Powered By Blogger

Thứ Ba, 25 tháng 3, 2025

Kinh tế học Phật giáo - Trung đạo trong Thương trường (VII)

Ven. P.A. Payutto

Người dịch: Hà Hữu Nga

Chủ Nhật, 22 tháng 7, 2012

Chương 4: Vai trò của sự thịnh vư­ợng trong Phật giáo

Mặc dù Phật giáo đ­ược đặc tr­ưng nh­ư một tôn giáo khổ hạnh, thì chủ nghĩa khổ hạnh thực sự đ­ược trải nghiệm với và bị chối bỏ bởi Đức Phật trư­ớc khi ngài đại ngộ. Chừng nào Phật giáo còn đư­ợc quan tâm thì ý nghĩa của từ “chủ nghĩa khổ hạnh” thật là mờ mịt và không nên được sử dụng mà không có sự định tính. Thuật ngữ “nghèo khổ” cũng làm cho ngư­ời ta lầm đ­ường lạc lối. Các khái niệm Phật giáo quen thuộc là mãn nguyện (santutthi) hay tiết dục (appicchata). Nghèo khổ (dadiddiya) trong Phật giáo không bao giờ đ­ược cổ vũ hay ngợi ca. Vì Đức Phật đã nói “Đối với các gia đình trên thế gian này, nghèo đói là khổ” [A.III.350]; “Điều tồi tệ trên thế gian này là nghèo khổ và nợ nần” [A.III.352].
 
Thực tế thì việc sở hữu của cải bởi bất cứ ai cũng đều đ­ược ca ngợi và cổ vũ trong Kinh Pali, khi xác định rằng của cải là một cái gì đó phải đ­ược tìm kiếm. Trong các giới luật của Đức Phật với các c­ư sĩ, thì hữu ích nhất và đ­ược ca ngợi nhiều nhất phần lớn là những ng­ười có tài sản, ví dụ như­ Cấp Cô Độc (Anathapindika) chẳng hạn. Ngay cả các nhà sư­ là những ng­ười không mong cầu tìm của cải, là ng­ười th­ường xuyên đ­ược nhận các đồ cúng dư­ờng thì thỉnh thoảng cũng vẫn được coi là một phẩm chất tốt. Nhà sư­ Sivali chẳng hạn, đã đư­ợc Đức Phật ca ngợi như­ là một trong số “những con ngư­ời xứng đáng nhất đư­ợc nhận đồ cúng dư­ờng”. Tuy nhiên những bình luận này cần phải đư­ợc giải thích rõ.
 
Chủ đề chính trong các kinh bổn Phật giáo là ở chỗ không phải của cải đư­ợc ngợi ca hoặc phiền trách, mà là cái cách kiếm đ­ược và sử dụng của cải. Đối với các nhà s­ư, như­ đã đề cập đến ở trên, không phải là cách đạt đư­ợc của cải như­ vậy bị khiển trách, cũng không phải sự nghèo khổ là cái đư­ợc ngợi ca. Những phẩm cách đáng bị quở trách là lòng tham, sân, si trong việc giành được và tích trữ của cải. Việc tìm kiếm của cải là có thể chấp nhận nếu nh­ư nó hữu ích cho việc thực hành chính đạo hoặc nếu nó làm lợi cho các thành viên của Tăng đoàn. Như­ng như­ vậy không có nghĩa là các nhà s­ư nên có của cải riêng.
 
Chừng nào đ­ược Vinaya hoặc Giới Luật tự viện cho phép thì việc có của riêng mới có thể biện hộ đ­ược nếu những của cải đó thuộc về cộng đồng tự viện, nh­ưng nếu một nhà s­ư giàu có bằng những món sở hữu cá nhân thì đó chính là bằng chứng về lòng tham lam và luyến tiếc của ông ta và nh­ư vậy là ông ta không xứng với các giáo lý nhà Phật. Hành động đúng đắn của các nhà s­ư là không sở hữu cái gì ngoài những nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống. Vấn đề ở đây không phải là ông ta trở nên giàu hay nghèo, mà là cần có một chút  chăm sóc cá nhân, di chuyển thoải mái, tinh thần mãn nguyện và một chút ư­ớc muốn, và vì cuộc sống của nhà sư­ là tuỳ thuộc vào sự cúng dư­ờng của ngư­ời khác, nên tự bản thân mình phải thanh thản để độ ngư­ời. Vì luôn luôn nay đây mai đó và hầu như­ không có sự chăm sóc cá nhân nên các nhà s­ư có thể giành hầu hết thời gian và công sức cho sự hành thiện của họ dù đó là vì công quả cá nhân họ hay vì xã hội.
 
“Nhà sư­ mãn nguyện với mấy bộ y để che chở thân thể và khất thực khẩu phần  vừa đủ cho nhu cầu cơ thể mình. Dù đi bất kỳ nơi đâu ông ta cũng có thể chỉ đem theo mấy thứ đó bên mình, giống nh­ư một con chim có đôi cánh, có thể bay đến bất cứ nơi đâu, cũng chỉ phải đem theo đôi cánh của mình” [A.II.209]. Vậy thì đó là sự mãn nguyện và sự tiết chế ư­ớc muốn luôn luôn đi liền với lời nguyện cho sự tinh tiến của điều thiện và từ bỏ điều ác. Đó chính là những phẩm chất đư­ợc ca ngợi. Thậm chí ngay cả sự mãn nguyện và một vài ư­ớc nguyện ít ỏi cũng phải được tiết chế, có nghĩa là chúng phải đư­ợc đi kèm với sự nỗ lực và sự siêng năng, chứ không phải là bởi tính tự mãn và sự vô công rồi nghề. Nhà s­ư tự bằng lòng với bất cứ cái gì mà ông ta có đ­ược sao cho ông ta có thể cống hiến nhiều hơn thời gian và công sức của mình cho sự tinh tiến cá nhân và lợi lạc cho người khác. Nói cách khác, trong khi rất cần có được nhiều của cải thì chính điều đó lại là không tốt nếu như ông ta sở hữu và tích trữ các của cải đó. Vì vậy cách tốt nhất là có được càng nhiều thì phải cho càng nhiều.
 
“Này, chúng tăng, một nhà sư cần phải thỏa nguyện với bất cứ nhu yếu nào dù đó là quần áo, đồ ăn khất thực, một nơi trú ngụ hoặc một chút thuốc thang mà ông ta kiếm được. Hỡi chúng tăng, một nhà sư liên tục tinh tiến để đoạn diệt các điều bất thiện bằng cách kiên tâm tinh tiến bằng điều thiện và không bao giờ rời bỏ giới luật”. [D.III.226, 296; A. V.23]

Một con đường thì dẫn đến của cải, còn con đường kia thì dẫn đến Niết Bàn. Nếu một nhà sư là môn đệ của Phật, đã học được điều này, thì ông ta sẽ không khát khao vinh quang, mà sẽ tu dưỡng mình ở một nơi vắng vẻ” [Dh.75].

Đối với người thế tục, như đã nói ở trên, không có một ví dụ nào nói rằng nghèo đói được khuyến khích. Ngược lại, nhiều đoạn trong Kinh Phật chủ chương cổ vũ người thế tục tìm kiếm và tích trữ của cải bằng cách chân chính. Trong số những quả nghiệp tốt có cả sự giàu sang [3]. Điều bị quở trách liên quan đến giàu sang chính là cung cách đạt tới sang giàu một cách bất lương. Lời quở trách này là đáng khi người ta kiếm được của cải để rồi trở thành nô lệ cho của cải và cuối cùng phải đau khổ vì của cải. Tương tự như vậy, việc làm giàu phi pháp cũng mắc tội và đáng trách không kém gì việc tích lũy của cải theo cách keo kiệt, và không bao giờ dám bỏ ra để làm phúc hoặc đem lại phúc lạc cho thân bằng quyến thuộc hoặc những người khác. Trái lại, sự phung phí của cải một cách ngu ngốc hoặc hoang tàng hoặc để gây đau khổ cho người khác cũng bị phê phán:

“Hỡi chư tăng, nếu thế gian biết như ta biết về những công quả chung thì người ta sẽ không thọ dụng một mình những công quả chung đó, người ta cũng sẽ không thọ dụng vật ô uế của sự keo kiệt. Ngay cả khi chỉ còn một chút cuối cùng, một mẩu thức ăn cuối cùng thì họ cũng sẽ không thọ dụng mà không chia sẻ cho kẻ khác nếu như có ai đó để mà chia sẻ” [It.18].

Những người giàu sang tốt bụng và đáng ca ngợi là những người tìm kiếm của cải theo cách chính trực và thọ dụng nó để hành thiện và đem lại phúc lạc cho cả họ lẫn người khác. Theo cách đó, nhiều đệ tử của Đức Phật đã cúng dường nhiều hoặc hầu hết của cải để hộ trì tăng đoàn và để xóa bỏ đói nghèo và khổ đau. Chẳng hạn, phú hộ Cấp Cô Độc (Anathapindika) được Kinh Pháp cú (Dhammapada) ghi lại là hàng ngày đã tiêu một phần lớn tiền của để nuôi một tăng đoàn hàng trăm vị cùng với hàng trăm người nghèo khổ. Tất nhiên trong một xã hội lý tưởng dưới sự cai trị của một quân vương chính trực và tài năng, với một nền cai trị hiệu quả, thì sẽ không còn người nghèo, vì chí ít thì tất cả mọi người cũng đều đủ ăn, và các nhà sư sẽ chỉ là một cộng đồng tách riêng, được nuôi dưỡng bằng khoản thặng dư của xã hội thế tục.

Vì vậy, trái ngược với sự hình dung của đại chúng về Phật giáo như một tôn giáo khổ hạnh, Kinh Phật thừa nhận vai trò của tiện nghi vật chất trong sự tạo ra hạnh phúc. Tuy nhiên Phật giáo nhắm vào sự phát triển tiềm năng của con người, và về phương diện này, sự thịnh vượng về mặt vật chất được coi là thứ sinh. Một họat động kinh tế sinh lợi có ích cho sự thịnh vượng có thể đóng góp cho sự phát triển của con người – sự tích lũy của cải cho mục đích riêng không thể làm được.

Chính mệnh

Chính mệnh là một nhân tố trong Bát chính đạo. Nó không được quyết định bởi lượng của cải mà nó sản xuất ra mà đúng ra là được quyết định bởi sự thịnh vượng mà nó tạo ra. Nhiều sinh kế tạo ra thặng dư của cải đã nuôi dưỡng những khát vọng chứ không phải là cung cấp cho bất cứ một nhu cầu thực sự nào. Đối với cá nhân, mục tiêu của sinh kế là đạt được bốn nhu cầu thiết yếu trong sự tồn tại của con người: lương ăn, quần áo, một mái nhà che thân, và một chút thuốc thang. Hơn nữa việc có được tứ yếu phẩm này dù là với số lượng đủ hoặc thừa thì đó  cũng không phải là mục đích tối hậu. Tứ yếu phẩm chỉ là cơ sở cho những nỗ lực để thực hiện những mục tiêu cao hơn.

Một số người mãn nguyện với một số của cải và chỉ cần một lượng của cải tối thiểu để dành năng lượng cho sự tinh tiến tinh thần và tâm linh. Những người khác không thể sống hạnh phúc với một lượng của cải nhỏ bé như vậy; họ phụ thuộc nhiều vào các sản phẩm vật chất. Tuy nhiên chừng nào sinh kế của họ không bóc lột những người khác thì Phật giáo không lên án sự giàu có của họ. Hơn nữa những ai có thiên hướng từ tâm có thể sử dụng tài sản của họ bằng những cách thức lợi lạc cho xã hội như một tổng thể.

Trái ngược với các giá trị đô thị đương đại, Phật giáo không đo lường giá trị của một con người hoặc một dân tộc bằng sự thịnh vượng của cải. Phật giáo cũng không ngả sang một thái cực trái ngược như các nhà tư tưởng Marxists đã thực hiện và lên án sự tích lũy của cải như một hành động xấu trong chính bản thân hành động ấy. Thay vào đó, Phật giáo đã xác định giá trị đạo đức của sự giàu có bằng những cách mà của cải đã được tích lũy và được đem ra sử dụng.

Tính bủn xỉn

Việc kiếm được của cải bằng những cách thức vô đạo và sử dụng nó cho những mục đích có hại là hai hành động tội lỗi gắn liền với sự giàu có. Vấn đề thứ ba là tích trữ của cải – bằng cách chối từ việc chia sẻ của cải với người khác hoặc đưa nó vào mục đích sử dụng chính đáng. Trong câu chuyện dưới đây, Đức Phật đã kể lại chi tiết tội lỗi của sự bủn sỉn như sau:

Một lần vua Ba Tư  Nặc Câu Tát La (Pasenadi Kosala) viếng thăm Đức Phật. Nhà vua nói với Đức Phật rằng có một người già giàu có nhưng bủn sỉn vừa mới chết mà không thừa kế cho ai khoản tài sản khổng lồ của mình, và nhà vua đã đến giám sát việc trao khối tài sản đó vào ngân khố của vương quốc. Vua Ba Tư Nặc mô tả khối tài sản mà ông đã phải thu về: tám triệu đồng tiền vàng, không kể các loại tiền bằng bạc nhiều không đếm xuể. Và ông nói khi người phú hộ già bủn xỉn đó còn sống, ông ta chỉ ăn cơm tấm với nước dấm, mặc ba mảnh vải thô khâu tay, dùng một chiếc xe ọp ẹp để đi lại, và che nắng bằng mấy tàu lá.

Nhận xét của Đức Phật:

“Thế đấy, bẩm Đức Vua. Con người ngớ ngẩn đó kiếm cho bằng được của cải mà không dùng cho bản thân, cũng không chia sẻ cho người thân, cha mẹ, vợ con, người hầu kẻ hạ, bạn bè, tòng thuộc. Ông ta không hề dâng tặng đống của cải quá lớn, nó vốn có thể đem lại lợi lạc cho đời sống tâm linh, phúc lạc cho trần thế, cho chư thiên, và cho các thầy tu hành khất. Số của cải không hề được tiêu dùng và không được ông ta sử dụng đó đã bị các vua chúa sung công, bị kẻ cắp ăn trộm, bị lửa thiêu cháy, bị chôn vùi trong lũ lụt, hoặc bị trao vào tay những kẻ bất xứng. Số của cải của ông ta đã được tích lũy nhưng lại không được sử dụng đã bị biến đi không mục đích. Số của cải của ông ta giống như một hồ nước trong rừng, trong sạch, mát lành nhưng lại chỉ có lũ quỉ tận hưởng chúng. Không ai được uống, không ai được tắm rửa hoặc sử dụng hồ nước đó.

Nếu là một con người khôn ngoan khi có được của cải, ông ta tiêu dùng cho chính bản thân mình, cho mẹ cho cha, cho vợ con, thân hữu, cho kẻ hầu người hạ một cách đầy đủ. Nếu ông ta cúng dường thì đó chính là một công quả lớn, đem lại phúc lạc cho mình, cho mọi người, cho chư thiên, cho các thầy tu hành khất. Số của cải mà ông ta có, nếu được sử dụng chính trực thì sẽ không bị các vua chúa xung công, không bị kẻ cắp ăn cắp, không bị lửa thiêu ra tro, không bị bão lũ cuốn trôi, không bị rơi vào tay những kẻ bất xứng. Nếu số của cải đó được sử dụng một cách chính trực thì nó sẽ không biến đi một cách vô ích. Của cải của ông ta giống như một hồ nước trong rừng, cách xa làng mạc, thị thành, trong lành, mát mẻ, hữu ích. Mọi người có thể uống đã cơn khát, tắm rửa thỏa thích hoặc mặc sức dùng theo ý muốn lợi lạc.

“Kẻ ác, có được của cải đã không sử dụng nó lại cũng không cho ai sử dụng nó, giống hệt như một hồ nước trong một khu rừng ma – nước không được dùng để uống, và không ai dám sử dụng nước ở đó. Người trí có được của cải vừa sử dụng nó, lại vừa dùng để lợi lạc cho người. Một con người như vậy là người mẫu mực, ông ta vừa phù trì cho người thân lại vừa không bị mọi người quở trách. Người ấy đáng được sống cùng thiên giới” [S.I.89-91]. 

 “Thưa quân vương, những người nào khi có được một khối của cải lớn mà không bị nó đầu độc dẫn đến sự lơ là và sự mê đắm khinh xuất để gây hại cho người khác trên thế gian này thì thật là hiếm thấy; những người nào khi có được một khối của cải lớn mà không bị nó đầu độc, không dẫn đến sự lơ là và sự mê đắm khinh xuất để gây hại cho người khác trên thế gian này thì thật sự là một con số còn quá nhỏ” [S.I.74].

Trong các Bộ kinh Phật người keo kiệt còn được ví với một loài chim được gọi là “mayhaka” sống trên cây vả. Trong khi tất cả những con chim khác sống thành đàn trên cây và cùng nhau ăn quả vả, thì con chim kia lại đậu đơn lẻ một mình và kêu “mayham, mayham” (của ta, của ta) [J.III.299-302].

Nói tóm lại, những hành động độc ác gắn liền với của cải có thể xuất hiện dưới ba dạng: làm giàu một cách bất lương; hoặc vô đạo; tích trữ của cải vì mục đích riêng; và sử dụng của cải một cách tàn hại.

Tìm hiểu những giới hạn của giàu có

Những người giàu có đức hạnh sử dụng của cải của mình để làm nhiều việc thiện cho bản thân họ và cho người khác, nhưng trí nhân chân chính hiểu rõ rằng bản thân của cải không thể làm cho họ được giải thoát. Trong những đoạn trích dẫn dưới đây, Đức Phật đã cắt nghĩa về những hạn chế của của cải và chủ chương khuyến khích chúng ta cố gắng đạt tới những gì cao cả hơn những sở hữu vật chất kia.

“Nghiệp, trí, phẩm chất, đạo đức và cuộc sống lý tưởng: tất cả đều là phương tiện để định giá sự thuần khiết của một con người, chứ không phải là của cải hoặc danh tính” [4].

“Ta thấy trong thế gian này những người giàu có thay vì chia sẻ của cải cho những người xung quanh, thì lại trở thành nô lệ của của cải; họ tích trữ của cải và ngày càng mãn nguyện vì của cải”.

“Các vị quân vương chinh phục các vùng đất mới, thống trị những lãnh địa trải dài từ bờ biển này đến bờ biển kia nhưng họ lại không bao giờ thỏa nguyện được với giới hạn của bờ biển dưới quyền mình – họ mong muốn giới hạn ấy mở sang cả bờ bên kia nữa. Cả các vị quân vương cũng như những người dân thường đều phải chết trong ham muốn không cùng của dục vọng và thèm khát. Họ xả thân vì những thèm khát không cùng. Trên đời này không gì có thể thỏa mãn được những dục vọng về cơn khát vật chất”.

Khi người thân nhắm mắt xuôi tay từ giã cuộc đời này, chúng ta thường than van: “Ôi giời ơi, nỡ lòng nào người bỏ chúng tôi mà đi”. Chúng ta cuốn thi thể người thân bằng manh chiếu, đặt trên dàn và thiêu; chúng ta chất thêm củi đốt cho đến khi thi thể ấy ra tro. Tất cả những gì mà con người ấy có thể mang theo chỉ là manh chiếu đã biến thành tro bụi, còn bao nhiêu của cải đều gửi lại thế gian”.

“Khi thời khắc cuối cùng đã định, thì không có bất cứ ai, không thân bằng quyến thuộc nào có thể ngăn được cái điều tất yếu phải xảy ra kia. Toàn bộ của cải đã đành phải để lại, trong khi người chết buộc phải ra đi theo nghiệp của mình. Khi thời khắc đã điểm, ta chẳng thể đem theo được bất cứ vật gì ngay cả chồng, cả vợ cả con, cả đất đai, tiền bạc. Trường thọ không thể có được nhờ của cải, tuổi già không thể xua đi được nhờ của cải. Người trí hiểu rằng cuộc đời này quá ngắn ngủi, bất định, vô thường”.

“Cả người giàu lẫn kẻ nghèo đều phải trải qua mọi ái ố hỉ nộ;  cả người ngu lẫn kẻ trí đều phải trải nghiệm nó. Nhưng kẻ ngu, vì không có trí khôn nên nên bị nó đánh bẫy và cuốn đi. Trong khi đó kẻ trí mặc dù trải qua mọi cảm giác kia nhưng anh ta không lay động. Vì vậy trí tuệ vẫn giá trị hơn của cải, vì nó đưa ta đến những mục đích sống cao cả hơn” [M.II.72-3; Thag.776-784].

Thái độ tinh thần đối với của cải

Một cư sĩ tại gia không chỉ kiếm tìm của cải đúng luật và tiêu dùng của cải đó vì mục đích lợi lạc, mà còn biết thọ dụng sự giải thoát về tinh thần, bằng cách không tham luyến của cải, không đắm chìm cùng của cải, không trở thành nô lệ cho của cải. Đó chính là nơi trần thế và siêu thoát gặp cùng. Đức Phật đã phân người trần (kamabhogi – Dục ái, kẻ tham đắm dục lạc) thành nhiều cấp độ khác nhau theo phương tiện luật pháp: làm giàu theo đúng pháp luật hay phi pháp, tiêu dùng của cải vì hạnh phúc của mình và của người khác hay là thái độ tham lam keo kiệt hoặc trí huệ khôn ngoan, không bị của cải giàng buộc. Loại người cao thượng nhất là người thụ hưởng cuộc sống cả ở nhân giới lẫn thiên giới như sau đây:

Trần thế:

1. Tìm kiếm sự thịnh v­ượng một cách hợp pháp và lư­ơng thiện

2. Phù hợp với nhu cầu riêng

3. Chia sẻ với ng­ười khác và thực hành những hành động chính đáng

Thiên giới:

4. Thọ dụng của cải như­ng phải tránh hoạ tham, sân, si và thủ của đặng để đảm bảo tự do tinh thần.

Một ng­ười như­ vậy đư­ợc gọi là Chính môn đệ tinh tiến hư­ớng đến quả vị Arahan (La Hán). Đặc biệt đáng l­ưu ý ở đây là tính t­ương hợp giữa các phạm vi trần thế và siêu vư­ợt của đời sống kết hợp để tạo nên tổng thể thống nhất của đạo đức học Phật giáo, là một đạo đức học chỉ thành tựu khi đ­ược thống nhất với phạm trù siêu v­ượt.

Tuy nhiên, dù là đại hữu ích, như­ng không nên gán cho của cải một tầm quan trọng thái quá. Các hạn chế của nó liên quan đến việc thực hiện mục đích Niết Bàn cũng nên đ­ược thừa nhận. Dẫu ở cấp độ trần gian nghèo khó là một thứ cần phải tránh, nh­ưng một ng­ười nghèo vẫn không hoàn toàn bị tư­ớc đoạt phư­ơng tiện để hành thiện cho bản thân hoặc xã hội. Thập công đức có thể bắt đầu bằng cho, như­ng còn có cả thực hiện đạo đức, tinh tiến phẩm hạnh tinh thần, giúp đỡ ng­ười khác, và thuyết Pháp. Vì nghèo khổ nên ng­ười ta có thể quá bận tâm đến cuộc mưu sinh, làm bất cứ việc gì cho thành công riêng của mình, nh­ưng khi các nhu cầu cơ bản của đời sống đã đ­ược thoả mãn nếu một ng­ười có phẩm hạnh và có động cơ tinh thần thì không có lý do gì lại không thực hiện đ­ược quả vị La Hán. Trong khi tài sản như­ là một nguồn để đạt đ­ược điều thiện cho xã hội có thể giúp tạo ra những hoàn cảnh nh­ư ý để thực hiện quả vị La Hán thì cuối cùng đó cũng là độ chín muồi tinh thần và trí tuệ, chứ không phải là của cải hiện thực hoá đư­ợc quá trình đó. Tài sản bị sử dụng sai và bị lạm dụng không chỉ gây trở ngại cho sự phát triển cá nhân, mà có thể còn có thể làm hại xã hội nữa.

“Của cải tàn phá kẻ ngu, nhưng không động được đến người tìm kiếm mục đích cao cả” [Dh.335].

Một cuộc sống tự do – là cuộc sống không quá phụ thuộc vào của cải vật chất – là một cuộc sống không chím đắm trong vật chất. Cuộc sống đó đòi hỏi một tri thức minh nhiên về những lợi lạc và giới hạn của các loại của cải vật chất. Không có một trí tuệ như vậy, chúng ta đánh đổi toàn bộ hạnh phúc của mình cho đống của cải vật chất, ngay cả khi chúng không bao giờ đưa ta đến được với những cấp độ trí tuệ cao hơn. Vì bản chất thực của mình mà của cải vật chất không có khả năng thỏa mãn được hoàn toàn khát vọng của con người: chúng không vĩnh hằng và bền lâu, chúng không thể được kiểm soát tối hậu và rõ ràng là cuối cùng chúng cũng tan biến đi. Tham luyến của cải, chúng ta phải chịu những đau khổ không cần thiết. Khi sinh ra, của cải không sinh cùng chúng ta, khi chết đi, chúng ta cũng không thể đem của cải đi cùng.

Được sử dụng một cách khôn ngoan, của cải vật chất có thể giúp giảm bớt khổ đau, nhưng khi sử dụng không khôn ngoan, chúng sẽ chỉ chất thêm gánh nặng cho con người. Nếu biết tiêu dùng của cải một cách chừng mực, chúng ta có thể tìm thấy những giá trị thật của chúng.

Người nào trở nên giàu có bằng cách làm lụng chăm chỉ và sử dụng số của cải đó cho mình và cho người xung quanh thì Phật giáo gọi là thù thắng trong cả nhân giới lẫn thiên giới [D.III.181]. Khi trí huệ được sử dụng để hướng đến kết giải (nissarana-panna) thì người ta không bao giờ bị nô lệ cho của cải, cũng không bao giờ bị của cải đè nặng cuộc đời.

Những đặc tr­ưng chính của Kinh tế học Phật giáo

1. Kinh tế học Trung đạo: hiện thực hoá phúc lạc chân chính

Phật giáo là toàn bộ các Pháp qui về Trung đạo, số lư­ợng vừa đủ và hiểu biết về sự điều độ, và toàn bộ những thuật ngữ này có thể đ­ược coi là đồng nghĩa với ý tư­ởng về sự thăng bằng hoặc quân bình. Trong Kinh Phật, hiểu biết về sự điều độ đ­ược gọi là mattannuta. Mattannuta là sự xác định đặc tr­ưng của kinh tế học Phật giáo. Hiểu biết sự điều độ có nghĩa là hiểu biết một l­ượng tối ư­u, biết đư­ợc bao nhiêu thì “vừa đủ”. Đó là một nhận thức về điểm tối ­ưu mà trong đó việc làm tăng tiến phúc lạc chân chính trùng hợp với kinh nghiệm mãn nguyện. Điểm tối ­ưu hoặc điểm cân bằng đạt đư­ợc khi chúng ta trải qua sự thoả mãn đáp ứng đ­ược nhu cầu chất lư­ợng sống hoặc phúc lạc. Chẳng hạn việc tiêu thụ hoà hợp với Trung đạo, phải đ­ược cân bằng với một số lư­ợng phù hợp để đạt đư­ợc hạnh phúc chứ không phải là thoả mãn các dục vọng. Vì vậy, trái ngư­ợc với ph­ương trình kinh tế học cổ điển về việc tiêu thụ tối đa dẫn đến thoả mãn tối đa, chúng ta có phư­ơng trình tiêu thụ khôn ngoan dẫn đến phúc lạc thực sự.

2. Kinh tế học Trung đạo: không làm hại mình và sinh linh khác

Một ý nghĩa khác của thuật ngữ “Độ l­ượng” – Một l­ượng điều độ – ẩm thực độ lư­ợng) là không làm hại mình và ng­ười khác. Đây là một nguyên tắc quan trọng khác và đ­ược sử dụng trong Phật giáo như­ là một tiêu chuẩn cơ bản của hành động nhân tính, mà không chỉ liên quan đến tiêu thụ, mà là đến toàn bộ hành vi của con ng­ười. Về vấn đề này có thể lư­u ý rằng trong Phật giáo “không làm hại ng­ười khác” không chỉ áp dụng cho con ng­ười mà cho tất cả mọi sinh linh.

Từ quan điểm Phật giáo, các nguyên tắc kinh tế liên quan đến ba khía cạnh tư­ơng hỗ của tồn tại con ngư­ời: con ngư­ời, xã hội và môi tr­ường tự nhiên. Kinh tế học Phật giáo phải hoà hợp với toàn bộ quá trình nhân quả, và để làm đ­ược điều đó nó phải có một mối quan hệ chính xác với tất cả ba lĩnh vực đó, và đến lư­ợt mình, chúng phải hài hoà và tư­ơng hỗ lẫn nhau. Hành vi kinh tế phải xảy ra theo cái cách là nó không làm hại mình (bằng việc làm suy thoái chất lư­ợng sống) và không làm hại sinh linh (bằng cách gây ra những vấn đề xã hội hoặc mất cân bằng môi tr­ường sinh thái).

Thời đại ngày nay đang nổi lên vấn đề môi trư­ờng tại các n­ước đang phát triển. Ng­ười ta đang lo lắng về các họat động kinh tế bắt buộc phải sử dụng các hoá chất độc hại và các nhiên liệu hoá thạch. Những hành vi như­ vậy làm hại đến sức khoẻ các cá nhân và đến phúc lợi xã hội và môi trư­ờng. Chúng có thể bao gồm trong đoạn sau: “hại mình, hại sinh linh” và đã trở thành một vấn nạn đối với loài ngư­ời.

_________________________________________

Còn nữa...

Nguồn: Buddhist Economics – A Middle Way for the Market place by Ven. P.A. Payutto. Translated into English by Dhammavijaya and Bruce Evans; Compiled by Bruce Evans and Jourdan Arenson. http://www.buddhanet.net/cmdsg/payutto.htm.

Ghi chú:

3. Xem chẳng hạn, A.II.204; Tiểu kinh Phân biệt (Culakammavibhanga Sutta trong M.III)

4. M.III.262; S.I.34, 55. Người ta cho rằng “action” ở đây có nghĩa là Chính nghiệp (Right Action), “knowledge” là Chính tư duy (Right Thought), và Chính kiến (Right View), Pháp (qualities) là những yếu tố của Định (samadhi), Chính mệnh (Right Livelihood).

5. Xem Phụ lục.

A.         =       Anguttara Nikaya (5 vols.) (Tăng nhất A hàm, Tăng nhất bộ kinh 5 tập)

Comp. =      Compendium of Philosophy (Abhidhammatthasangaha) (A tì đạt ma bát tăng già luận)

D.         =       Digha Nikaya (3 vols.) (Trường bộ kinh – 3 tập)

S.         =       Samyutta Nikaya (5 vols.) (Kinh A hàm bộ 5 tập)

Vin.     =       Vinaya Pitaka (5 vols.) (Luật tạng, 5 tập)

Vism. =       Visuddhimagga (Thanh tịnh đạo luận)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chủ Nhật, 23 tháng 3, 2025

Ngày lạ

Hà Lập Nhân

Thứ Ba, 5 tháng 5, 2015

ngày lạ
vắng gió
lũ chim trên lùm cây bên phố
xoãi chân ngủ quên
xòe vài lông cánh đỏ
phẩy nhẹ những đốm mắt ướt đen tròn
chớp chậm
lắc chiếc mỏ thon mép vàng
thoang thoảng hót khẽ một giấc mơ buổi sáng
mấy tia nắng gầy lách cánh tay dài
qua khe cửa ném vài bông sắc trắng
đùa chiếc gương trên bức tường hồng nhạt
rủ nhau chum chúm khóe cười

ngày lạ
nắng khan soi tỏ gương mặt dấu vực sâu
mấy nét hồng hoang
phơn phớt mắt long lanh
hơi thở nhẹ khẽ rung mấy quầng sáng mơ hồ
môi tươi lơ đãng
ngước nhìn trời
hái vài ánh sao còn vương sương lạnh
xòe bàn tay nhỏ vài ngón hồng
sải mấy gang đo đoạn đường đã kịp bước qua
mấy hoang mạc
những luồng cuộn xoáy mặt trời đỏ ối
thét gào khản giọng

ngày lạ
sợi sợi bị cói tở dài
tòng teng mấy ngày
ong óng mấy đời
dìn dịn âm ba không lời
kẻ tiên tri tóc xõa
ngả ngốn qầng qầng mây đỏ
khầng khậc từng cơn gió cười
khung cửi thời gian
lách cách
dệt cánh đồng mây bời bời
từng nhịp cánh
gọi mời

bay
đi

ngày lạ
những dãy phố vắng dài
sập cửa
đèn vụt tắt
đêm ngã sóng xoài
mấy dải sương lạnh ùa về
những nắm tay bông trắng muốt gõ liên hồi
ngàn con mắt
đêm vắng sao khe khẽ ru người xưa
những giấc mộng hoài
ai còn nhớ bên kia
đã lặng lẽ trôi qua
biết mấy cuộc đời nợ nần dang dở
hóng từng nhịp cười dài
sóng vỗ liên hồi
gọi mời
bước

đi







Thứ Sáu, 21 tháng 3, 2025

Kinh tế học Phật giáo - Trung đạo trong Thương trường (VI)

Ven. P.A. Payutto

Người dịch: Hà Hữu Nga

Thứ Sáu, 13 tháng 7, 2012

Sản xuất và Phi sản xuất

Từ “sản xuất” là một lầm lẫn. Chúng ta thư­ờng nghĩ rằng thông qua sản xuất, các đồ vật mới đ­ược sáng tạo ra, khi trong thực tế đó chỉ là sự thay đổi trạng thái tác động. Một chất hoặc một dạng năng l­ượng đư­ợc biến đổi thành một dạng khác. Sự biến đổi đó dẫn đến việc tạo ra một trạng thái mới bằng việc phá vỡ một trạng thái cũ. Vì vậy sản xuất luôn luôn gắn liền với huỷ hoại. Trong một số trư­ờng hợp sự huỷ hoại có thể đ­ược chấp nhận, như­ng trong những trư­ờng hợp khác thì không thể. Hành động sản xuất chỉ thực sự đ­ược biện hộ khi giá trị của đồ vật sản xuất ra làm tăng thêm giá trị của cái mà nó phá huỷ đi. Trong một số trư­ờng hợp tốt hơn hết là phải kiềm chế hành động sản xuất. Đây là một sự thật không có gì thay đổi đối với các nền công nghiệp mà các sản phẩm của nó có mục đích phá huỷ. Trong các nhà máy sản xuất vũ khí chẳng hạn, không nên sản xuất là cách lựa chọn tốt nhất. Trong các ngành công nghiệp sản xuất gây ra tình trạng huỷ hoại các nguồn tự nhiên và làm xuống cấp môi trường thì không sản xuất là cách lựa chọn tốt nhất. Để lựa chọn, chúng ta cần phân biệt giữa sản xuất với các kết quả tích cực và sản xuất với các kết quả tiêu cực; sản xuất nhằm làm tăng tiến sự an lạc và sản xuất phá hoại sự an lạc.

Dưới ánh sáng đó, không sản xuất có thể là một hành động kinh tế hữu ích. Một người sản xuất rất ít các sản phẩm vật chất đồng thời cũng có thể là người tiêu thụ rất ít các nguồn của cải của thế giới và hướng tới một đời sống lợi lạc cho thế giới xung quanh mình. Một con người như vậy, rõ ràng là giá trị hơn nhiều so với một người cần mẫn tiêu thụ hàng đống của cải vật chất của thế giới trong khi việc sản xuất các loại hàng hóa thực sự là có hại cho xã hội. Nhưng kinh tế học hiện đại chưa bao giờ làm rõ được vấn đề này; ngược lại, nó tán dương những người sản xuất và những người tiêu thụ (đó chính là phá hoại) những khối lượng vật chất khổng lồ, chứ không ca ngợi những người sản xuất và tiêu thụ (phá hoại) ít.

Trong kinh tế học của kỷ nguyên công nghiệp, thuật ngữ sản xuất có một nghĩa rất hẹp. Nó chỉ được liên hệ với những vật có thể mua và bán – một cuộc đấu bò, mà ở đó mọi người bỏ tiền ra để xem những con bò bị giết chết thì được coi là đóng góp cho nền kinh tế, trong khi một đứa trẻ giúp đỡ một người già qua phố thì lại không được coi là đóng góp cho nền kinh tế; một danh hài kể những chuyện cười trên sân khấu làm cho khán giả vui thích và đem đến cho họ những giờ phút nghỉ ngơi thoải mái thì được coi là có tính sản xuất về phương diện kinh tế vì tiền sang tay người khác, trong khi một nhân viên văn phòng tính tình vui vẻ thì lại không được coi là sản xuất ra bất cứ cái gì bởi vì tính tình vui vẻ của anh ta lại hướng tới những người xung quanh anh ta. Cũng không hề có bất cứ bảng quyết toán nào về các chi phí kinh tế đối với các hành động gây gổ và những diễn ngôn luôn luôn tạo ra tình trạng căng thẳng ở nơi làm việc đến nỗi mà người ta phải tìm cách làm tiêu tan căng thẳng bằng những trò giải trí, chẳng hạn như đi xem hài kịch.

Cạnh tranh và Hợp tác

Kinh tế học hiện đại dựa trên giả định rằng bản chất của con người là cạnh tranh. Mặt khác, Phật giáo thừa nhận rằng con người có khả năng vừa cạnh tranh, vừa hợp tác. Cạnh tranh là tự nhiên khi người ta cố để thỏa mãn khát vọng khoái lạc – là khi bị thúc đẩy bởi tanha – con người sẽ cạnh tranh một cách quyết liệt. Trong tình trạng ấy, người ta mong muốn có được càng nhiều càng tốt, và không bao giờ cảm thấy đầy đủ và mãn nguyện. Nếu họ có thể giành được vật mình mong muốn mà không phải chia sẻ nó cho bất cứ ai khác thì lại càng tốt. Rõ ràng cạnh tranh là quá khắc nghiệt; tình trạng đó là rất tự nhiên đối với ai bị tanha dẫn dắt.

Chính bản năng cạnh tranh ấy làm suy giảm khả năng hợp tác. Một người có thể tập hợp các thành viên của một nhóm riêng bằng cách kích động họ cạnh tranh với nhóm khác. Chẳng hạn các nhà quản trị công ty thường vẫn kích động những người làm trong công ty họ hợp tác để chạy đua với các đối thủ cạnh tranh của họ. Nhưng sự hợp tác ấy lại hoàn toàn dựa trên cơ sở cạnh tranh. Phật giáo gọi lối hợp tác đó là “hợp tác giả”.

Hợp tác chân thực chỉ xuất hiện với mong muốn đem lại sự thịnh vượng bằng chanda. Sự phát triển của con người đòi hỏi rằng chúng ta cần phải tìm hiểu xem tanhachanda tác động đến chúng ta như thế nào và chúng ta thay đổi năng lượng từ cạnh tranh sang các nỗ lực hợp tác để giải quyết những vấn đề mà thế giới đang phải đối mặt nhằm thực hiện được một mục đích cao cả hơn.

Chọn lựa

“Kinh tế học không phân biệt nhu cầu nào là một nhu cầu đích thực, một ước muốn kỳ cục, hay một dục vọng quái đản. Cũng không có vấn đề là kinh tế học  phải phán quyết xem những nhu cầu như vậy có nên được đáp ứng không,” [1] các sách giáo trình kinh tế đều viết như vậy. Nhưng từ tri kiến Phật giáo thì các lựa chọn của chúng ta đều tối quan trọng, và những lựa chọn đó đòi hỏi phải được thẩm định phẩm chất. Lựa chọn là một chức năng định hướng, là trung tâm của Nghiệp (hành động), một trong những giáo huấn quan trọng của Kinh Phật. Nghiệp không chỉ tác động đến kinh tế học mà còn tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống chúng ta cũng như các môi trường tự nhiên và xã hội của chúng ta. Các lựa chọn hoặc các quyết định kinh tế thiếu suy tư về đạo lý chính là những ác nghiệp – chúng đưa lại những kết cục không mong muốn. Các quyết định kinh tế đúng đắn là những quyết định dựa trên một nhận thức về các chi phí cho các lĩnh vực môi trường, xã hội và cá nhân, chứ không phải chỉ là trong khuôn khổ của sản xuất và tiêu thụ. Các quyết định kinh tế ấy đều là Nghiệp. Mỗi khi có một quyết định kinh tế thì lại xuất hiện một nghiệp, và quá trình xuất hiện nghiệp lập tức xuất hiện trong vận động, dù tốt hay xấu, dù là cá nhân hay xã hội và môi trường. Vì vậy điều quan trọng là phải nhận ra sự khác biệt về chất giữa những quá trình hành động khác nhau để sao cho có được những lựa chọn khôn ngoan hơn.

Nhãn kiến về cuộc sống

Giờ đây tôi muốn lùi trở lại một bước để nhìn vào kinh tế học từ một góc nhìn nào đó rộng rãi hơn. Chúng ta đã thảo luận về các họat động kinh tế khác nhau. Giờ đây chúng ta có thể hỏi: Mục đích của các họat động ấy là gì? Mục đích cố gắng của chúng ta trong chuyện mua và bán, sản xuất và tiêu thụ là gì? Hoặc chúng ta có thể hỏi hoặc thậm chí đề xuất một vấn đề rộng lớn hơn: Mục đích thực sự của cuộc sống là gì? 

Mỗi người đều có một quan điểm riêng về các vấn đề này, mặc dù hầu hết chúng ta đều không biết gì về chúng cả. Kinh Phật nhấn mạnh rằng các nhãn kiến ấy có một ảnh hướng to lớn đến cuộc đời của chúng ta. Nhãn kiến trong ngôn ngữ Pali là ditthi. Thuật ngữ này bao gồm tất cả các loại nhãn kiến ở những cấp độ khác nhau - đó là các quan điểm và niềm tin cá nhân mỗi chúng ta; các hệ tư tưởng, các quan điểm tôn giáo và chính trị được người ta tán thành theo nhóm; và các thái độ, các thế giới quan do tổng thể các nền văn hóa và các xã hội chủ trương.

Các nhãn kiến khác nhau dẫn tới sự phân rẽ vượt xa khỏi lãnh địa của các trạng thái tinh thần và các diễn ngôn trí thức. Giống hệt như đạo đức học, các nhãn kiến được kết nối với dòng nhân duyên. Chúng là những sản phẩm tinh thần “chủ quan” qui định các sự kiện thành thực tại “khách quan”. Ở cấp độ cá nhân, thế giới quan của một người tác động tới các sự kiện của đời sống. Ở cấp độ một quốc gia, các nhãn kiến chính trị và các tập quán xã hội qui định xã hội và phẩm chất của cuộc sống hàng ngày.

Đức Phật đã khuyên rằng các nhãn kiến là hiểm họa tiềm tàng của toàn bộ các nhân duyên tinh thần. Các tà kiến có thể gây ra những hủy hoại không thể tưởng tượng nổi. Tội ác của các cuộc Thập tự chinh, của chủ nghĩa Quốc xã, và của chủ nghĩa cộng sản (quan điểm riêng của tác giả Payutto!- Người dịch lưu ý) chỉ có thể gọi tên bằng ba trào lưu cuồng tín thảm họa được thổi bùng lên bằng những tà kiến. Ngược lại, các chính kiến lại lợi lạc cho các năng duyên (Alambana). Vì thế Đức Phật đã dạy rằng: “Hỡi chư tăng, ta chưa hề thấy nhân duyên (điều kiện - Aramala) nào lại thực sự là nguyên nhân của các nhân duyên tà vạy còn chưa khởi lên, và ta cũng chưa hề thấy sự phát xuất nào của các nhân duyên tà vạy đã khởi lên, như tà kiến…” [A.I.30].

Điều đó không đề cập ngay vào vấn đề: đằng sau kinh tế học hiện đại là nhãn kiến nào? Đó có phải là một nhãn kiến chính trực hay tà vạy? Trong tình trạng khủng hoảng của sự đơn giản hóa thái quá, chúng ta hãy nói rằng mục đích của cuộc sống hiện đại là tìm cho được phúc lạc. Trong các xã hội hiện đại, nhãn kiến này lan rộng đến mức ít có ai xem xét thấu đáo và đặt vấn đề về nó. Chính khái niệm “tiến bộ” – về xã hội, kinh tế, khoa học, và chính trị - đã giả định rằng mục đích tối thượng của xã hội là vươn tới một trạng thái mà trong đó mọi người đều được hưởng phúc lạc. Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ đã hàm chứa đầy chất thơ cái tư tưởng đó bằng cách khẳng định quyền con người đối với “cuộc sống, tự do và sự theo đuổi hạnh phúc”.

Trong khi chắc hẳn là khát vọng lương thiện, nhãn kiến cho rằng hạnh phúc là mục đích của cuộc sống lại đã để lộ một sự lẫn lộn cơ bản về chân lý của cuộc sống. “Hạnh phúc” không là cái gì khác ngoài phẩm chất mơ hồ không được xác định rõ ràng. Nhiều người đã cho rằng hạnh phúc cũng chính là lạc thú về ý nghĩa và sự thỏa mãn các khát vọng của họ. Đối với những người này, hạnh phúc vẫn còn là một điều kiện quá xa vời, là một cái gì đó ở ngoài họ, một phần thưởng nào đó trong tương lai mà người ta cần phải đuổi bắt. Nhưng phúc lạc lại không thể đạt được bằng kiếm tìm mặc dù có những nhân duyên dẫn đến phúc lạc, và những nhân duyên này lại là sự phát triển tinh thần cá nhân.

Từ quan điểm Phật giáo, có thể thấy rõ rằng con người thường lẫn lộn tanha – khát vọng khôn nguôi về thỏa mãn và lạc thú – với sự theo đuổi phúc lạc. Đó thực ra chỉ là một nhãn kiến tà vạy, vì dục vọng của tanha là không cùng. Nếu việc theo đuổi phúc lạc cũng đồng nghĩa với theo đuổi các đối tượng của tanha, thì tự thân cuộc sống đã trở thành khốn khổ. Để nhận ra các hậu quả của nhãn kiến tà vạy ấy người ta chỉ cần chứng kiến sự suy đồi và tội lỗi của những con người trong các thành phố hiện đại chồng chất những trò tiêu khiển và các tụ điểm lạc thú. Thay vì dẫn đến trạng thái thỏa nguyện và thịnh vượng, việc theo đuổi lạc thú rất thường dẫn tới tính vô độ và kiệt quệ của cá nhân và xã hội và sự tiêu thụ không bền vững về môi trường.

Ngược lại, quan điểm Phật giáo về cuộc sống rất ít chất lý tưởng hóa mà lại thấm đẫm thực tiễn. Đức Phật đã dạy một cách giản dị rằng, “Khổ là có thật” [Vin.I.9;S.V.421; Vbh.99]. Đây chính là diệu đề đầu tiên và là trung tâm trong Tứ diệu đề của Phật giáo. Đức Phật đã mô tả khổ là: Sinh khổ; lão khổ, bệnh khổ, tử khổ; buồn, than, đau đớn và tuyệt vọng đều là khổ; chia ly với người thân yêu -khổ, chấp nhận điều không mong muốn – khổ; không đạt được điều mình mong muốn – khổ…”.

Còn chút vấn đề nữa là những nỗi khổ đó tồn tại trong cuộc sống và tất cả đều không dễ chịu, nhưng khuynh hướng của xã hội chúng ta là chối bỏ chúng. Đặc biệt là cái chết rất ít khi được người ta nghĩ đến hoặc nói ra như một điều chắc chắn sẽ xảy ra cho mỗi con người. Tuy nhiên việc khước từ những vấn nạn này vẫn không thể làm cho chúng biến mất. Chính vì vậy Đức Phật đã dạy rằng cần phải chấp nhận nỗi khổ. Diệu đề đầu tiên thừa nhận rằng mọi thứ rồi cũng qua đi, để rồi cuối cùng chỉ còn lại một thế giới vô thường. Đây chính là một chân lý mà Đức Phật dạy ta cần phải đối mặt – nỗi thống khổ là có thật và chúng là những hiện thực cơ bản của cuộc đời.

Diệu đề thứ hai lý giải nguyên nhân của nỗi thống khổ. Đức Phật dạy rằng khổ là do dục vọng vì vô minh (có nghĩa là tanha). Nói cách khác nguyên nhân của khổ là một năng duyên (điều kiện nội tại). Chúng ta có thể hỏi: “Dục vọng có phải là nguyên nhân của già lão không?”: dục vọng không phải là nguyên nhân của già lão, mà đúng ra thì khát vọng về tuổi xuân làm cho già lão trở thành nguyên nhân của khổ. Già lão là một thực tế không thể tránh khỏi; nhưng khát vọng về tuổi thanh xuân thì lại không như vậy. Đức Phật dạy rằng người ta hoàn toàn có thể diệt dục. Đó chính là Diệu đề thứ ba của Đức Phật, diệt khổ. Bằng sự chối từ hoàn toàn dục vọng, con người sẽ chấm dứt được nỗi khổ. Nhưng làm thế nào để diệt trừ được dục vọng? Trong Diệu đề thứ tư Đức Phật chỉ ra con đường chấm dứt nỗi khổ. Đó chính là Bát chính đạo, thông qua rèn luyện thân, khẩu, ý sao cho hòa hợp với giới luật Bát chính đạo: Chính kiến (Samyak drsti), Chính tư duy (Samyak - samkalpa), Chính ngữ (Samyak-vàg), Chính nghiệp (Samyak- karmanta), Chính mệnh (Samyak- àjiva), Chính tinh tiến (Samyak- vyàyàna), Chính niệm (Samyak-smrti), và Chính định (Samyak-samàdhi).

Rõ ràng là nhãn thức Tứ diệu đề của Phật giáo về cuộc sống hoàn toàn trái ngược với nhãn kiến thông thường của các xã hội hiện đại. Vì vậy Đức Phật dạy rằng “Khổ có thật” thì xã hội hiện đại lại cho rằng “Hạnh phúc có thật và tôi muốn  được hạnh phúc ngay!”. Những ẩn ý liên quan đến sự khác biệt về nhận thức như vậy là rất lớn. Một xã hội coi mục đích của cuộc sống là sự theo đuổi hạnh phúc thì đó chính là một xã hội theo đuổi liều lĩnh một giấc mộng tương lai. Phúc lạc được coi là một cái gì đó không thể thiếu được và cần phải tìm thấy phúc lạc ở một chốn nào đó khác. Song hành với nhãn kiến này chính là vỡ mộng, bất nhẫn, suy đồi, và bất lực trong việc giải quyết với các nỗi khổ và thiếu chú tâm đến thực tại.

Mặt khác, với một nhãn kiến về cuộc sống đánh giá đúng về thực tại của sự khổ, chúng ta chú ý nhiều hơn đến giờ phút hiện tại sao cho chúng ta có thể nhận ra các vấn đề khi chúng xuất hiện. Chúng ta hợp tác với những người khác để giải quyết vấn đề, chứ không phải là chạy đua với họ để tìm kiếm cho bằng được phúc lạc. Một nhãn kiến như vậy cũng tác động đến các lựa chọn kinh tế của chúng ta. Việc sản xuất và tiêu thụ của chúng ta được tăng tốc ít khi hướng tới việc theo đuổi những phần thưởng mang tính tri thức (tanha) mà đa phần hướng về việc làm vơi đi những nỗi khổ đau (chanda). Nếu nhãn thức Phật giáo này phát triển trong phạm vi quốc gia hoặc toàn cầu chứ không phải là tìm cách thỏa mãn từng nhu cầu thì các nền kinh tế của chúng ta sẽ cố gắng để tạo ra được một trạng thái không còn khổ đau, hoặc một trạng thái tạo tiền đề cho sự thụ hưởng phúc lạc (hệt như một cơ thể khỏe mạnh là một cơ thể tạo tiền đề cho việc thụ hưởng phúc lạc).

Chỉ có thông qua việc tìm hiểu nỗi khổ chúng ta mới có thể nhận ra được khả năng của phúc lạc. Ở đây, Phật giáo đã phân biệt giữa hai loại hạnh phúc: hạnh phúc phụ thuộc và còn có một loại phúc lạc hoàn toàn độc lập. Hạnh phúc phụ thuộc là loại hạnh phúc đòi hỏi phải có ngoại vật. Nó bao gồm bất cứ một thứ hạnh phúc nào phụ thuộc vào thế giới vật chất, bao gồm của cải, gia đình, vinh quang, tăm tiếng. Hạnh phúc phụ thuộc là loại hạnh phúc tùy thuộc vào những vật có thể chẳng bao giờ thuộc về chúng ta theo nghĩa rốt ráo của từ đó, đó là loại hạnh phúc phù ảo và không chắc chắn. Khác thế, phúc lạc độc lập là loại phúc lạc khởi lên từ trong tâm ta nhờ được rèn luyện và đạt được một mức độ an bình nội tâm nhất định. Loại phúc lạc ấy không tùy thuộc vào ngoại vật và vững bền hơn so với hạnh phúc phụ thuộc.

Hạnh phúc phụ thuộc dẫn tới cạnh tranh và xung đột trong cuộc tranh giành các loại vật dụng. Bất cứ loại hạnh phúc nào xuất hiện từ những hành động như vậy đều là loại hạnh phúc tranh giành. Tuy nhiên còn có một loại hạnh phúc thứ ba, trong khi không cao thượng được như loại hạnh phúc độc lập thực sự, tuy nhiên nó lại chính đáng hơn nhiều so với loại hạnh phúc giành giật được. Đó là loại hạnh phúc có cơ sở từ lòng vị tha, hướng tới thịnh vượng và có động cơ từ thiện tâm và từ bi. Mặc dù phát triển có tính cá nhân nhưng con người vẫn có thể đánh giá đúng được loại hạnh phúc này là thực hơn - đó là khát vọng đưa hạnh phúc đến cho người khác (loại hạnh phúc đó Phật giáo gọi là metta- từ tâm). Với loại hạnh phúc này, chúng ta có thể trải nghiệm hoan lạc trong hạnh phúc của người khác, hệt như cha mẹ cảm thấy sung sướng trong niềm vui của những đứa con mình. Loại hạnh phúc này có thể được gọi là “hòa lạc” khác biệt hẳn với loại hạnh phúc có được từ giành giật. Nó ít phụ thuộc vào việc giành được các của cải vật chất và nó khởi lên từ cho chứ không phải là nhận. Mặc dù loại hạnh phúc này không thực sự độc lập, nhưng nó lại ngay chính hơn loại hạnh phúc nảy sinh từ những giành giật ích kỷ.

Cấp độ chắc chắn nhất của hạnh phúc là sự giải thoát hiện khởi từ giác ngộ. Đó là loại phúc lạc vĩnh viễn. Nhưng việc rèn tâm, thông qua học tập và thiền định để đạt tới một cấp độ thỏa mãn nội tâm nhất định chính là một liều thuốc giải độc đối với tình trạng bất mãn của xã hội tiêu thụ. Và với sự trong sáng của trạng thái yên bình nội tâm, thì trí tuệ xuất hiện ngay cả trong những trớ trêu nhất của đời sống chúng ta: khi tranh giành hạnh phúc, chúng ta tạo ra đau khổ; bằng việc tìm hiểu nỗi thống khổ, chúng ta phát hiện ra được sự yên bình.

___________________________________________

Còn nữa...

Nguồn: Buddhist Economics – A Middle Way for the Market place by Ven. P.A. Payutto. Translated into English by Dhammavijaya and Bruce Evans; Compiled by Bruce Evans and Jourdan Arenson. http://www.buddhanet.net/cmdsg/payutto.htm.

Ghi chú:

1. Trong tạp chí "Economics '73-'74," Nhiều tác giả 1973, The Dushkin Publishing Group, Inc., Guildford, Connecticut.
A. = Anguttara Nikaya (5 vols.) (Tăng nhất A hàm, Tăng nhất bộ kinh 5 tập)
Comp. = Compendium of Philosophy (Abhidhammatthasangaha) (A tì đạt ma bát tăng già luận)
D. = Digha Nikaya (3 vols.) (Trường bộ kinh – 3 tập)
S. = Samyutta Nikaya (5 vols.) (Kinh A hàm bộ 5 tập)
Vin. = Vinaya Pitaka (5 vols.) (Luật tạng, 5 tập)
Vism. = Visuddhimagga (Thanh tịnh đạo luận)