Trào lưu vùng trong bối cảnh toàn cầu hóa (I)
Hà Hữu Nga
Khái niệm trào lưu vùng
Ngày nay dù
nhìn từ góc độ địa lý thì các nhà nghiên cứu thuộc lĩnh vực này vẫn phải thừa
nhận rằng trào lưu vùng (regionalism) “là một trào lưu chính trị hoặc văn hóa tìm
cách chính trị hóa những khẳng định trước về lãnh thổ của các vùng với mục đích
bảo hộ hoặc giúp cho các lợi ích vùng”. Từ cách nhìn nhận đó, các nhà địa lý học
cho rằng cần đặc biệt lưu ý đến việc phân vùng chức năng trong đó nhà nước chịu
trách nhiệm phân ranh giới, chẳng hạn như các vùng hành chính và các vùng kế hoạch.
Bên cạnh đó, tính chất chính trị của trào lưu vùng thể hiện phổ biến bằng những
tình cảm về bản sắc tập thể. Các tình cảm đó không nhất thiết có nguồn gốc từ một
vùng được xác định một cách chính thức, mà đôi khi lại có nguồn gốc từ một bản
sắc về quê hương hoặc mang đậm phong cách dân gian, mặc dù việc chính trị hóa đó thường có thể được củng cố bằng những cơ
cấu chính trị chính thống như Liên minh vùng chẳng hạn. Trào lưu vùng cũng thường
xuyên liên quan đến các khu vực tộc người, vì tất cả các loại trào lưu vùng thường
có một văn hóa đối kháng, đó hầu hết là các văn hóa thống trị hoặc là văn hóa của
các nhóm đa số trong khu vực. Vì vậy các mục đích về chế độ tự trị và quyền lực
địa phương cũng như phép tu từ học chính trị và sự tự khẳng định thường dựa trên
một niềm tin sâu sắc nhưng lầm lẫn về cái vẫn được coi là một nhà nước biệt lập
và quá tập trung. Mặc dù có sự tái cấu trúc về xã hội và kinh tế địa phương nhưng
các bản sắc vùng, cội nguồn của các trào lưu vùng đã chứng tỏ là không khó rèn đúc
và tạo dựng. Cả những trào lưu vùng dựa vào cơ sở tộc thuộc và phi tộc thuộc xuất
hiện trong thập kỷ vừa qua đặc biệt đóng vai trò cam kết vào một nền chính trị
với những loại hình quản trị mới có qui mô lục địa (chẳng hạn Liên minh Châu Âu)
hoặc toàn cầu, và liên quan đến nền kinh tế toàn cầu bằng cách bỏ qua các cấu
trúc hình thức của Nhà nước - Dân tộc và hình thành gắn liền với các vùng toàn
cầu hóa khác. Nhiều vùng ở châu Âu hiện nay khao khát trở thành một bộ phận của
hình thức liên bang rộng rãi hơn của nền quản trị châu Âu (chẳng hạn như vùng
Basque, Catalonia, Scotland) [Smith, David M. 2000: 686].
Lothar
Honnighausen, giáo sư danh dự về Văn học Anh và Bắc Mỹ tại đại học Bonn, một lý
thuyết gia phê bình văn học vùng nổi tiếng, đã cho rằng: Rõ ràng là các thuật
ngữ vùng và trào lưu vùng là những vật mang giá trị và không nên sử dụng chúng một
cách ấu trĩ. Tuy nhiên cũng không có gì đáng phải ngạc nhiên đối với các học giả
ngày nay, là những người trái ngược với những người tiền nhiệm đã nhận ra được
một điều là cần phải rất cẩn thận về năng lực chuyển tải của các công cụ mà họ
sử dụng. Theo ông, thực tế thì từ các thuật ngữ vùng - region - và trào lưu vùng - regionalism
- được cấu tạo từ động từ Latin “regere: tổ chức, thống trị” vì vậy nó hàm
ý không gian và chính trị học [Honnighausen 2005: 159]. Chính vì vậy cần phải làm
cho các thuật ngữ đó trở nên hấp dẫn với các nhà phê bình khi họ kiên trì rằng
“các xã hội khác nhau sản sinh ra những khái niệm không gian và thời gian khác
nhau về chất”, và các khái niệm không gian – các vùng và trào lưu vùng –
“không hề trung tính cũng không hề ấu trĩ đối với các thực tiễn thống trị và kiểm
soát” [Harvey 1996: 210]. Hơn nữa tính chất mơ hồ về chính trị/không gian của các
thuật ngữ các vùng và trào lưu vùng sẽ cuốn hút các tác giả nào tìm được hứng
khởi từ phép từ nguyên học và phép phúng dụ của Derrida [Honnighausen 2005:
159]. Tuy nhiên các nhà Châu Mỹ học - những người đã cùng với Arjuna Appadurai
tập trung vào chủ đề về các cuộc di dân toàn cầu và tình trạng người dân di cư không
có ý thức sâu đậm về quê hương bản quán [Appadurai 1996], - đã nhận thấy rằng
thuật ngữ “thuộc về vùng, mang tính vùng” (regional) là không hấp dẫn vì theo
quan điểm của họ thuật ngữ đó có nghĩa là tỉnh
lẻ, nhà quê theo nghĩa “lạc hậu” và mang hơi hướng hoài cổ (home, Heimat), bảo thủ và thậm chí phản động nữa.
Để thay thế vùng (region) họ thường thích khái niệm tộc cảnh (ethnoscape) mà
Appadurai đã sáng tạo ra, vì như ông đã thích thú với một sự mãn nguyện kỳ lạ là
nó làm cho chúng ta nhận ra rằng “không cần phải coi các văn hóa là các giới hạn
không gian” [Appadurai 1996: 183].
Riêng
Kornelia Hahn thì lại quan niệm rằng về trào lưu vùng trong thế giới hiện đại –
hoặc đúng ra là “hiện đại muộn” vẫn còn có một số hiện tượng lẫn lộn có thể dễ
dàng nhận thấy: Các công nghệ mới tạo ra các cơ hội để trao truyền “ảnh hưởng lẫn
nhau” và “thời gian thực” trên thế giới nhưng lại không thể thay thế được khát
vọng gặp mặt và giao tiếp. Ngay từ những năm 1960s, Marshall Luhan đã chỉ ra rằng
phương tiện truyền thông mới đã kích thích “sự vươn dậy của Con Người” theo hai
cách. Bằng TV, tất cả chúng ta đều tụ tập lại trong “cái làng toàn cầu” này và sẽ
tái tạo một quá trình bộ lạc hóa: một mặt sự phát triển của con người cho phép người
ta tham gia vào truyền thông trên phạm vi toàn cầu. Mặt khác loại hình cộng đồng
mới hình thành này được cấu trúc giống như một bộ lạc. Chúng ta biết rằng truyền
thông không trở thành toàn cầu cũng không thể làm cho thế giới trở thành một bộ
lạc khổng lồ được. Tuy nhiên rõ ràng là chúng ta có thể xem xét cái trung tâm điểm
mà Mc Luhan nhấn mạnh, đó chính là khung truyền thông luôn luôn biến đổi vì nó được
tạo ra bởi nhiều loại hình phương tiện hiện đại và tác động của nó đối với đời
sống xã hội là rất lớn. Tương tự như vậy, có một vấn đề lớn đó là việc người ta
đã dễ dàng đi đây đi đó trên toàn thế giới với tư cách là người du lịch để cố gắng
đi sâu vào “các phong cách sống tiêu biểu” của các vùng ở nước ngoài hoặc rút
lui khỏi cuộc sống bon chen hàng ngày để được nghỉ ngơi trong “các vùng” được tạo
dựng nhân tạo, chẳng hạn như Club Meds và các trung tâm giải trí khác. Trong cả
hai trường hợp, các lữ khách đều cố làm quen với cuộc sống hàng ngày “như trước”.
Sống xa nhà, là người ngoài, có thể làm giàu vốn hiểu biết bằng một hiện thực đang
diễn ra theo cách khác ở một địa phương khác. Tuy nhiên có điều rất đáng ngờ là
liệu kinh nghiệm này có thể thực sự giúp người ta có được một hiểu biết như người
trong cuộc về một vùng ở nước ngoài không [Hahn 2005: 87]. Vì vậy như MacCanell
đã chỉ ra, thuật ngữ ‘du lịch’ ngày càng được sử dụng như một thứ nhãn mác chế
giễu đối với những người dường như hài lòng với các kinh nghiệm giả” [McCannell
1999: 94].
Toàn cầu hóa
và các phương tiện giao thông hiện đại đã làm cho chính các sản phẩm thông tin –
giống hệt những kẻ lữ hành - cũng lang thang trên mọi ngõ ngách của thế giới. Tất
nhiên các hàng hóa được sản xuất và phân phối trên phạm vi toàn cầu thì lại được
tiêu thụ ở các địa phương. Có một số nguyên do chính đáng để coi hiện tượng này
như một nhân tố quan trọng trong việc tạo ra một phong cách sống chuẩn hóa. Chúng
ta có thể dễ dàng nhận thấy chẳng hạn, một tâm thức thống nhất về thời trang ở
thanh niên trên toàn thế giới. Một mặt việc sử dụng bất cứ sản phẩm nào cũng đều
liên quan đến hàng lọat thói quen, phong tục và thực tiễn địa phương.Vì vậy chúng
ta phải luôn luôn để ý xem cách ăn, nói, sử dụng đũa sao cho giống hệt như những
người dân địa phương sử dụng chúng từ ngàn đời nay vậy. Thực tiễn truyền thống
của một số vùng hoặc việc thể hiện sự quen thuộc với các dụng cụ ăn uống khác,
một phương tiện biểu trưng riêng cho thực tiễn truyền thống chẳng hạn giờ đây đã
không còn là của riêng của bất cứ một cộng đồng đơn lẻ nào nữa. Tương tự như vậy, trong những hệ thống xã hội
quan trọng nhất như chính trị hoặc kinh tế thì người ta ngày càng nhận rõ là những
nỗ lực toàn cầu nhằm cân bằng các lợi ích chính trị, luật pháp, giao dịch kinh
tế, thị trường chứng khoán cũng có rất nhiều thứ liên quan đến khả năng kiểm soát
và quan sát mọi sự kiện địa phương một cách thấu đáo [Hahn 2005: 88]. Tuy nhiên
những đặc phẩm vùng và các cuộc xung đột trong một vùng hoặc giữa các vùng văn
hóa với nhau chắc chắn vẫn là một trung tâm điểm trong chính trị học hiện đại.
Người ta có thể kết luận rằng việc hiểu biết các nền văn hóa vùng trên toàn cầu
phù hợp với viễn cảnh rộng lớn hơn của cái gọi là “thế giới toàn cầu”. Viễn cảnh
tổng quát ấy khuyến khích chúng ta quan sát mỗi vùng như một bộ phận của một cái
gì đó lớn hơn hoặc như một vùng được bao quanh bởi một những thứ khác với nó.
Trào lưu vùng có phải là một phản đề của toàn cầu hóa?
Trên thực tế
thì cách quan sát tinh tế của Kornelia Hahn đã cho thấy: “trào lưu vùng và toàn
cầu hóa là những khía cạnh thống nhất của một hiện tượng chuyển đổi xã hội duy
nhất đang diễn ra”. Bà cho rằng bất cứ sự xem xét kỹ lưỡng nào về các vùng cũng
cần phải bao gồm các hiện tượng được thể hiện bằng các thuật ngữ “không gian” và
“địa điểm”. Chẳng hạn Newsweek đã coi NY-LON (New York – London) như là một thành
phố duy nhất bị chia tách một cách bất tiện bởi một đại dương”. Vì vậy các cư dân
của NY-LON thường phải sử dụng máy bay làm phương tiện đi lại. Điểm đặc trưng
của NY-LON là nó có vai trò như một thủ lĩnh trong công nghiệp điện ảnh, truyền
hình và nhạc pop; trong việc xuất bản và trong kinh tế mới nói chung. Mọi người
trên toàn thế giới tham gia vào các khu vực kinh tế này càng ngày càng chọn
NY-LON làm trung tâm hoạt động của họ. Nhưng ngay cả trong bối cảnh đó thì hình
ảnh NY-LON cũng vẫn bị lẫn lộn. “Thành phố” đó không thống nhất về không gian,
nhưng lại thống nhất bằng “tiền”. Như một doanh nhân nổi tiếng đã nói: “Trong
khuôn khổ kinh doanh của chúng ta, các thành phố đang bắt đầu tan chảy ra thành
một khối tổng thể”. Đây là một loại biểu tượng của sự thống nhất. Tuy nhiên Newsweek
cũng cho rằng cả hai nửa của NY-LON, New York và London “vẫn còn hoàn toàn không
giống nhau về mặt tinh thần”. Chúng ta có thể phát hiện được gì từ những quan sát
đó? Hahn cho rằng chừng nào các khoảng cách không gian tương đối rút ngắn lại vì
những đổi mới về giao thông và các công nghệ truyền thông, thì “địa điểm” không
còn phải nhất thiết được xác định bằng cách qui vào không gian nữa [Hahn 2005:
88].
Nhận xét táo
bạo của Hahn đã cho thấy vùng có khả năng tồn tại bên ngoài một không gian địa
lý cố định. Vậy thì chúng ta sử dụng khuôn khổ nào để định nghĩa “vùng”. “Tiền”
như một trung gian biểu tượng lưu hành giữa mọi người và tạo ra những loại quan
hệ nhất định sẽ chắc chắn phải được đưa vào xem xét. Ngay cả “tinh thần” có được
cảm thụ và được trải nghiệm trong một địa điểm hay không cũng có thể cần phải được
xem xét. Chúng ta phải xác định đó là “tinh thần” nào. Peter Burke nhấn mạnh rằng
vào cuối thế kỷ 18 các thuật ngữ triết học nổi tiếng như “tinh thần”, “thiên tài”
và “hài hước” (Geist, Stimmung, Genie
trong tiếng Đức; ésperit general, ésperit
humain, génie trong tiếng Pháp) đã được thay thế bằng thuật ngữ “văn hóa” do
các nhà triết học Đức sử dụng đầu tiên. Thuật ngữ “văn hóa” như “tinh thần” [Weber
1972: 237] biểu thị một nhận thức sâu sắc hơn về những mối quan hệ giữa những
thay đổi trong ngôn ngữ, luật pháp, tôn giáo, các ngành nghệ thuật và các khoa
học [Burke 1997: 20]. Giờ đây khi đề cập đến “tinh thần” chúng ta muốn nói đến
“văn hóa” theo nghĩa này.
Vì vậy “tinh
thần” của một vùng thường được sử dụng như một từ đồng nghĩa với “tổng thể các
mục tiêu văn hóa”. Văn hóa có thể được coi như đồng nghĩa với “tổng thể” [Burke
1997: 31] hệt như “tòa giám” về phương diện từ nguyên học được qui về “cái tổng
thể” và che đậy những mục tiêu mà một nhóm xã hội muốn bảo vệ để khơi dậy bản sắc
của nó [Kohl 1993: 72]. Tuy nhiên bản sắc này được duy trì, thậm chí được khám phá khi xuất hiện một cái gì đó phải
bị loại bỏ bởi sự tương tác biểu tượng. Vì vậy trong các thuật ngữ khái quát nhất
một vùng được tạo dựng bởi một ranh giới được làm bằng các biểu tượng không thuộc
về nó. Vậy là xuất hiện hai vấn đề: những phạm trù nào được bao hàm trong bất cứ
một định nghĩa nào về vùng? Ai/cái gì xác
định sức mạnh của các phạm trù biểu tượng? Những câu hỏi này phải được xem xét
trong mọi phân tích về một vùng. Chúng ta cần xem xét ba giả định chung khi
nghiên cứu về các vùng:
- Các vùng nên được phân chia một cách hình thức thành “bên trong” và “bên ngoài”;
- Có một mối quan hệ giao lưu ổn định giữa các vùng (giữa “bên trong” và “bên ngoài”) thông qua giao tiếp, di cư, tiêu thụ, giao dịch tài chính, …vv.
- Vì giao lưu ổn định và sự thay đổi các đặc trưng của các vùng nên có thể rất hữu dụng khi xem xét một điểm qui chiếu địa phương hoặc không gian để tiến hành phân tích.
Như Maurice
Halbwachs đã nhận thấy, không gian bảo tồn
ký ức văn hóa có lẽ tốt hơn các phương tiện ghi nhớ chẳng hạn như lễ thức hoặc
các ghi chép [Halbwachs 1997]. Vì vậy một “không gian” nào đó trở thành một “địa
điểm” có ý nghĩa thông qua các tác nhân ý nghĩa qui cho nó trong suốt quá trình
tương tác biểu tượng của họ. Một vùng luôn luôn là một “địa điểm” theo nghĩa đó.
Khi Erving Goffman chỉ ra rằng “Một vùng có thể được xác định như bất cứ một địa
điểm nào được vạch ranh giới ở một mức độ nào đó bằng các rào chắn của nhận thức”
thì ông đã dựa vào các tình huống giao tiếp mặt đối mặt [Goffman 1959: 106]. Nhưng
tính chất hữu dụng của định nghĩa này cũng cho phép nó mở ra đến một khái niệm
vùng rộng lớn hơn. Cộng đồng được tạo dựng bởi các ranh giới nhận thức lẫn
nhau, điều đó có nghĩa là bằng các ranh giới giao tiếp. Tuyên bố tổng quát ấy
không chịu tác động bởi các công nghệ truyền thông mới. Ngay cả những công nghệ
tiên tiến nhất cho phép phân phối thông tin trong một phạm vi rộng lớn về không
gian và thời gian cũng tạo ra một số rào cản (mới) của nhận thức khi so sánh với
các tình huống giao tiếp mặt đối mặt. Tuy nhiên chúng ta cần nhấn mạnh đến việc
áp dụng và sử dụng cụ thể các phương tiện thay cho vịệc chỉ tập trung vào phạm
vi công nghệ thông tin. Điều này có thể dẫn đến một nhận xét là các cộng đồng vùng
cần phải được lý giải như là kết quả của các ranh giới tưởng tượng. Thậm chí chúng ta còn có thể chỉ ra rằng một văn hóa
(vùng) luôn luôn bao gồm các cấu trúc lai
bảo lưu các quá trình giao tiếp chọn lọc
từ quá khứ. Vì vậy tất cả các truyền thống đều đại diện cho việc mở rộng trong
thời gian và trong không gian và sự phân bố một tâm thức chung trong các cộng đồng.
Từ quan điểm
đó, thật không hữu ích cho chúng ta để cứ phải tập trung vào “bên trong” “bên
ngoài” khi quan sát các vùng, nhưng lại có một sự thật là “bên ngoài” có thể
tham gia vào một sự mở rộng toàn cầu. Các vùng có thể chịu ảnh hưởng bởi các mô
thức văn hóa của những cư dân nhập cư trước đây, việc họ nhập khẩu các sản phẩm
nước ngoài, hoặc ngay cả các kỹ thuật văn hóa xã hội được phát triển từ một xã
hội ở rất xa. Việc đặt câu hỏi về vùng và trào lưu vùng có nghĩa là đặt đối lập
các đặc trưng của cấu trúc xã hội một vùng với các đặc trưng của môi trường
xung quanh. Nhưng chúng ta cũng cần phải ghi nhớ rằng những đặc phẩm này không
phát sinh từ các đặc trưng của vùng hoặc lãnh thổ như vậy. Tính chất đồng tính
về phương diện xã hội xuất phát từ các mô thức hành vi, văn hóa, thói quen cũng
như các nguyên tắc tập thể của các phẩm chất đã được mã hóa trong các biểu tượng
chung. Vì vậy khái niệm trào lưu vùng là thuộc về một mối quan tâm đặc biệt đối
với các nhà xã hội học vì nó bao gồm cả những tương tác xã hội trong một cấu trúc
xã hội nhất định thường được khai thác gắn liền với một điểm qui chiếu địa phương.
Trong bối cảnh đó, “toàn cầu hóa” được đặt vào một phía, còn “địa phương hóa”
thì đặt ở phía khác.
“Toàn cầu hóa”
có thể được đặc trưng như một sự mở rộng không gian hợp tác toàn thế giới về
kinh tế, chính trị, tiêu thụ, sản xuất, và phân công lao động. Toàn cầu hóa chứa
đựng rủi ro sinh thái toàn cầu và cả những hậu quả không thể lường trước được [Beck 1997]. Định nghĩa này được sự ủng
hộ của các công nghệ mới về các hệ thống giao thông và truyền thông cũng như sự
phát sinh của các “thành phố toàn cầu” như những trung tâm đầu tư, truyền thông
và phân phối quốc tế [Pries 1996: 456-472]. Người ta có thể không còn được thấy
các xã hội và các văn hóa trong khuôn khổ của các ranh giới nhà nước dân tộc. Quá
trình phát triển mới cắt qua các hệ thống chính trị xã hội cũ và có thể tạo nên
các vùng siêu dân tộc và hạ dân tộc. Chúng ta cũng đang được chứng kiến một quá
trình tan rã của các rào cản thời gian và không gian trong truyền thông, và quá
trình phân ly của thời gian và không gian ấy đã tác động to lớn đến các mối tương
tác xã hội. Giờ đây các mối quan hệ xã hội đã được nhìn thấy trong ánh sáng của
các đầu vào liên tục của ngoại (các cộng đồng địa phương bên ngoài) thông tin,
tri thức và các giới hạn. Tuy nhiên, “đồng thời khi các mối quan hệ xã hội bắt đầu
trải rộng theo nghĩa đen và như một phần của quá trình đó chúng ta được chứng
kiến sự củng cố của các sức ép đối với quyền tự trị địa phương và các bản sắc văn
hóa vùng” [Giddens 1990: 65]. Kết quả là đời sống xã hội trong vùng phải chịu ảnh
hưởng bởi sự tăng cường của các mối quan hệ toàn thế giới và được tạo bởi các sự
kiện xảy ra từ các vùng rất xa nhau. Quá trình đó kết nối các địa phương xa cách để trở thành gần gũi, ngay cả khi những sự cố địa phương có thể vận
động theo một hướng khác với các mối liên hệ rất xa đã tạo nên chúng [Giddens
1990: 65]. Vì vậy giờ đây quá trình này được mô tả là “toàn cầu hóa” [Robertson
1992], nó nhấn mạnh nhiều hơn vào tính chất chung của các thay đổi liên quan đến
cả cấu trúc địa phương cũng như toàn cầu.
_______________________________________
Còn nữa...
Tài liệu tham khảo
Appadurai, Arjun 1996. Modernity at
Large: Cultural Dimensions of Globalization (Minneapolis: University of
Minnesota Press).
Beck, Ulrich
1997. Was ist Globalisierung? Irrtumer
des Globalismus – Antworten auf Globalisierung (Franfurt a.M: Suhrkamp).
Burke, Peter
1997. Varieties of Cultural History
(Cambridge: Polity Press/Blackwell Publisher)
Giddens,
Anthony 1990. The Consequences of
Modernity (Stanford: Stanford University Press).
Goffman,
Erving 1959. The Presentation of Self in
Everyday Life (New York: Anchor Books).
Hahn,
Kornelia 2005. Regionalism in Global
Societies A Contradiction?. In Regionalism
in the Age of Globalism – Concepts of Regionalism. Volume 1. Edited by
Lothar Honnighausen, Marc Frey, James Peacock, Nicolaus Steiner. Center for the Study of Upper Midwestern
Cultures 901 University Bay Dr. Madison, W1 53705. Copyright 2005, The Board of Regents of the University of
Winsconsin System All rights reserved. Printed in the United States of
America.
Harvey,
David 1996. Justice, Nature, and the
Geography of Difference. Oxford: Blackwell.
Honnighausen,
Lothar 2005. The Evolving Meaning of
Region in Canada. In Regionalism in
the Age of Globalism – Concepts of Regionalism. Volume 1. Edited by Lothar
Honnighausen, Marc Frey, James Peacock, Nicolaus Steiner. Center for the Study of Upper Midwestern Cultures 901 University Bay
Dr. Madison, W1 53705. Copyright 2005, The
Board of Regents of the University of Winsconsin System All rights
reserved. Printed in the United States of America.
Kohl,
Karl-Heinz 1993. Ethnologie – die Wissenschaft
vom kulturell Fremden (Munich: C.H. Beck).
McCannell
1999. The Tourist: A New Theory of the
Leisure Class (Berkeley: University of California).
Pries,
Ludger 1996. Transnationale soziale
Raume: Theoretisch-empirische Skizze am Beispiel der Arbeitswanderung Mexico –
USA. In Zeitschrift fur Soziologie 6.
Robertson,
Roland 1992. Globalization: Social Theory
and Global Culture (London: Sage).
Smith, David
M. (Consultant Editor) 2000. The
dictionary of Human Geography
Edited by
R.J.Johnston, Derek Geogory, Geraldine Pratt, and Michael Watts. 4th
Edition, the year 2000. David M. Smith Consultant Editor.
Weber 1972. Wirtschaft und Gesellschaft (Tubingen:
Mohr).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét