Các vùng đô thị toàn cầu - khuynh hướng, lý thuyết và chính sách (II)
Allen J. Scott, John Agnew, Edward
W. Soja, and Michael Storper
Người
dịch: Hà Hữu Nga
Các vùng đô thị với tư cách là các
đầu tàu kinh tế toàn cầu
Từ rất lâu
rồi người ta đã tiên đoán rằng các cải thiện về giao thông và công nghệ truyền
thông trong khuôn khổ của cả chi phí lẫn chất lượng chắc chắn sẽ làm rã hủy mọi
nhu cầu tập trung hóa đô thị. Với mỗi chu
kỳ thay đổi công nghệ trong lĩnh vực này, các học giả và các ký giả lại nói với
chúng ta rằng quá trình đô thị hóa trên quy mô lớn chỉ còn là sự kiện của quá
khứ. Nhưng với mỗi chu kỳ phát triển như vậy thì các thành phố không những
không biến mất mà lại càng trở nên rộng lớn hơn và quan trọng hơn. Đó là vì mặc dù các tiến bộ trong công nghệ giao thông và truyền
thông có khả năng tạo ra nhiều loại hình tương tác kinh tế và xã hội trên những
khoảng không gian ngày càng rộng lớn chưa từng có thì mặt khác chúng lại làm
tăng thêm nhu cầu về sự gần cận. Chìa khóa để nhận thức vấn đề này thực sự là ở
chỗ các hoạt động kinh tế khác nhau luôn được kết nối trong khuôn khổ của cái mà
chúng ta có thể gọi là các mối quan hệ giao dịch hoặc quan hệ mạng lưới với
nhau và với phần còn lại của thế giới.
Về đại thể có
hai loại hoạt động sản xuất điển hình trong bất kỳ hệ thống kinh tế tiên tiến
nào, trong đó mỗi hoạt động đều tương thích với một loại cấu trúc mạng về cơ
bản là khác biệt. Một mặt, bất kỳ loại sản xuất nào cũng đều phải được biến
thành thân thuộc: chúng dựa vào các loại hình tri thức đã được mã hóa tương đối
tốt, cũng như dựa vào máy móc và các quá trình thao tác trong đó sự lặp lại
chính là mô thức hành động thống trị. Trong khuôn khổ kinh tế, điều đó có nghĩa
là có thể xây dựng kế hoạch hành động theo kiểu này ở một mức độ đáng tin cậy
nhất định và có thể thực hiện được kế hoạch ở các quy mô rộng lớn. Vì vậy, các
nguyên liệu và đầu vào cần thiết được sử dụng cho sản xuất có thể kiếm được
theo một thời gian biểu nhất định và có thể mua được với khối lượng lớn. Điều
đó cũng có nghĩa là các nguyên liệu và đầu vào có thể mua được với giá rẻ đáng
kể, vì khả năng xây dựng kế hoạch và mua với khối lượng lớn có nghĩa là đơn giá
sẽ thấp. Trong các điều kiện đó, việc kết nối giữa các xí nghiệp có liên quan
về chức năng có thể tác động hạn chế hơn đối với các quyết định địa điểm, và
các xí nghiệp cũng sẽ tương đối tự do trong việc tìm kiếm được những địa điểm
rất xa nhau. Trong thực tế, và vì sản xuất được làm thành quen thuộc trong hệ
thống này, nên các vị trí được lựa chọn sẽ thường trùng khớp với các thị trường
lao động phổ thông giá rẻ, đôi khi rất xa các trung tâm độ thị chính.
Mặt khác
chúng ta thấy các ngành kinh tế hoàn toàn khác với các điều kiện sẵn có. Các
lĩnh vực kinh tế rộng lớn ngày nay liên quan đến các hoạt động với rất nhiều
bất chắc, và hạn chế rất nhiều năng lực của người sản xuất trong việc làm quen hoặc
đơn giản hóa các thao tác, đặc biệt là các tương tác chung. Chẳng hạn trong các
ngành công nghệ cao người sản xuất thường phải đối mặt không chỉ với những thay
đổi nhanh chóng trong bản thân các công nghệ cơ bản, mà còn phải đối mặt cả với
nhu cầu sản phẩm rất khác nhau của khách hàng tùy theo thời gian. Trong các
dịch vụ tài chính và kinh doanh ở cấp độ cao, việc thay đổi sản phẩm định hướng
khách hàng và định hướng dự án có nghĩa là các xí nghiệp phải được tổ chức sao
cho có thể phân biệt được tình trạng hỗn hợp của các kỹ năng và bản thân các
nguồn (đặc biệt là tài sản trí tuệ con người) và không phải lúc nào cũng sẵn có
vì chúng hoàn toàn chuyên môn hóa. Trong các ngành công nghệ đối mặt với thị
trường luôn giao động bới những thay đổi mẫu mã hoặc thị hiếu (hầu hết là các
quá trình phân biệt sản phẩm) thì xí nghiệp phải được chuẩn bị để thay đổi và
tái hợp thiết bị cũng như lao động và giám sát các thay đổi trên thị trường,
thường là hàng ngày.
Trong bối
cảnh đó, các xí nghiệp rất khó quen thuộc với mọi thao tác và kế hoạch hóa các
mối quan hệ với các xí nghiệp khác, và thậm chí ngay cả với người làm trong một
khoảng thời gian dài. Họ bắt đầu phải phụ thuộc vào các mạng lưới tạo thuận lợi
cho quá trình thay đổi và tái hợp trái ngược với các loại mạng lưới cứng nhắc chỉ
củng cố nhóm xí nghiệp đầu tiên. Tuy nhiên thay đổi và tái hợp là rất tốn kém vì
nó phụ thuộc rất nhiều vào việc tiếp cận với thông tin và các nguồn lực khác. Các
xí nghiệp cần phải biết rõ rất nhiều loại nhà cung cấp khác nhau và các cơ hội (biến
đổi) thị trường luôn sẵn có đối với họ. Nhân công cần phải biết rõ về các cơ
hội tìm việc làm khác nhau, nhất là ở nơi mà các thị trường lao động có tính
linh hoạt cao. Thông thường mặc dù có cuộc cách mạng tin học, nhưng tri thức
nằm trong các quá trình này vẫn hoàn toàn ngầm ẩn. Việc tìm kiếm được các tri thức
hữu dụng về phương diện kinh tế một cách hợp thời phụ thuộc vào các mối quan hệ
của con người và vào khả năng diễn giải thông tin theo những cách thức có ý
nghĩa. Đồng thời, ở những nơi mà tính linh động và quá trình chuyên môn hóa
kinh tế luôn hiện diện thì những biến động nhanh trong các mạng lưới giao dịch xảy
ra khi xí nghiệp đàm phán các hợp đồng mới hoặc tái cấu trúc các quan hệ mua
bán của họ và khi người làm thay đổi việc làm của mình. Nói tóm lại, đó là các
mạng lưới được đặc trưng bởi tính bất chắc, tính không ổn định và tính phức tạp
ở mức độ cao. Trong bối cảnh đó, các chi phí giao dịch tăng lên đáng kể theo
khoảng không gian, và với sự phân tán về mặt địa lý của các nhà sản xuất thì
tính không hiệu quả sẽ nhanh chóng xuất hiện.
Đồng thời các
nhà sản xuất trong các ngành công nghiệp này có được các lợi thế cạnh tranh to
lớn từ sự đồng hiện diện của chúng trong các mạng lưới giao dịch dày đặc bắt
đầu nảy sinh khi người ta thực hiện các giao dịch mua bán, thuê mướn nhân công
từ các thị trường lao động địa phương, tham gia vào các tổ chức thương mại chính thức và không chính thức,
v.v...Các mạng lưới này ẩn chứa một bầu không khí phong phú trong sự thay đổi
thường xuyên của các thực thể thông tin (đa phần là không chính thức) về các
công nghệ, thị trường, và mẫu mã sản phẩm. Theo đó, chúng giúp nuôi dưỡng tính
sáng tạo kinh tế và đổi mới nhiều loại ngành nghề, đặc biệt bao gồm cả một số đỉnh
cao năng động hàng đầu về kinh tế đương đại chẳng hạn như khu vực công nghệ
cao, các khu vực dịch vụ, và các ngành công nghiệp văn hóa.
Kể từ sau Thế
chiến II đến những năm 1970, hầu hết các nền kinh tế tư bản chủ yếu dường như vẫn
vận động một cách chắc chắn hướng đến quá trình thuần thục hóa các thao tác sản
xuất, đặc biệt trong các ngành gia công. Tuy nhiên, vì hàng loạt lý do , bắt
đầu bằng cuộc khủng hoảng kinh tế trong những năm 1970, các môi trường kinh tế
có khuynh hướng trở nên ngày càng ít bền vững hơn, buộc các xí nghiệp thuộc
nhiều ngành kinh tế phải chấp nhận các công nghệ và các mô hình tổ chức linh
hoạt hơn. Hơn nữa các công nghệ mới về kỹ thuật số giờ đây đã luôn cổ vũ cho
quá trình giải tiêu chuẩn hóa các quá trình sản xuất, hệt như việc tăng thu
nhập và sự sinh sôi của các trung tâm thị trường kích thích cho việc tìm kiếm nhiều
loại sản phẩm khác nhau. Với tất cả các lý do đó loại sản xuất thứ hai được mô
tả ở trên đã bắt đầu lan tỏa, nếu không nói là thống trị trong các xã hội tư
bản tiên tiến, đến mức là các thị phần ngày càng quan trọng của sản phẩm và
việc làm đang được giải thích bằng các hệ thống sản xuất hoặc các chuỗi giá trị
cấu trúc mạng linh động
Các lập luận
này dẫn đến một câu hỏi thiết yếu về các mối quan hệ giữa các hệ thống mạng
linh động này và các thành phố lớn, và câu hỏi này về cơ bản cũng xoay quanh vấn
đề về năng suất việc thực hiện và đổi mới kinh tế. Một mặt các xí nghiệp và các
tác nhân khác nhau tham gia vào các mạng lưới này, tất cả đều được quảng bá
rộng khắp về hiệu quả của mình bởi vì họ đã trở thành một bộ phận của các cụm liên
kết chặt chẽ và tập trung về không gian, không chỉ vì việc tập trung thành cụm giúp
giảm thiểu đáng kể các chi phí giao dịch, mà còn vì tính linh động và hiệu quả
thông tin mà các cụm xí nghiệp đem lại. Ngoài ra tính sáng tạo và đổi mới trong
hệ thống sản xuất đó cũng tiến triển đáng kể, một phần là nhờ tính đa dạng của
vô số kỹ năng, tính nhạy bén và các kinh nghiệm phong phú hàm chứa trong lực
lượng lao động, mà một phần còn vì sự kết tụ của các nhà sản xuất liên lập tại
một địa điểm làm tăng thêm khả năng của các cuộc đọ sức làm nảy sinh vô số tri
thức và sáng kiến mới rất hữu dụng về phương diện kinh tế. Hơn nữa các xí
nghiệp có khả năng to lớn trong việc tiếp cận với vô số nhóm cung và các cơ hội
kinh doanh khác nhau so với khi họ đặt trụ sở tại những vị trí riêng rẽ. Năng
lực của vô số lao động cũng như nhà cung cấp địa phương cho phép các xí nghiệp
trở nên linh động và tự do hơn trong việc đầu tư vào vô số hàng hóa khác nhau
trong tình trạng khủng hoảng cao của các chuỗi cung ứng hoặc các đầu ra cho sản
phẩm. Tổng cộng các khoản phí tổn có thể được duy trì ở mức tương đối thấp vì
thiết bị và hàng hóa có sẵn trong sự cộng tác mang tính tập thể thành mạng lưới
của các nhà sản xuất. Người lao động cũng có khả năng cao hơn trong việc tìm
kiếm thông tin về thị trường lao động cũng như tăng khả năng tiếp cận đối với
các cơ hội việc làm, vì vậy mà tăng khả năng thay đổi việc làm hoặc tìm được
những việc làm mới trong thời gian họ bị mất việc. Tất nhiên nền kinh tế đương
đại cũng còn được đánh dấu bởi các quan hệ cung ứng và tuyển dụng từ những
khoảng không gian rất xa nhưng được phát triển hoàn hảo. Nhưng thông thường,
như chúng ta thấy, các mối quan hệ này cũng nuôi dưỡng cho các mạng lưới sản
xuất đã địa phương hóa rất cao.
Vì vậy năng
suất và hiệu xuất của việc tập trung hóa đô thị được tăng lên theo hai cách. Trước
hết, quá trình tập trung hóa đảm bảo hiệu quả tổng thể của hệ thống kinh tế. Thứ
hai, nó thúc đẩy tăng cường tính sáng tạo, việc học tập và đổi mới bằng cả tính
linh hoạt của nhà sản xuất nhờ các luồng tri thức và ý tưởng khổng lồ xuất hiện
cùng các liên kết giao dịch trong các mạng lưới công nghiệp địa phương hóa. Có
thể thấy rất rõ các mạng lưới điển hình như vậy trong các vùng hạch kinh tế của
các vùng đô thị toàn cầu chủ yếu của thế giới ngày nay, và trong nhiều trường
hợp chúng đã tạo lập cơ sở cho các chu kỳ phát triển đô thị mới rất to lớn. Hơn
nữa, các nền kinh tế của các vùng này ngày càng gắn bó chặt chẽ với các thị
trường thế giới vì vậy mà góp phần thúc đẩy hơn nữa quá trình tăng trưởng, cổ
vũ mạnh mẽ các nhà sản xuất chuyên môn hóa xuất hiện trong bất kỳ mạng lưới nào.
Các sản phẩm điện ảnh của Hollywood, sản phẩm bán dẫ của Thung lũng Silicon,
các dịch vụ ngân hàng tài chính của New York và London, các sản phẩm thời trang
Paris, tất cả đều đại diện cho các mạng lưới sản xuất theo cụm rất linh hoạt và
gắn liền sự thịnh vượng của mình với nhu cầu thị trường thế giới. Các ví dụ
khác gồm có công nghiệp cơ khí ở các vùng Baden-Würtemburg và Bavaria, các ngành
công nghiệp dựa trên cơ sở thủ công với các xí nghiệp nhỏ Bắc Italia, công
nghiệp trang sức Bangkok, các xí nghiệp sản xuất đồ gỗ Guadalajara, Mexico. Theo
cách đó, các vùng đô thị toàn cầu đã bắt đầu ngày càng vận hành với tư cách là những
mạng lưới địa phương năng động của các mối quan hệ kinh tế đan dệt thành một mạng
lưới cạnh tranh và trao đổi liên vùng khổng lồ trên toàn thế giới.
Chắc chắn mô
tả này mới chỉ là xuất phát điểm cho một phân tích đầy đủ hơn về cấu trúc kinh
tế của các vùng đô thị toàn cầu. Nhưng vấn đề mấu chốt để nhận thức lý do tại
sao trong một kỷ nguyên thiên giảm chi phí giao thông và truyền thông, mà chúng
ta vẫn thấy có một thế giới được tổ chức
xung quanh các vùng đô thị rộng lớn (chứ không phải là mô thức truyền bá
ra các vị trí) nằm trong các cung cách mà các nền kinh tế của các vùng này đã
bắt đầu gắn kết chặt chẽ trong và với các cụm mạng lưới xí nghiệp linh động cạnh
tranh mạnh mẽ trong các thị trường ngày càng mở rộng.
_____________________________________
Nguồn: Allen J. Scott (Eds.) 2002. Global City-Regions – Trends, Theory, Policy.
Oxford University Press.
Tác giả:
Allen J. Scott: giáo sư địa lý và chính sách công
Đại học California, Los Angeles, sinh năm 1938 tại Liverpool, Anh quốc, tốt
nghiệp St John's College, Oxford University năm 1961. Nhận học vị Tiến sỹ tại
Đại học Northwestern năm 1965. Ông giảng dạy tại các Đại học Pennsylvania, Đại
học College London, Đại học Toronto, Đại học Paris, Đại học Hong Kong, và từ
1981 là Đại học California, Los Angeles, nơi ông được vinh phong là giáo sư
kiệt xuất.
John A.
Agnew: sinh năm
1949, là một nhà địa chính trị
lỗi lạc của thế giới Anh-Mỹ, tốt nghiệp Đại học Exeter và Liverpool, Anh quốc
và Đại học Ohio Hoa Kỳ. Ông được vinh phong giáo sư kiệt xuất về địa lý của Đại
học California, Los Angeles, UCLA. Ông giảng dạy về địa chính trị, lịch sử địa
lý, các đô thị Châu Âu và Thế giới Địa Trung Hải. Từ 1998 – 2002 ông là chủ
nhiệm Khoa Địa lý tại UCLA. Hiện nay ông là tổng biên tập của Tạp chí Territory, Politics, Governance của
Routledge.
Edward W. Soja: sinh năm 1940 tại Bronx, New York
City, là một nhà địa chính trị hậu hiện đại và nhà quy hoạch đô thị tại UCLA.
Ông được vinh phong giáo sư kiệt xuất
về quy hoạch đô thị của Đại học California, Los Angeles, UCLA và của Đại học
Kinh tế London. Ông có những đóng góp to lớn về lý thuyết không gian và địa văn
hóa theo quan điểm của nhà xã hội học đô thị Marxist Pháp Henri Lefebvre, tác
giả của công trình Sản xuất Không gian
1974. Soja tập trung chủ yếu vào việc phân tích phê phán hậu hiện đại về
không gian và xã hội, mà ông gọi là không gian tính đối với con người và các vị
trí của Los Angeles.
Michael Storper: là giáo sư quy hoạch đô thị của Đại học California, Los Angeles, UCLA, chuyên
về địa kinh tế như là những lực lượng tác động đến cách thức tổ chức kinh tế
theo không gian địa lý; toàn cầu hóa với tư cách là quy mô của các quá trình
kinh tế và những quá trình biến đổi kèm theo trong quản lý công ty, các thị
trường và các thể chế vận hành; công nghệ như là một lực lượng cấu trúc
đại kinh tế và toàn cầu hóa, thay đổi công nghệ là động cơ chủ chốt của địa lý,
vì nó làm thay đổi cấu trúc chi phí giao thông và chi phí thương mại; các vùng
đô thị toàn cầu, nơi tập trung các hoạt động về phương diện địa lý, là động cơ
chủ chốt cho các cấu thể và vận hành các nền kinh tế các vùng đô thị; phát
triển kinh tế trên cơ sở địa lý là cách kiểm soát mạnh mẽ quá trình phát triển
kinh tế. Ông là Tiến sỹ danh dự của Đại học Utrecht, Hà Lan năm 2008, và Viện
sĩ Viện Hàn lâm Anh quốc năm 2012.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét