Hình
tượng Man Nương, hệ thống Tứ Pháp và cái được biểu đạt siêu Việt*
(Phần
I)
Hà
Hữu Nga
Cái được biểu đạt
siêu việt với tư cách là một công cụ diễn giải
Trong ngôn ngữ
học kinh điển của F. Saussure, ký hiệu ngôn ngữ không thống nhất một sự vật với
một tên gọi, mà là một khái niệm với một hình ảnh âm thanh. Hình ảnh âm thanh
không phải là âm thanh vật chất, một sự vật thuần túy vật lý, mà là dấu ấn tâm
lý của âm thanh đó, là hình ảnh tái hiện cung cấp cho chúng ta bằng chứng về
các giác quan của chúng ta; nó mang tính cảm quan, và đối lập với phương diện
khác của mối liên tưởng, là khái niệm trừu tượng hơn. Saussure cho rằng hình
ảnh âm thanh đó tạo thành dấu hiệu ngôn ngữ và là một thực thể tâm lý có hai
mặt gắn kết chặt chẽ với nhau, và chỉ có những liên tưởng được ngôn ngữ thừa
nhận mới được coi là phù hợp với hiện thực, và cần phải gạt bỏ bất cứ liên
tưởng nào khác. Từ đó có thể nói rằng dấu hiệu là sự kết hợp giữa khái niệm với
hình ảnh âm thanh, trong đó từ dấu hiệu chỉ được dùng cho hình ảnh âm thanh mà
thôi. Từ dấu hiệu được dùng để chỉ cái tổng thể, và thay từ hình ảnh âm thanh
bằng từ “cái biểu đạt”, thay từ khái niệm bằng từ “cái được biểu đạt” để làm rõ
sự đối lập giữa hai từ đó với nhau và với cái tổng thể. Dấu hiệu ngôn ngữ có
hai đặc trưng cơ bản, trở thành nguyên lý của chúng: i) nguyên lý tính võ đoán,
mối tương quan giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt là võ đoán, mà dấu hiệu
là do cái biểu đạt và cái được biểu đạt tạo thành, vì vậy dấu hiệu ngôn ngữ là
võ đoán; ii) nguyên lý tính tuyến tính, cái biểu đạt là âm thanh, diễn ra trong
thời gian, là đại lượng có thể đo lường theo một tuyến thời gian, nên dấu hiệu
có đặc trưng tuyến tính. Dấu hiệu còn có hai đặc trưng khác, đó là: iii) tính
bất biến, vì ngôn ngữ là di sản được thừa hưởng từ các thế hệ trước, là sản
phẩm của lịch sử, nên nó là bất biến; iv) tính khả biến, vì ngôn ngữ diễn ra
trong thời gian, mà thời gian thì làm biến đổi mọi thứ, nên dấu hiệu ngôn ngữ
cũng biến đổi theo thời gian [Saussure, Ferdinand de 1967, pp.97-100].
Như vậy, theo
cách hiểu của ngôn ngữ ký hiệu học truyền thống, dấu hiệu có chức năng chuyển
tải nghĩa, thông qua cái biểu đạt [signifiant] có chức năng biểu đạt nghĩa bằng
một hình thức cảm quan nào đó, và cái được biểu đạt [signifié] có chức năng thể hiện nghĩa của
ký hiệu thông qua nội dung của một khái niệm nào đó. Đây cũng chính là một cấu
trúc điển hình, được tạo bởi các mặt đối lập, làm thành một trong những cơ sở
quan trọng nhất của cấu trúc luận Levi-Strauss. Và cũng chính khái niệm cái
được biểu đạt đã gợi hứng cho cha đẻ của giải cấu trúc là Jacques Derrida tạo
ra một khái niệm triết học kinh điển là “cái được biểu đạt siêu việt” [signifié transcendantal]. Derrida
đã sử dụng khái niệm này để phê phán và diễn giải bất kỳ hệ thống cấu trúc nào. Theo ông, bất cứ cấu trúc nào
cũng có một trung tâm, và bất
cứ trung tâm nào cũng là trung tâm của một cấu trúc, là nguồn gốc của cấu trúc, chi phối và
duy trì cấu trúc. Và khái niệm trung tâm đồng nghĩa với cái được biểu đạt siêu
việt, hay còn gọi là cái được biểu đạt tiên thiên,
cái được biểu đạt có trước kinh nghiệm [Derrida 1967a,b].
Hình tượng Man Nương
trong hệ thống Tứ pháp
Khái niệm Tứ Pháp của
Phật giáo
Pháp (tiếng Phạn धर्म dharma, Pali: धम्म dhamma) là một khái niệm quan trọng với
nhiều ý nghĩa trong các tôn giáo Ấn Độ như Ấn Độ giáo, Phật giáo, đạo Sikh và đạo Jain
(Kỳ Na). Trong các ngôn ngữ phương Tây, không có từ đơn nào
tương đương để dịch dharma.
Trong Ấn Độ giáo, pháp có nghĩa là hành vi được coi là phù hợp với ऋतं rta, trật tự tạo ra cuộc sống và
vũ trụ, và bao gồm các trách nhiệm, các quyền, các
đạo luật, đức hạnh và ''chính
nghiệp''. Trong Phật giáo, Pháp có nghĩa là "quy luật và trật tự vũ
trụ", thể hiện trong Phật
pháp - những lời dạy của Đức Phật.
Trong triết học Phật giáo, các Pháp cũng đồng nghĩa với các "hiện tượng". Từ धर्म dharma - pháp, trong tiếng
Sanskrit cổ là một từ có từ
căn dhṛ, có một nghĩa là nắm, giữ, duy trì,
vì vậy nghĩa mở rộng của nó là luật, quy luật. Pháp là một khái niệm quan trọng trung tâm trong triết học và tôn giáo Ấn
Độ, với nhiều ý nghĩa tương
đồng hoặc khác biệt trong Ấn Độ
giáo, Phật giáo và Kỳ Na giáo. Vì vậy rất khó đưa ra một định nghĩa ngắn gọn cho khái
niệm Pháp, với
tư cách là một từ có một lịch
sử lâu dài và đa dạng, lại nằm giữa một tập hợp rất phức tạp
của các ý nghĩa và diễn giải
khác nhau. [Horsch, Paul 2004]
Nghĩa của từ dharma phụ thuộc
vào bối cảnh và đã có những bước tiến hóa cùng với tư tưởng triết học và tôn giáo Ấn Độ qua một giai đoạn lịch sử lâu dài. Trong các văn bản sớm nhất và
những huyền thoại cổ xưa của Ấn Độ giáo, dharma có nghĩa
là luật của vũ trụ, các quy tắc tạo ra vũ trụ từ sự hỗn loạn, sau đó là các nghi lễ. Về sau, trong các bộ
kinh Vedas, Upanishads, Puranas và các
sử thi, nghĩa của từ dharma đã bắt đầu trở nên
tinh tế, phong phú, và phức tạp hơn, được áp dụng vào các bối cảnh đa dạng hơn. Trong những bối cảnh nhất định, dharma chỉ định các
hành vi cần thiết con người để giữ gìn trật tự của sự vật trong vũ trụ, các nguyên tắc ngăn chặn sự hỗn loạn;
các hành vi và hành động cần thiết
đối với toàn bộ sự sống trong
tự nhiên, xã hội, gia đình cũng như ở cấp độ cá nhân. Pháp dharma bao gồm
những ý tưởng như trách nhiệm,
các quyền, các phong
tục, tôn giáo, tín ngưỡng, và tất cả các hành vi được coi là phù hợp,
đúng đắn, hoặc chính
đáng về mặt đạo đức. [Dhand,
Arti 2002] Từ phản nghĩa của pháp dharma là adharma (tiếng
Phạn: अधर्मा),
có nghĩa là "không đúng pháp". Cũng giống như
với pháp, từ adharma bao gồm và hàm ý nhiều nghĩa, nhưng theo cách nói thông thường, thì adharma có nghĩa là phản tự
nhiên, vô luân, vô đạo đức, sai hay không hợp pháp. [28] Trong Phật giáo và Kỳ
Na giáo, pháp kết hợp các kinh
điển và giáo lý của những người sáng
lập Phật giáo và Kỳ Na giáo
là Đức Phật và Mahavira [Wezler, Albrecht 2004].
Trong Phật giáo,
có nhiều loại pháp
được gọi là tứ
pháp, chẳng hạn như: Theo bộ kinh Đại thừa Bản sinh tâm địa quán (quyển 2)
và Đại thừa Pháp uyển nghĩa lâm chương (quyển 6) thì Tứ pháp là: i) Giáo
pháp, ngôn giáo của chư Phật ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai; ii) Lý pháp,
nghĩa lý được diễn giải rõ ràng trong giáo pháp; iii) Hành pháp, sự tu hành
giới, định, tuệ ở nhân vị, căn cứ vào lý pháp để khởi hành; iv) Quả pháp, tu hành
viên mãn chứng được quả Niết Bàn vô vi. Chư Phật dùng 4 pháp này dẫn dắt chúng
sinh ra khỏi bể khổ sinh tử để đến được cảnh giới Niết Bàn giải thoát. Chư Phật
cũng nương vào 4 pháp này mà tu hành để đoạn trừ tất cả mọi nghiệp chướng mà
thành chính quả [Quán vô lượng thọ kinh nghĩa sớ, Quyển trung (Tuệ Viễn); Thành
duy thức luận thuật ký, Quyển 1; Hoa nghiêm kinh thám huyền ký, Quyển 3]. Tứ
pháp chỉ 4 pháp tu hành của Bồ tát, theo kinh Đại thừa tứ pháp do ngài Nhật
Chiếu (Divakara 613 - 687) dịch, thì tứ pháp là: i) Không bỏ tâm bồ đề; ii)
Không bỏ thiện tri thức; iii) Không bỏ ưa thích kham nhẫn, chịu đựng; iv) Không
bỏ a lan nhã (chỗ vắng vẻ yên tĩnh). Luận Du già sư địa, quyển 47 cũng xác định
tứ pháp gồm: i) Khéo tu của Bồ Tát; ii) Dùng phương tiện khéo léo giáo hóa
chúng sinh; iii) Dùng Tứ nhiếp pháp làm lợi cho người khác; iv) Đem thiện căn
mình tu hành được hồi hướng Phật đạo bằng tâm không điên đảo, không trở lại cầu
quả báo thế gian. Tứ pháp trong Kinh Quán Phật tam muội hải là: i) Ngày đêm 6
thời thuyết tội sám hối; ii) Thường nhớ nghĩ đến Phật và không lừa dối chúng
sinh; iii) Tu tập 6 hòa kinh: thân, khẩu, ý, giới, kiến, lợi và tâm không sinh
tức giận, kiêu mạn; iv) Tu tập 6 niệm: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm
Giới, niệm Thí, niệm Thiên cấp thiết như cứu dầu bị cháy [Phật giáo Việt Nam
1999: Phật Quang Từ điển, Tập 6. tr. 6765-6771].
Kinh Chiêm sát
thiện ác nghiệp báo, Quyển hạ nói đến sự thành Phật qua thứ lớp của Tứ pháp
Tín, Giải, Chứng, Hành. Còn kinh Tạp a hàm, quyển 15 thì nói đến tứ pháp chỉ 4
pháp trị bệnh ở thế gian là: i) Khéo biết bệnh; ii) Khéo biết nguyên nhân của
bệnh; iii) Khéo biết cách trị bệnh; iv) Khéo biết cách giữ cho bệnh không tái
phát. Riêng đức Phật thì khéo biết bệnh của chúng sinh là do quá khổ, nguyên
nhân của bệnh khổ là do vô minh, lại khéo biết cách trị bệnh nên được gọi là
Đại y vương. Ngoài ra, theo Thập trụ Tỳ bà sa luận, quyển 7 còn có Tứ pháp mà
bậc Pháp sư phải có đầy đủ, đó là: i) Học rộng nghe nhiều và có khả năng ghi
nhớ tất cả ngôn từ chương cú; ii) Quyết định và khéo biết tướng sinh diệt của
các pháp thế gian và xuất thế gian; iii) Được trí thiền định, đối với các kinh
pháp tùy thuận không tranh luận; iv) Thực hành đúng những điều mình giảng nói,
không thêm bớt. Tứ pháp chỉ chung 4 loại phép tắc, như Pháp hoa Tứ pháp, Niết
bàn Tứ pháp, Lăng già Tứ pháp, Bồ tát Tứ pháp, Thế y Tứ pháp, Pháp sư Tứ pháp,
trong đó Pháp hoa Tứ pháp là: Chư Phật hộ niệm, trồng các gốc đức, vào chính
định tụ và phát tâm cứu tất cả chúng sinh. Lăng già Tứ pháp là: Năm pháp, ba tự
tính, tám thức và hai vô ngã. Niết bàn Tứ pháp là: Gần thiện tri thức, lắng
nghe chính pháp, tư duy nghĩa lý, và như pháp tu hành. Ngoài ra kinh Đại bát
Niết bàn quyển thượng, lấy giới, định, tuệ rồi thêm giải thoát nữa để gọi là Tứ
pháp (Kinh Đại Niết bàn, quyển 18, phẩm Phổ Hiền khuyến phát kinh Pháp hoa).
Còn một tứ pháp nữa là: Giáo, Hành, Tín, Chứng của Tịnh độ Chân tông do tổ Khai
sáng ở Nhật Bản là ngài Thân Loan (親鸞
Shinran, 1173 - 1262) thành lập trong Giáo hành tín chứng văn loại, là đại
cương của tông này [Phật giáo Việt Nam 1999: Phật Quang Từ điển, Tập 6. tr.
6765-6771].
Rõ ràng hệ thống
tứ pháp chùa Dâu không phải là các Tứ pháp Phật giáo kinh điển đề cập ở trên.
Đó là một hệ thống riêng biệt, tuân thủ đúng trật tự vũ trụ, kể cả nhân giới và
nhiên giới, nhưng không giống với bất cứ hình thức Tứ pháp đã có nào trong lịch
sử Phật giáo Thế giới.
Hệ thống Tứ Pháp chùa
Dâu dưới lăng kính cấu trúc luận
Cấu trúc luận là một trường phái tư tưởng có liên quan đến cấu
trúc dựa trên cơ sở của các
sự kiện ngôn ngữ của
Ferdinand Saussure. Một cấu trúc được
tạo bởi sự sắp xếp của các yếu tố với nhau, theo nguyên tắc đối
lập nhị phân, sao cho toàn
bộ các yếu tố và các kết nối của chúng tạo thành một hệ thống độc lập. Theo Lévi-Strauss, đặc tính độc đáo của cấu trúc luận là các
yếu tố không tồn tại trước khi có
hệ thống; những yếu tố này xuất hiện
với các mối quan hệ của chúng. Thậm chí chúng ta
có thể nhận thấy rằng đây là mối quan hệ làm bộc lộ các yếu tố [Lévi-Strauss,
Claude 1958]. Một cấu trúc phải thể hiện đặc trưng hệ thống. Nó bao gồm các yếu tố sao
cho bất kỳ biến đổi nào của chúng cũng tạo ra sự biến
đổi của tất cả các yếu
tố khác. Bất kỳ mô hình nào thuộc một nhóm các biến đổi mà mỗi biến đổi đều tương ứng với một mô hình của cùng một dòng, vì vậy toàn bộ các biến đổi này tạo thành một nhóm mô hình. Các thuộc tính được đề cập ở trên có thể tiên đoán mô hình sẽ phản ứng ra sao trong trường hợp biến đổi của một trong các yếu tố của nó. Mô hình phải được tạo dựng
sao cho sự vận hành của nó có
thể giải thích cho tất cả các
sự kiện được quan sát. Đối
với Levi-Strauss, cấu trúc luận là sự liên kết giữa các yếu tố khác biệt theo
nguyên tắc đối lập. Sự sống còn của cấu trúc luận là duy trì được sự khác biệt
bằng phương thức liên kết nhị phân giữa các khác biệt với nhau [Lévi-Strauss
1958].
Mọi hệ thống cấu
trúc đều được tạo bởi các cặp đối lập nhị phân, và phải có một trung tâm, nơi
phát xuất của toàn bộ hệ thống và xác quyết ý nghĩa của hệ thống, ít nhất là
tính chất hiện hữu của nó. Derrida chỉ ra rằng, khái niệm trung tâm có hai đặc
điểm: i) là nơi phát xuất của hệ thống và bảo đảm cho mọi thành phần trong hệ
thống đó có được tính chất tương liên; ii) chính trung tâm cũng là yếu tố vượt
ra ngoài hệ thống, không được điều phối bởi các quy luật của hệ thống. Trung
tâm là phần cốt lõi của mọi hệ thống, không gì trong hệ thống có thể thay thế
được nó, vì vậy trung tâm bao giờ cũng mang tính tuyệt đối. Trung tâm là nơi
phát xuất sự mâu thuẫn, vì nó là phần cốt yếu kiến tạo nên hệ thống mà không thuộc
vào hệ thống, nó không phải là một thành phần của tính toàn thể; cấu trúc trung
tâm, đóng phần quan trọng nhất của một hệ thống, trở thành mâu thuẫn trong tính
chặt chẽ của nó [Derrida 1967a,b].
Dưới lăng kính
cấu trúc luận, có thể thấy rất rõ các cặp đối lập nhị phân và các mối liên kết
tạo thành một hệ thống cấu trúc chặt chẽ trong hình tượng Man Nương và hệ thống
Tứ Pháp. Đó trước hết là các cặp đối lập được xây dựng xung quanh “cái trung
tâm”, “tính trung tâm” là hình tượng Man Nương; đặc biệt là hình tượng chủ chốt
này đã được đặt đối lập về mọi phương diện với Khâu Đà La: i) Nam/ nữ;
ii) Bản địa/ người ngoài; iii) Già/ trẻ; iv) Có đạo/ không có đạo; iii) Có học/
không học; iv) Đẳng cấp cao/ đẳng cấp thấp; v) Chủ động/ bị động; vi) Có phép
thuật/ không phép thuật; vii) Đi/ ở, …vv. Thứ hai là các cặp đối lập trong tự
thân Man Nương: i) Tự nhiên/ văn hóa; ii) Trinh tiết/ không còn trinh tiết;
iii) Thể xác/ tinh thần; iv) Đời/ đạo; v) Mẹ/ con; vi) Gia đình/ không gia
đình. Thứ ba là sự chuyển hóa giữa các cặp đối lập: i) sự thụ thai linh thiêng;
ii) sự kết hợp siêu nhiên giữa đứa trẻ và cây dung thụ; iii) Sự vắng mặt của
Khâu Đà La; iv) Man Nương tiếp nhận khả tính siêu phàm từ Khâu Đà La thông qua
cây tích trượng để cứu dân qua đại nạn ba năm liền hạn hán; v) cuộc gặp lại
giữa mẹ và con; vi) sự chuyển hóa của cây dung thụ thành Tứ Pháp; vii) A Man
trở thành Phật Mẫu.
Với tư cách là
Phật Mẫu, hình tượng Man Nương đã được xây dựng thành một cấu trúc Tứ pháp hoàn
chỉnh, thuần Việt; Man Nương trở thành mẹ của các vị Phật khác, có khả năng tạo
ra và chi phối các vị Phật khác là Bụt Mây - Pháp Vân, Bụt Mưa - Pháp Vũ, Bụt
Sấm - Pháp Lôi, và Bụt Chớp - Pháp Điện. Bà được thờ ở chùa Tổ - Phúc Nghiêm
Tự, tại làng Mãn Xá, xã Hà Mãn, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh. Trong hệ thống các
Phật con thì Pháp Vân là chị cả, được thờ ở ngôi chùa lớn Thiền Định, còn gọi
là Diên Ứng tự - chùa Dâu; Pháp Vũ là chị hai, được thờ ở chùa Đậu; Pháp Lôi là
chị Ba được thờ ở chùa Tướng; và em út Pháp Điện được thờ ở chùa Dàn. Theo đúng
nghĩa của khái niệm pháp - dharma thì rõ ràng hệ thống Tứ pháp chùa Dâu đã xây
dựng được một cấu trúc phù hợp với ऋतं rta, trật tự tạo ra cuộc sống và
vũ trụ, bao gồm các trách nhiệm
của con người với con người, con người với tự nhiên như trách nhiệm thầy trò
giữa Man Nương và Khâu Đà La; trách nhiệm gia đình giữa Man Nương và ông bà Tu
Định, giữa Man Nương Phật Mẫu và Tứ Bụt cùng Thạch Quang phật; trách nhiệm của
Man Nương trong việc cứu dân làng khỏi đại họa hạn hán; trách nhiệm và nghĩa vụ
của các Phật con Tứ Pháp trong việc kính thờ Phật Mẫu, v.v… tất cả đều thể hiện
các đạo luật, đức hạnh và ''lối
sống chính đáng'', nhằm duy trì "quy luật và trật tự vũ
trụ" phổ biến, kể cả
trong nhiên giới và trong nhân giới, tuân thủ tuyệt đối những lời dạy của Đức Phật.
________________________________________________
* Bài tham gia
Hội thảo Khoa học Vùng văn hóa Luy Lâu
và công tác phát triển ngành du lịch của địa phương do Liên hiệp các
Hội KH&KT Bắc Ninh tổ chức tháng 9/2015.
Tài liệu tham
khảo
Derrida, Jacques
1967a. La
structure, le signe et le jeu dans le discours des sciences humaines.
Derrida J. Ecriture et la
Differance. Paris: "Seul", 1967. P.: 409-429.
Derrida, Jacques
1967b. Of
Grammatology. Baltimore: John Hopkins University Press.
Dhand, Arti
2002. The Dharma
of Ethics, the Ethics of Dharma: Quizzing the Ideals of Hinduism. Journal
of Religious Ethics 30 (3): 351.
Horsch, Paul
2004. From
Creation Myth to World Law: the Early History of Dharma, Journal of Indian
Philosophy, December 2004, Volume 32, Issue 5-6, pp 423-448
Kalupahana,
Davis 1986. The Philosophy of the Middle Way. Suny Press, 1986, pages
15–16.
Lévi-Strauss,
Claude 1958. Anthropologie structurale. Paris, Plon, Agora, 1958.
Nguyễn Quang
Hồng (chủ biên) 1997. Di văn chùa Dâu.
Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Phật giáo Việt
Nam 1999. Phật
Quang Từ điển. Hội Văn hóa Giáo dục Linh Sơn, Đài Bắc xuất bản.
Saussure Fernand de, 1967. Cours de linguistique générale. Collection Bibliothèque Scientifique. Payot, Paris.
Wezler, Albrecht
2004. Dharma in
the Veda and the Dharmaśāstras, Journal of Indian Philosophy, December
2004, Volume 32, Issue 5-6, pp 629-654
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét