên bố Fribourg là một định nghĩa đầy đủ nhất, nó có ý
nghĩa lý thuyết rất cao đối với quá trình nhận thức ngày càng hoàn thiện về nội
hàm của khái niệm văn hóa, và đặc biệt là nó còn có ý nghĩa thực tiễn rất to
lớn có thể ứng dụng vào việc bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa, bản sắc
văn hóa không chỉ ở phạm vi nhóm xã hội mà còn ở phạm vi từng cá nhân.
Một số đặc điểm văn hóa liên quan đến giá trị phát triển
Các nhà nghiên cứu văn hóa đều ý
thức rất rõ rằng định nghĩa về văn hóa dù đầy đủ đến mấy cũng vẫn không thể bao
quát hết được mọi vấn đề có liên quan, vì bản thân văn hóa đa dạng, phong phú
và muôn màu muôn vẻ như chính cuộc sống vậy. Chính vì thế, bên cạnh việc định
nghĩa văn hóa, càng ngày người ta càng có nhu cầu nhìn nhận văn hóa bằng cách
đặc trưng hóa vô số khía cạnh của khái niệm văn hóa tùy theo những cách tiếp
cận lý thuyết và ứng dụng khác nhau. Một số khái quát hóa đặc trưng văn hóa
dưới đây thể hiện rất rõ nhu cầu đó.
Văn hóa phân biệt bản chất con người phổ quát và tính cách cá nhân độc đáo: Văn hóa là một quá trình học hỏi, nó bắt nguồn từ môi trường xã hội của con người. Một mặt, văn hóa phân biệt với bản chất con người, và mặt khác, phân biệt với cá tính của một cá nhân, mặc dù chính xác nơi các ranh giới nằm giữa bản chất con người và văn hóa, giữa văn hóa và nhân cách. Bản chất con người là những gì tất cả mọi người đều có điểm chung: nó thể hiện mức phổ quát trong tinh thần của con người. Tuy nhiên, những gì con người thực hiện với các cảm xúc, cách thức con người thể hiện sự sợ hãi, niềm vui, các quan sát, …v.v, đều biến đổi theo văn hóa. Học hỏi có nghĩa là quá trình biến đổi bởi ảnh hưởng phổ quát của văn hóa cũng như các kinh nghiệm cá nhân duy nhất [Spencer-Oatey, H. 2012].
Văn hóa liên kết các nhóm xã hội: Tất cả mọi người đều thuộc về một số nhóm khác nhau và đồng
thời cũng là các loại người khác nhau, nên đương nhiên người ta luôn
sống trong các cấp độ văn hóa khác nhau. Ví dụ như: i) cấp độ quốc gia;
ii) cấp độ vùng, tộc người, tôn giáo, ngôn ngữ;
iii) cấp độ giới tính, theo cách xác định một người được sinh ra là con gái hay con trai;
iv) cấp độ thế hệ, tách
biệt ông bà khỏi
cha mẹ khỏi con cái; v) cấp độ thể loại vai trò, ví dụ cha mẹ, con
trai / con gái, giáo viên, học sinh;
vi) cấp độ đẳng cấp xã
hội, kết hợp với các cơ hội giáo dục, nghề nghiệp hoặc chuyên môn; vii) cấp độ tổ chức được xã hội hóa bởi vị thế của mỗi người. [Hofstede 1991: 10]
Văn hóa vừa là một cấu trúc
cá
nhân vừa là một cấu trúc
xã hội: Ở
một mức độ nhất định, văn hóa tồn tại trong mọi con
người chúng ta với tư cách cá nhân cũng hệt như nó tồn tại với tư cách là một cấu trúc xã hội. Những khác biệt cá thể trong văn hóa có thể được quan sát thấy ở những con người ở mức độ mà họ chấp nhận và cam kết với các thái độ, giá trị, niềm tin, và hành
vi, bởi sự đồng thuận, tạo thành nền văn hóa của họ. Các chuẩn mực của bất kỳ nền văn hóa nào
cũng cần phù hợp với toàn bộ cá nhân trong nền văn hóa đó,
có nghĩa là phù hợp với chính xã hội đó [Matsumoto 1996: 18].
Văn hóa vừa là người trong cuộc (emic) lại vừa là người ngoài cuộc (etic): Con người nói chung đều có các đặc trưng sinh học và các cấu trúc xã hội tương đối giống
nhau, tạo ra những tương đồng lớn trong cách thức tạo hình các nền văn hóa. Nhưng trong khuôn khổ của
các tương đồng vẫn có những khác biệt. Tất cả mọi người đều trải nghiệm khoảng cách xã hội khi so sánh với các nhóm etic [bên ngoài]. Nhưng cơ sở của khoảng cách xã hội lại
thường là một
thuộc tính emic [bên trong]: Trong một số nền văn hóa, khoảng cách xã hội chỉ có cơ sở ở bộ lạc hay chủng tộc; ở những nền văn hóa khác nó lại dựa trên sự kết hợp của tôn giáo, tầng lớp xã hội, và dân
tộc tính. [Matsumoto 1996: 21-2]
Văn hóa được học hỏi mà có: Văn hóa được học hỏi
từ những người mà ta tương tác khi
ta được xã hội
hóa. Quan niệm cho rằng văn hoá có được thông qua quá trình học tập có một số hàm
ý quan trọng đối
với hành vi quan hệ với
các văn hóa khác. Trước hết, nhận thức ấy dẫn đến
khoan dung hơn
với những khác biệt văn hóa, một điều kiện tiên quyết cho các giao tiếp liên văn hóa một cách hiệu quả trong bối cảnh quan hệ quốc tế. Thứ hai, bản chất học
hỏi được của văn hóa giúp ta làm chủ được nền văn hóa của mình thông qua quá trình học tập, và
cũng có thể học hỏi để sống và thực hành trong các nền văn hóa khác. [Ferraro 1998: 19]
Văn hóa tùy thuộc vào quá trình biến đổi: Cơ chế của sự biến đổi vận
hành trong một nền
văn hóa nhất định được gọi là phát hiện và sáng tạo,
cùng với nó là kết quả của
việc vay mượn từ các nền văn hóa khác, hay còn gọi là truyền bá văn hóa. Truyền bá hoặc vay mượn văn hóa là một quá trình chọn lọc và tương tác hai chiều; rất
hiếm khi các mục vay mượn được chuyển vào nền văn hóa tiếp nhận trong dạng thức nguyên gốc của
chúng. Thay vào đó,
những ý tưởng mới, các hiện vật, hoặc kỹ thuật thường được làm lại và diễn giải lại sao cho có thể được tích hợp một cách hiệu quả
hơn vào tổng thể nền văn hóa tiếp nhận. Nhìn
chung các đổi mới công
nghệ có nhiều khả năng được vay mượn
hơn là các mô thức xã hội, hoặc
các hệ thống tín ngưỡng,
phần lớn là vì tính hữu dụng của một đặc điểm công nghệ đặc biệt có
thể được công nhận một cách nhanh chóng. [Ferraro 1998: 25-9]
Tất cả các bộ phận khác nhau của một nền văn
hóa đều
có quan hệ tương liên với
nhau: Các nền văn hóa cần được quan
niệm như là các tổng thể tích hợp với các bộ phận khác nhau. Đó chính là một hệ thống có tổ chức, trong đó các
thành phần cụ thể đều tương liên với
các thành phần
khác. Vì văn hóa là các hệ thống tích hợp, nên chúng ta có thể thấy các đặc điểm văn hóa cụ
thể phù hợp với tổng thể tích hợp ra sao, và làm thế nào mà chúng có xu hướng tạo
ra ý nghĩa trong
bối cảnh đó. Vì các nền văn hóa là các hệ thống mạch lạc, với các bộ phận cấu thành của chúng quan hệ tương liên với nhau, nên bất
cứ sự thay đổi nào cũng đều có khả năng tạo
ra sự thay đổi tương ứng trong các bộ phận khác của hệ thống. Nói cách khác, một nền văn hóa thay đổi có
thể làm cho nền văn hóa khác cũng thay đổi theo. Và lý do của những thay đổi này là ở chỗ các nền văn hóa đều
có xu hướng trở thành những hệ thống tích hợp với một số bộ phận kết nối với
nhau. [Ferraro 1998: 32-5]
Văn hóa như một hệ giá trị phát triển
Trong những năm gần đây, ý tưởng cho rằng chiều góc
văn hóa phải được bao gồm trong các chính sách và hành động
phát triển đã ngày
càng được chấp nhận phổ biến. Do các ưu tiên phát triển con người bền vững, nên văn hóa đã được nghiên cứu như là một yếu tố cần thiết cho sự phát triển đầy
đủ của mỗi
người và cả cộng đồng. Phát triển là vượt qua đói nghèo, để
đạt tới cấp độ thịnh vượng và hạnh phúc cao hơn cho mỗi cá nhân và cộng đồng.
Vì phát triển là vượt qua nghèo đói, nên một khái niệm rộng hơn về nghèo đói đã được đưa ra: tình
trạng đói nghèo còn bao gồm cả lĩnh vực văn hóa.
Cả hai
khái niệm “văn hóa” và “phát triển” đều
là những thuật
ngữ không ngừng biến đổi. Trong những năm 1960, các
chính sách phát triển hầu như không hề
quan tâm đến văn hóa. Ngay cả khi các khái niệm liên quan đến phát triển đã trở thành phổ biến, ví dụ như sinh thái học phát triển, phát triển
môi trường rồi phát triển bền vững,
thì ở
nhiều nơi, văn hóa vẫn còn bị đặt ra ngoài các quá trình phát
triển [G.Yudice
2002]. Vì
vậy mà nhiều hành động phát triển hầu như vẫn không hề có bất kỳ sự hiện diện nào của chiều kích văn hóa. Phát triển được gắn kết quá chặt chẽ với
tăng trưởng kinh tế, và các tác giả như J. Hawkes [2001] -
trong ấn phẩm “Trụ cột phát triển bền vững thứ tư”
của mình, ngoài ba trụ cột: kinh tế, xã hội, môi trường đã đưa thêm văn hóa thành trụ cột thứ 4 của phát triển bền vững, trong đó Hawkes đã xác lập một loạt giá trị phù hợp làm cơ sở cho các
khuôn khổ lập kế hoạch phát triển khác nhau cho trụ cột văn
hóa, và coi đó là một tập hợp
“các giá trị cốt lõi” cho
trụ cột văn hóa trong quá trình phát triển. Đó
là: i)
giá trị dân chủ gắn liền với sự tham gia; ii) giá trị
hòa nhập
gắn liền với lòng khoan dung, và tình thương yêu; iii) giá trị tự do gắn liền với công lý và bình đẳng; iv) giá trị hòa bình gắn liền với an toàn và
an ninh; v) giá trị hạnh phúc gắn liền với sức khỏe, và thịnh vượng; vi) giá trị sáng tạo gắn
liền với trí tưởng tượng và đổi mới; vii) giá trị yêu thương gắn liền với sự tôn trọng đối với môi trường.
Và từ
đây, văn hóa đã chính thức được thừa nhận như một giá trị phát triển bền vững,
nói cách khác là một giá trị phát triển.
Từ
đó đã có rất nhiều thuật ngữ liên quan đến khái niệm văn hóa như:
văn hóa đại chúng, di sản văn hóa, bản sắc văn hóa, đa dạng
văn hóa, …vv, đã được thường xuyên
nói đến, nhưng lại không có được
một nội dung đích thực. Hơn nữa, sự
đa dạng văn hóa và mối quan hệ của nó với bản sắc của mỗi tập hợp người đã biến các công trình
liên quan đến văn hóa thành một chủ đề “nhạy cảm” trong nhiều
vùng trên thế giới. Đối với UNESCO
thì “văn hóa là cái
cung cấp bối cảnh, các giá trị, tính chủ
quan, các
thái độ và các kỹ năng làm cơ sở diễn ra các quá trình phát triển”. Vì vậy, văn hóa không phải là một tập hợp tĩnh của các giá trị và các
thực tiễn: nó được liên tục tái tạo khi ta
đặt vấn đề, thích ứng và xác định lại các giá trị và việc
thực hành các giá trị đó khi phải đối mặt với những thay đổi và việc trao đổi các ý tưởng;
và trên hết, cần phải nhấn mạnh việc coi tính đa dạng văn hóa là một sự kiện tự nhiên vốn có của loài người [Maraña M. 2010].
Khái niệm giá trị và giá trị văn hóa
Giá trị là các quan niệm hay các
niềm tin về các trạng thái hoặc các hành vi mong muốn cuối
cùng, vượt khỏi các tình huống cụ thể,
hướng dẫn lựa chọn hoặc định giá hành vi và các sự kiện, và được sắp xếp theo tầm quan trọng tương đối [Schwartz, Shalom H.; Bilsky, Wolfgang 1987]. Các giá trị văn hóa phản ánh tầm quan trọng xã hội cơ bản và phản ánh một hệ thống định chuẩn
hiển nhiên. Các
định hướng văn hóa phân biệt những cách thức
cơ bản xác định thực tiễn, hay thế giới
quan.
Các xã hội phải đương đầu với các vấn đề cơ bản
trong việc điều chỉnh hoạt động của con người. Các phản ứng của xã hội đối
với các vấn đề cơ bản nhấn mạnh các giá trị nhất định và bỏ
qua các
giá trị khác. Các giá trị này được thể hiện trong các
thực tiễn hàng ngày, trong các cách thức
suy nghĩ và các cách thức vận hành thể chế. Ví dụ, nếu một nền văn hóa coi trọng tham vọng và thành công thì nó có thể hỗ trợ cho
các hệ thống pháp lý, thị trường và giáo dục cạnh tranh [Schwartz, S. H., Melech, G., Lehmann, A., Burgess, S., &
Harris, M. 2001].
Ba chiều kích của giá trị văn hóa: Theo Schwartz có
ba chiều tương tác của các trọng tâm giá trị văn hóa nhằm mục đích phát
hiện các
giá trị văn hóa phổ quát vượt qua không gian và thời gian cụ thể.
Đó là: i) Mối tương tác giữa Hài hòa và Làm chủ. Vị
trí của mỗi cá nhân và cộng đồng trong thế giới và xã hội là tích cực thay đổi thế giới,
tạo hình
nên một thế giới luôn luôn mới; và vai trò của mỗi cá nhân và cộng
đồng là phải phù hợp với hệ thống, điều chỉnh hệ thống để tạo ra các thay đổi;
ii) Tự trị trí
tuệ và
Chủ nghĩa truyền thống. Trong đó các ý tưởng của chúng ta xuất phát từ sự
độc lập trí tuệ và sự sáng tạo hoặc gắn kết vào các nhóm
xã hội hay truyền thống;
và iii) Hệ thống thứ bậc và Chủ nghĩa bình
quân. Việc phân chia quyền lực và
trách nhiệm có thể cung cấp năng lượng để duy trì trật tự từ trên xuống, phân chia không đều, hoặc hợp
tác tự nguyện từ dưới lên dẫn đến sự bình đẳng và tự do [Schwartz
1994, 1996, 2005a, 2005b].
Mối quan hệ giữa ba chiều kích giá trị văn hóa: Các nền văn hóa đồng
thời thể hiện
nhiều giá trị. Một số loại giá trị nhất định có
chung các cấu trúc bổ sung trong khi những loại giá trị khác thì
lại mâu thuẫn. Ba chiều kích có thể giao nhau để phản ánh các
cặp giá trị văn hóa cơ bản. Các cặp giá trị tương thích được đặt gần
nhau chạy
xung quanh vòng tròn trong khi các cặp giá trị đối lập bắt nguồn theo những hướng đối
lập hướng kể từ trung tâm. Các giá trị theo
cặp kết hợp lại để nhấn mạnh các xu hướng xã hội. Theo Schwartz thì các cặp giá trị như tính tự chủ và chủ nghĩa bình
quân, sự
hài hòa và sự phân cấp đều có chung hệ thống phân cấp mâu thuẫn và không phải là phổ biến ở các nền văn hóa mà ông đã nghiên cứu. Schwartz đã xác định và phân tích ba chiều
kích giá trị văn hóa với ba vấn đề như sau: [Schwartz
1996, 2006].
Vấn đề 1: Bản chất của mối quan hệ giữa cá nhân và nhóm. Đó
chính là mức độ tự trị của mỗi cá nhân đối với nhóm của họ. Một cực của chiều
kích này mô tả các nền văn hóa trong
đó con người được xem như là một thực thể nằm trong tính tập thể và tìm được ý nghĩa trong cuộc sống chủ yếu thông qua các mối quan
hệ xã hội, thông qua việc đồng nhất với nhóm và tham gia vào lối sống chung của
nhóm. Schwartz nhấn mạnh tính bảo thủ về
phương diện văn hóa liên quan đến việc bảo trì nguyên trạng, các
phép tắc, và sự kiềm chế các hành
động hoặc những xu hướng có thể phá vỡ các nhóm đoàn kết hoặc trật tự truyền thống,
bao gồm trật tự xã hội, tôn trọng truyền thống, an ninh gia đình.
Cực đối diện của chiều
kích này mô tả các nền văn hóa mà
trong đó con người được xem như là một thực thể tự trị, bị
giới hạn, tìm được ý nghĩa trong tính độc đáo của riêng mình, tìm cách thể hiện các thuộc tính nội tại của riêng mình như:
các sở thích, đặc điểm, tình cảm, những động cơ, và được khuyến khích để làm như vậy. Tự trị Trí tuệ nhấn mạnh về phương diện văn hóa trong
những mong muốn của các cá nhân độc lập
theo đuổi ý tưởng và các
khuynh hướng trí tuệ của mình như: tò mò, phóng
khoáng, sáng tạo. Tự trị Tình cảm: nhấn mạnh về
phương diện văn hóa trong những mong muốn của cá nhân độc
lập theo đuổi kinh nghiệm về phương diện tình cảm tích cực như: niềm vui, cuộc sống thú vị, cuộc sống đa dạng.
Vấn đề 2: Bảo đảm hành vi trách nhiệm là bảo tồn cấu trúc xã hội. Điều
đó cũng có nghĩa là chính văn hóa đã khiến cho con người quan tâm đến phúc lợi của người khác, phối hợp với người khác, và do đó xây
dựng và duy trì các mối quan hệ xã hội phụ thuộc lẫn
nhau. Một giải
pháp đối
cực của vấn đề này sử dụng các khác biệt về
quyền lực, dựa trên các hệ thống thứ bậc của các vai trò gắn liền với hành vi đảm bảo trách nhiệm xã hội. Con người được xã hội
hóa và chấp
nhận tuân thủ các nghĩa vụ và quy tắc gắn liền với vai trò của
họ thông
qua việc xây dựng hệ thống cấp bậc xã hội: đó
chính là một đặc trưng văn hóa nổi bật nhấn mạnh tính hợp
thức của việc phân phối không
bình đẳng về quyền lực, vai trò và nguồn lực (quyền lực
xã hội, uy
quyền, mức
độ giàu có). Một giải pháp thay thế cho vấn đề về hành vi
trách nhiệm xã hội là nhằm
làm cho các thành viên của xã hội nhìn nhận nhau như là những cá nhân bình
đẳng về phương diện đạo đức, là những người có
chung các
lợi ích cơ bản với tư cách là con người. Đó
là những người đã được xã hội hóa để
cam kết hợp tác tự nguyện với người khác và luôn quan tâm đến phúc lợi của tất cả mọi người. Đó chính là chủ nghĩa bình quân về phương diện văn
hóa,
nhấn mạnh vào sự siêu vượt khỏi các lợi ích cá
nhân để cam kết tự nguyện thúc đẩy phúc lợi của người khác (bình
đẳng, công bằng xã hội, tự do, trách nhiệm, trung thực).
Vấn đề 3: Các mối quan hệ của con người với thế giới tự nhiên và xã hội. Đó
chính là phản ứng tích cực nhằm làm chủ và thay
đổi thế giới, xác
quyết khả năng kiểm soát, uốn nắn thế giới theo ý muốn của con
người, và khai thác nó để phục vụ cho các lợi ích xã
hội, nhóm và cá nhân. Làm chủ về phương diện này có nghĩa là nhấn mạnh về khía
cạnh văn hóa thông qua hoạt động tự khẳng định một cách tích cực (tham vọng, thành công, táo bạo, năng lực). Giải
pháp đối với vấn đề này là chấp nhận thế giới như chính bản thân nó, cố gắng tương
thích với nó nhằm thay đổi hoặc khai thác nó. Đó chính là tính hài
hòa về phương diện văn hóa, nhấn mạnh đến sự thống nhất với thiên nhiên, bảo vệ môi trường, duy trì thế giới của cái đẹp.
Rõ ràng xuất phát điểm phân tích giá
trị văn hóa của Schwartz là thực thể cá nhân, vai trò và vị
thế cá nhân trong mối tương quan với cộng đồng. Quan điểm đó phù hợp với các xã
hội đã phát triển cao và thiên về chủ nghĩa cá nhân, hoặc vai trò của các cấu
trúc nhóm truyền thống như gia đình, cộng đồng đã không còn nhiều ý nghĩa so
với cá nhân, đặc biệt là xã hội Mỹ và Israel, nơi Schwartz
chọn mẫu nghiên cứu chính.
Kết luận
Chúng ta chỉ có có thể sử dụng một
cách hiệu quả công cụ phân tích giá trị văn hóa - đặc biệt là các cặp giá trị như tính
tự chủ và chủ nghĩa bình quân, sự
hài hòa và sự phân cấp - của
Schwartz với tư cách là một giá trị phát triển khi chọn một
xuất phát điểm khác. Đó chính là xuất phát điểm nhóm xã hội, cộng đồng xã hội
làm nền tảng phát triển, kể cả phát triển nhân cách cá nhân về phương diện văn hóa.
Vì vậy, để tránh rơi vào trừu tượng,
chúng ta có thể và cần phải lồng ghép các quan điểm giá trị của Schwartz với các quan điểm về các giá trị dân chủ
gắn liền với sự tham gia; giá trị hòa nhập gắn
liền với lòng khoan dung, và tình thương yêu; giá
trị tự do gắn liền với công lý và bình đẳng; giá
trị hòa bình gắn
liền với an toàn và an ninh; giá trị hạnh phúc gắn
liền với sức khỏe, và thịnh vượng; giá
trị sáng tạo gắn
liền với trí tưởng tượng và đổi mới; giá
trị yêu thương
gắn liền với sự tôn trọng đối với môi trường của Hawkes. Và dựa
trên tinh thần của tuyên bố về tính đa dạng văn hóa của UNESCO [2002] chúng ta
hoàn toàn có thể bổ sung thêm vào danh mục hệ giá trị văn hóa của Schwartz
và của Hawkes một giá trị mới, đó là giá trị đa dạng văn hóa gắn liền với việc
bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của các tộc người khác nhau trong quá trình
phát triển. Đối với Việt Nam hiện tại, việc xác định hệ giá trị phát triển dựa trên trụ cột văn hóa rất cần đến các cách tiếp cận trên.
Tài liệu dẫn
Avruch, K. (1998) Culture and
Conflict Resolution. Washington DC: United States Institute of Peace Press.
Boas, Franz 1887. Museums of Ethnology and their classification. Published in Science
9: 589.
Boas, Franz 1963 [1911]. The Mind of Primitive Man New York:
Collier Books. page 149
Ferraro, G. (1998) The Cultural
Dimension of International Business. 3rd Edition. New Jersey: Prentice Hall.
Glazer,
Mark 1994. Cultural Relativism.
Texas: University of Texas-Pan American.
Hawkes, John 2001. The
four Pillar of Sustainability - Culture’s essential role in public planning. First published in Australian in 2001 by Common Ground
Publishing Pty Ltd in association with the Cultural Development Network (Vic).
Hofstede, G. (1991/1994) Cultures
and Organizations: Software of the Mind. London: HarperCollinsBusiness.
Kroeber,
A.L., & Kluckhohn, C. (1952). Culture: A critical review of concepts and
definitions. Harvard University Peabody Museum of American Archeology and
Ethnology Papers 47.
Maraña, Maider 2010. Culture and Development Evolution and
Prospects. UNESCO Etxea. Working Papers. No. 1.
Matsumoto, D. (1996) Culture and
Psychology. Pacific Grove, CA: Brooks/Cole.
Robert H. Super, Culture and
Anarchy with Friendship's Garland and Some Literary Essays, Volume V of The
Complete Works of Matthew Arnold, The University of Michigan Press, 1965.
Spencer-Oatey, H. (2012). What is culture? A compilation of quotations.
GlobalPAD Core Concepts.
Schwartz, S.H. (1996). Value
priorities and behavior: Applying a theory of integrated value systems. In C.
Seligman, J.M. Olson, & M.P. Zanna (Eds.), The psychology of values: The
Ontario Symposium, Vol. 8 (pp.1-24). Hillsdale, NJ: Erlbaum.
Schwartz, S. H. (2005a). Basic human
values: Their content and structure across countries. In
A. Tamayo & J. B. Porto (Eds.), Valores
e comportamento nas organizações [Values and behavior in organizations] pp.
21-55. Petrópolis, Brazil: Vozes.
Schwartz, S. H. (2005b). Robustness
and fruitfulness of a theory of universals in individual human values. In A.
Tamayo & J. B. Porto (Eds.), idem pp. 56-95.
Schwartz, S. H. (2006). Basic human
values: Theory, measurement, and applications. Revue
française de sociologie,
Schwartz, Shalom H.; Bilsky,
Wolfgang 1987. Toward a universal
psychological structure of human values. Journal of Personality and Social Psychology, Vol 53(3), Sep 1987, 550-562.
Schwartz, S. H., Melech, G.,
Lehmann, A., Burgess, S., & Harris, M. (2001). Extending the cross-cultural validity of the theory of basic human
values with a different method of measurement. Journal of Cross-Cultural
Psychology, 32, 519-542.
UNESCO 1995. Development´s cultural dimmension: To a practical focus, UNESCO,
Paris, 1995.
UNESCO
2002. Universal Declaration on Cultural
Diversity - A document for the World Summit on Sustainable Development,
Johannesburg, 26 August – 4 September
2002. Series No. 1.
Yúdice, George 2002. Las industrias culturales: más allá de la
lógica puramente económica, el aporte social, Pensar Iberoamérica. Number
1, June-September 2002, OEI.
Anh có tài liệu nào nghiên cứu về làng nghề Nam Bộ không anh? Em Thu
Trả lờiXóaAnh chưa có, hy vọng sau đề tài Tây Nam Bộ 2016 thì sẽ có.
XóaThân
Hà Hữu Nga