Khảo cổ học và tiến hóa nhận thức (I)
Thomas Wynn
Người dịch: Hà Hữu Nga
1. Giới
thiệu
Bài viết này nhằm thực hiện hai mục đích. Trước hết
là đưa ra một trường hợp liên quan đến các đóng góp của khảo cổ học cho các
công trình nghiên cứu về quá trình tiến hóa của nhận thức. Thứ hai là xuất
trình một ví dụ về công sức đóng góp như vậy, đó là việc tái cấu trúc các khía
cạnh nhận thức về không gian của các hominid sớm dựa trên một công trình phân tích về tính đối xứng của các tác vật của
họ. Khi giả định rằng quá trình tiến hóa của nhân loại tương ứng với quá trình
nhận thức về điều kiện con người (một lập trường tri thức với tư cách là cách
tiếp cận cốt lõi về phương diện sinh học, nếu không muốn nói là tâm lý học đối
với hành vi con người), vậy thì khảo cổ học có thể cung cấp hai tập bằng chứng
quan trọng: (1) sự tính toán thời gian thực của các quá trình phát triển, và
(2) bối cảnh tiến hóa của các quá trình phát triển này. Không có thách thức về
phương diện tri thức học; khảo cổ học có thể và vẫn cung cấp các bằng chứng này
cho việc nghiên cứu về quá trình tiến hóa nhân loại nói chung. Nhưng thách thức
lại là về phương pháp luận. Làm thế nào để khảo cổ học có thể thông tin cho
chúng ta về quá trình tiến hóa của tư duy? [Xem Gowlett 1979; Holloway
1969; Parker & Gibson 1979].
Khảo
cổ học là một tập phương pháp để tái cấu trúc các hoạt động của quá khứ dựa vào
các dấu vết vẫn còn lưu lại đến ngày nay. Các dấu vết này bao gồm các hiện vật
được con người tạo tác hoặc biến đổi trong quá khứ - đó là công cụ, nhà cửa, đồ
trang sức, v.v..., - nhưng cũng còn những mô thức thiếu rõ ràng như mọi loại
rác, đồ thải bỏ và các bằng chứng về các cảnh quan quá khứ (thông qua việc phân
tích đất, bào tử phấn hoa, di tích quần động vật, v.v...). Vì một số dấu vết vẫn
còn lưu lại các cách thức tàn phá của thời gian tốt hơn những cách thức khác,
nên di tích khảo cổ học chính là một mẫu dễ bị thiên kiến và không ngẫu nhiên của
các hành động quá khứ. Chẳng hạn các công cụ đá được bảo lưu tốt, trong khi đó
vật dụng bằng gỗ thì lại không thể được bảo tồn như vậy. Tương tự, một số loại
môi trường có khả năng lưu giữ dấu vết quá khứ tốt hơn các môi trường khác. Môi
trường nhiệt đới lưu giữ dấu vết kém, nhưng môi trường băng giá, khô, lạnh thì
lại lưu giữ dấu vết quá khứ rất tốt. Khảo cổ học là một bộ môn mang tính quan
sát. Không giống với các nhà khoa học thí nghiệm trong phòng, các nhà khảo cổ học
không thể làm các bản sao các sự kiện, và cũng khác với các nhà phong tục học,
các nhà khảo cổ học không thể tùy thuộc vào việc đạt được các quan sát để củng
cố lý lẽ, mặc dù chúng ta rất mong muốn như vậy. Trong khảo cổ cũng thực sự tồn
tại yếu tố may mắn. Các phát hiện thành Pompeii, “người Băng”, và phát hiện mới
đây về những mũi giáo cổ tới 400,000 năm tuổi tại Schoeningen (Thieme 1997) là
độc nhất với lượng thông tin tuyệt vời, nhưng lại không điển hình. Hồ sơ khảo cổ
học đôi chút huyênh hoang với những báu vật như vậy. Thay vì nó chủ yếu bao gồm
các dấu vết trần tục và ít hoàn thiện hơn nhiều là cái cho phép các nhà khảo cổ
học tái cấu trúc một vài thứ đã xuất hiện trong quá khứ. Nhiệm vụ mang tính
phương pháp luận đầu tiên của khảo cổ học là việc tái cấu trúc này – dịch các dấu
vết còn lại thành các hành động trong quá khứ - và khảo cổ học đã phát triển một
tập khái niệm và kỹ thuật lớn lao cho công việc này. Chúng ta thuần thục trong
việc tái cấu trúc thực đơn cổ từ đống rác thải còn lại, và các hệ thống chính
trị/xã hội từ kích cỡ, đặc trưng, và vị trí của các khu cư trú. Vậy thì chung
ta có xây dựng được một khảo cổ học nhận thức không? Trong thực tế đây là hai nửa
của một vấn đề. Trước hết, liệu các dấu vết hoạt động có thể thông báo một cách
đáng tin cậy cho chúng ta về bất cứ khía cạnh nào của nhận thức hay không?, và
thứ hai là nếu có thì các nhà khảo cổ học có thể vượt qua được các cánh cổng bị
khóa chặt về phương pháp luận vốn có đối với hồ sơ khảo cổ học về các dấu vết
đó hay không?
Một
phương thức được các nhà tâm lý học sử dụng để khảo sát về tư duy, đó là việc
quan sát các hoạt động của các cá nhân trong các môi trường phòng thí nghiệm có
kiểm soát hoặc trong các tình huống tự nhiên. Đôi khi các hoạt động này để lại
những dấu vết hữu hình trở thành tiêu điểm cho việc phân tích. Hình vẽ của trẻ
em là một ví dụ; các kiểm nghiệm xếp khối [Block Shuffling Test] lại là một ví dụ
khác. Nhiệm vụ mang tính phương pháp luận của nhà tâm lý học là chuyển dịch các
kết quả hữu hình thành các đặc trưng có nghĩa của tư duy đã tạo ra chúng. Tất
nhiên các nhà tâm lý học cũng có thể chuyện trò với các đối tượng thí nghiệm của
họ, nhưng về nguyên tắc, tâm lý học còn có thể và thực sự phân tích được các dấu
vết của hành động. Nếu nhà khảo cổ học mà cố thử phương pháp ấy thì phải đối mặt
với với một số khó khăn khác nữa. Để có được một lập luận thuyết phục về khảo cổ
học nhận thức người ta cần phải xác định được rõ ràng các đặc trưng riêng của hồ
sơ khảo cổ học là thứ có thể thông tin về nhận thức một ách có giá trị và đáng
tin cậy. Đây chính là mấu chốt của vấn đề. Không may là các bộ môn khảo cổ học
và tâm lý học lại có rất ít điểm chung về lý thuyết và phương pháp luận. Để cho
nhà khảo cổ học thực hiện được một trường hợp có sức thuyết phục thì người đó
không thể đơn giản tham chiếu một vài kết quả tâm lý học mang tính chọn lọc nào
đó. Bên cạnh đó, còn cần phải có một lượng tri thức nhất định về bối cảnh lý
thuyết và phương pháp luận về công việc nghiên cứu nữa. Đây là một thao tác tuyệt
đối cần thiết. Một mặt không thể có được các biến bằng ách trực tiếp lấy ra từ
văn liệu tâm lý học để ưng dụng vào các di vật khảo cổ học. Mặt khác, các loại
hình khảo cổ học truyền thống thường không thích hợp với cách tiếp cận này, đó
là điều cần phải nhấn mạnh. Trong suốt quá trình hơn một thế kỷ qua, khảo cổ học
đã phát triển rất nhiều phạm trù mô tả các di vật khảo cổ. Một số phạm trù dựa
trên chức năng giả định, chẳng hạn rìu đá mài hoặc phức hợp đền miếu), một số lại
dựa vào việc giả định về tác dụng theo trật tự thời gian, chẳng hạn Thời đại đồ
sắt, một số phương thức khác thì lại căn cứ vào tính phức hợp xã hội, chẳng hạn
như khái niệm giai đoạn cổ điển của Trung Mỹ, v.v...Theo cách hiểu của tôi thì
không có bất cứ phạm trù nào được xác băng nhận thức tư duy, và có lẽ là nhầm lẫn
khi sử dụng chúng theo cách cho rằng về phương diện nhận thức, người thời đại Đồ
sắt khác với người thời đại Đồ đá. Nhà khảo cổ học nhận thức cần phải tránh sử
dụng các phạm trù truyền thống ấy và tiếp cận với hồ sơ khảo cổ học từ quan điểm
của lý thuyết và phương pháp tâm lý học. Ngay cả sau khi đã định nghĩa cẩn thận
thì khảo cổ học vẫn còn phải đối mặt với một số rào cản đặc biệt đối với các dữ
liệu của nó. Trước hết là việc bảo tồn. Việc bảo tồn không chỉ tạo ra một hồ sơ
thiên vị, mà nó còn thể hiện một quy mô giải quyết vấn đề rất dễ bị trượt đi. Thời
gian càng lùi xa thì hồ sơ càng nghèo nàn. Càng có ít di vật được lưu giữ thì
càng có ít mẫu được bảo tồn. Chính tình trạng này làm cho hồ sơ khảo cổ học có
một dáng vẻ tiến bộ một cách mê muội; các di vật 10.000 năm có vẻ phức tạp hơn
các di vật 500.000 năm - một phần, chứ không phải hoàn toàn - vì chúng ta phát
hiện được loại di vật muộn ấy nhiều hơn. Vấn đề thứ hai là về phương diện
logic. Làm sao mà chúng ta có thể đảm bảo chắc chắn rằng các di vật khảo cổ học
phản ánh một cách đáng tin cậy các khả năng nhận thức của con người trong quá
khứ? Lẽ nào những con người ấy lại không đầu tư suy nghĩ thông minh nhất của
mình vào các lĩnh vực vô hình về phương diện khảo cổ học? Không có cách nào tránh
khỏi hoàn toàn sai lầm về vấn đề này. Các nhà khảo cổ học chỉ có thể đánh giá năng
lực tối thiểu cần thiết để tạo ra một mô hình đặc biệt nào đó. Lợi thế duy nhất
của chúng ta là số lượng hồ sơ khảo cổ học ngày càng nhiều thêm, đặc biệt là sự
đa dạng của các trường hợp giúp củng cố vưng chắc hơn lý lẽ của chúng ta.
Cuối
cùng khảo cổ học nhận thức vận hành tốt nhất nhờ vào quy mô ngày càng tăng của
các giải pháp. Thành tích tối hậu của khảo cổ học nhận thức có lẽ là đã đưa ra
được các mô tả về thế giới sống của tổ tiên con người về phương diện nhận thức ở
nhiều vấn đề trong quá trình tiến hóa. Các mô tả như vậy cũng giúp tạo lập nền
tảng tiến hóa về phương diện nhận thức tư duy hiện đại. Lâu nay tôi vẫn ấp ủ nỗi
khát khao đưa ra được cách diễn giải toàn diện về tư duy của người Homo
erectus, một tổ tiên trực tiếp, thành công nhất của Homo sapiens. Chắc chắn là việc tìn hiểu về nhận thức của
người Homo erectus, sẽ giúp làm sáng tỏ các khía cạnh của tư duy hiện đại;
chắc chắn vẫn còn rất nhiều điều về Homo erectus mà chúng ta cần phải
tìm hiểu. Rất không may là tôi lại không cho rằng chúng ta có thể làm được điều
đó, vì hồ sơ khảo cổ học quá thiếu sót.
Khảo
cổ học có thể sử dụng cách tiếp cận khác đối với vấn đề tiến hóa, một cách tiếp
cận không tập trung vào các mô tả tổ tiên đơn lẻ, mà tập trung vào các mô thức
biến đổi dài hạn. Thậm chí dù có nghèo về tư liệu, nhưng hồ sơ khảo cổ học vẫn rất
dài tạo ra một hồ sơ gần như liên tục về các sản phẩm hành động trải tới hai
triệu năm. Các nhà khảo cổ học có thể sử dụng hồ sơ này để xác định các mô thức
tiến hóa nhận thức cung cấp nhưng hiểu biết sâu sắc cho các câu hỏi về khoa học
nhận thức hiện đại. Cái cần phải tiếp tục chính là một ví dụ về cách tiếp cận
này. Tiêu điểm là về nhận thức không gian, nhìn chung bao gồm cả việc nhận thức
về hình dáng và thao tác dựa vào trí tưởng tượng. Một trong số các bằng chứng
rõ nhất là tính đối xứng* khi chế tác các công cụ, vật dụng.
2.
Hồ sơ khảo cổ học về tính đối
xứng của các vật tạo tác
Bài
viết này khảo sát quá trình tiến hóa của tính đối xứng của các công cụ và vật tạo
tác của con người với ba lý do. Trước hết, đối xứng là một mô thức và một khái
niệm được người ta nhận thức quy giản yêu cầu thành định nghĩa, nhưng lại không
loại trừ nó hoàn toàn. Thứ hai, đối xứng được tích hợp thành nhiều sơ đồ phát triển nhận
thức không gian, và cũng tích hợp vào các lý thuyết nhận thức, vì vậy mà nó trực
tiếp đem lại cách thức khớp nối hồ sơ khảo cổ học với văn liệu về khoa học nhận
thức. Cuối cùng nó còn tuân theo nguyên tắc thể hiện thị giác nữa. Có một số mô
thức khác có thể ứng dụng thuật ngữ đối xứng. Quen thuộc nhất là đối xứng phản ánh, còn được gọi là đối xứng
hai bên hoặc đối xứng gương. Ở đây một nửa mô thức được nhân đôi lên và được đảo
ngược. Tiềm ẩn trong mô thức này là một tuyến trung tâm, thường được gọi là trục
tung, chia đôi mô thức thành các phiên bản đối xứng nhau. Đối xứng bên mang
tính “tự nhiên” vì chúng ta thấy mô thức này trong thế giới tự nhiên của thực vật
và động vật. Một mô thức thứ hai là đối xứng xuyên tâm, trong đó một mô thức lặp lại không theo tuyến mà liên tục
theo một điểm. Tương tự với đối xứng xuyên tâm là đối xứng trục quay, trong đó
một mô thức không được đối ảnh qua một tuyến, mà là quay xung quanh một điểm;
trong trường hợp này, mô thức không bị đảo ngược hoặc lộn từ trong ra ngoài. Cuối
cùng là đối xứng tịnh tiến, trong đó
một mô thức được lặp lại theo một trật tự, không phải bằng phương thức đảo hoặc
quay.
Đối
xứng tồn tại ở mọi nơi trong thế tự nhiên cũng như trong thế giới văn hóa do
con người tạo ra. Đó là một đặc điểm nổi bật của quá trình phát triển tinh thể nảy
sinh từ các cấu trúc hóa học của bản thân các tế bào phân tử. Nó cũng tác động
như một nguyên tắc trong phát triển và tăng trưởng sinh học, cũng như trong quá
trình nhân đôi mang tính đối xứng của các phần phụ dư thừa trong các loài bọ
cánh cứng [Bateson 1972], trong đó nguồn gốc của nó có thể nằm ở các gien điều
chỉnh quá trình tăng trưởng. Trong một quy mô lớn, đối xứng là một đặc điểm của
toàn bộ các sơ đồ cơ thể của nhiều thể sinh vật, từ các loại trùng lỗ cực nhỏ cho
đến các loài có xương sống to lớn. Trong văn hóa vật chất của con người, đối xứng
xuất hiện dưới dạng các vật tạo tác, các công trình xây dựng, và các môi trường
do con người tạo ra ên khắp thế giới. Đối
xứng cũng là yếu tố trung tâm trong mọi hệ thống trang trí thuộc hầu hết các nền
ăn hóa của con người, và cũng là yếu tố trung tâm của các trò chơi và các nan đề
toán học (chẳng hạn các thể khảm). Trong nhiều trường hợp, tính đối xứng nảy
sinh từ việc ứng dụng các quy tắc biến đổi; các hình giản đơn lặp lại và “vận động”
để sản sinh ra các mô thức rắc rối. Tính
đối xứng cũng là đặc trưng cơ bản của văn hóa phương tây, tối thiểu thì đó cũng
là một ẩn dụ về sự cân bằng và tính quy củ, chẳng hạn việc bố trí đăng đối của
những chiếc chìa khóa trong vở Đám cưới của
Figaro. Hơn nữa nó thường được gán cho các ý nghĩa, chuyển tải các thông
tin về các giá trị văn hóa cơ bản [Washburn and Crowe 1988].
Không
có gì đáng ngạc nhiên là nhận thức về tính đối xứng lại là tiêu điểm của nghiên
cứu tâm lý học trong hơn một thế kỷ nay [Wagemans 1996]. Nói chung ngày nay mọi
người đều chấp nhận, chẳng hạn, đối xứng gương nổi bật hơn đối xứng tịnh tiến
và đối xứng trục quay. Trong thực tế thì một số công trình cũng gợi ý rằng đối
xứng gương có thể được nhận ra một cách thường xuyên. Đối xứng gương cắt qua một
trục tung thì nổi bật hơn đối xứng gương cắt qua một trục hoành, với các hướng
nghiêng rơi vào một trục thứ ba ở xa. Bổ sung thêm cho các khái quát kinh nghiệm
này còn có các lý thuyết về tri giác về tính đối xứng, và nó vẫn còn là một hợp
phần của các lý thuyết tổng quát về tri giác [Tyler 1996]. Đối xứng cũng là một
tiêu điểm trong nghiên cứu tâm lý học tiến hóa, trong đó việc nhận biết tính bất
đối xứng được coi là một phương tiện đánh giá bạn đời [Gangestad 1997]. Tính phổ
biến của đối xứng gương trong thế giới tự nhiên và mối tương quan của nó với sự
phát triển của quá trình phát sinh cá thể thành công trong rất nhiều cơ thể sống,
vì vậy hoàn toàn không có gì đáng ngạc nhiên là các hệ thống tri giác đã tiến
hóa từ tính nhạy cảm đến tính đối xứng. Và cũng vì vậy mà tính nổi bật của tri
giác về tính đối xưngứng không phải là một đặc điểm phái sinh trong tri giác của
nhân loại, mà là một đặc điểm mà chúng ta có chung với nhiều hệ thống sống phức
tạp khác. Ở một mức độ nào đó, nó là chung, và liệu nó có tiến hóa độc lập
trong một vài thử thách hoặc thay vì lại là một đặc điểm rất cổ xưa chính là những
câu hỏi rất thú vị, nhưng điều đó lại hơi xa với chủ đề đang được thảo luận ở
đây. Bản thân hồ sơ khảo cổ học không xây dựng tư liệu về quá trình phát triển
của tri giác đối xứng. Thay vào đó nó xây dựng tư liệu về sự áp đặt của tính đối
xứng vào các đối tượng vật chất. Việc phát hiện ra tính đối xứng là chưa đủ đối
với nhiệm vụ này; cần phải sử dụng các cơ chế nhận thức khác nữa. Tầm quan trọng
của hồ sơ khảo cổ học về tính đối xứng nằm trong chính bản thân tính đối xứng, chứ
không phải trong những gì mà nó bộc lộ về các cơ chế khác ấy.
_______________________________
Nguồn: Wynn, Thomas 2002. Archaeology
and cognitive evolution, In Behavioral
and Brain Science, No. 25, 389-438.
Tác giả: Thomas
Wynn là giáo sư nhân học tại Đại học Colorado, Colorado Springs. Ông là một
trong số các nhà khảo cổ học đầu tiên làm sáng tỏ việc sử dụng các khái niệm
tâm lý học trong việc diễn giải các di tích khảo cổ học và đã công bố về các khả
năng nhận thức ngày càng sâu rộng về các hominids sớm.
* Ghi chú của người dịch: Trước Thomas Wynn
33 năm, GS. Hà Văn Tấn đã đặt ra và giải quyết hoàn hảo nhận thức của người Phùng Nguyên về tính đối xứng bằng một bài viết đạt tới giá trị kinh điển về vấn đề này. [Hà Văn Tấn 1969. Người
Phùng Nguyên và đối xứng. Tạp chí Khảo cổ học, số 3-4, Hà Nội, 1969.
Tài liệu dẫn
Bateson,
G. (1972) A re-examination of “Bateson’s Rule.” In: Steps to an ecology of mind.
Ballantine.
Gangestad,
S. (1997) Evolutionary psychology and genetic variation: Non-adaptive, fitness-related,
and adaptive. In: Characterizing human psychological adaptations, ed. G.
Bock & G. Cardew. Wiley.
Gangestad,
S. W., Thornhill, R. & Yeo, R. A. (1994) Facial attractiveness, developmental
stability, and fluctuating symmetry. Ethology and Sociobiology 15:73–85.
Gowlett,
J. (1979) Complexities of cultural evidence in the Lower and Middle Pleistocene.
Nature 278:14–17.
Gowlett,
J. A. J. (1996) Mental abilities of early Homo: Elements of constraint and choice
in rule systems. In: Modeling the early human mind, ed. P. Mellars &
Gowlett, J. (1979) Complexities of cultural evidence in the Lower and Middle Pleistocene.
Nature 278:14–17.
Gowlett,
J. A. J. (1996) Mental abilities of early Homo: Elements of constraint and choice
in rule systems. In: Modeling the early human mind, ed. P. Mellars &
K. Gibson. The McDonald Institute for Archaeological Research. [AN]
Holloway,
R. (1969) Culture: a human domain. Current Anthropology 10:395–412.
Holloway,
R. L. (1981) Exploring the dorsal surface of hominid brain endocasts by stereoplotter
and discriminant analysis. Philosophical Transactions of the Royal Society
of London Series B 292:3–5. [AHW]
1984.
The Taung endocast and the lunate sulcus: A rejection of the hypothesis of its
anterior position. American Journal of Physical Anthropology 64:285–88.
[AHW]
1985.
The past, present, and future of the lunate sulcus in early hominid evolution.
In: Hominid evolution: Past, present and future, ed. P. V. Tobias. Wiley-Liss.
[AHW]
1996.
Evolution of the human brain. In: Handbook of human symbolic evolution, ed.
A. Lock & C. R. Peters. Clarendon Press. [AHW]
Holloway,
R. L. & DeLaCoste-Lareymondie, M. C. (1982) Brain endocast asymmetry in
pongids and hominids: Some preliminary findings on the paleontology of cerebral
dominance. American journal of Physical Anthropology 58:101–11. [JMG]
Parker,
S. T. (1996) Apprenticeship in tol-mediated extractive foraging: The origins of
imitation, teaching, and self-awarness in great apes. In: Reaching into thought:
The minds of great apes, ed. A. Russon, K. Bard & S. T. Parker. Cambridge
University Press. [STP]
2000.
Homo erectus: A turning point in human evolution. In: Brains, bodies,
and behavior: The evolution of human development, ed. S. T. Parker, J. Langer,
& M. McKinney. School of American Research Press. [STP]
Parker,
S. T. & Gibson, K. R. (1979) A developmental model for the evolution of language
and intelligence in early hominids. Behavioral and Brain Sciences 2:367–408.
[STP, rTW]
Parker,
S. T. & Mckinney, M. L. (1999) Origins of intelligence: The evolution of
cognitive development in monkeys, apes, and humans. Johns Hopkins University
Press. [STP]
Parker,
S. T. & Milbrath, C. (1993) Higher intelligence, propositional language, and
culture as adaptations for planning. In: Tools, language, and cognition in human
evolution, ed. K. R. Gibson & T. Ingold. Cambridge University Press. [STP]
Thieme,
H. (1997) Lower Palaeolithic hunting spears from Germany. Nature 385:807–10.
[arTW]
Tyler,
C. W. (1996) Human symmetry perception. In: Human symmetry perception and
its computational analysis, ed. C. W. Tyler. VSP.
Wagemans,
J. (1996) Detection of visual symmetries. In: Human symmetry perception and
its computational analysis, ed. C. W. Tyler. VSP.
Wagemans,
J. 1997. Characteristics and models of human symmetry detection. Trends in Cognitive
Sciences 1:346–52.
Washburn,
D. K. & Crowe, D. W. (1988) Symmetries of culture: Theory and practice
of plane pattern analysis. University of Washington Press.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét