(HHN-Tổng quan Tài liệu cho BCN CTKHCN NTM 2016-2020, vì vậy Tài liệu này thuộc quyền của BCN, và mọi cách trích dẫn, sử dụng đều không hợp thức nếu chưa được sự đồng ý của BCN CTKHCN NTM)
6.3.3. Mua Phiếu bầu và các Chiến lược khác
Ở cả hai làng, các ứng cử viên đều sử dụng chung một số kỹ thuật vận động cơ bản là tiêu chuẩn trong các cuộc bầu cử trưởng làng, trong đó một số kỹ thuật đã được sử dụng thời Suharto. (Hüsken F., 1994). Trên hết, các ứng cử viên thể hiện trước cử tri sự kết hợp giữa lòng hào hiệp và sự khiêm tốn, đồng thời chứng tỏ rằng họ có mối quan hệ thân thiện với mọi người, và họ có thể đem lại các lợi ích và quà tặng trực tiếp - đặc biệt là tiền mặt - cho dân làng. Tuy nhiên, hầu như ít có sự chuẩn bị mang tính chương trình rõ ràng trong chiến dịch tranh cử. Để chắc chắn, các ủy ban bầu cử ở cả hai làng đã khởi động các giai đoạn tranh cử với các sự kiện chính thức, trong đó các ứng cử viên có bài phát biểu nêu rõ “tầm nhìn và sứ mệnh” của họ. Tuy nhiên, không ai nghĩ rằng nội dung của những bài phát biểu này lại có nhiều ảnh hưởng. Hầu hết các cử tri đều cảm thấy rằng họ đã có được thước đo về tính cách và khả năng của các ứng cử viên, mặc dù có thể hơi khác so với những gì họ đã hứa - sửa một con đường làng ở đây, nạo vét một đoạn kênh ở đó - hầu hết đều tin rằng đó không phải là kế hoạch được tính toán của họ, mà là khả năng tiếp cận tài trợ, khả năng quản trị, tính cách đáng tin cậy và các thuộc tính tương tự của họ. Các ứng cử viên đã sử dụng các kỹ thuật vận động cho thấy họ có thể tương tác nồng nhiệt với những người dân làng bình thường. Tất cả đều đi thăm hỏi dân làng, cùng với vợ đến tất cả hoặc hầu hết các hộ gia đình trong làng. Mục đích chính của những chuyến thăm này là nhằm tạo ra một tư thế thoải mái, thân thiện và khiêm tốn. (Aspinall, Edward and Noor Rohman 2017:31-52)
Các ứng cử viên đều biết rõ họ phải chứng tỏ rằng mình không tạo ra những trò bông phèng trong tương tác với những người dân làng bình thường. Các ứng cử viên cũng thể hiện tính cởi mở và hào phóng của họ bằng cách tổ chức các ngôi nhà thoáng đãng (mele'an), mở cửa nhà họ vào các buổi tối trong các tuần gần đến cuộc bầu cử, vì vậy những người ủng hộ có thể đến và cùng thảo luận về chiến dịch tranh cử hoặc chỉ trò chuyện trong một bầu không khí vui vẻ, với đồ ăn, thức uống và thuốc lá thoải mái. Mỗi ứng cử viên thành lập một đội môi giới bầu cử. Các nhà môi giới này được gọi là thành viên của nhóm thành công (tim sukses) - một thuật ngữ chung của Indonesia được sử dụng trên khắp đất nước - hoặc sabet (một thuật ngữ địa phương của người Java có nghĩa là “roi da”, người tổ chức thúc đẩy, vận động cho một ứng viên nào đó). Các đội như vậy được tổ chức theo cấu trúc hình chóp cũng được sử dụng trong các cuộc bầu cử cấp cao hơn. (Aspinall E., 2014: 545–70) Các ứng cử viên được tổ chức tốt hơn có các điều phối viên thôn xóm để giám sát những người môi giới cấp cơ sở. Đến lượt mình, những người môi giới cơ sở phải tuyển dụng một số lượng - thường từ 5 đến 20 người - gồm các thành viên trong gia đình, họ hàng và hàng xóm của họ để bỏ phiếu cho ứng cử viên. Nhóm lớn nhất và có tổ chức tốt nhất là của Najib ở Ageng: ở trên đỉnh, nhóm bao gồm một chủ tọa, một thủ quỹ, một thư ký và sau đó là 3 điều phối viên thôn xóm, dưới đó là 29 điều phối viên xóm giềng và sau đó là tổng cộng khoảng 260 sabet, mỗi người chịu trách nhiệm tuyển dụng tối đa 12 cử tri. (Phỏng vấn của nhóm nghiên cứu với Faris ngày 25/3/2015) Anto có một nhóm thành công lớn tương tự, mặc dù không được cho biết con số chính xác. Ở Alit, các nhóm thành công nhỏ hơn và được tổ chức ít chặt chẽ hơn. Nhóm của Farid được tổ chức công phu nhất ở đây, với 5 thành viên cốt cán và tổng số khoảng 20 người môi giới. (Aspinall, Edward and Noor Rohman 2017:31-52)
Phân phối bảo trợ là trọng tâm của các chiến dịch tranh cử. Nó có hai loại: Thứ nhất là “hàng hóa câu lạc bộ” (Kitschelt H., and Steven I. Wilkinson, 2007: 11) – những món quà tặng được nhắm vào mục tiêu nhóm hơn là vào cá nhân. Chỉ có hai ứng cử viên có đủ nguồn lực để hào phóng trong lĩnh vực này. Ở Alit, Farid, hay đúng hơn, cha của anh ấy là Supomo, đã cung cấp một số món quà như vậy, dựng 41 cột đèn đường, trả tiền phân bổ thuế Đất và Xây dựng cho cả làng trong năm, mua thiết bị thể thao và đồng phục cho tất cả thanh niên nào trong làng muốn có, và cung cấp một chuyến đi miễn phí cho tất cả phụ nữ trong làng để thăm thú các thắng cảnh ở thủ phủ tỉnh là Semarang. Trong khi đó, ở Ageng, Najib đã trình bày một số dự án cơ sở hạ tầng như một phần của chiến dịch tranh cử của mình. Tuy nhiên, thay vì sử dụng tiền của tư nhân, vợ anh đã chỉ đạo một loạt các dự án cho ngôi làng như một phần trong việc phân bổ “quỹ nguyện vọng” (quỹ tùy ý sử dụng được phân bổ cho các nhà lập pháp cá nhân để thực hiện các dự án ở khu vực bầu cử của họ). (Muhammad Mahsun, 2016: 120-136) Najib đã tặng lưới cho một số hợp tác xã đánh cá, hứa cấp xe cứu thương cho từng thôn xóm và đào các con kênh. Khi Najib thua cuộc bầu cử, vợ ông đã trả đũa bằng cách rút tất cả các dự án này và chuyển nguồn vốn sang các làng lân cận. Thứ hai là hình thức bảo trợ quan trọng hơn - mua phiếu bầu – phân bổ các khoản tiền mặt cá nhân cho các cử tri. Tất cả năm ứng cử viên đều tham gia vào hành động này. (Aspinall, Edward and Noor Rohman 2017:31-52)
Tất cả họ đều sử dụng cùng một phương pháp cơ bản để phân phối tiền của họ, đặt nó vào những phong bì mộc mạc để mang đến từng nhà vào một hoặc hai ngày trước cuộc bầu cử. Đôi khi các ứng viên tự phân phát tiền; thông thường họ giao công việc cho các nhà môi giới. Việc phân phát sangu (tiền tiêu vặt), những khoản thanh toán này thấy ở đây, đã ăn sâu vào văn hóa chính trị địa phương. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng việc phân chia tiền mặt cho các cử tri đã được đưa ra trong các cuộc bầu cử trưởng thôn ở vùng nông thôn Java trong thời kỳ Trật tự Mới. (Antlöv H., 1995: 190-191; Hüsken F., 1994: 134) Những người cung cấp thông tin trong làng cho nhóm nghiên cứu cũng đồng ý như vậy; một số người khẳng định việc phân phối sangu đã diễn ra trong các cuộc bầu cử trưởng thôn từ thời xa xưa. Mua phiếu bầu cũng phổ biến trong các cuộc bầu cử cấp cao hơn trong khu vực này của Java. (Noor R., 2016: 233-248) Thật vậy, các ứng cử viên lập pháp trong khu vực đã được nhóm nghiên cứu phỏng vấn trong một dự án nghiên cứu liên quan giải thích rằng khi thiết kế các chiến lược mua phiếu bầu, hầu hết bọn họ đều điều chỉnh các kỹ thuật đã được sử dụng từ lâu trong các cuộc bầu cử trưởng làng. (Aspinall E., Noor Rohman, et al., 2017: 1-27) Do đó, chúng ta cần thận trọng không nên hiểu việc mua phiếu bầu được mô tả dưới đây như là một di sản thẩm thấu các tập quán nhơ nhớp mang tính dân tộc thời hậu Suharto vào chính trị của làng xã. Nếu có bất cứ điều gì, thì quá trình này lại hoàn toàn ngược lại, với các hoạt động mua phiếu bầu đã có từ lâu ở cấp làng được nâng lên thành các cuộc bầu cử quốc gia sau khi dân chủ hóa. (Aspinall, Edward and Noor Rohman 2017:31-52)
Một dấu hiệu rõ ràng cho thấy sức mạnh của đồng tiền trong các cuộc bầu cử này là chiến thắng của Farid, điều mà mọi người ở Alit đều đồng ý về nguồn tài chính vượt trội mà Supomo đã huy động thay mặt con trai mình. Ngay cả Supomo cũng chia sẻ quan điểm này. Khi chúng tôi yêu cầu ông giải thích về chiến thắng của con trai mình, Supomo thẳng thừng: “Bản thân tôi sẽ không nói điều đó, vì điều đó nghe có vẻ tự phụ. Nhưng mọi người ở đây nói rằng tôi có rất nhiều tiền.” Thật vậy, ông nghĩ rằng có một bài học rộng lớn hơn cần phải biết: “Mọi người đều ca ngợi nền dân chủ Indonesia. Nhưng trên thực tế, tiền mới là số một ở đây.” Ngay từ đầu, Supomo đã nói rõ rằng ông sẽ không cho phép mình phải cường điệu hơn. Như ông ấy đã nói, “tôi chỉ dùng một từ duy nhất: “Có”. Tôi chưa bao giờ nói “không”. Bất cứ thứ gì mọi người yêu cầu, tôi đều đưa cho họ.” (Phỏng vấn của nhóm nghiên cứu ngày 15/4/2015)
Các phát hiện từ mấy làng lân cận đều khẳng định sức mạnh của đồng tiền. Mặc dù không tiến hành nghiên cứu có hệ thống bên ngoài hai làng trên, nhưng thông tin đã thu thập được về chín cuộc bầu cử trưởng làng khác được tổ chức cùng ngày ở cùng một xã bên cạnh. Trong mỗi trường hợp, mô thức mua phiếu bầu là tương tự nhau, với tất cả các ứng cử viên trả tiền cho cử tri, dao động từ 50.000 rupiah đến 250.000 rupiah / người. (Aspinall, Edward and Noor Rohman 2017:31-52) Nói chung, chiến thắng thuộc về ứng cử viên thực hiện trả cao nhất hoặc thuộc về một trong hai / nhiều ứng cử viên có số tiền thanh toán bằng nhau. Ứng cử viên thực hiện khoản thanh toán nhỏ hơn chỉ giành chiến thắng ở hai trong số những ngôi làng này, và trong một ngôi làng, anh ta là một người Hồi giáo chạy đua với một người Cơ đốc giáo trong một ngôi làng đa số là người Hồi giáo. Một nghiên cứu được thực hiện ở những nơi khác của Java (một tài liệu tiếng Indonesia cho biết về việc mua phiếu trong các cuộc bầu cử trưởng làng (Amanu M., 2015; Hasan H., 2009: 99-112), trong đó mô hình mua phiếu này là đặc hữu của các cuộc bầu cử trưởng làng trên khắp hòn đảo, và những ứng viên chi nhiều tiền nhất thường giành chiến thắng. Nhìn chung, khó có thể tránh khỏi kết luận rằng “chính trị tiền tệ” ít nhất là không thể thiếu được đối với chính trị cấp làng xã cũng như đối với chính trị ở cấp huyện, tỉnh và quốc gia. Tuy nhiên, sẽ là sai lầm nếu kết luận rằng các cuộc bầu cử này chỉ xoay quanh vấn đề tiền bạc, vì các yếu tố khác cũng định hình hành vi bỏ phiếu. (Aspinall, Edward and Noor Rohman 2017:31-52)
Ở Ageng, ứng cử viên chi nhiều tiền hơn, Najib, đã bị đánh bại. Kết quả này một phần là do yếu tố tôn giáo bất thường trong cuộc bầu cử này. Mặc dù các mối quan hệ giữa các tôn giáo trong làng nói chung là hài hòa, bao gồm nhiều cuộc hôn nhân giữa những người theo các tôn giáo khác nhau, các linh mục và những người lao động thế tục truyền nhau rằng càng có nhiều người theo đạo Thiên Chúa thì càng nên bỏ phiếu cho một người đồng tôn giáo, và hầu hết đều tuân theo. Một chiến dịch tương tự của một số người Hồi giáo ủng hộ Najib đã phản tác dụng khi có tin đồn lan truyền rằng một số người Hồi giáo nói rằng việc bỏ phiếu cho một kafir – người không phải Hồi giáo - thì bị cấm. Các ứng cử viên từ nhóm đa số thường giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử phân cực như vậy ở các cấp cao hơn; (Aspinall E., Eve Warburton and Sebastian Dettman, 2011: 27-58) 41 không có gì đáng ngạc nhiên khi điều tương tự xảy ra ở một ngôi làng. Đồng thời, Anto đã nhận được sự ủng hộ của cả cư dân Hồi giáo và Cơ đốc giáo vì phong cách dễ gần, thành tích giải quyết vấn đề của anh ấy và, chủ yếu là những thành tựu của anh ấy trong việc phát triển làng. Ngược lại, ở Alit, các cử tri bị ảnh hưởng bởi hàng loạt khoản thanh toán chớp nhoáng do Supomo thực hiện, ít nhất một phần vì không có ứng cử viên thay thế nào đặc biệt hấp dẫn: Sukardi, người đương nhiệm, bị mất uy tín bởi khoản đút lót gần đây của anh ta, trong khi Rusdi được nhiều người coi là một người duy tâm phi thực tế. Trên thực tế, có thể lập luận rằng các khoản thanh toán bằng tiền mặt cho cử tri ở Indonesia hiếm khi quyết định kết quả bầu cử, mà chỉ giống như một “tấm vé vào cửa” (Aspinall E., Michael Davidson, Allen Hicken and Meredith Weiss, 2015) - các ứng cử viên phải thanh toán để thể hiện rằng họ là những ứng cử viên nghiêm túc và để báo hiệu rằng họ đang thực sự quan tâm đến các cử tri của mình và sẵn sàng giúp đỡ họ. Tiền mặt là đương lượng vật chất của các cuộc thăm viếng từng nhà mà các ứng cử viên thực hiện, và chỉ khi được trả tiền thì cử tri mới xem xét ứng cử viên một cách nghiêm túc. Điều này không có nghĩa là chính trị tiền bạc là không quan trọng, đúng ra nó đưa ra khuôn khổ mà trong đó các yếu tố khác - hồ sơ của ứng cử viên, phong cách cá nhân, v.v. - được cử tri đánh giá. (Aspinall, Edward and Noor Rohman 2017:31-52)
6.3.4. Vai trò của nhà nước và môi giới nông thôn
Như đã đề cập ở trên, một tập tư liệu quan trọng cho rằng giới tinh hoa làng xã thời Trật tự Mới ngày càng phụ thuộc vào các mối liên hệ bên ngoài cộng đồng của họ. Đặc biệt, họ trở nên phụ thuộc vào thẩm quyền và sự bảo trợ của nhà nước và kết quả là họ trở nên phụ thuộc vào nó. Theo dõi kỹ hai cuộc bầu cử cho thấy, mặc dù dân chủ hóa và trách nhiệm giải trình theo chiều dọc lớn hơn kết nối trưởng thôn với dân làng bình thường, nhưng sự phụ thuộc của giới tinh hoa trong làng vào các nguồn hỗ trợ bên ngoài, đặc biệt là các quan chức nhà nước cấp cao hơn, vẫn tiếp tục và thậm chí ngày càng sâu sắc. Tuy nhiên, sự phụ thuộc này không còn làm phát sinh mối quan hệ phân cấp đơn giản về sự quy phục như trước đây, mà giờ đây mang lại đòn bẩy đáng kể - và cả những cạm bẫy - cho giới tinh hoa trong làng. Một thực tế nổi bật về hai cuộc bầu cử này là tất cả các ứng cử viên đều dựa trên các mối liên hệ và nguồn lực bên ngoài ngôi làng của mình. Điều đó thể hiện rất rõ bằng cách xem xét câu chuyện cuộc đời của các ứng cử viên và số tiền họ mà đã sử dụng để tài trợ cho các chiến dịch của mình. Tất cả họ đều đã trải qua những khoảng thời gian quan trọng bên ngoài ngôi làng, những giai đoạn góp phần tạo nên sự nổi bật của họ khi họ trở về. Nguồn tài chính của họ cũng phần lớn đến từ bên ngoài biên giới làng. Ở Alit, số tiền mà Supomo kiếm được từ chiến dịch tranh cử của con trai ông đã được tích lũy trong suốt sự nghiệp quan liêu của ông, được bổ sung bằng những khoản đóng góp từ những người con khác của ông, những người đã làm ăn phát đạt ở xa quê hương mà có. Chúng ta không biết được rõ ràng về cách Sukardi tài trợ cho chiến dịch của mình, mặc dù hầu hết dân làng cho rằng anh ta đã rút ít nhất một phần từ quỹ dự án của chính phủ mà anh ta đã tiếp cận bất hợp pháp. Ngay cả Rusdi, ở một khía cạnh nào đó, là người kém nhất trong số các ứng cử viên của chúng ta, cũng nhờ thời gian ở nước ngoài mà thành công trong kinh doanh. Ở Ageng, Anto bắt đầu cuộc sống ở tỉnh Lampung xa xôi, và anh cũng có những mối kết nối với mình ở đó. Trong khi đó, Najib đã có cuộc hôn nhân với một gia đình nổi tiếng quyền lực nhất trong làng, nhưng lại phụ thuộc một phần vào nguồn lực mà vợ anh có thể huy động với tư cách là nhà lập pháp trong Hội đồng hàng huyện. (Aspinall, Edward and Noor Rohman 2017:31-52)
Chính xác hơn, kết quả của các cuộc bầu cử này ít nhất một phần được xác định bởi mối quan hệ của các đối thủ cạnh tranh với nhà nước địa phương, đặc biệt là các quan chức và các chính trị gia được bầu ở cấp huyện (kabupaten) – là tâm điểm của quyền lực chính trị và ngân sách ở một nước Indonesia mới giải-tập trung. Đặc biệt, một tiêu chí mà dân làng đánh giá các ứng cử viên là thành tích hoặc tiềm năng của họ trong việc thúc đẩy sự phát triển của làng bằng cách thu hút các dự án từ các cấp chính quyền cao hơn. Ở khắp mọi nơi, cũng như ở hầu hết các vùng nông thôn Indonesia vào thời điểm bầu cử, phần lớn nội dung các cuộc thảo luận là về tình trạng của đường làng, kênh mương thủy lợi, các công trình công cộng, nơi thờ cúng và các cơ sở khác, cùng những gì đã, hoặc có thể được chuyển giao để cải thiện các hạng mục đó. Về vấn đề này, sự khác biệt giữa hai người đương nhiệm là rất đáng chú ý. Ở Ageng, Anto được hầu hết dân làng đánh giá là đã thành công trong việc thu hút các dự án nhằm giải quyết nhu cầu phát triển và phúc lợi của cư dân. Ví dụ, những con đường làng lần đầu tiên được trải nhựa dưới thời anh nắm quyền, và anh được khen ngợi vì đã thu hút và điều hành thành công nhiều kế hoạch kinh doanh nhỏ từ huyện. Dân làng nồng nhiệt nói về mối quan hệ tốt đẹp của anh với các quan chức và chính trị gia cấp cao hơn và về kỹ năng vận động hành lang (melobi) của anh cho các dự án được đưa về làng. Tại Alit, Sukardi phải lần mò trong lĩnh vực này. Nhiều người không chỉ cho rằng thành tích thu hút dự án của anh ấy kém và lại thường thiên vị hẳn về cho xóm nhà mình, không những thế, anh còn làm xáo trộn các dự án đã thu hút được để đến nỗi bị bắt tận tay, day tận trán. Khi làm như vậy, anh ta đã vi phạm một chuẩn mực đã được quan sát để hạ bệ các nhà lãnh đạo chính trị trong các cuộc bầu cử cấp cao hơn - trong khi một mức độ hối lộ nhất định được coi là có thể chấp nhận, thì tham nhũng “quá mức”, đặc biệt là kết hợp với việc thực thi chính sách kém, có thể làm suy yếu nghiêm trọng tính hợp pháp của nhà lãnh đạo. (Mietzner M., 2010: 184-185) Dân làng cũng đánh giá các ứng cử viên khác theo khía cạnh này. Ở Ageng, lịch sử liên kết nhà nước của Supomo được coi như một tài sản, cũng như lý lịch của Farid với tư cách là một nhà thầu khoán; ngược lại, Rusdi bị một số người xem là quá ‘trực tính’ (lurus) nên không dễ quan hệ thành công với chính quyền. Ở Ageng, Yuningsih đồng thời là sức mạnh to lớn của Najib, bởi vì cô ấy có thể đảm bảo một loạt các dự án, và gót chân Achilles của anh ấy, khiến cho một vài người làng lo sợ rằng ngôi làng sẽ “thuộc sở hữu của một gia đình” (Phỏng vấn của nhóm nghiên cứu ngày 17/4/2015) vì trưởng làng có vợ là người đại biểu Hội đồng hàng huyện duy nhất của họ. (Aspinall, Edward and Noor Rohman 2017:31-52)
Những yếu tố như vậy nhấn mạnh tầm quan trọng liên tục của các liên kết với các cấu trúc nhà nước bao trùm trong các động lực nội tại của chính trị làng xã. Hệt như dưới thời Trật tự Mới, để thành công các trưởng làng cần có sự bảo trợ của các quan chức và công chức nhà nước cấp cao hơn. Tuy nhiên, phương thức tương tác của họ với các quan chức như vậy đã thay đổi đáng kể. Trong thời kỳ Trật tự Mới, giới tinh hoa của làng được tích hợp vào một cấu trúc từ trên xuống có thứ bậc cứng nhắc. Các quan chức nhà nước cấp cao hơn đánh giá họ về khả năng duy trì trật tự trong làng, thực hiện các chương trình của chính phủ và mang lại chiến thắng bầu cử cho Golkar (Đảng các nhóm chức năng - tiếng Indonesia: Partai Golongan Karya - thường được biết đến với tên viết tắt Golkar, là một đảng chính trị ở Indonesia - HHN). Mặc dù giới tinh hoa trong làng đôi khi có thể làm hỏng các chương trình của chính phủ, tạo ra mâu thuẫn với lợi ích của chính họ, nhưng họ có tương đối ít khả năng thương lượng trong các mối quan hệ này. Phương thức tích hợp mới xuất hiện trong một bối cảnh, không chỉ là phương thức giải tập trung hóa, mà ở đó còn có một tỷ lệ đáng kể các nguồn lực nhà nước được phân phối thông qua các “dự án” – các gói quỹ được thiết kế cho các mục đích cụ thể và ít nhất phải trải qua một cuộc đấu thầu, đệ đơn và / hoặc quy trình xác minh chính thức. (Aspinall E., 2013: 27-54; Li, Tania Murray 2016: 79-94) Các dự án đua nhau sinh sôi nảy nở ở vùng nông thôn Indonesia, cũng như các vùng khác của đất nước. Như Li đã nói, “các ngôi làng tràn ngập các dự án nhỏ được tài trợ bởi hàng chục cơ quan quốc gia và xuyên quốc gia khác nhau để phân phát dê miễn phí, máy khâu, hệ thống nước và các chương trình tín dụng vi mô”. (Li, Tania Murray 2016: 4-5) Giới tinh hoa của làng coi trọng các dự án không chỉ vì sự phát triển hoặc phúc lợi đưa lại cho dân chúng, mà còn vì tiện ích của họ với tư cách là các nguồn lực bảo trợ có thể được phân phối cho những người ủng hộ. (Aspinall, Edward and Noor Rohman 2017:31-52)
Để thành thạo trong việc kiếm được các dự án, trưởng làng và những người ưu tú khác cần có hai bộ kỹ năng. Trước hết, họ cần có kỹ năng đọc viết và tính toán chuyên biệt - khả năng viết các đề xuất dự án thuyết phục và báo cáo trách nhiệm giải trình hiện là một năng lực được đánh giá cao trên khắp Indonesia (tại một huyện bên cạnh, nhóm nghiên cứu đã gặp một nữ doanh nhân tự hào khoe rằng cậu con trai nhỏ của cô ấy – là học sinh tiểu học - đã tự mày mò viết các đề xuất dự án tốt, phù hợp với yêu cầu của các cơ quan chính phủ cụ thể). Bộ kỹ năng thứ hai, thậm chí còn quan trọng hơn là những kỹ năng cần thiết để thương lượng với cái bản đồ chính trị rối rắm cấu thành cơ quan quyền lực nhà nước ở cấp địa phương, nhằm xác định, tạo dựng các mối gắn kết và thu hút các dự án từ các quan chức phụ trách phân phối chúng. Thay cho đường lối quan liêu mệnh lệnh rõ ràng thời trước, giới tinh hoa làng xã giờ đây đối đầu với giới tinh hoa cạnh tranh trong các thể chế nhà nước phân tán và đa dạng - họ có thể trích xuất các dự án, không chỉ từ bupati huyện trưởng hoặc cấp phó của họ, mà còn thường trực tiếp từ các chánh văn phòng, huyện/xã trưởng, hoặc các công chức khác, cũng như từ các thành viên của Hội đồng hàng huyện, ấy là chưa kể đến các quan chức hoặc chính trị gia từ chính quyền cấp tỉnh và trung ương. Điều hướng thành công các mạng chằng chịt này đòi hỏi sự kết hợp giữa khả năng phán đoán chính trị, kỹ năng xã hội tinh tế và năng lực bắt nhịp nhay nhậy để đánh giá rủi ro chính trị và pháp lý. (Aspinall, Edward and Noor Rohman 2017:31-52)
Theo đó, trong khi một số nhà phân tích coi các dự án hoạt động chủ yếu để phi chính trị hóa đời sống nông thôn (Li, Tania Murray 2016: 5), thì vẫn có thể tin chắc rằng chúng phải được coi là trung tâm của chính trị nông thôn mới. Đặc biệt, các dự án là một loại tiền tệ mới mang tính sống còn trong việc xây dựng liên minh, chính trị bảo trợ và hòa giải giữa các cấp chính quyền khác nhau. Điều quan trọng là, giới tinh hoa cấp huyện hiện nay cần đến giới tinh hoa làng xã chẳng kém gì giới tinh hoa làng xã cần họ. Vào thời điểm bầu cử, những người muốn đạt tới địa vị công chức cần có sự kết nối với các làng. Cũng giống như các ứng cử viên của chúng ta trong các cuộc bầu cử làng đã làm việc thông qua các nhà môi giới cấp cơ sở, vì vậy các ứng cử viên lập pháp và hành pháp cấp cao hơn cũng sẽ phải huy động cử tri theo cách của các “đội thành công” rộng lớn. Hầu hết các trưởng làng đều là những người môi giới bầu cử xuất sắc, và trên khắp Indonesia, các ứng cử viên chính trị đều cố gắng hết sức để thu hút sự ủng hộ của họ. Các trưởng làng thành công thường có thể tận dụng các kỹ năng vận động và kết nối với các chính trị gia cấp huyện hoặc cấp tỉnh bằng cách khởi động sự nghiệp chính trị nhắm đến cấp cao hơn; đặc biệt là thường thấy các cựu trưởng làng tranh cử các ghế trong Hội đồng hàng huyện vào thời điểm bầu cử, và họ thường làm như vậy với sự hậu thuẫn của các chính trị gia mà họ đã hỗ trợ trong quá khứ. (Paskarina C., 2016: 203-216)
Trưởng làng là những người quy tụ phiếu bầu đặc biệt hiệu quả, một phần vì với tư cách là quan chức được bầu, họ có quyền phát biểu thay mặt cộng đồng của mình, nhưng cũng vì bản thân dân làng phụ thuộc vào trưởng làng để được hỗ trợ trong việc giao dịch với các cơ quan chính quyền và tiếp cận các chương trình phúc lợi. (Berenschot W., 2015; Sambodho P., 2015) Ở một số nơi, trưởng làng có thể tham gia vào các mối quan hệ người bảo trợ - khách hàng trực tiếp với một bupati ông huyện trưởng, bắt chước mối quan hệ thứ bậc mà họ đã phát triển với các quan chức nhà nước dưới thời Trật tự Mới, để một bupati ông huyện trưởng trở thành người bảo trợ cung cấp cho họ một loạt các dự án và các phần thưởng khác, còn họ thì trả ơn bằng lòng trung thành chính trị. (Paskarina C., 2016: 203-216) Nhưng các mối quan hệ trực tiếp có thể khiến các trưởng làng bị phơi bày nguy hiểm nếu có sự thay đổi ở cấp trên, vì vậy nhiều trưởng làng thành công đã tự giải nguy bằng cách đa dạng hóa các mối kết nối chính trị của họ và do đó, đa dạng hóa các nguồn dự án của họ. Ở hai ngôi làng của chúng ta, người thể hiện nổi bật năng lực này, một lần nữa lại là Anto - trong ba cuộc bầu cử gần đây nhất, anh ấy đã ủng hộ một loạt các ứng cử viên lập pháp và bupati, từ nhiều đảng phái khác nhau. Chỉ với một trong số những ứng cử viên này không trúng cử, anh ta dường như rất khéo léo trong việc chọn ra những kẻ chiến thắng, sau đó sẽ đem đến cho anh ta vô số ưu đãi từ các cấp chính quyền và hội đồng hàng huyện. (Aspinall, Edward and Noor Rohman 2017:31-52)
Ở Alit, Sukardi không mấy thành công trong việc xây dựng các liên minh, chỉ dựa vào sự hỗ trợ của một ông nghị quyền lực địa phương, nhưng lại bị khóa chặt trong cuộc đấu tranh gay gắt với chính đảng của mình, dù đã cố gắng, nhưng không thành công, để trở thành bupati. Một điểm tiếp xúc khác mà giới tinh hoa trong làng có được sức bật đáng kể trong giao dịch với các quan chức cấp cao hơn, đó là ở hệ thống bảo trợ bao quanh các dự án. Như trước đây, một nguồn chính của việc giật lấy phần béo bở và gia tăng giá trị, thúc đẩy hệ thống bảo trợ của Indonesia, đều xuất phát từ các dự án địa phương. Do việc giao dự án thường diễn ra ở cấp làng, nên các quan chức huyện cần có sự tham gia hoặc ít nhất là được sự đồng ý của các quan chức làng, đặc biệt là trưởng làng, để bòn rút các quỹ. Sự cần thiết này làm tăng giá trị của trưởng làng đối với các quan chức cấp cao hơn, nhưng cũng khiến họ phải đối mặt với những rủi ro liên quan đến tham nhũng (hình ảnh trưởng làng tham nhũng đã trở thành một thứ sáo rỗng ở Indonesia sau cải cách, với việc phương tiện truyền thông thường xuyên phơi bày những cá nhân như vậy). Bí thư làng ở Alit giải thích về hệ thống đó như sau: “Thường thì các thành viên hội đồng [lập pháp cấp huyện] là những người tích cực vận động hành lang cho các dự án. Họ là những người biết cấp trên có những chương trình gì, và nếu họ biết ai đó ở cơ sở, họ sẽ kể cho kẻ kia nghe về chương trình đó, và bảo đưa ra đề xuất, rồi hứa với kẻ nọ: “Tôi sẽ là người chuyển giao dự án đó”. Sau đấy, thường có một khoản hối lộ 10 hoặc 20% [giá trị dự án], đôi khi nó có thể lên đến 50%, còn thông thường là 10–20%. Đến lúc thực hiện báo cáo trách nhiệm giải trình [với tư cách là người nhận dự án], có thể sẽ gặp rắc rối nếu kẻ kia phải tính đủ 100 triệu [thay vì 50–90 triệu mà làng thực sự nhận được]. Thường thì trưởng làng sẽ tự lập báo cáo và tự đóng dấu [tức là giữ các quan chức khác của làng trong bóng tối]. Nhưng nếu không tham gia vào “vận động hành lang”, thì sẽ chẳng bao giờ nhận được dự án. (Phỏng vấn của nhóm nghiên cứu ngày 15/4/2015)
Do đó, một mặt, hệ thống tạo đòn bẩy cho các trưởng thôn, giúp họ có thể sử dụng sự hỗ trợ của họ cho các kế hoạch của cán bộ cấp cao hơn, không chỉ để thu hút các dự án mà còn để kiếm được một phần tiền thuê. Mặt khác, hệ thống khai thác và phân phối bảo trợ xung quanh việc phân phối dự án có thể là một cái bẫy - như chúng ta thấy chính Sukardi đã bị rơi vào. Chúng ta không thể chắc chắn liệu Sukardi có bị tóm gọn trong một pha giao bóng kép hay liệu anh ấy có quá tham lam và thiếu kỹ năng để che lấp dấu vết của mình một cách hiệu quả hay không. Ở Ageng, chúng ta nên nhấn mạnh rằng Anto đã không thể tránh được những khoản lại quả để đảm bảo có được các dự án. Trong một cuộc phỏng vấn, anh ấy xoay quanh việc định giá “phí” cho các loại dự án khác nhau. Nhưng anh cũng nói rõ rằng anh sẽ từ chối các dự án nếu mức lại quả quá cao, (Phỏng vấn của nhóm nghiên cứu ngày 16/4/2015) và dường như anh có thể đàm phán hiệu quả hơn với các quan chức cấp trên và biết khi tuân thủ các quy tắc chính thức sẽ mang lại cho mình lợi thế chính trị. Như một điển hình của bài học vừa nêu, Ageng là ngôi làng duy nhất trong xã mà ở đó gạo trợ cấp chỉ được phân phát cho những dân làng nghèo được cơ quan chính phủ có trách nhiệm xác định là người dự kiến được nhận. Ở các làng khác - cũng như phần lớn Indonesia (Mulyadi S., 2013) - các trưởng làng và trưởng xóm không chịu nổi áp lực của dân chúng và phân phối gạo bình quân cho tất cả dân làng, hoặc chuyển gạo cho chính những người ủng hộ họ. Anto đã biến chương trình này thành một kế hoạch trọng tâm trong chiến lược tranh cử của mình, bằng cách nói với hơn 500 hộ gia đình thuộc diện được nhận tài trợ là nếu Najib thắng thì phần chia cho họ sẽ bị giảm đi. (Aspinall, Edward and Noor Rohman 2017:31-52)
6.3.5. Nhận xét
Phân tích về hai cuộc bầu cử này cho thấy rằng trong đời sống chính trị của Indonesia, có những yếu tố mang tính liên tục và thay đổi trong quan hệ quyền lực nông thôn thời kỳ hậu Suharto. Liên quan đến dân chủ hóa chính trị nông thôn, nghiên cứu trên xác nhận rằng các cuộc bầu cử trưởng làng thực sự mang tính cạnh tranh. Chính quyền cấp cao hơn không có vai trò công khai nào đối với họ: các quan chức dân sự cấp huyện và dưới huyện, không nói gì đến bộ máy an ninh, không quyết định ai có thể tranh cử cũng như hướng dân làng về phía ứng cử viên nào. Thay vào đó, cả hai cuộc bầu cử đều là những cuộc chạy đua thực sự, trong đó các ứng cử viên phải cống hiến – trong khuôn khổ làng quê – các mạng nguồn lực to lớn, trí tuệ sáng tạo, nỗ lực thể chất và của cải vật chất để thu hút sự ủng hộ của người dân trong làng, kể cả những người nghèo nhất. Mặt khác, như đã được chứng minh và tranh biện rốt ráo trong các văn liệu liên quan đến chính trị cấp cao hơn, có sự liên tục lớn trong các mối quan hệ quyền lực cơ bản. Tính ưu việt của việc mua phiếu bầu cho thấy chỉ những người dân làng giàu có nhất mới có thể cạnh tranh, và cũng giống như nền chính trị Indonesia, hiển nhiên có rất ít cuộc tranh luận về chính sách trong các cuộc tranh cử này. Nhưng chúng ta không nên phóng đại tính liên tục này. (Aspinall, Edward and Noor Rohman 2017:31-52)
Không phải tất cả các ứng cử viên, cũng không phải tất cả những người đương nhiệm, đều được thu hút từ các nhóm nhỏ các gia đình ưu tú, những người đã cai quản việc làng từ lâu ở cả hai làng. Họ giàu có hơn những người dân làng khác, nhưng một số là dân mới phất lên – họ là những cá nhân làm ăn phát đạt nhờ có nhiều cơ hội đi lại bên ngoài làng nhiều hơn, đồng thời còn là phong trào tái thiết nền kinh tế nông thôn diễn ra mạnh mẽ trong những thập kỷ gần đây. Tầng lớp tinh hoa chính trị làng quê không đồng nhất và ranh giới của nó rất mềm, giống như với các tầng lớp tinh hoa cao hơn vậy. (Choi N., 2014: 364-407) Hơn nữa, mặc dù tình trạng phổ biến của việc mua phiếu bầu là một dấu hiệu nghiêm trọng cho thấy tầm ảnh hưởng của chính trị tiền tệ đối với chính nền tảng của hệ thống chính trị, nhưng đó nhất định không phải là điều duy nhất quyết định kết quả, và không nên hiểu đó là biểu hiện của tình trạng thiếu năng lực cạnh tranh. Ngược lại, các ứng cử viên dành những nguồn lực đó để mua sự ủng hộ chính vì họ không thể coi thường lá phiếu của dân làng. Tương tự như vậy, cả tính liên tục và sự thay đổi đều thể hiện rõ ràng trong mối quan hệ của giới tinh hoa trong làng với nhà nước ở cấp địa phương. Ở một số khía cạnh, giới tinh hoa trong làng, chẳng hạn như những người cạnh tranh trong các cuộc bầu cử này vẫn là “khách hàng do nhà nước bảo trợ”. Hầu hết những người dân làng giàu có và thành đạt đều tìm cách có được chức vụ nhà nước cấp làng, các vị trí trong perangkat desa bộ máy quản trị làng hoặc các ghế trong BPD Cơ quan Tư vấn Làng, và hầu hết mọi người đều để mắt đến cơ hội thu được các khoản tiền thầu từ các dự án tràn ngập cuộc sống nông thôn. (Aspinall, Edward and Noor Rohman 2017:31-52)
Các ứng cử viên mạnh mẽ trong các cuộc bầu cử này có thể thu hút được các đồng minh và các nguồn lực mà họ đã xây dựng thông qua các tương tác của họ với các quan chức nhà nước cấp cao hơn. Khả năng bẫy được các dự án từ các cơ quan nhà nước là một yếu tố quan trọng trong thành công chính trị của làng. Do đó, mặc dù chính quyền nhà nước cấp cao hơn không đóng vai trò trực tiếp trong các cuộc bầu cử này, nhưng vai trò gián tiếp của họ là rất đáng kể - bằng cách quyết định những làng hoặc cá nhân nào sẽ hưởng đặc ân các dự án hoặc các nguồn lực khác, thì họ có thể ảnh hưởng lớn đến kết quả bầu cử của làng. Tuy nhiên, bất chấp tính liên tục cơ bản này, bản chất của mối quan hệ giữa giới tinh hoa làng xã và quyền lực nhà nước đã thay đổi rất nhiều. Thay vì một hệ thống phân cấp theo chiều dọc cứng nhắc, giờ đây có thể thấy một khu vực hỗn độn gồm vô số kết nối giữa làng và nước. Giới tinh hoa làng phải đối mặt với nhiều vị trí có khả năng tiếp xúc ở chính quyền địa phương khi họ tìm kiếm các dự án và các nguồn lực khác để phát triển làng xóm và cải thiện hoàn cảnh chính trị và vật chất của chính họ. Hơn nữa, không chỉ giới tinh hoa trong làng cần các quan chức nhà nước, mà các quan chức nhà nước đó cũng cần các đối tác trong làng để họ đạt được quyền lực và thực thi bảo trợ. Trong bối cảnh như vậy, sự khéo léo và tinh tế trong cách họ vun đắp các mối quan hệ với nhà nước đối với giới tinh hoa làng còn quan trọng hơn là chỉ đơn giản thể hiện lòng trung thành. Vì vậy có thể khẳng định rằng giao dịch và môi giới là chìa khóa dẫn đến thành công chính trị trong nền dân chủ bảo trợ ở nông thôn Indonesia. (Aspinall, Edward and Noor Rohman 2017:31-52)
__________________________________________
Tài liệu dẫn
Amanu, Mohamad (2015). Politik uang dalam pemilihan kepala desa (Studi kasus di desa Jatirejo kecamatan Banyakan kabupaten Kediri)’ [Money politics in village head elections (A case study of Jatirejo village, Banyakan subdistrict, Kediri district)], In Jurnal Mahasiswa Sosiologi 1, 2 (2015)
Antlöv, Hans (1995). Exemplary centre, administrative periphery: Rural leadership and the New Order in Java (Richmond: Curzon, 1995).
Aspinall E., (2013). A nation in fragments: Patronage and neoliberalism in contemporary Indonesia, In Critical Asian Studies 45, 1 (2013): 27–54;
Aspinall E., (2014). When brokers betray: Social networks and electoral politics in Indonesia, In Critical Asian Studies 46, 4 (2014): 545–70.
Aspinall E., Eve Warburton and Sebastian Dettman (2011) When religion trumps ethnicity: Local elections in Medan, Indonesia, In South East Asia Research 19, 1 (2011): 27–58.
Aspinall E., Michael Davidson, Allen Hicken and Meredith Weiss (2015). Inducement or entry ticket? Broker networks and vote buying in Indonesia, Paper presented at The annual meeting for the American Political Science Association, San Francisco, 3–6 Sept. 2015.
Aspinall, Edward and Noor Rohman (2017). Village head elections in Java: Money politics and brokerage in the remaking of Indonesia's rural elite. February 2017, Journal of Southeast Asian Studies 48(01):31-52.
Berenschot W., (2015). Comparing patronage networks: Party, state and notable in Indonesia and India, Paper presented at Politics as Usual workshop, 10 July 2015, University of Bristol.
Choi, Nankyung (2014). Local political elites in Indonesia: “Risers” and “Holdovers”, Sojourn: Journal of Social Issues in Southeast Asia 29, 2 (2014): 364–407.
Hasan, Halili (2009). Praktik politik uang dalam pemilihan kepala desa (Studi di desa Pakandangan Barat Bluto Sumenep Madura)’ [Money politics practices in village head elections (A study of Pakandangan village, Bluto, Sumenep, Madura)], Humaniora 14, 2 (2009): 99–112.
Hüsken F., (1994). Village elections in Central Java: State control or local democracy?’, In Leadership on Java: Gentle hints, authoritarian rule, ed. Hans Antlöv and Sven Cederroth (Richmond: Curzon, 1994), p. 126.
Kitschelt H., and Steven I. Wilkinson (2007). Citizen–politician linkages: An introduction, In Patrons, clients and policies: Patterns of democratic accountability and political competition, ed. H. Kitschelt and S.I. Wilkinson (Cambridge: Cambridge University Press, 2007), p. 11.
Li, Tania Murray (2016). Governing rural Indonesia: Convergence on the project system, In Critical Policy Studies 10, 1 (2016): 79–94.
Mietzner M., (2010). Indonesia’s direct elections: Empowering the electorate or entrenching the New Order oligarchy?, In Indonesia: Soeharto’s New Order and its legacy: Essays in honour of Harold Crouch, ed. Edward Aspinall and Greg Fealy (Canberra: ANU E-Press, 2010), pp. 184–5.
Muhammad Mahsun (2016). Palembang, South Sumatra: Aspiration funds and pork barrel politics’, in Aspinall and Sukmajati, Electoral Dynamics in Indonesia: Money Politics, Patronage and Clientelism at the Grassroots, pp. 120–36.
Mulyadi S., (2013). Welfare regime, social conflict, and clientelism in Indonesia (Ph.D. diss., The Australian National University, 2013).
Noor, Rohman (2016). Pati, Central Java: Targets, techniques and meanings of vote buying, In Aspinall and Sukmajati (2016). Electoral dynamics in Indonesia, pp. 233–48; Zusiana Elly Triantini, ‘Blora, Central Java: Local brokers and vote buying’, in ibid., pp. 249–63.
Paskarina C., (2016). Bandung, West Java: Silaturahmi, personalist networks and patronage politics, In Aspinall and Sukmajati, Electoral dynamics in Indonesia, pp. 203–16.
Sambodho P., (2015). Can clients become citizens? Evaluating the new democracy in Indonesia, In Opendemocracy.net, 23 Jan. 2015.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét