Đọc quá khứ – những
cách tiếp cận
lý giải Khảo cổ học
hiện nay (XII)
Ian Hodder
Người dịch: Hà Hữu Nga
7. Khảo cổ học Ngữ cảnh
Vậy là những quả bí Ilchamus không thể được lý giải đầy đủ bằng cách qui
chiếu vào những chức năng phổ biến – cần phải tìm ra ý nghĩa riêng của chúng.
Tương tự như vậy, cũng có thể nói về việc tìm ra ý nghĩa cho toàn bộ các hạng
mục văn hoá vật chất cũng như cho toàn bộ hành động của con người. Người ta có
thể đặt ra bất cứ câu hỏi nào về quá khứ nhân loại, cho dù đó là công
nghệ, kinh tế hay các khung ý nghĩa thì cũng đều là can thiệp. Cuối cùng không
thể nói hoạt động kinh tế của một di chỉ là gì chừng nào người ta chưa xây dựng
được các giả thuyết hoặc định đề về ý nghĩa biểu trưng của đống xương bị thải
bỏ.
Vì vậy cuốn sách này cố thử xem xét những
cách tiếp cận khác nhau đối với vấn đề đó. Phải tìm cách có được một câu trả
lời đầy đủ cho vấn đề là chúng ta cần suy luận ý nghĩa văn hoá quá khứ như thế
nào. Giờ đây người ta có thể khẳng định theo quan niệm của Kuhn về khoa học là
không thể so sánh các mô thức chẳng hạn như KCH quá trình, Cấu trúc luận và Chủ
nghĩa Marxism, bởi vì mỗi chủ thuyết đều có những luật tắc, ngôn ngữ và góc
nhìn riêng về các dữ liệu. Theo quan điểm này thì không có bất cứ một phương
pháp so sánh khách quan nào về các mô thức; mỗi mô thức chỉ thích hợp với những
thuật ngữ riêng của nó, với khung qui chiếu riêng của nó. Trong khi có lẽ tôi
cũng chấp nhận nhiều khía cạnh của quan điểm do Kuhn đưa ra, thì tôi lại cho
rằng những cách tiếp cận khác nhau có thể được so sánh theo cùng một cách mà
tôi cho rằng các văn hoá xa lạ cũng có thể hiểu được và có thể so sánh
được.
Nhiệm vụ đầu tiên của công việc so sánh và
đối lập các cách tiếp cận khác nhau trong những khuôn khổ đóng góp của chúng
vào các vấn đề đã được nêu ra ở chương 1, bây giờ đã đạt được, và nhiều cái
định tìm kiếm đã tìm thấy. Những phát triển mới trong KCH và lý thuyết xã hội
ảnh hưởng chủ nghĩa Marxism đã đưa tới một cuộc thảo luận đầy đủ về vai trò của
cá nhân trong xã hội, và cách lý giải tương đồng cũng đã được đề xuất dựa trên
quan điểm của Collingwood, một người coi lịch sử đóng một vai trò trọn vẹn
trong việc lý giải. Quan niệm cho rằng văn hoá là sáng tạo ra ý nghĩa chính là
công lao của KCH cấu trúc luận; nhưng ngược lại, chỉ trong nghiên cứu lịch sử
mới hàm chứa một mức độ duy tâm nào đó mà nội dung ý nghĩa biểu tượng được gán
cho một vai trò đầy đủ.
Như đã chỉ ra ở chương 5, Collingwood cũng để
lại cho chúng ta những hướng dẫn phương pháp luận giúp phục dựng nội dung ý
nghĩa, nhưng cần phải lưu ý là (tr. 104) vẫn còn nhiều vấn đề chưa được giải
quyết, và nhiều khoảng trống chưa được lấp đầy. Hơn nữa lý giải của Collingwood
về phương pháp vẫn hãy còn trừu tượng. Làm thế nào để nhà KCH có thể cúi xuống
mà dựng dậy ý nghĩa biểu tượng của quá khứ? Để trả lời câu hỏi này, cũng là để
hoàn thiện và khuyếch trương cách lý giải của Collingwood, tôi muốn mô tả thật
chi tiết cái mà tôi đã gọi ở một chỗ khác là “KCH Ngữ cảnh” (Hodder 1982a).
Từ “ngữ cảnh” được sử dụng thường xuyên trong
các diễn ngôn KCH, trong các câu hỏi chẳng hạn như “Ngữ cảnh mà ông đề cập là
gì vậy?” hoặc “Ngữ cảnh của các dữ liệu là gì?”. Từ đó được sử dụng trong rất
nhiều tình huống khác nhau để biểu thị tính dễ bị tác động hay sự nhạy cảm đối
với các dữ liệu riêng: “ý tưởng chung của ông không phù hợp với ngữ cảnh của
tôi”.
Ngữ cảnh có nguồn gốc từ tiếng Latin contexere,
có nghĩa là dệt, liên kết lại, nối lại. Ngược lại với các đòi hỏi quá đáng về
các qui luật tổng quát được các nhà KCH Mới đưa ra (chẳng hạn như Watson,
Leblanc và Redman 1971) có thể cho rằng đang có nhiều vận động theo khuynh
hướng ngữ cảnh. Như ghi chú ở trang 32, Flannery (1973) đã phản ứng quá mạnh
việc nhấn vào “luật – và - trật tự” thay vì nhấn vào “tính hệ thống” – một cách
tiếp cận mềm dẻo hơn trong đó các mối quan hệ đặc thù có thể phải được giải
thích. Sự đan dệt, kết nối của các sự vật trong tính đặc thù lịch sử của nó đã được
miêu tả ở trên (tr. 80) là rất rõ ràng đối với nhiều trường phái như KCH
Marxist, Tiến hoá luận, Quá trình. Butzer (1982) cũng đã xác định một
phương pháp “ngữ cảnh” trong những cách tiếp cận sinh thái học đối với quá khứ,
và trong KCH Cổ điển cách tiếp cận ngữ cảnh rõ ràng cũng đã được xây dựng liên
quan đến gốm tô màu Hy Lạp (Berard và Durand 1984). Một cuốn sách có đầu đề là Các
bối cảnh trao đổi tiền sử (Ericson and Early 1982) cũng tìm cách tập trung
vào các bối cảnh sản xuất và tiêu thụ trong đó diễn ra sự trao đổi.
Trong KCH không gian nói chung, tôi đã cho
rằng (Hodder 1985) một thế hệ kỹ thuật phân tích mới đang tìm cách nhạy bén hơn
với các dữ liệu KCH và mang tính khám phá hơn. Chúng ta sẽ xem thêm dưới đây.
Một lĩnh vực chủ yếu, được các nhà KCH tập trung vào tính đặc thù của các dữ
liệu của họ chính là việc nghiên cứu các quá trình hình thành trầm tích văn
hoá. Schiffer (1976) đã có đóng góp quan trọng vào việc phân biệt ngữ cảnh KCH
khỏi ngữ cảnh hệ thống bằng cách chỉ ra những bất chắc của cách áp dụng các
phương pháp và các lý thuyết tổng quát (chẳng hạn Whallon 1974) là những thứ
không tính đến sự khác biệt này.
Trong cuốn Lý giải sự biến đổi văn hoá
của Renfrew, Case (1973a) đã biện hộ cho quan điểm coi KCH ngữ cảnh “duy nhất xứng đáng là một KCH
mới” và nó bao hàm cả việc gắn kết chặt chẽ hơn nữa các lý thuyết tổng quát với
các dữ liệu đã có. Mối quan tâm như vậy đối với ngữ cảnh có lẽ ngày càng tăng,
ở mọi cấp độ trong KCH. Một mặt Flannery (1982) tỏ ra phê phán quá trình triết
học hoá trừu tượng và khái quát đi lạc quá xa các nguồn dữ liệu cứng (Xem
Barrett và Kinnes 1988); mặt khác sự quan tâm đến ngữ cảnh đã trở thành một vấn
đề mang tính phương pháp luận chủ yếu trong thao tác khai quật. Hơn nữa thay
cho việc sử dụng các thuật ngữ lý giải (như nền, nhà, hố, lỗ chôn cột) khi bắt
đầu khai quật và phân tích, nhiều tờ tư liệu được mã hoá giờ đây đã sử dụng
những từ ít tính chủ quan hơn, chẳng hạn “đơn vị” hoặc “ngữ cảnh”. Nó tạo ra
một ấn tượng là công việc khai quật không can dự vào những lý giải quá chủ
quan, ấn bừa giải thích vào ngay từ giai đoạn đầu tiên, trước khi tất cả các dữ
liệu này được tập hợp.
Theo một nghĩa nào đó, KCH chính là mối quan
tâm của nó đến ngữ cảnh. Việc quan tâm đến hiện vật mà không có bất cứ một
thông tin ngữ cảnh nào thì chỉ là một thứ thú chơi cổ ngoạn mà thôi, và có lẽ
tình trạng này là phổ biến trong bất cứ loại hình lịch sử nghệ thuật hoặc thị
trường nghệ thuật nào. Khai quật để lấy hiện vật ra khỏi ngữ cảnh do một số
người sử dụng máy dò kim loại thực hiện là một thứ phản đề đối với bản sắc của
KCH. Vì vậy, việc tái khẳng định tầm quan trọng của ngữ cảnh bao gồm cả việc
tái khẳng định tầm quan trọng của KCH là KCH.
Tóm lại, các nhà KCH sử dụng thuật ngữ “ngữ
cảnh” theo nhiều cách để mô tả những đan dệt, kết nối sự vật trong một hoặc một
nhóm tình huống. Hiện nay những mối quan tâm như vậy thường giữ địa vị chủ đạo.
Tuy nhiên trong chương này tôi muốn vượt khỏi định nghĩa tổng quát về khái niệm
ngữ cảnh đã được thảo luận để xem xét một ý nghĩa đặc trưng hơn. Trước hết, cần
phải xem xét hai phương pháp ở qui mô lớn trong đó văn hoá vật chất có thể được
đan dệt lại với nhau sao cho chúng trở nên có ý nghĩa.
Hai loại ý nghĩa
Hai loại ý nghĩa chủ yếu được các nhà KCH
nghiên cứu (tương tự như hai mô hình được xác định trong công trình của Patrick
1985) là hệ thống cấu trúc của những mối liên hệ chức năng và nội dung cấu trúc
của các ý niệm và biểu tượng. Vì vậy trong việc tìm kiếm loại ý nghĩa thứ nhất,
chúng ta có thể đặt vấn đề về môi trường vật chất và môi trường nhân văn, những
quá trình trầm tích văn hoá, việc tổ
chức lao động, qui mô của di chỉ, những trao đổi vật chất, năng lượng và thông
tin. Chúng ta gán ý nghĩa cho đối tượng bằng cách quan sát xem chúng vận hành
như thế nào trong mối liên hệ với những nhân tố và các quá trình khác và trong
mối liên hệ với các cấu trúc kinh tế và xã hội. Đóng góp to lớn cho lĩnh vực
này là công lao của KCH Marxist và KCH quá trình. Chúng ta đã thấy (chương 4
& 5) rằng gần đây KCH đã nhấn mạnh hơn đến các quá trình xã hội năng động
nhờ đó mà các cá nhân tạo tác ra các hiện vật vì các mục đích xã hội. Các phân
loại nhân tố có thể giúp lý giải một đối tượng về phương diện chức năng đã được
mở rộng và được tìm hiểu kỹ hơn chính là kết quả của toàn bộ những phát triển
từ đầu những năm 1960.
Việc mở rộng những nghiên cứu như vậy vẫn
chưa đủ để xem xét các chức năng tạo dựng tư tưởng hoặc biểu tượng của đối
tượng. Hơn nữa chuẩn qui chiếu lại thuộc vào loại ý nghĩa thứ hai – nội dung
của các ý niệm và biểu tượng. Điều đó liên quan nhiều hơn đến cách nói rằng
“cái ghim cài áo này được sử dụng làm biểu tượng cho những người phụ nữ” hoặc
“thanh gươm này là tượng trưng cho người đàn ông”. Hơn nữa câu hỏi đã trở thành
“vị trí của giới phụ nữ được thể hiện trong mối liên kết giữa những bộ xương
phụ nữ và những chiếc ghim cài trong các ngôi mộ là gì?”. Mục đích là tìm kiếm
những tập quán của Bourdieu, cái pe được Flannery và Marcus mô tả và các
ý niệm cấu trúc và được cấu trúc khác của loại hình học đã được bàn đến ở
chương 5. Các nhà KCH cần thực hiện những trừu tượng hoá khỏi các chức năng
biểu trưng của những hiện vật mà họ khai quật để xác định nội dung ý nghĩa ẩn
sau chúng, và điều này liên quan đến việc xác định xem các ý niệm được biểu
hiện như thế nào bằng các biểu tượng vật chất mà tự thân chúng tham gia vào cấu
trúc xã hội.
Như đã lưu ý, trong một thời gian dài các nhà
KCH đã thảo luận về cách thức sử dụng các dữ liệu ngữ cảnh để đưa ra những lý
giải về các mối liên hệ chức năng. Đó là lĩnh vực cổ kinh tế, lý thuyết trao
đổi, lý thuyết thông tin, lý thuyết các hệ thống, lý thuyết tước đoạt tối ưu,
lý thuyết hành động xã hội ...vv. Tất cả các lý thuyết ấy đều có thể sai lầm,
thiếu sót vì đã xem xét không đầy đủ loại ý nghĩa thứ hai, mà loại ý nghĩa đầu
tiên cần phải kết nối với nó. Vì vậy mối quan tâm chủ yếu của tôi ở đây là nội
dung ý nghĩa trong những ngữ cảnh lịch sử đặc thù, vì đó là những kẽ hở trong
lý thuyết KCH đương đại đã được xác định trong các chương trước. Vấn đề tương
tự đã được Davis (1984, p.12), Wells (1984; 1985) và Halll (1977) nêu ra. Mặc
dù có nhiều trùng lặp với việc xem xét ý nghĩa chức năng, nhưng tôi chỉ muốn sử
dụng những mối quan hệ ngữ cảnh để đọc được nội dung ý nghĩa của quá khứ.
Điều này được thực hiện như thế nào? Trước
hết cần phải tự phê phán việc áp đặt ý nghĩa. Có phải những ý nghĩa mà chúng ta
áp đặt lên quá khứ là đặc trưng cho lai lịch xã hội và văn hoá của bản thân
chúng ta? Đây là một vấn đề trong việc xem xét ngữ cảnh của chúng ta và tôi sẽ
trở lại vấn đề này ở chương 8.
Thứ hai, chúng ta có thể coi di tích KCH như
một “văn bản” phải đọc. Có những giới hạn đối với cách quan niệm văn hoá vật
chất phải được so sánh với văn bản và ngôn ngữ, vì như đã lưu ý, văn hoá vật
chất cũng là thực tiễn, công nghệ và chức năng và hầu hết các biến đổi văn hoá
vật chất đều tuỳ thuộc vào các yếu tố như vậy. Sự thực thì sau này người ta sẽ
cho rằng những ý nghĩa biểu tượng xuất phát cục bộ từ những ý nghĩa thực dụng
chứ không phải là đơn lẻ từ các hệ thống ký hiệu trừu tượng được cấu trúc. Tuy
nhiên chúng ta vẫn có thể bắt đầu một cuộc thảo luận hướng tới cái định nghĩa
đặc trưng cần phải xác định cho “ngữ cảnh” trong tập sách này, mà định nghĩa đó
phải liên kết chặt chẽ với những ý nghĩa rộng lớn hơn được gán cho thuật ngữ đó
trong KCH như một tổng thể.
Đọc văn hoá vật chất
Quan niệm cho rằng văn hoá vật chất là một
văn bản cần đọc đã được ngầm đề xuất từ lâu trong KCH. Các nhà KCH luôn luôn
coi các dữ liệu của họ như một thứ hồ sơ hoặc một ngôn ngữ. Tầm quan trọng của
một ngoại suy như vậy càng tăng lên khi mối quan tâm của chúng ta tập trung vào
việc phát hiện nội dung ý nghĩa của các hành vi quá khứ.
Nhưng chúng ta đọc một “văn bản”như vậy bằng
cách nào? Rõ ràng là nếu ngôn ngữ văn hoá quá khứ không có những đặc điểm,
những từ, ngữ pháp, cấu trúc giống với khẩu ngữ đương đại của chúng ta thì bất
cứ cách nào như vậy cũng sẽ rất khó khăn, nếu không nói là không thể, đặc biệt
là khi những văn bản còn sót lại chỉ là những bộ phận hoặc vỡ vụn, làm cho vấn
đề đã khó lại càng trở nên khó khăn hơn. Tuy nhiên tôi vẫn muốn nói rằng có một
vài nguyên tắc rất đơn giản ẩn dưới toàn bộ các ngôn ngữ - hoặc chí ít thì cũng
ẩn dưới những cách thức mà những homo sapiens sapiens của tất cả mọi
thời ở tất cả mọi nơi đều sử dụng để gán ý nghĩa cho sự vật.
Đương nhiên hầu hết các nhà KCH sẽ kêu lên
rằng các dữ liệu của họ là câm lặng. Chắc chắn nếu một đồ vật chỉ là một đồ vật
thì đó sẽ là một đồ vật câm. Nhưng KCH không phải là một bộ môn nghiên cứu về
những đồ vật biệt lập. Các đối tượng trong “văn bản” của họ sẽ không hoàn toàn
câm lặng nếu chúng ta có thể đọc được thứ ngôn ngữ của chúng (Berard and
Durand1984: 21). Đương nhiên toàn bộ các ngôn ngữ phải được lý giải, và vì vậy
mà theo một nghĩa nào đó thì toàn bộ những cách đọc và những biểu tượng vật
chất là câm lặng, nhưng một biểu tượng vật chất nằm trong “văn bản” của nó thì
không còn câm lặng hoặc sẽ bớt câm lặng đi rất nhiều so với bất kỳ một thứ
tiếng ngô ngọng hoặc một âm thanh nào khác được sử dụng trong các diễn ngôn. Đồ
vật thực sự biết nói (hoặc có lẽ là thì thầm một giọng mơ hồ nào đó) với chúng
ta – thế là đã xuất hiện vấn đề trong việc lý giải.
Khi biện hộ cho các nguyên tắc cho phép chúng
ta đọc các cổ bản và tìm xem ý nghĩa của chúng thay đổi trong các “môi trường”
khác nhau ra sao, thì điều quan trọng là phải phân biệt được ngôn ngữ và văn
hoá vật chất. Thậm chí ngay cả ngôn ngữ viết có thể cũng có cùng những nguyên
tắc cơ bản với ngôn ngữ văn hoá vật chất (Hall 1977: 500); một ngôn ngữ viết
không phải bao giờ cũng dễ giải mã, ngay cả khi nhiều yếu tố của nó vẫn còn tồn
tại như một sinh ngữ. Có tình trạng như vậy, bởi vì nó rất phức tạp, được thiết
kế để thể hiện những ý niệm và tư tưởng phức tạp, và tất nhiên là khá chính xác
và toàn diện. Nhưng một ngôn ngữ văn hoá vật chất lại không có các qui tắc ngữ
pháp và từ vựng của chúng. Các biểu tượng văn hoá vật chất thường mơ hồ hơn là
những đối tác khẩu ngữ của chúng, và cái có thể đọc được bằng thứ ngôn ngữ đó
thì thường đơn giản hơn nhiều. Hơn nữa các biểu tượng văn hoá vật chất lại tồn
tại lâu bền và lại hạn chế tính linh hoạt. Về nhiều phương diện thì ngôn ngữ
văn hoá vật chất không hề có tính ngôn ngữ - rõ ràng đó là những hành động và
thực hành trong cái thế giới của chúng và những mối quan tâm thực tiễn đó có
một tác động to lớn đến các ý nghĩa biểu tượng của văn hoá vật chất (Hodder
1989a). Khi coi văn hoá vật chất là một ngôn ngữ thì đó là một thứ ngôn ngữ đơn
giản so với một ngôn ngữ nói hoặc viết. Vì những nguyên do phong phú đó mà các
văn bản ngôn ngữ văn hoá vật chất lại dễ giải mã hơn những tài liệu viết mà
chúng ta không biết thứ ngôn ngữ dùng để viết ra nó. Đó chính là lý do tại sao
các nhà KCH lại thành công trong việc đọc ngôn ngữ văn hoá vật chất, ngay cả
khi chúng rất ít bộc lộ về thứ “ngữ pháp” của mình.
Tôi lấy Collingwood để kết luận một cách ẩn ý
rằng có thể tìm thấy một nguyên lý ngữ pháp phổ quát khi ông gợi ý (1946: 303)
mỗi sự kiện đơn nhất đều có một ý nghĩa có thể được tất cả mọi người ở mọi thời
hiểu rõ. Đó cũng là điều mà tôi lĩnh hội được từ lý giải của Bourdieu (1977) về
cách thức mà một đứa trẻ tìm hiểu thế giới xung quanh nó bằng cách quan sát
những liên tưởng và
những tương phản đơn giản, và đó
cũng là cái mà tôi hiểu được từ kinh nghiệm thông thường của chúng ta để có thể
dần dần hiểu được một con người hoặc một nền văn hoá khác. Vì chúng ta trưởng
thành trong nền văn hoá của riêng mình hoặc trong một nền văn hoá khác, và vì
chúng ta gặp gỡ và hiểu được những con người mà chúng ta có thể không bao giờ
chắc chắn rằng chúng ta hiểu được một cách chính xác họ đang nghĩ gì, họ muốn
thể hiện ý nghĩa gì qua những đồ vật. Tất cả những gì mà chúng ta phải tiếp tục
cố hiểu chỉ là những tiếng lào xào mơ hồ và những hành động của họ trên trần
thế khi chúng ta gặp họ. Dần dần khi nhiều sự kiện vật chất xuất hiện, chúng ta
bắt đầu nhận ra một cái gì đó gần như cái “tha tính” kia. Tuy nhiên khi cái
khác lạ ấy được đánh giá gần giống với một cái gì đó thì cái khác lạ không còn
hoàn toàn khác lạ nữa.
Các nguyên lý phổ biến của ý
nghĩa mà tôi muốn gợi ý lại nằm khuất sau những kinh nghiệm như vậy chỉ là
những thứ mà tất cả chúng ta đều tuân theo như là những tác nhân xã hội còn nhà
KCH thì tuân theo để lý giải quá khứ. Tôi chỉ đơn giản muốn làm cho các thao
tác này trở nên rõ ràng hơn, nhất là trong mối liên hệ với KCH và với nguồn dữ
liệu mà các nhà KCH xử lý.
Hai vấn đề nêu ra trong tập sách
này cần được nhấn mạnh ở đây. Trước hết là các ý nghĩa nội tại chủ quan mà nhà
KCH có thể suy luận lại không phải là những ý niệm trong “đầu” người ta, với ý
nghĩa là chúng không phải là những tư tưởng có ý thức của các cá nhân. Đúng
hơn, chúng là những khái niệm xã hội và đại chúng được mô phỏng trong thực tiễn
cuộc sống hàng ngày. Vậy là cả hai vấn đề đó đều được làm rõ đối với các nhà
KCH và vì những thực tiễn của các nhóm xã hội được thể chế hoá trở thành thông
lệ, chúng dẫn tới sự mô phỏng và trở thành mô thức. Vậy là từ những mô hình vật
chất này các nhà KCH có thể ngoại suy ra những khái niệm ẩn chứa trong chúng.
Cách thức thứ hai, rất khả thi để đọc văn hoá vật chất có thể là vì ngữ cảnh
của việc sản xuất văn hoá vật chất cụ thể hơn ngữ cảnh của ngôn ngữ và diễn
ngôn. Các ý nghĩa văn hoá vật chất chịu ảnh hưởng mạnh bởi những nghiên cứu
công nghệ, vật chất và chức năng. Thực chất cụ thể và phần nào không phải văn
hoá của những yếu tố như vậy làm cho “văn bản” văn hoá vật chất trở nên dễ đọc
hơn những ký hiệu võ đoán của ngôn ngữ. Văn bản văn hoá vật chất không chỉ trừu
tượng và mang tính khái niệm mà còn thực dụng và không võ đoán.
Trong số những thuật ngữ được sử dụng thì
thuật ngữ “ngữ cảnh” được coi là việc đặt các hạng mục “vào văn bản” của chúng
– “con-text”. Khái niệm tổng quát ở đây là “ngữ cảnh” có thể được liên hệ với
các bộ phận của một tài liệu viết mà các bộ phận đó hình thành trực tiếp trước và sau một ngữ đoạn riêng, liên hệ rất chặt chẽ với nó về
phương diện ý nghĩa, mà ý nghĩa thì lại không tách biệt hẳn khỏi chúng. Dưới
đây, tôi sẽ đưa ra một định nghĩa đặc trưng hơn về “ngữ cảnh”. Tạm thời, mục
đích của tôi là phác thảo ra những cách thức để các nhà KCH chuyển từ văn bản
tới nội dung ý nghĩa biểu tượng.
Những tương đồng và khác biệt
Khởi đầu việc hệ thống hoá phương
pháp luận để lý giải nội dung ý nghĩa quá khứ từ văn hoá vật chất thì dường như
các nhà KCH xác định những loại hình khác nhau của những tương đồng và khác
biệt phù hợp, và những loại hình đó được tạo ra để gán cho những loại liên
tưởng ngữ cảnh khác nhau. Sau đó các trừu tượng hoá được thực hiện từ cả những
ngữ cảnh, những tương đồng và những khác biệt để đạt tới ý nghĩa trong khuôn
khổ chức năng và nội dung (xem Fig. 6).
Vậy là chúng ta có thể bắt đầu
với ý tưởng về những tương đồng và khác biệt. Trong ngôn ngữ thì đó đơn giản là
một ý niệm khi ai đó nói “đen” chúng ta sẽ cấp cho âm thanh đó một nghĩa, vì nó
vang lên tương tự (dù không phải y hệt) với những ví dụ khác của từ “đen”, và vì
nó khác với các âm thanh khác như “trắng” hoặc “đàng sau”. Trong KCH có một
quan niệm chung là chúng ta xếp một chiếc bình vào loại hình “A”, vì trông nó
giống như những chiếc bình khác cùng loại, và trông khác với loại hình những
chiếc bình “B”. Trong các mộ, chúng ta có thể phát hiện ra những chiếc ghim cài
áo nằm cùng với những người phụ nữ, và sự tương đồng này trong những vị trí
trong không gian và trong một đơn vị địa tầng khiến cho chúng ta nghĩ rằng
những chiếc ghim cài có nghĩa là phụ nữ, nhưng chỉ khi nào trong các mộ đàn ông
không hề tìm thấy ghim cài áo, mà chỉ thấy những thứ khác. Những tương đồng và
khác biệt khác với phụ nữ, những hoạt động của phụ nữ có thể cho phép ta thực
hiện một sự trừu tượng hoá liên quan đến nội dung ý nghĩa “nữ giới”. Chẳng hạn
những chiếc ghim cài có thể có những mẫu còn được phát hiện ở đâu đó nữa cùng
với một loại hiện vật nào khác với mục đích mô phỏng hơn là với mục đích sản
xuất (xem nghiên cứu của Faris tr. 64 và phân tích của McGhee tr. 46).
Chúng ta có thể công thức hoá quá
trình tìm kiếm những tương đồng và khác biệt này bằng sơ đồ sau: Cần phải chỉ
dẫn để so sánh một lược đồ như vậy với một lược đồ tiếp theo, trong đó là những
mối quan hệ chức năng thiết thực chứ không phải là những chức năng biểu tượng
được tìm kiếm.
Ở đây nhà KCH lý giải khu vực
xung quanh một cái bếp với tư cách là một khu vực hoạt động vì các công cụ xuất
hiện ở đó khác với các bộ phận khác của di chỉ hoặc nhà ở, nơi không tìm thấy
công cụ. Loại hình giải thích này giống hệt với cách giải thích trên, trong đó
ý nghĩa biểu tượng của chiếc ghim cài được phát hiện. Nhưng như đã nói trong
suốt tập sách này, không hề có sự phân cách nhất thiết giữa hai mục đích này:
chức năng và ý nghĩa biểu tượng không hề mâu thuẫn nhau. Vì vậy chiếc ghim cài
có chức năng cài kín áo và có lẽ để tượng trưng cho người phụ nữ, và nó cũng có
thể mang nội dung ý nghĩa “những người phụ nữ là sinh sản”. Tương tự như vậy,
khu vực hoạt động xung quanh bếp có thể chỉ định rằng bất cứ công cụ nào cũng
có nội dung ý nghĩa “nhà”, “bếp gia đình” ...vv. Sự thật thì chúng ta cần giả
định một ý nghĩa nào đó như vậy để trước hết tìm kiếm khu vực hoạt động xung
quanh bếp, và để gán cho các đồ vật được phát hiện ở đó những chức năng có liên
quan. Việc xác định một “khu vực hoạt động” là áp đặt một nội dung ý nghĩa. Hai
loại ý nghĩa (nội dung chức năng hệ thống và nội dung thể hiện ý tưởng) nhất
thiết liên thuộc với nhau – cho nên không thể nói về một loại ý nghĩa này mà
không đề cập đến loại kia.
Lý giải trên về ý nghĩa được nêu
ra từ những tương đồng và khác biệt đồng thời đều chịu ảnh hưởng bởi những thảo
luận ở chương 3, và mục đích của nó không có gì khác là tìm ra những phương
cách thích hợp để các nhà khảo cổ học sử dụng vào công việc của mình. Tuy nhiên
còn phải tính đến yếu tố đề xuất qui tắc. Trước hết cần phải thừa nhận rằng sự
tương đồng và khác biệt có thể được xác định ở nhiều “cấp độ”. Vì vậy mà các
tương đồng và khác biệt có thể xuất hiện trong khuôn khổ của nhiều phương biến
đổi cơ bản, chẳng hạn như những đối lập về cấu trúc, các quan niệm về “tính
trật tự”, “tính tự nhiên” ...vv. Lý thuyết luôn luôn can dự vào việc xác
định những tương đồng và khác biệt,
nhưng ở những cấp độ “sâu hơn” thì nhu cầu về lý thuyết giàu sức tưởng tượng
lại đặc biệt rõ ràng. Tôi sẽ quay trở lại với những cấp độ khác nhau của tương
đồng và khác biệt dưới đây. Thứ hai, còn có thể khẳng định rằng các nhà KCH đã
tập trung quá nhiều vào những tương đồng, và quá ít vào những khác biệt (Van
der Leeuw, thông tin cá nhân cho tác giả). Những tiếp cận tổng thể so sánh văn
hoá đã dựa trên việc xác định những tương đồng và những nguyên nhân chung. Cái
thiên hướng đó đã được giải thích bằng một chức năng biểu tượng phổ quát nào đó
của toàn bộ những hoa văn hoặc của toàn bộ biểu tượng, chẳng hạn như hoa văn
trang trí gốm. Các xã hội đã được phân thành các loại hình (các nhà nước, những
người săn bắn – hái lượm...vv) và những đặc trưng chung cũng đã được xác định.
Đương nhiên bất cứ một công trình nào như vậy cũng đều giả định những khác
biệt, nhưng sự “có mặt” của một vắng mặt thì lại rất ít khi được tập trung
nghiên cứu. Chẳng hạn như chúng ta có thể hỏi tại sao chỉ có những chiếc bình
là được trang trí hoa văn. Đây lại là một phần của vấn đề xác định một khuôn
khổ riêng trong đó hành động trở nên có ý nghĩa. Nếu những chiếc bình chỉ là
một loại đồ đựng được trang trí trong một ngữ cảnh văn hoá thì nó thích hợp cho
việc lý giải ý nghĩa của hoa văn trang trí. Nhưng về tổng thể thì các nhà KCH
có khuynh hướng tách rời những chiếc bình khỏi ngữ cảnh của chúng và đo những
tương đồng giữa những chiếc bình.
Nhu cầu xem xét những khác biệt
có thể được làm rõ bằng một phương cách cực đoan nào đó, chẳng hạn với từ “pain
- đau”. Một cách để can thiệp vào ý nghĩa chưa biết của từ này có lẽ là tìm
kiếm những từ tương đồng trong những nền văn hoá khác. Vậy thì chúng ta sẽ tìm
kiếm một loạt các từ có vẻ giống, bao gồm cả những ví dụ tìm được ở Anh và Pháp
và xác định những đặc trưng chung của chúng. Nhưng thực tế thì cùng một từ đó
nhưng lại có những ý nghĩa hoàn toàn khác nhau trong tiếng Anh và tiếng Pháp.
Người ta sẽ nhanh chóng nhận ra điều này bằng cách tập trung vào những liên
tưởng tương tự của từ đó trong hai nền văn hoá - ở Anh với từ “agony – đau đớn”
và ở Pháp với từ “pain - bánh mì”. Cái ví dụ quá đơn giản này đã củng cố quan
điểm của Collingwood cho rằng mỗi thuật ngữ mà nhà KCH sử dụng phải được đưa ra
phê phán để xem chúng có thể có những ý nghĩa khác nhau trong những ngữ cảnh
khác nhau hay không. Vậy là các nhà KCH cần phải sống với sự khác biệt và vắng mặt;
họ phải luôn luôn đặt những câu hỏi chẳng hạn như: có phải loại bình ấy được
phát hiện trong những trạng huống khác nhau, tại sao những loại bình khác lại
không trang trí, tại sao những đồ đựng khác cũng không trang trí, tại sao loại
bình trong mộ này hoặc kỹ thuật sản xuất kia lại không thấy ở khu vực này?.
Nhà KCH có thể mô tả những tương
đồng và khác biệt bằng gì? Trong ví dụ về chiếc ghim cài được đưa ra ở trên,
chúng ta đã thấy một sự khác biệt về loại hình (giữa chiếc ghim cài áo và chiếc
châm) và một tương đồng về trầm tích tầng văn hoá (chiếc ghim cài xuất hiện ở
trong mộ cùng với người phụ nữ). Tôi cũng đã viện tới những tương đồng và khác
biệt theo phương chức năng. Chúng ta sẽ nhận thấy rằng việc đan dệt và tạo
thành mạng lưới những loại hình và cấp độ khác nhau của các tương đồng và khác
biệt tạo thuận lợi cho việc lý giải. Tuy nhiên, trong lúc này, tôi muốn thảo
luận về mỗi loại phương tương đồng/khác biệt tách rời nhau. Mỗi loại tương đồng
và khác biệt có thể xuất hiện ở nhiều hơn một qui mô, một cấp độ.
Loại tương đồng và khác biệt đầu
tiên mà các nhà KCH thường gặp là loại biểu thị thời gian. Rõ ràng là
nếu hai hiện vật gần nhau trong thời gian, có nghĩa là chúng tương đồng về
phương thời gian thì có nhiều khả năng các nhà KCH xếp chúng vào cùng một ngữ
cảnh và gán cho chúng những ý nghĩa tương ứng. Tất nhiên phương thời gian cũng
gắn liền với các phương khác nữa – nếu hai hiện vật tồn tại trong cùng một ngữ
cảnh thời gian nhưng lại cách xa nhau về không gian hoặc cách xa nhau ở những
phương khác thì ngữ cảnh thời gian tương đồng là không thích hợp. Truyền bá là
một quá trình xảy ra trong thời gian và trong không gian và cũng bao gồm cả
phương loại hình học nữa.
Việc quan tâm đến phương thời
gian là để biệt lập một thời kỳ hoặc thời đoạn mà trong đó theo một nghĩa nào
đó các sự kiên có liên quan cũng xuất hiện. Vậy là trong một thời đoạn có tồn
tại tính liên tục của cấu trúc, và/ hoặc nội dung ý nghĩa và/ hoặc các quá
trình hệ thống ...vv. Nhưng mức độ phân tích thời gian như thế nào là cần thiết
để tìm hiểu một đối tượng riêng lẻ bất kỳ? Ở chương 5, các ví dụ được sử dụng
để lưu ý tính liên tục hàng nghìn năm. Nó cũng gợi ý rằng (tr. 93) rốt cục thì
cần phải lùi trở lại, “lột vỏ củ hành” cho đến khi nào chính cái hành vi văn
hoá đầu tiên kia được xác định. Đây không phải là một giải pháp thực tiễn hoặc
cần thiết áp dụng cho hầu hết các trường hợp; trong hầu hết các trường hợp thì
người ta chỉ đơn giản muốn xác định cái ngữ cảnh lịch sử liên quan trực tiếp
đến vấn đề trong tầm tay mà thôi.
Các nhà KCH đã có một bộ công cụ
kỹ thuật lượng hoá để xác định những liên tục và đứt đoạn trong những chuỗi
thời gian (Doran và Hodson 1975), và bằng chứng ấy được sử dụng để xác định ngữ
cảnh liên quan, nhưng nhiều đứt đoạn có vẻ trọng yếu thì thật ra lại có thể bộc
lộ những liên tục hoặc những biến đổi trong cấp độ cấu trúc, và chúng có thể
liên quan đến truyền bá và di cư, điều đó hàm ý rằng cái ngữ cảnh thời gian
liên quan phải được tuân thủ trong các ngữ cảnh không gian khác. Nhìn chung các
nhà KCH đã thành công trong việc xác định những mối liên hệ hệ thống liên quan
để tìm hiểu bất cứ một đối tượng nào (hiện vật, di chỉ...vv). Đơn giản là toàn
bộ các nhân tố trong hệ thống trước đây thể hiện cái tác động đến trạng thái
mới. Nhưng trong việc gán nội dung ý nghĩa, khi nhà KCH muốn đánh giá những đòi
hỏi rằng hai đối tượng dường như đều có cùng một nội dung ý nghĩa vì chúng là
đồng thời, hoặc là những ý nghĩa kia có vẻ đã không thay đổi trong cùng một
thời đoạn, thì vấn đề về cấp độ lại càng trở nên quan trọng hơn. Vậy là từ việc
xem xét những tương đồng và khác biệt về phương thời gian, chúng ta vẫn còn
phải giải quyết một vấn đề nữa, đó là cấp độ nào thích hợp với một ngữ cảnh
thời gian tương ứng? Câu hỏi về cấp độ sẽ còn xuất hiện lại và sẽ được giải quyết
sau, nhưng nó có vẻ như phụ thuộc vào các câu hỏi nào được đưa ra và phụ thuộc
vào những thuộc tính được đo lường.
Những tương đồng và khác biệt
cũng có thể được ghi chú theo phương không gian. Ở đây các nhà KCH quan
tâm tới việc xác định các ý nghĩa biểu tượng, chức năng và các cấu trúc từ
những cách bố trí các đồ vật (và di chỉ...vv) trong không gian. Thông thường
việc phân tích theo chiều không gian giả định rằng chiều thời gian cũng được
kiểm soát. Mối quan tâm đó chính là việc tạo ra ý nghĩa từ những đối tượng bởi
vì chúng cũng có các mối liên hệ không gian tương tự (chẳng hạn như hiện vật
tập hợp thành cụm, xếp cách nhau một cách đều đặn). Hơn nữa chúng ta đã có một
bộ công cụ kỹ thuật sử dụng cho công việc
phân tích như vậy. Có thể khẳng định rằng nhiều kỹ thuật không gian như vậy đã
tham dự vào việc xây dựng những giả thuyết có nguồn gốc ngoại sinh mà không
nghiên cứu đầy đủ về ngữ cảnh; tuy nhiên những thao tác phân tích mới giờ đây
đang xuất hiện tạo ra một sự nhạy cảm lớn hơn đối với các dữ liệu KCH. Chẳng
hạn như Kintigh và Amerman (1982) đã mô tả phương pháp ngữ cảnh, tự tìm tòi
phát hiện để mô tả những phân bố theo điểm, và những kỹ thuật có liên quan đã
được mô tả để đánh giá sự phối hợp giữa các phân bố (Hodder và Okell 1978), và
để xác định gianh giới của các phân bố (Carr 1984). Thực sự thì có thể xác định
một tổng thể thế hệ mới của các kỹ thuật phân tích không gian trong KCH, là thứ
ít liên quan đến việc áp đặt các phương pháp và lý thuyết, đã được làm trọn vẹn
từ những bộ môn khác hoặc từ lý thuyết xác suất trừu tượng, và quan tâm hơn tới
vấn đề KCH đặc trưng trong tầm tay (Hodder 1985).
Trong những phương pháp khác nhau
này, nhà KCH tìm cách để xác định ngữ cảnh không gian phù hợp để tìm hiểu về
một đối tượng đặc thù. Trong nhiều trường hợp, điều này tương đối dễ thực hiện
– các nguồn gốc của nguyên liệu có thể được phát hiện, qui mô không gian của
mẫu có thể được vạch ra, các gianh giới của tập hợp điểm cư trú có thể được
phác thảo. Tuy nhiên thường thì mức độ phân tích thích hợp sẽ khác nhau tuỳ
thuộc vào những đối tượng được lựa chọn (nguyên liệu, phong cách trang trí,
hình dáng). Điều đó tương tự với việc phát hiện một sự thay đổi nếu hỏi ai đó
“bạn đến từ đâu?”. Lời đáp (đường phố, ngoại thị, thị trấn, quận, quốc gia, lục
địa) sẽ tuỳ thuộc vào những câu hỏi mang tính ngữ cảnh (nói chuyện với ai, nói
chuyện ở đâu, tại sao lại hỏi câu đó). Vì vậy không hề có mức độ phân tích
“thích hợp”.
Vấn đề này đặc biệt nhạy cảm
trong mối quan tâm của KCH nhằm xác định “các khu vực” phân tích. Điều này
thường được thực hiện một cách tiên thiên, dựa trên những đặc trưng môi trường
(chẳng hạn như một hệ thống thung lũng), nhưng liệu một thực thể được gán vào
như vậy có bất cứ sự phù hợp nào với các câu hỏi được đưa ra hay không thì vẫn
chưa được rõ. “Khu vực” sẽ khác nhau tuỳ thuộc vào những thuộc tính được thảo
luận. Vì vậy có thể không có một cấp độ tiên thiên nào của ngữ cảnh không gian
– cái ngữ cảnh khác biệt với môi trường trực tiếp đối với toàn thể thế giới nếu
như một phương biến đổi thích hợp nào đó có thể được phát hiện gắn liền với các
đối tượng (di chỉ, văn hoá hoặc bất cứ một cái gì đó) ở những cấp độ khác nhau.
Như đã phân tích về phương thời gian, việc xác định ngữ cảnh sẽ tuỳ thuộc vào
những phương biến đổi phù hợp theo đó các tương đồng và khác biệt được đo
lường, và điều đó sẽ được thảo luận thêm dưới đây.
Có lẽ là hữu ích khi xác định một
loại tương đồng và khác biệt thứ ba - đơn vị trầm tích – trên thực tế
chính là sự kết hợp của hai loại đầu tiên. Tôi muốn nói trong trường hợp này là
những lớp đất, hố, mộ, mương rãnh và những thứ như vậy đều được giới hạn trong
không gian và trong thời gian. Việc nói rằng hai đối tượng đó có thể có các ý
nghĩa phối hợp vì chúng xuất hiện từ cùng một hố chỉ mang tính chủ quan giống
như việc nói rằng chúng có những ý nghĩa liên quan, vì chúng liên kết với nhau
về phương diện không gian và thời gian, nhưng cũng có một hợp phần lý giải bổ
sung trong đó khẳng định rằng các gianh giới của đơn vị đó tự thân chúng là
tương hợp với việc xác định ý nghĩa. Các nhà KCH thường chấp nhận tiên đề này;
thực ra thì việc cùng xuất hiện trong một hố hoặc trên một nền nhà có thể được
coi là quan trọng hơn một khoảng không gian không được giới hạn. Hơn nữa những
tương đồng và khác biệt trong một đơn vị trầm tích có thể được nhận ra ở nhiều
qui mô (lớp, lỗ cột, nhà, di chỉ) và vấn đề về việc xác định qui mô phù hợp của
ngữ cảnh cũng cần phải được thảo luận.
Phương loại hình học cũng
có thể được coi là một biến thể của hai phương đầu tiên. Nếu hai hiện vật được
cho là tương đồng về mặt loại hình thì điều đó thực sự có nghĩa là chúng có
những cấu trúc hoặc hình dạng tương tự trong không gian. Tuy nhiên cần phải
phân biệt khái niệm “loại hình” như các nhà KCH vẫn hiểu, vì những tương đồng
về mặt loại hình học của các đối tượng trong không gian và thời gian thì khác
với những khoảng cách (trong không gian và thời gian) giữa các đối tượng đó.
Thực ra thì khái niệm tương đồng và khác biệt về loại hình học là trung tâm của
việc xác định các ngữ cảnh thời gian (kết hợp thành thời kỳ, thời đoạn) và các
ngữ cảnh không gian (kết hợp thành những văn hoá, phong cách). Vì vậy loại hình
học là trung tâm phát triển của các tiếp cận ngữ cảnh trong KCH. Đó cũng chính
là một phương gắn liền KCH với những phương pháp và các mối quan tâm truyền
thống của nó.
Cơ sở của toàn bộ công trình KCH
là nhu cầu sắp xếp thành hệ thống và phân loại. Vấn đề gây tranh luận chính là
liệu các loại hình này là “của chúng ta” hay “của họ” “trong cuộc” hay “ngoài
cuộc”, là một vấn đề rất xưa cũ. Tuy nhiên về tổng thể thì giai đoạn phân tích
loại hình học đầu tiên này của các khu cư trú, các hiện vật hoặc các loại hình
hoạt động kinh tế thường bị tách ra khỏi việc phân tích các quá trình xã hội
sau đó. Hầu hết các nhà KCH đều thừa nhận tính chủ quan trong các phân loại
loại hình của họ và đều nhấn mạnh đến các kỹ thuật vi tính và toán học để nhằm
hạn chế bớt tính chất chủ quan này. Sau khi đã làm “hết khả năng” của mình với
những khó khăn không thể tránh khỏi ở giai đoạn đầu, các nhà KCH hướng tới việc
lượng hoá và so sánh để đạt được các kết quả về quá trình xã hội.
Chẳng hạn có thể khẳng định rằng
có sự không đồng bộ và tính đa dạng trong một khu vực hoặc một giai đoạn so với
một khu vực hoặc một giai đoạn khác; hoặc một vùng có các di chỉ, trong đó 20%
mảnh gốm có hoa văn hình zic zắc, trong khi đó khu vực liền kề cũng có 20% hoa
văn zic zắc, cho thấy có sự tiếp xúc chặt chẽ và không có cạnh tranh, trao
đổi...vv. Nhưng làm thế nào chúng ta có thể đảm bảo rằng cách phân loại loại
hình học ban đầu ấy là có giá trị? Như trong ví dụ về chim/hươu ở trang 17, làm
sao chúng ta có thể đảm bảo rằng các hoa văn zic zắc kia trông thì có vẻ giống
nhau nhưng chắc gì đã không khác nhau?
Để hiểu được những vấn đề như
vậy, trước hết phải bắt đầu với cấu trúc của hoa văn trang trí (chương 3). Có
phải hoa văn zig- zag đều được trang trí ở cùng những bộ phận, của cùng những
loại bình, hoặc trong cùng một vị trí cấu trúc liên quan tới những loại hoa văn
khác? Nhưng cũng cần phải biết ngữ cảnh lịch sử -văn hoá của việc sử dụng hoa
văn zig zags (và những hoa văn khác) trong hai vùng đó là gì? Đi ngược lại thời
gian chúng ta có thể gặp được hoa văn zig zags xuất phát từ những nguồn gốc và những
truyền thống khác nhau không? Chúng có những liên tưởng và những ý nghĩa khác
không?
Khi xác định loại hình, các nhà
KCH cần phải xem xét sự liên tưởng lịch sử của những đặc điểm để cố gắng thâm
nhập được vào những ý nghĩa chủ quan mà chúng chứa đựng. Trong một mức độ nào
đó, về phương diện truyền thống các nhà KCH đã rất nhạy cảm với những cách xem
xét như vậy, chí ít là cũng làm một cách ngấm ngầm. Chẳng hạn như thông qua
nhiều di chỉ Đá mới ở Bắc và Tây Âu, những chiếc bình có khuynh hướng được trang
trí hoa văn theo chiều ngang ở gần mép miệng, và theo chiều dọc ở phần thấp
hơn. Đối với những chiếc cốc vại thì sự khác biệt này được đánh dấu bởi chỗ gãy
gập ở phần bên ngoài giữa cổ và thân bình. Trong việc thảo luận và phân loại
loại hình gốm Đá mới, hoàn cảnh lịch sử đặc trưng này cũng cần phải được tính
đến; những vị trí thấp hơn hay cao hơn dùng để trang trí hoa văn phải được xử
lý khác nhau.
Tất nhiên có thể cho rằng những
khác biệt như vậy giữa việc trang trí theo chiều ngang ở trên và trang trí theo
chiều dọc ở dưới hoàn toàn được áp đặt từ bên ngoài và có lẽ đã không được
người thời Đá mới thừa nhận. Chắc chắn là khả năng này sẽ luôn luôn tồn tại,
nhưng điều đó đã chứng tỏ rằng các nhà KCH đã thành công và có thể còn thành
công hơn nữa trong việc phục dựng lại các loại hình học gần giống với cách nhận
thức bản địa (luôn luôn phải nhớ rằng những nhận thức như vậy thay đổi theo các
ngữ cảnh và chiến lược xã hội). Thành công trong các nỗ lực như vậy tuỳ thuộc
vào việc bao gồm càng nhiều thông tin có trong các bối cảnh lịch sử và những
liên tưởng các đặc điểm, phong cách và các thuộc tính thiết kế tổ chức, cũng
như trong việc phục dựng cách thức sử dụng năng động cách đặc điểm như vậy
trong các chiến lược xã hội thì càng tốt.
Vì vậy cách tiếp cận ngữ cảnh đối
với loại hình học chính là việc bao gồm càng nhiều thông tin càng tốt về những
tương đồng và khác biệt của các thuộc tính cá nhân trước khi xây dựng những
loại hình học qui mô hơn. Một cách tiếp cận khác là chấp nhận tính võ đoán của
các phạm trù phân loại của chúng ta và phải được mở hơn cho những khả năng khác
nữa. Chẳng hạn như các loại hình học thực vật được các nhà cổ dân tộc thực vật
học sử dụng có khuynh hướng giới hạn trong bảng kê các loài đã biết. Tuy nhiên
có thể phân loại các di tích thực vật theo độ cao của cây, độ nhớt dính của lá,
giai đoạn ra hoa...vv. Nên kiểm tra những cách phân loại khác nhau xem có những
mối liên hệ gì với các biến số khác, với mục đích làm cho dữ liệu giúp ta lựa
chọn loại hình học thích hợp. Cũng có thể áp dụng thao tác đó cho các loại hình
học khác như xương, gốm.
Bốn phương biến đổi (không gian,
thời gian, trầm tích và loại hình học) đã được thảo luận và những biến đổi chức
năng cũng đã được đề cập vắn tắt. Còn một vấn đề tổng quát cần được nhấn mạnh.
Một khía cạnh quan trọng của lịch sử ngữ cảnh là nó cho phép các phương biến
đổi xuất hiện ở những cấp độ “sâu hơn” trong hầu hết các bộ môn KCH. Nói cách
khác, các tương đồng và khác biệt cũng được phát hiện trong khuôn khổ của những
trừu tượng được xây dựng từ các dữ liệu có thể quan sát bằng những cách thức
chưa thật rõ ràng. Chẳng hạn việc đối lập trừu tượng giữa văn hoá và tự nhiên
có thể liên quan đến mức độ “bố phòng” hoặc được rào lại của khu cư trú, và
liên quan đến những phần đất hoang cũng như các vật nuôi phát hiện được trong
các khu vực đó. Vì vậy ở đâu mà sự phân đôi văn hoá/tự nhiên thấy rõ ràng hơn
thì các gianh giới xung quanh các khu cư trú (tách biệt thuần dưỡng khỏi hoang
dại) có thể là rất quan trọng, các ngôi nhà cũng có thể được làm cầu kỳ hơn, và
ngay cả gốm cũng có thể được trang trí nhiều hơn (là để đánh dấu việc thuần hoá
các sản phẩm khi chúng được nuôi trồng, sử dụng, chế biến và tiêu dùng trong
cái thế giới đã thuần hoá). Xương của các động vật hoang dại, đặc biệt là những
tổ tiên vẫn còn hoang dại hoặc các tổ tiên của các nòi đã được thuần hoá, có
thể không tìm thấy ở các di chỉ cư trú. Khi sự phân đôi văn hoá/ tự nhiên bắt
đầu trở nên ít rõ ràng hơn hoặc là khi tiêu điểm của nó đã thay đổi thì toàn bộ
những “tương đồng” trên cũng thay đổi theo nếu như giả thiết rằng sự phân đôi
văn hoá/tự nhiên là một phương biến đối tương ứng là chính xác. Một điều còn chưa rõ ràng là các gianh giới bao
quanh các khu cư trú, việc trang trí gốm và các bộ phận động vật hoang dã và đã
được thuần hoá có bất kỳ mối liên quan nào với nhau không. Việc dự liệu một
trừu tượng “sâu” đột ngột giúp tạo ra ý nghĩa cho các loại thông tin khác nhau
khi chúng thay đổi theo thời gian.
__________________________________________
Còn nữa...
Tài liệu tham khảo
Barrett, J. C. and Kinnes, I.
(eds.), 1988, The Archaeology of Context
in the Neolithic and Bronze Age: Recent Trends, University of Sheffield: J.
Collis.
Berard, C., and Durand, J.-L., 1984, ‘Entrer
en imagerie’, in La Cit´ e des images, Paris: Fernand Nathan.
Bourdieu, P., 1977. Race, Language
and Culture. NewYork:Macmillan Press.
Bourdieu, P., 1977, Outline of a Theory of Practice,
Cambridge University Press.
Butzer,K., 1982, Archaeology as Human Ecology, Cambridge
University Press.
Carr,C., 1984, The Nature of Organisation of Intrasite
Archaeological Records and Spatial Analysis Approaches to their Investigation,
in M. Schiffer (ed.), Advances in
Archaeological Method and Theory, vol. 7, NewYork: Academic Press.
Collingwood, R.G. 1946. The Idea of History. Oxford University
Press.
Davis, D. D., 1984, Investigating the Diffusion of Stylistic
Innovations, in M. Schiffer (ed.), Advances
in Archaeological Method and Theory, vol. 6, NewYork: Academic Press.
Doran, J., and Hodson, F. R.,
1975, Mathematics and Computers in
Archaeology, Edinburgh: Edinburgh University Press.
Ericson, J., and Earle, T. (eds.),
1982, Contexts for Prehistoric Exchange,
NewYork: Academic Press.
Faris, J., 1972. Nuba Personal Art, London: Duckworth.
Faris, J., 1983, From Form to Content in the Structural Study
of Aesthetic Systems, in D. Washburn (ed.), Structure and Cognition in Art, Cambridge University Press.
Flannery, K. V., 1973. Archaeology with a Capital S. In C.
Redman (ed.), Research and Theory in
Current Archaeology, NewYork: Wiley.
Flannery, K. V., 1982, The GoldenMarshalltown: A Parable for the
Archaeology of the 1980’s’, American Anthropologist 84, 265–78.
Flannery, K. V., 1983, The Cloud People, NewYork: Academic
Press.
Flannery, K. V., and Marcus, J.,
1976. Formative Oaxaca and the Zapotec
Cosmos. American Scientist 64, 374–83.
Hall,R. L., 1977, An Anthropocentric Perspective for Eastern
United States Prehistory, American Antiquity 42, 499–517.
Hodder, I., 1982a. Symbols in Action. Cambridge University
Press.
Hodder, I., 1985, NewGenerations of Spatial Analysis in
Archaeology, in F. Burillo (ed.), Arqueologia Espacial, Tervel: Colegio
Universitario.
Hodder, I., 1989a. This is not an Article about Material
Culture as Text. Journal of Anthropological Archaeology 8, 250–69.
Hodder, I., and Okell, E., 1978, An Index for Assessing the Association
between Distributions of Points in Archaeology, in I.Hodder (ed.), Simulation Studies in Archaeology,
Cambridge University Press.
Kintigh, K., and Ammerman, A. J.,
1982, Heuristic Approaches to Spatial
Analysis in Archaeology, American Antiquity 47, 31–63.
McGhee,R., 1977. Ivory for the Sea Woman: The Symbolic
Attributes of a Prehistoric Technology. Canadian Journal of Archaeology 1,
141–59.
Patrik, L. E., 1985, Is there an Archaeological Record?, in
M. B. Schiffer (ed.), Advances in
Archaeological Method and Theory, vol. 8, NewYork: Academic Press.
Renfrew, A. C., 1973. Social Archaeology. Southampton:
Southampton University.
Renfrew, A. C., 1972, The Emergence of Civilisation, London:
Methuen (ed.), 1973a, The Explanation of Culture
Change, London: Duckworth.
Schiffer, M. B., 1976. Behavioural Archaeology. New York:
Academic Press.
Watson, P.J., Leblanc, S. J., and
Redman, C. L., 1971, Explanation in
Archaeology: An Explicitly Scientific Approach, NewYork: Columbia
University Press.
Wells, P. S., 1984, Prehistoric Charms and Superstitions,
Archaeology 37, 38–43.
Wells, P. S., 1985, Material Symbols and the Interpretation of
Cultural Change, Oxford Journal of Archaeology 4, 9–17.
Whallon, R., 1974, Spatial Analysis of Occupation Floors, II:
The Application of Nearest Neighbour Analysis, American Antiquity 39,
16–34.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét