Mối quan hệ giữa kinh tế và nghi lễ
Mới đây hai học giả Mỹ Patricia McAnany và Christian Wells đã đề xuất định nghĩa kinh điển về kinh tế nghi lễ, coi đó là một cách tiếp cận lý thuyết để thấu hiểu và giải thích các cách thức mà thế giới quan, kinh tế, quyền lực và tác nhân con người gắn kết với nhau trong xã hội và biến đổi xã hội, là “quá trình cung cấp và tiêu thụ nhằm vật chất hóa và chứng minh thế giới quan để quản lý ý nghĩa và định hình diễn giải”. Cách tiếp cận này đi đầu trong nghiên cứu về sự gắn kết của con người với các lĩnh vực xã hội, vật chất và nhận thức thông qua trải nghiệm của bản thân mình. Bằng cách kết hợp hai lĩnh vực nghiên cứu thường bị cô lập thành các lĩnh vực tri thức riêng biệt, kinh tế nghi lễ được bộc lộ để phân tích các cách thức mà quá trình hiện thực hóa thế giới quan thông qua thực hành nghi lễ đã cấu trúc nên hành vi kinh tế. Hai tác giả trên cũng lưu ý rằng nghi lễ và kinh tế được liên kết với nhau nhưng không thể quy giản cho nhau, và đề xuất ba lĩnh vực khảo sát quan trọng: 1) thực tiễn kinh tế, tức là cung cấp và tiêu dùng; 2) các kết quả của thực hành, tức là vật chất hóa và chứng minh; và 3) vai trò xã hội quan trọng của thực hành nghi lễ trong việc xác lập ý nghĩa và diễn giải kinh nghiệm sống. (McAnany, P.A. and Christian Wells, E. 2008, tr.1-2)
Các chuyên gia về kinh tế nghi lễ của viện Max Planck, Cộng hòa Liên bang Đức cho rằng đối với hầu hết các nhà kinh tế học, trong thế giới đương đại nghi lễ và kinh tế ít liên quan đến nhau. Trong lịch sử, kinh tế được coi là một lĩnh vực sản xuất vật chất mà trên đó các hành động nghi lễ chỉ là tiêu dùng tốn kém, trở thành rào cản văn hóa đối với hiệu quả kinh tế. Các nhà lý thuyết hiện đại hóa cho rằng sự trỗi dậy của tư duy công cụ và bộ máy quan liêu đã khắc phục và xóa bỏ các tập tục nghi lễ. Theo các sơ đồ tiến hóa trong nhân học kể từ Edward Tylor và James Frazer, tư tưởng tôn giáo ma thuật suy giảm cùng với sự tiến bộ của công nghệ sản xuất. (Gudeman S., and Chris Hann 2015, tr.2) Douglass North, nhà kinh tế học thể chế nổi tiếng người Mỹ, từng đoạt giải Nobel kinh tế đã khẳng định rằng nghi lễ ma thuật và tôn giáo là những giải pháp phi lý tạo ra tình trạng bất ổn kinh tế, chỉ có thể giảm bớt bằng cách thay đổi khuôn khổ thể chế của nền kinh tế để làm cho nó hợp lý hơn (North D. 2005, tr. 15–18). Ngược lại, các nhà nhân học đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong nghiên cứu về nghi lễ bằng cách xem xét nó tách biệt khỏi các thực hành công cụ luận duy lý. Theo họ nghi lễ trước hết và quan trọng nhất là mang tính trình diễn; nó thực hành và hàm ý về một điều gì đó, thường có sự trợ giúp của các đối tượng hữu hình, nhưng không liên quan đến các mối quan tâm và quan hệ nhân quả kinh tế thông thường (Leach 2000).
Để vượt khỏi tình trạng phân đôi giữa nghi lễ và kinh tế theo cách tiếp cận duy lý của kinh tế học thể chế, các chuyên gia kinh tế nghi lễ của viện Max Planck đề xuất nhân tố trung tâm kết nối quan hệ giữa nghi lễ và kinh tế chính là tính xã hội, thông qua các mối quan hệ xã hội. Họ cho rằng các nghi lễ thể hiện, nhắc lại và duy trì các mối quan hệ xã hội. Nghi lễ được coi là thiết yếu để mở rộng tính xã hội, chẳng hạn như các hệ thống tôn giáo, tín ngưỡng, và các tập hợp niềm tin và giá trị chung; và kinh tế nghi lễ có thể giúp hồi sinh các gắn kết nhóm trong các hình thức hoạt động cộng đồng. Đến lượt mình, nghi lễ cũng có thể che giấu các mối quan hệ xã hội và lợi ích cá nhân bằng cách trình diễn chúng như những thứ gì đó khác; và nghi lễ có thể huyền thoại hóa những mong muốn và khát vọng cũng bằng trình diễn các mong muốn và khát vọng đó trong những hình thức khác. (Gudeman S., and Chris Hann 2015, tr.7-8) Nghi lễ còn có vai trò rất cơ bản đối với các thể chế, và đối với kinh tế. Các thể chế được tạo thành từ các kết nối xã hội, như là hình ảnh thu nhỏ của từng ngôi nhà, từng cộng đồng và cả quốc gia. Thực tế, nhiều nghi lễ không được những người tham gia coi là tôn giáo, nhưng nếu bị thúc ép về phương diện xã hội, họ có thể thừa nhận một tấm màn che của một tôn giáo nào đó. Vì vậy các nhà kinh tế học nghi lễ của viện Max Planck đã khám phá vấn đề trọng tâm chính là tình trạng vướng víu về tính xã hội giữa các cá nhân và vai trò của các thể chế. Bằng cách tiếp cận như vậy, họ đã phản kháng với cách phân chia đơn giản các nghi lễ tôn giáo và thế tục, và sự chia tách nghi lễ với kinh tế. (Gudeman S., and Chris Hann 2015, tr.8)
Trong mối quan hệ giữa kinh tế và nghi lễ, các nhà nghiên cứu của viện Max Planck xem xét việc thực hành giao dịch giữa các gia đình, các nhóm với xã hội là trọng tâm chính. Họ chú ý nhiều hơn đến các diễn ngôn địa phương về kinh tế thông qua các mô hình văn hóa, đặc biệt là các mô hình nghi lễ mà mọi người sử dụng để thể hiện và định hướng cuộc sống của họ. (Gudeman S., and Chris Hann 2015, tr.18) Cách tiếp cận thể chế thông qua quan hệ nghi lễ và kinh tế làm sáng tỏ những lĩnh vực còn mơ hồ về ý nghĩa và tác động của các nghi lễ ở cấp độ gia đình và cộng đồng. Nghi lễ có thể hỗ trợ hoặc hợp thức hóa các hoạt động kinh tế thông qua tính xã hội mà chúng mang lại. Trong hầu hết các trường hợp, nghi lễ lấp đầy khoảng trống về tính xã hội giữa các gia đình, nhưng nghi lễ cũng có thể là một bức màn che đậy tính xã hội để tạo ra những tồn tại hư ảo. Các nghi lễ thu hút các nguồn lực vật chất đôi khi mang lại lợi nhuận trực tiếp trong ngắn hạn, đôi khi lại thua lỗ, nhưng tóm lại đều thu hút các kết nối và trao đổi kinh tế. Trong hầu hết trường hợp, nghi lễ có thể giúp thể hiện bản sắc và khả năng phục hồi của các gia đình, các cộng đồng, giúp huyền thoại hóa bản sắc và sự gắn kết của cộng đồng, thường là gắn với các hoài niệm về một thời hoàng kim huyền hoặc nào đó. (Gudeman S., and Chris Hann 2015, tr.19) Vì vây việc thừa nhận sự gắn kết giữa kinh tế và nghi lễ giúp tránh được thế lưỡng phân giữa tính duy lý của kinh tế và tính phi lý của hệ thống nghi lễ thường gây ra tình trạng chia rẽ cách diễn giải về các cấu thành xã hội quan trọng này. Lý thuyết kinh tế nghi lễ đặt câu hỏi về cách thức mà niềm tin tạo hình nên các lựa chọn kinh tế, và đến lượt mình, cách thức mà các hoạt động kinh tế phản ánh những niềm tin này. Quá trình này cũng tác động ngược lại với kinh tế, và ảnh hưởng đến bản thân nghi lễ, hệ thống niềm tin và một vòng phản hồi giữa kinh tế và nghi lễ luôn luôn tồn tại trong mối quan hệ này (Moses, Victoria Carley 2020, tr.56-57). Trong các nghi lễ tiêu tốn nguồn lực, mục tiêu của các tác nhân không hẳn là lợi nhuận kinh tế trực tiếp mà là thể hiện công khai vai trò tham gia thông qua trình diễn được sử dụng để thiết lập vị thế, gắn kết với cộng đồng, tạo dựng bản sắc (Spielmann 2002:197).
Kinh tế nghi lễ và quyền lực xã hội
Trong các xã hội tiền tư bản, quyền lực xã hội được quan niệm là các cá nhân và tổ chức có thể có quyền lực nhiều hoặc ít hơn so với các cá nhân hoặc tổ chức khác. Một hệ quả tất yếu là những người nhiều quyền lực hơn có khả năng thay đổi các tình huống xã hội và cuộc sống của những người khác vì lợi ích của chính họ. Đây chính là quan niệm coi “quyền lực là khả năng mà một tác nhân trong một mối quan hệ xã hội có thể thực hiện ý chí của mình bất chấp sự phản kháng, bất kể khả năng đó dựa vào cơ sở nào”. (Weber M. 1947, tr. 152) Ở đây cần lưu ý đến khái niệm tác tố (agency) do các tác nhân (agents) gây ra được thể hiện trong kinh tế chính trị, đó là “các tác nhân trong các phương pháp tiếp cận kinh tế chính trị về bản chất đều mang tính cạnh tranh và cố gắng hướng tới hiệu quả: vì càng nhiều nguồn lực và quyền lực càng tốt, vì nền kinh tế chính trị vốn đã định hướng tăng trưởng”. (Wells 2006:14) Các học giả cũng gợi ý rằng các phương pháp tiếp cận để hiểu khung lý thuyết quyền lực xã hội trong kinh tế nghi lễ truyền thống được chia thành ba lĩnh vực nghiên cứu: cụ thể là, 1) phương pháp tiếp cận tập trung vào các phương thức sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa của kinh tế nghi lễ và các khía cạnh lịch sử của nó, 2) cách tiếp cận tập trung vào việc duy trì quyền lực trong các nhóm xã hội tiền sử thông qua kinh tế nghi lễ, và 3) cách tiếp cận nghiên cứu sản xuất hàng hóa và khái niệm giá trị trong kinh tế nghi lễ. (Preucel and Hodder 1996, tr.99)
Có ba hướng tiếp cận để nghiên cứu các phương thức sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa gắn kết giữa kinh tế nghi lễ và quyền lực xã hội. Hướng nghiên cứu thứ nhất liên quan đến việc giới tinh hoa kiểm soát hệ thống hàng hóa uy tín (Preucel và Hodder (1996:99) thuộc lĩnh vực kinh tế nghi lễ được hình thành dựa trên học thuyết động lực ngoại biên-cốt lõi trong Lý thuyết Hệ thống Thế giới của Immanuel Wallerstein (1974). Các nguyên lý chính của lý thuyết này cho rằng các thủ lĩnh địa phương và các nhóm hậu duệ của họ cạnh tranh với nhau để giành ảnh hưởng xã hội bằng cách vươn ra bên ngoài địa phương của họ để tạo dựng quan hệ trao đổi với các nhóm khác. Đó là những loại hàng hóa quý hiếm trở thành báu vật đóng vai trò quan trọng trong kinh tế nghi lễ, khẳng định cuộc sống và các nghĩa vụ xã hội, đem lại cho các thủ lĩnh và hậu duệ của họ địa vị cao hơn. (Meillasoux 1960) Hướng nghiên cứu thứ hai viện dẫn các nguyên lý của Tương tác Chính thể Ngang hàng. Trong các mô hình này, tình trạng cạnh tranh, “cuốn hút biểu tượng” (giới tinh hoa thu hút các biểu tượng và phong tục từ các khu vực lân cận), và thương mại giữa các tầng lớp tinh hoa trong các khu vực có liên kết chặt chẽ càng làm tăng cường liên tục sức mạnh kinh tế và chính trị thông qua kinh tế nghi lễ. (Renfrew 1986) Hướng nghiên cứu thứ ba tập trung vào đặc trưng của phương thức sản xuất của các xã hội truyền thống liên quan đến cái mà Wells phân loại là các mô hình nợ. Trong các mô hình này, cá nhân hay nhóm những kẻ hoạt đầu lợi dụng hệ thống hàng hóa uy tín và những màn trình diễn ơn nghĩa để tạo ra tình trạng mắc nợ của đám đông tòng phục. Thông thường, mục tiêu của các nhóm lợi ích thuộc giới tinh hoa chính là hàng hóa uy tín, có ý nghĩa xã hội. Các bằng chứng khảo cổ học tại di chỉ Paso de la Amada, Mexico (Clark and Blake 1994) đã chứng minh cho giả định về việc giới tinh hoa quyền lực đã đẩy đám đông vào tình trạng mắc nợ thông qua những bữa tiệc miễn phí, nhằm tạo ra mối ràng buộc về nghĩa vụ và nợ nần của các nhóm cư dân thuộc giai đoạn Barra tại di chỉ. Trong mô hình này cách tiếp cận kinh tế nghi lễ nhấn mạnh vào lợi ích cá nhân hoặc quá trình tối ưu hóa của các cá nhân và cách thức quyền lực xã hội nằm trong tay của một số ít giới tinh hoa lũng đoạn đám đông bằng nợ nần. (Callaghan M. G. 2008, tr.38)
Trình diễn Kinh tế Nghi lễ
Trong kinh tế nghi lễ, thực hành nghi lễ chính là hành động trình diễn nghi lễ, vì nó xuất trình các hành động trong các lĩnh vực thiêng liêng và trần tục của xã hội thông qua các vai diễn, các lễ hội nhằm phục vụ mục đích cuối cùng là khẳng định, tái tạo hoặc thay đổi các diễn giải hiện có về các hệ thống biểu tượng. Ở đây, việc trình diễn, dù ở quy mô lớn hay nhỏ, đều trở thành một thành phần quan trọng trong việc tạo ra, truyền tải và ganh đua diễn giải hệ thống biểu tượng. Nó vừa là nguồn hình thành ý nghĩa văn hóa, vừa là địa điểm mà các ý nghĩa đó được mã hóa bằng hệ thống biểu tượng vật chất, được triển khai. (Callaghan M. G. 2008, tr.41) Trong nền kinh tế nghi lễ, một loại hình sản phẩm như đồ gốm, đồ đồng, đồ gỗ, tranh vải lụa, v.v… và các loại hàng hóa uy tín khác cũng trở thành một biểu tượng trình diễn “giá trị xã hội”. Các trình diễn thông qua tự thân hiện diện của nó làm thay đổi “việc nhấn mạnh từ mối quan hệ thứ bậc của các cấu trúc uy tín sang việc xem xét các cách thức đa dạng trong đó hàng hóa hàm ẩn và mã hóa các nguyên tắc xã hội, giá trị văn hóa hoặc kinh tế và các nguyên lý linh thiêng”. Wells (2006:21) Các hạng mục gốm, đồng, đá, gỗ, vải tưởng chừng vô tri, nhưng chúng lại trình diễn trong câm lặng cái vị thế, uy tín và quyền uy của kẻ sở hữu chúng. Với tư cách là một diễn viên, chúng đóng vô số vai trò khác nhau trong nền văn hóa quá khứ, từ chức năng đơn giản và hữu hình nhất là chiếc bình đựng thực phẩm tại các sự kiện nghi lễ, đến vai trò là biểu tượng của bản sắc và quyền lực, là hiện thân vật chất của các cá nhân hoặc nhóm tinh hoa, để cuối cùng trở thành thứ tài sản không thể chuyển nhượng của các cá nhân và nhóm kia. Tất cả những chức năng này cùng những mức độ ý nghĩa và giá trị khác nhau cuối cùng sẽ góp phần tạo nên vị thế danh giá của những loại hàng hóa ấy và chủ nhân của chúng. Hơn nữa, các chức năng và giá trị này được xác định chặt chẽ dựa trên bối cảnh xã hội cụ thể mà những chiếc bình này được sản xuất, cụ thể là các sự kiện tiệc tùng “riêng biệt” của giới tinh hoa (LeCount 2001).
Trong thực tế thì động lực của các vai diễn trong kinh tế nghi lễ không dựa trên lập trường tối đa hóa kinh tế như trong kinh tế chính trị, cũng không dựa trên mong muốn tối ưu hóa “văn hóa” như trong quan niệm của Bourdieu (1984) về các loại hình vốn văn hóa, vốn xã hội và vốn biểu tượng. Thay vào đó, động lực trình diễn lại mang tính hiện sinh. Trong khuôn khổ của nền kinh tế nghi lễ, các cá nhân bị thúc đẩy hành động vì mong muốn được biết vị trí của mình trong cộng đồng và xã hội, được biết vị trí của những kẻ khác trong mối quan hệ với bản thân mình. Các đối tượng vật chất và nguồn lực kinh tế được các vai diễn khai triển thông qua động cơ này, không chỉ để phục vụ các nhu cầu vật chất cơ bản, mà còn với tư cách là vật mang biểu tượng hoặc bản thân biểu tượng được sử dụng để làm trung gian cho mối quan hệ với những kẻ khác, để từ đó khẳng định, tái tạo hoặc sửa đổi các cấu trúc ý nghĩa hiện có. Nhưng không phải là loại hình hay số lượng các biểu tượng giúp các thành viên trong một cộng đồng nào đó xác định họ là ai và họ đứng ở đâu trong xã hội, mà lại chính là những biểu tượng này được xuất trình như thế nào thông qua các vai diễn. Vậy là, cuối cùng thông qua hành động trình diễn nghi lễ mà các diễn viên hoặc nhóm diễn viên có thể thiết lập, định hướng, thúc đẩy hoặc hạn chế việc diễn giải các biểu tượng mà họ và kẻ khác đã tạo ra.
Với tư cách là các diễn viên trên sân khấu kinh tế nghi lễ các cá nhân và nhóm có thể có được một mức độ quyền lực và uy quyền đáng kể bằng cách tổ chức và quản lý các tình huống nghi lễ hoặc “các vở kịch xã hội” trong đó các biểu tượng quan trọng để hợp pháp hóa quyền lực được sử dụng một cách hiệu quả. Do đó, việc tạo ra và thể hiện quyền lực xã hội thông qua kinh tế nghi lễ trong bối cảnh kiểm soát tri thức thiêng liêng, cũng như việc tổ chức các nghi lễ cụ thể hóa nó, đặc trưng cho một con đường dẫn đến quyền lực cho các tác nhân văn hóa.” (Wells 2006:22) Vậy là các vai diễn không chỉ phục vụ để hợp thức hóa vị thế hoặc quyền lực của họ thông qua việc kiểm soát và tiến hành nghi lễ, mà họ còn thực sự có thể đoạt được quyền lực hoặc địa vị xã hội từ đó. (Callaghan M. G. 2008, tr.42) Ngày nay trong nhân học nói chung và trong kinh tế nghi lễ nói riêng, đã có đề xuất hai tuyến trình diễn: i) trình diễn bản thể luận, và ii) trình diễn các tương tác xã hội, hay còn gọi là trình diễn các hoạt động sống hàng ngày. (Halse J. and B. Clark 2008, tr.130)
Trình diễn bản thể luận ngụ ý rằng mọi thứ liên tục ra đời thông qua trình diễn về bản chất tồn tại mang tính vật chất và xã hội của nó. Một quan điểm như vậy được sử dụng để nắm bắt quá trình theo đó các hiện tượng được tạo ra hoặc tái tạo thông qua hoạt động cụ thể của chúng, mà cụ thể là trình diễn qua lời nói, loại trình diễn này chính là phương tiện không thể thiếu được của trình diễn nghi lễ. Là một phạm trù phát ngôn, tính trình diễn không mô tả mà thực hiện hành động, có nghĩa là hành động đã được trình diễn bằng lời nói, vì vậy tất cả các phát ngôn trên thực tế đều mang tính trình diễn nhằm thực hiện một mục đích nào đó. (Austin J. L. 1962). Kể từ công trình tiên phong của Austin với các phát ngôn mang tính trình diễn, các câu hỏi mang tính bản thể luận thông qua sự phân biệt giữa các phạm trù đã vượt ra ngoài lĩnh vực ngôn ngữ học. Trong đó đặc biệt có khuynh hướng Lý thuyết-Mạng-Tác nhân (ANT: Actor-Network-Theory) cho rằng về phương diện bản thể luận, các khác biệt không được đưa ra theo thứ tự của sự vật, mà được coi là kết quả của các quan hệ theo mô hình mạng. (Latour B. 1999; 2005), được gọi là bản thể luận quan hệ. Dưới ánh sáng của khái niệm về tính trình diễn bản thể luận quan hệ, vạn vật liên tục trở thành những gì mà chúng đang có và thông qua các mối quan hệ trình diễn của chúng với những thứ khác. Trình diễn bản thể luận, tức là, mọi thứ trở thành như hiện tại thông qua sự trình diễn của chúng, đã được phát triển trong nghiên cứu nhân học, trong đó có kinh tế nghi lễ, đặc biệt là khả tính tạo ra sự thay đổi một cách tích cực như một sự xuất hiện ở các vai diễn trong bất kỳ trình diễn nghi lễ nào. (Halse J. and B. Clark 2008, tr.130)
Mối bận tâm của các học giả chủ trương Lý thuyết-Mạng-Tác nhân liên quan đến cách thức mà vạn vật liên tục trở thành như hiện tại cho thấy sức mạnh biến đổi của trình diễn, và trình diễn kinh tế nghi lễ cũng không nằm ngoài đặc trưng bản thể luận đó. Mặc dù người ta đã chứng minh nhiều lần rằng cách thức mà vạn vật trở thành như chúng được trình diễn mới là điều quan trọng, nhưng vẫn còn là một câu hỏi mở về cách thấu hiểu này có thể ảnh hưởng đến hiểu biết và thực hành kinh tế nghi lễ không. Với câu hỏi này, có thể coi tính trình diễn bản thể luận có giá trị trong kinh tế nghi lễ không chỉ như một phương tiện để hiểu thấu các trải nghiệm thực địa, mà còn đặc biệt quan trọng với tư cách là một đóng góp liên quan đến việc thực hành kinh tế nghi lễ. Vì vậy trình diễn bản thể luận quan hệ trong kinh tế nghi lễ ngụ ý rằng nhân tố này không phải bao giờ cũng tồn tại trước nhân tố khác; đúng hơn, chúng nhất thiết cấu thành lẫn nhau. (Halse J. and B. Clark 2008, tr.131) Vì vậy mà có một câu hỏi được đặt ra là: Liệu chúng ta có thể cải thiện hiệu quả của quá trình thiết kế thực hành kinh tế nghi lễ bằng cách xem nó như một loại hình trình diễn không? Với tư cách là các nhà nghiên cứu kinh tế nghi lễ người ta có sẵn những nguồn lực nào để trình diễn các tương tác xã hội giữa kinh tế và nghi lễ?
Nhân học trình diễn ở một mức độ lớn đã phát triển từ việc nghiên cứu các nghi lễ và biểu tượng nghi lễ mang tính bản thể luận mở rộng sang lĩnh vực trình diễn nghi lễ về các trải nghiệm sống hàng ngày, trong đó có cả khía cạnh kinh tế nghi lễ. Ngay từ năm 1909, Van Gennep đã xuất bản nghiên cứu kinh điển của ông về Nghi lễ Chuyển qua (Gennep 1960), tức là những thay đổi mang tính nghi lễ hóa của trạng thái xã hội hoặc văn hóa, chẳng hạn như việc trở thành con người, trở thành người trưởng thành hoặc bắt đầu kết hôn. Sau đó Victor Turner đã mở rộng những ý tưởng này vượt ngưỡng sang lĩnh vực biến đổi, và trở thành một cái gì đó mới, chẳng hạn một cậu bé vô tư sau nghi lễ chuyển qua trở thành người đàn ông có trách nhiệm với cộng đồng. (Turner V., 1996) Tiếp đó, ranh giới giữa nhân học nghi lễ và lý thuyết trình diễn đã được Richard Schechner dịch chuyển và khái niệm hóa rất thành công, một phần nhờ ở các thành tựu nghiên cứu ứng dụng của Turner. Schechner đã sử dụng những hiểu biết sâu sắc từ việc phân tích nghi lễ để thử nghiệm các trình diễn kịch nghệ của những trải nghiệm hàng ngày, do đó thách thức và phát triển các quan niệm đã thành về sân khấu, vai diễn, kịch bản và khán giả. Điều đặc biệt có ý nghĩa là những quan sát của Schechner về một thực tế là hành động trình diễn có thể biến đổi cả diễn viên và khán giả. Công trình của Schechner đã có ảnh hưởng lớn đến cả lý thuyết và thực hành của nghệ thuật trình diễn, trong đó có cả trình diễn kinh tế nghi lễ. (Schechner R. 1988)
Trong khi tính trình diễn theo nghĩa hậu-cấu trúc luận cấu thành toàn bộ bản thể luận, hay chính xác hơn là các loại bản thể luận, thì Erving Goffman lại sử dụng kịch và trình diễn như một phép ẩn dụ cho đời sống hàng ngày. Goffman quan tâm đến việc kịch tính hóa của cá nhân và chứng minh cách thức mà mọi người trong các tương tác hàng ngày duy trì hoặc thiết lập một định nghĩa nhất định về tình huống. Việc đạt được định nghĩa tập thể về một tình huống nhất định phụ thuộc vào việc những người tham gia đưa hình ảnh về chính họ - bộ mặt của họ - vào tình huống được trình diễn. Trong bối cảnh kinh tế nghi lễ, việc đầu tư vào hình ảnh bản thân nên được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả các nghi lễ truyền thống liên quan đến kỹ năng chuyên môn, năng lực công nghệ và các sở thích, nguồn lực tổ chức, giá trị cá nhân, các mối quan tâm và mục tiêu nghề nghiệp; nói cách khác, nó không chỉ bị hạn chế vào các bản sắc cá nhân. Theo quan điểm của Goffman, loại tương tác này diễn ra trong nhiều tình huống khác nhau; mọi thứ ít nhiều được dàn dựng một cách ngẫu hứng để đáp lại một kịch bản xã hội và với ý thức của khán giả cung cấp phản hồi dưới hình thức này hay hình thức khác. Có một tiềm năng biến đổi trong sự gặp gỡ giữa kịch bản và hành động, trong chừng mực mà các tình huống có thể được thiết lập một cách chủ động khi các định nghĩa thay thế về tình huống được tạo ra theo cách tham gia, đặc biệt là trong lĩnh vực nghi lễ, lễ hội. (Goffman, E. 1958)
Kinh tế nghi lễ với tư cách hiện diện
Đối với Christian Well, kinh tế nghi lễ được xây dựng dựa trên nền tảng tác tố-trung tâm (có nghĩa là mỗi biến đổi, dù nhỏ nhất, đều có một yếu tố [tác tố] với tư cách là nguyên nhân tối hậu gây ra) để tạo ra một khuôn khổ lý thuyết trong đó nghi lễ tham gia điều hành hệ thống kinh tế. Kinh tế nghi lễ không bao gồm một tập hợp cố định các định nghĩa hoặc phương pháp luận, mà được xem “như một khuôn khổ lý thuyết và diễn giải đang phát triển để tạo ra các câu hỏi nghiên cứu và các hàm ý kiểm tra tương ứng cho nghiên cứu nhân học”. Wells (2006:20) Trọng tâm của nó là lý thuyết về quyền lực xã hội kết hợp các khía cạnh của quan điểm cá nhân và mang tính tình huống (O’Donovan 2002). Trong nền kinh tế nghi lễ, quyền lực xã hội được nhìn nhận, không phải là tài sản hay thuộc tính của một cá nhân cho phép kẻ đó áp đặt ý muốn của mình lên số đông mà rộng hơn là sự quản lý các ý nghĩa và tạo hình các diễn giải. (Callaghan M. G. 2008, tr.40) Các cá nhân và các nhóm sử dụng các nguồn lực kinh tế xã hội để nỗ lực định hình các diễn giải về ý nghĩa liên quan, để ngăn cản việc diễn giải của những kẻ khác khỏi số đông và để thu được thành quả vật chất của những nỗ lực này. Wells (2006:22) Các phương tiện và công cụ chính mà các tác nhân tham gia vào việc vật chất hóa và hợp thức hóa các ý nghĩa cụ thể là thông qua hành động nghi lễ. Nội dung của trình diễn kinh tế nghi lễ gồm hai quá trình trái ngược nhau, đó là quá trình “ảo hóa” tạo huyền thoại mới, xen lẫn “giải ảo” các yếu tố huyền thoại, ma thuật của tín ngưỡng, tôn giáo, làm cho “quá trình cung cấp và tiêu thụ nhằm vật chất hóa và chứng minh thế giới quan để quản lý ý nghĩa và định hình diễn giải” hiện diện trước mặt tất cả các bên liên quan. Như vậy cốt lõi của diễn giải kinh tế nghi lễ chính là diễn giải sự hiện diện.
Hiện diện là một khái niệm cơ bản về nhân học nghi lễ và kinh tế nghi lễ do nhà nhân học nổi tiếng người Ý là De Martino sử dụng. Ông cho rằng trong kinh tế nghi lễ của các xã hội truyền thống, ma thuật và tôn giáo, với các hệ thống nghi lễ thần thoại liên kết thế giới nguyên thủy với dân chúng sống trong ý thức hệ đó, tạo thành tấn kịch của sự hiện diện, luôn có nguy cơ bị “giải ảo”, có nghĩa là bị mai một trong xã hội hiện đại. Khái niệm “hiện diện” của De Martino có một số nguồn gốc khác nhau từ ý tưởng “hiện diện hóa” của Pierre Janet, được định nghĩa ngắn gọn là “khả năng phân biệt giữa quá khứ và hiện tại, thực tại và phóng tưởng” (Craparo, Ortu và Van der Hart Onno, 2019). Hiện diện hóa bao gồm việc kể câu chuyện nghi lễ đồng thời với việc thực hiện hành vi đó nhằm đạt tới sự thống nhất của các câu chuyện nghi lễ về cuộc sống sao cho các hành vi hiện tại có thể được tích hợp với các hành vi trong quá khứ và các hành vi trong tương lai. (Pierre Janet F. M. 1935). Hiện diện của De Martino chắc chắn có những mối liên hệ trực tiếp với công thức hiện sinh của Heidegger về “Dasein” (hiện hữu ở đó), nhưng nó gần hơn với “présence à soi” tự hiện diện của Sartre (Sartre, Jean-Paul 1943, tr. 109–10).
Thuật ngữ hiện diện Sartrean trong diễn giải kinh tế nghi lễ của De Martino liên tục được kiến tạo, cũng như cái thế giới mà sự hiện diện của nó trở nên có ý nghĩa. Đối với phạm trù nghi lễ, thì cái siêu việt là bổn phận chính của hiện diện, nó không ngừng nỗ lực vượt ra ngoài tính cho trước của thực tại. Theo quan điểm như vậy, hiện diện đồng nhất với một cái gì đó tồn tại, nhưng trong khi ở hiện tượng luận của Sartre, đây là một thứ tồn tại mang tính bản thể luận, còn sự hiện diện của De Martino lại chuyên chở tính văn hóa-lịch sử, hiện diện thông qua động lực văn hóa-lịch sử. Do đó, khái niệm hiện diện của De Martino có thể được định nghĩa như một hiện diện trong lịch sử được định hình bằng văn hóa. Đối với nhà nhân học người Ý này, siêu việt không phải là cái tiên nghiệm cá nhân mà liên quan đến một tâm trí tộc người cụ thể, một kho di sản của những biểu hiện, thực tiễn và giá trị chung đã được thừa nhận, được trao truyền qua lịch sử. Các nghi lễ mà De Martino coi là luôn gắn bó chặt chẽ với huyền thoại là một phần của kho báu đó; chúng đại diện cho những di sản cốt lõi mà con người sử dụng, trong một số thời điểm và tình huống cụ thể, để siêu việt khỏi cái vô nghĩa của thực tại, nhằm xác lập sự hiện diện của họ và tìm lại thế giới cũng như lịch sử của mình. (Della Costa F. 2023, tr.6-7)
Nhưng làm thế nào để các loại hình kinh tế nghi lễ vận hành? De Martino trả lời câu hỏi này một cách rõ ràng là có một mối quan hệ thực sự gắn kết giữa khủng hoảng hiện diện, nguy cơ mất đi của nó và sự cứu chuộc các niềm tin tôn giáo-ma thuật. Theo đó chính quá trình tạo ra-thần thánh phải được diễn giải là sự lựa chọn những thời điểm quan trọng mẫu mực và là một kỹ thuật – hoặc một hệ thống các kỹ thuật – để đối mặt với nguy cơ đánh mất hiện diện (De Martino, 1956 [2015], tr. 443). Kỹ thuật cơ bản vận hành tái hòa nhập tôn giáo-ma thuật trong kinh tế nghi lễ như vậy được De Martino gọi là “quá trình giải lịch sử hóa thể chế” và có thể được coi là cơ chế rất cơ bản của kinh tế nghi lễ. Những bước chuyển quyết định, những tình huống khó khăn, những khoảnh khắc đau khổ trong cuộc sống có thể làm tăng nguy cơ tan rã hiện diện của người ta, và do đó, trong một nghi lễ, chúng được “phi lịch sử hóa, nghĩa là chúng được che đậy và bảo vệ - với sự lặp lại của những cái giống hệt; và, cuối cùng, như thể chúng không phải là mới, mà là lặp lại một tình huống nguyên mẫu, vốn đã diễn ra trong lịch sử.” Theo cách này, các yếu tố của kinh tế nghi lễ chính là “cái ‘ở đây’ và ‘bây giờ’ của lịch sử được tái khám phá, và lấy lại sự hiện diện - ở các cấp độ nhận thức và tiềm năng văn hóa khác nhau - sự sung túc tự thân những chân trời hình thức của chính nó” (De Martino, [1956] 2015, tr. 443).
Hiện diện của kinh tế nghi lễ suy cho cùng là “một phương thức tồn tại” vận hành thông qua hệ thống biểu tượng. Biểu tượng là hòn đá tảng trong lý thuyết của De Martino cũng như trong cách tiếp cận của Lévi-Strauss, Geertz và Turner, nhưng De Martino lại nhìn nhận bằng một viễn cảnh đặc biệt. Đối với ông, biểu tượng thần thoại-nghi lễ tất nhiên là một mô hình của biểu hiện và hành vi. Tuy nhiên, điều mang lại sự tái hòa nhập tôn giáo trong kinh tế nghi lễ cho khủng hoảng hiện diện với hiệu quả tập thể và lâu dài chính là biểu tượng với tư cách là thực tiễn của một truyền thống văn hóa, vốn là sự chia sẻ các giá trị liên chủ thể, gồm cá nhân, nhóm, cộng đồng, quốc gia, …v.v. Quan điểm này rút ra trực tiếp từ “khảo cổ học triết học” về khái niệm hiện diện của De Martino, ông coi tính thống nhất siêu việt của Kant về tự nhận thức lý tính của con người là nền tảng cơ bản của quyền tự chủ của cá nhân, vốn được coi là hiển nhiên trong nhận thức luận và bản thể luận của hiện diện ngay cả trong kinh tế nghi lễ. (Della Costa F. 2023, tr.8) “Để tạo ra sự đối lập giữa ‘chủ thể’ và ‘thế giới’, hoặc sự phân biệt giữa tính thống nhất chủ quan của ego/ngã và thực tại khách quan của những gì có thật thì cần phải có một hành vi của chức năng siêu việt thống hợp,” tức là “sự thống nhất theo các hình thức nhất định” (De Martino, [1948] 1988, tr. 146).
Nguồn lực trong Kinh tế Nghi lễ
Thực chất của kinh tế nghi lễ chính là mối quan hệ giữa các yếu tố ma thuật tôn giáo phi lý tính và các yếu tố kinh tế duy lý. Vậy thì nguyên lý trao đổi quà biếu dựa trên khái niệm “hau” của người Maori, cho rằng “hau” chính là một loại linh hồn hoặc lực lượng tìm cách quay trở lại nguồn gốc của nó. Mauss cho rằng “hau” là logic của nguyên tắc có đi có lại, còn Sahlins đưa ra một quan điểm rất có ảnh hưởng khẳng định người Maori coi “hau” là một nguyên tắc chung về khả năng sinh sản hoặc mắn đẻ, một nguyên tắc xuyên suốt mọi mối quan hệ. (Mauss M., 1990) Trong khi người phương Tây gán những mối quan hệ này cho hai lĩnh vực khác nhau, một mặt là tinh thần hoặc tôn giáo, mặt khác là vật chất và kinh tế, thì theo Sahlins, người Maori nhấn mạnh đến sự thống nhất: “Đó [hau] là một phạm trù không tạo ra các khác biệt, bản thân nó không thuộc lĩnh vực mà chúng ta gọi là ‘tâm linh’ cũng không thuộc lĩnh vực ‘vật chất’, mà có thể áp dụng cho cả hai.” (Sahlins M.,1972, tr. 168). Đối với hầu hết các nhà nhân học, kinh tế là một quá trình phức tạp liên quan đến các hoạt động sản xuất, phân phối và tiêu dùng. Nhiều học giả thuộc các lĩnh vực nhân học, kinh tế học, khoa học chính trị và xã hội học áp dụng kinh tế học vào lĩnh vực hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu của con người thông qua phân bổ hợp lý các nguồn lực của các cá nhân, nhóm, cộng đồng nhằm tối đa hóa các mục tiêu của họ. Roland Hardenberg, giáo sư Đại học Tübingen chuyên gia về kinh tế nghi lễ cho rằng hoàn toàn có thể phân tích kinh tế nghi lễ như một quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, như một sự phân bổ hợp lý các nguồn lực hoặc như một sự chuyển đổi các hình thức vốn khác nhau, và ông cũng nhìn nhận nội hàm “hau” của người Maori theo quan niệm này. (Hardenberg R. 2014)
Để có thể diễn giải thấu đáo thực chất hiện diện của kinh tế nghi lễ, Roland Hardenberg đã đề xuất thay thế thuật ngữ tôn giáo bằng kosmischen Beziehungen “các mối quan hệ vũ trụ” bởi vì nội hàm của khái niệm này cũng bao gồm các thế giới quan linh thiêng dù không có chức vị tư tế và các cơ sở thần học phức tạp. Theo ông, thuật ngữ “vũ trụ” cũng chuyển tải quan điểm trong đó xã hội không được coi là một cái gì đó khác biệt và duy nhất đối với con người mà là một phần của vũ trụ rộng lớn hơn mà con người ấp ủ các mối quan hệ khác nhau trong các bối cảnh khác nhau của cuộc sống. “Vũ trụ” gợi ý về các chiều kích rộng hơn của một thế giới quan như vậy. Hơn nữa, “tôn giáo” là một khái niệm do chính con người sử dụng để phân định giữa tôn giáo “chân chính” với “mê tín”. Tuy nhiên, từ quan điểm nhân học, cả “tôn giáo” và “mê tín” đều thuộc phạm vi vũ trụ khi chúng điều chỉnh các mối quan hệ giữa con người và không phải con người. Các mối quan hệ trong một vũ trụ như vậy được tạo ra và tái tạo thông qua các cam kết trực tiếp với các tác nhân khác nhau tạo nên môi trường phức tạp của kinh tế nghi lễ. Những cam kết như vậy có thể có nhiều hình thức khác nhau, trong đó điều cần quan tâm nhất là hoạt động nghi lễ. Nghi lễ nhìn từ góc độ kinh tế chính là sự sáng tạo, tái tạo hoặc thay đổi các mối quan hệ xã hội-vũ trụ thông qua các hình thức trao đổi khác nhau, mà trao đổi có nghĩa là thực hành “mối quan hệ giữa các bên”, tức là một cái gì đó liên quan đến các tác nhân được định nghĩa là “khác”. Những cái/kẻ “khác” này có thể là con người hoặc không phải con người, chính là agencies các tác tố được một thế giới quan cụ thể công nhận. (Hardenberg R. 2014)
Vậy thì, kinh tế nghi lễ chính là sự gắn kết giữa nhân tố kinh tế và nhân tố nghi lễ với nhau thông qua “nguồn lực”. Hardenberg có một quan niệm độc đáo về nguồn lực, đối với ông nguồn lực không phải là một sự vật hay một bản chất, mà là một quá trình. Tại vì các nguồn lực không chỉ đơn giản là có đó, mà do con người tạo ra thông qua các hành vi định giá và hiện thực hóa giá trị bằng Wertschöpfung giá trị gia tăng. Trước hết, con người, vì lý do lịch sử cộng đồng của họ, mà xác định một thứ gì đó có giá trị đối với hình thức sống cụ thể của họ. Các nhân tố khác nhau có thể dẫn đến việc tiếp tục hoặc bãi bỏ các giá trị cụ thể căn cứ trên các định giá xã hội. Thứ hai, những gì được coi là có giá trị chỉ trở thành nguồn lực thông qua các hoạt động của con người. Cách tiếp cận này được minh họa rõ nhất qua định nghĩa kinh tế nghi lễ là “quá trình cung cấp và tiêu thụ nhằm vật chất hóa và chứng minh thế giới quan để quản lý ý nghĩa và định hình diễn giải” (McAnany P. A., and E. Wells 2008, tr. 3) Mặt khác, người ta có thể xem xét việc phân bổ, hành động được quan tâm, việc tối đa hóa và các khái niệm có liên quan từ kinh tế học và đặt câu hỏi chúng đóng vai trò gì trong quá trình định giá và hiện thực hóa Wertschöpfung giá trị gia tăng. Do đó, chúng ta phải “mở rộng tính toán kinh tế cho tất cả các loại hàng hóa mang tính vật chất và biểu tượng, không phân biệt, là những gì tự thể hiện là hiếm và đáng được tìm kiếm trong một hình thái xã hội cụ thể.” (Bourdieu 1977, tr. 178).
Vài gợi ý ứng dụng kinh tế nghi lễ cho lễ hội đền Bảo Hà
Lý lịch Di sản Văn hóa Phi vật thể Đền Bảo Hà cho biết: Lễ hội Đền Bảo Hà thuộc di tích đền Đền Bảo Hà, là để tôn vinh danh tướng Hoàng Bẩy và quân sĩ đã có công đánh giặc giữ nước, mở mang bờ cõi, quy tụ nhân dân mở ấp khai điền tại địa bàn tỉnh Lào Cai nhưng đã trở thành phong tục, lễ hội truyền thống tỉnh Lào Cai nói riêng và cả nước nói chung. Buổi đầu nghi lễ có quy mô rất nhỏ, ở phạm vi các thôn bản. Càng về sau uy linh của Ông càng được truyền tụng rộng rãi trong dân gian, mọi người đến dâng lễ Đền Ông ngày một đông đảo hơn mà còn đóng góp công đức gây dựng Đền càng trở nên khang trang, bề thế hơn. Vì vậy tín ngưỡng thờ ông Hoàng Bẩy ngày càng được lưu truyền sâu rộng trong dân gian, đặc biệt là yếu tố “thiêng” ngày càng lan tỏa và nhân lên gấp bội tạo nên văn hóa tâm linh Đền Bảo Hà trong lòng mỗi người dân Lào Cai nói riêng và Việt Nam nói chung. (Uỷ ban Nhân dân Tỉnh Lào Cai – Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch 2016). Đặc biệt, xem xét về giá trị kinh tế của lễ hội Đền Bảo Hà, Lý lịch Di sản Văn hóa Phi vật thể cho biết: mỗi năm có hàng vạn lượt du khách đến Bảo Hà, chiêm bái, dâng hương, thúc đẩy phát triển du lịch tâm linh, đồng thời, tạo thêm công ăn việc làm và thu nhập cho người dân địa phương thông qua việc tiêu thụ các sản vật và sản phẩm du lịch của địa phương của người Kinh, người Tày, người Dao và người Mông. Đồng thời, các ngành nghề liên quan đến kinh tế nghi lễ cũng phát triển phục vụ nhu cầu tâm linh của du khách. Việc phát triển nghề thủ công góp phần tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương giúp xóa đói giảm nghèo. Tại xã Bảo Hà ngày nay, nhiều dịch vụ đã phát triển đáp ứng nhu cầu của khách tham quan hành lễ như: nhà nghỉ, khách sạn và dịch vụ đặt đồ lễ với giá cả hợp lý. (Uỷ ban Nhân dân Tỉnh Lào Cai – Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch 2016).
Từ thực tế tín ngưỡng và lễ hội Đền Bảo Hà, đối chiếu với khung lý thuyết đã được trình bày ở trên, chúng tôi mong muốn đề xuất một số gợi ý nghiên cứu ứng dụng phát triển kinh tế nghi lễ cho lễ hội Đền Bảo Hà như sau:
1. Tăng cường nguồn lực kinh tế nghi lễ thông qua diễn giải đa dạng, sâu sắc, thấu đáo hình tượng Ông Hoàng Bẩy nhằm kết hợp nhuần nhuyễn giữa nghi lễ và kinh tế và thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế nghi lễ địa phương.
1.1. Mối quan hệ giữa nghi lễ và kinh
tế trong lễ hội Đền Bảo Hà là một vấn đề đa dạng, phong phú và tế nhị, vì Ông
Hoàng Bẩy thực sự là biểu tượng “bản thể luận quan hệ” của rất nhiều hệ giá trị
ở nhiều cấp độ, thực sự là nguồn lực cho quá trình phát triển kinh tế nghi lễ của
Bảo Yên nói riêng và Lào Cai nói chung. Về phương diện tôn giáo tín ngưỡng biểu
tượng đó chuyển tải những giá trị từ linh thiêng nhất đến trần thế nhất; Vì vậy
việc diễn giải biểu tượng Ông Hoàng Bẩy, chính là quá trình khẳng định, sáng tạo
và tái tạo “nguồn lực kinh tế nghi lễ” cho Lễ hội Đền Bảo Hà. Ông Hoàng Bảy dù
có lý lịch thân nhân là vị tướng thời Lê Cảnh Hưng (1740 – 1786), nhưng khi gia
nhập Thần điện Đạo Mẫu ông đã trở thành một vị thần sáng thế (Genesis) gắn liền
với vũ trụ thần thoại Việt chí ít cũng được liên tưởng đến thời khai thiên lập
địa của các thế hệ Rồng, Tiên xưa. Vì vậy dù thân làm tướng, nhưng Ông không chỉ
đơn thuần là vị tướng cầm quân đánh giặc, mà ông còn là vị tướng biểu trưng cho
cái Thiện để diệt trừ cái Ác, theo cả nghĩa Phật giáo của cặp phạm trù ấy. Về
phương diện này hình tượng Ông Hoàng không khác gì một vị Bồ Tát cứu nhân độ thế.
1.2. Về phương diện nhóm xã hội, biểu tượng đó cũng liên quan đến các cấp độ đơn vị xã hội nhỏ nhất là cá nhân, đến gia đình, các nhóm, giới người. Từ góc độ cá nhân, nhiều phận người bất trị và bất hạnh đã gửi gắm niềm tin vào tín ngưỡng Ông Hoàng Bẩy có thể cứu vớt họ khỏi sa ngã (những kẻ nghiện ngập, đĩ điếm, trộm cắp, cướp bóc, nhũng lạm chẳng hạn), khỏi đau khổ, mất mát (những người thất tình, thất lộc, mất của, mất mát người thân chẳng hạn); không ít kẻ mong muốn tiến thân trên con đường học hành, sự nghiệp, kinh doanh, thăng tiến cũng tìm đến cửa Ông. Cũng hệt như vậy đối với vô số gia đình, các nhóm, các giới người tìm đến Đền Ông Hoàng Bảy hầu mong trút bỏ gánh bất hạnh, để quảy phúc lạc về.
1.3. Về phương diện tộc người, vùng, và quốc gia, biểu tượng Ông Hoàng Bẩy đại diện cho các hệ giá trị thật cao quý và bền vững: i) Chưa kể toàn tỉnh Lào Cai, riêng đất Bảo Yên đã là nơi chung sống của nhiều tộc người, trong đó dân tộc Kinh chiếm 32,56 %; Tày 31,93 %; Dao chiếm 22,16 %; Mông chiếm 8,61 %; Nùng 1,96; Phù Lá 1,1 %; Giáy 1,09 %, v.v…Đối với quần thể người ở đây, Ông vừa là vị thánh bảo hộ, vừa là mối dây tâm linh kết nối các tộc người khác nhau thành một khối thống nhất. ii) Bên cạnh công lao giữ yên biên giới, Ông còn có công chiêu mộ nhân dân khai hoang ruộng đất, khai mỏ vì thế tất cả các dân tộc Kinh, Mông, Dao, Tày...trên khắp tỉnh Lào Cai đều tôn thờ Ông như một vị thần. (Uỷ ban Nhân dân Tỉnh Lào Cai – Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch 2016). Về phương diện này Ông Hoàng đã trở thành hình tượng kép: Vừa là anh hùng trận mạc lại vừa là anh hùng văn hóa.
2. Phát triển các loại hình trình diễn liên quan đến hình tượng Ông Hoàng Bẩy nhằm khẳng định và tái tạo hình tượng đó đối với người dân địa phương, với du khách và các thế hệ người dân Việt Nam nhằm thúc đẩy kinh tế nghi lễ của Bảo Yên nói riêng và Lào Cai nói chung.
Như đã phân tích, trong kinh tế nghi lễ, thực hành nghi lễ chính là hành động trình diễn nghi lễ, vì nó xuất trình các hành động trong các lĩnh vực thiêng liêng và trần tục của xã hội liên quan đến lễ hội, thông qua các lễ hội, các vai diễn nhằm phục vụ mục đích cuối cùng là khẳng định, tái tạo hoặc thay đổi các diễn giải hiện có về các hệ thống biểu tượng. Điều đó hoàn toàn đúng và cần thiết đối với trường hợp Đền Bảo Hà và các loại hình lễ hội liên quan. Một số trong những hành động “trình diễn nghi lễ” quan trọng nhất mà người dân và chính quyền xã Bảo Hà, huyện Bảo Yên và tỉnh Lào Cai đã làm là mở rộng được không gian di tích lịch sử văn hóa quốc gia Đền Bảo Hà từ 9.000m2 năm 1997 lên 32 ha năm 2015 cùng hàng loạt hạng mục công trình liên quan đến tổng thể kiến trúc Đền Bảo Hà được thiết kế, xây dựng nhằm khẳng định thêm các giá trị về văn hóa tâm linh của ngôi đền và đảm bảo những điều kiện tốt nhất cho du khách khi đến với Đền, về dự lễ hội Đền Bảo Hà. Ngành du lịch địa phương và Trung ương đã kết nối được tuyến du lịch tâm linh dọc sông Hồng về đến Hà Nội. Và đặc biệt lịch sử phát triển tín ngưỡng thờ Mẫu đưa Thần Vệ Quốc Hoàng Bẩy trở thành một trong số các Ông Hoàng tối linh được thờ cúng trong điện thần Đạo Mẫu ở Việt Nam (Uỷ ban Nhân dân Tỉnh Lào Cai – Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch 2016). Tuy nhiên, theo chúng tôi, ba trong số những loại hình “trình diễn kinh tế nghi lễ” đáng làm và có thể làm được liên quan đến Ông Hoàng Bẩy là: i) Tái tạo không-thời gian và các diễn giải để thiết kế các tours, tuyến du lịch, giáo dục nhà trường đến những địa danh lịch sử (hoặc truyền thuyết) mà Ông Hoàng đã chỉ huy quân đội chống giặc bảo vệ nhân dân, giữ gìn biên cương; ii) Tái tạo không-thời gian và các diễn giải để thiết kế các tours, tuyến du lịch, giáo dục nhà trường đến những địa danh lịch sử (hoặc truyền thuyết) mà Ông Hoàng đã lãnh đạo và giúp đỡ nhân dân các dân tộc trên địa bàn Lào Cai xây dựng, mở mang làng bản; iii) Tái tạo không-thời gian và các diễn giải để thiết kế các tours, tuyến du lịch, giáo dục nhà trường đến những địa danh lịch sử (hoặc truyền thuyết) mà Ông Hoàng đã giúp, tổ chức khai mỏ trên địa bản Bảo Yên nói riêng và Lào Cai nói chung.
3. Tăng cường nguồn lực kinh tế nghi lễ thông qua việc khẳng định và tái tạo sự hiện diện của hình tượng Ông Hoàng Bẩy làm cho hình tượng đó luôn sống động, hấp dẫn và đầy ý nghĩa đối với người dân địa phương, với du khách và các thế hệ người dân Việt Nam nhằm thúc đẩy kinh tế nghi lễ của Bảo Yên nói riêng và Lào Cai nói chung thông qua các loại hình trình diễn văn nghệ truyền thống của các dân tộc trên địa bàn Lào Cai nói riêng và cả nước nói chung.
Trong vốn văn hóa nghệ thuật truyền thống kể cả dân gian và cung đình của nhiều dân tộc ở cả ba miền trên đất nước Việt Nam có rất nhiều loại hình trình diễn đặc biệt thích hợp với việc ngợi ca một nhân vật vừa với tư cách anh hùng dân tộc, vừa với tư cách anh hùng văn hóa như Ông Hoàng Bẩy. Các loại hình đàn ca tài tử Nam Bộ, tuồng cổ Nam Trung Bộ, nhã nhạc cung đình Huế, chầu văn đồng bằng Bắc Bộ, hát Then của người Tày, v.v… hoàn toàn thích hợp cho việc khẳng định, tái tạo và diễn giải sự hiện diện của hình tượng Ông Hoàng Bẩy cả trong các tín điều mang tính bản thể luận của cái thiêng, cái siêu việt, lẫn trong các quan hệ xã hội của đời sống hàng ngày. Vì vậy hệ thống thể chế văn hóa của huyện Bảo Yên và của tỉnh Lào Cai hoàn toàn có thể tổ chức các loại hình lễ hội có liên quan, kể cả việc tổ chức các cuộc thi sáng tác và trình diễn tôn vinh Ông Hoàng Bẩy, nhằm tăng cường nguồn lực cho việc phát triển kinh tế nghi lễ của địa phương.
Kết luận
Đền Bảo Hà, Lễ hội Đền Bảo Hà, và hình tượng Ông Hoàng Bẩy đã trở thành di sản văn hóa Quốc gia. Tuy nhiên khác với rất nhiều địa điểm di sản và loại hình di sản bất động khác, lễ hội Đền Bảo Hà, và hình tượng Ông Hoàng Bẩy là loại hình di sản đặc biệt, trở thành nguồn lực của kinh tế nghi lễ, vận động cùng quá trình phát triển của đời sống vật chất và đặc biệt là đời sống xã hội và tâm linh của các cộng đồng dân tộc ở Bảo Yên, Lào Cai, và của cả nước. Sở dĩ như vậy chính là nhờ uy linh của Ông Hoàng Bẩy – nay đã trở thành tín ngưỡng Ông Hoàng Bẩy - một kết tinh các giá trị cốt lõi không chỉ của đời sống mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi nhóm, giới, tộc người mà còn cả vận mệnh quốc gia. Vì vậy việc phát triển các nguồn lực kinh tế nghi lễ của Đền Bảo Hà, Lễ hội Đền Bảo Hà có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với quá trình phát triển bền vững của Bảo Hà, Bảo Yên, Lào Cai và của cả nước.
________________________________________________
Nguồn: Hà Hữu Nga (2023). Kinh tế nghi lễ - Nội hàm Khái niệm và gợi ý Ứng dụng cho Lễ hội Đền Bảo Hà. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Thần vệ quốc Hoàng Bẩy – Bảo Hà: Công tác Quản lý và Phát huy Giá trị Di tích Lịch sử, Bảo Yên, Lào Cai ngày 26/8/2023 do UBND huyện Bảo Yên tổ chức, tr.71-86.
Tài liệu dẫn
Austin, J. L. (1962). How to Do Things with Words. Oxford, Clarendon Press.
Bell, Catherine (1997). Ritual: Perspectives and Dimensions. Oxford University Press, New York.
Bourdieu, Pierre (1977). Outline of a Theory of Practice. Cambridge: Cambridge University Press.
Bourdieu, P. (1984). Distinction: A Social Critique of the Judgment of Taste. Routledge & Kegan Paul, London.
Callaghan, Michael George (2008). Technologies of Power: Ritual Economy and Ceramic Production in the Terminal Preclassic Period Holmul Region, Guatemala. Ph.D Dissertation in Anthropology, December, 2008. Vanderbilt University, Nashville, Tennessee.
Clark, John E. and Michael Blake (1994). The Power of Prestige: Competitive Generosity and the Emergence of Rank Societies in lowland Mesoamerica. In Factional Competition and Political Development in the New World. Edited by Elizabeth M. Brumfiel and John W. Fox. pp. 17-30. Cambridge University Press: Cambridge.
Craparo G, Ortu F and Van der Hart Onno (2019). Rediscovering Pierre Janet: Trauma, Dissociation, and a New Context for Psychoanalysis. London: Routledge.
De Martino E (1948 [1988]). Primitive Magic: The Psychic Power of Shamans and Sorcerers. (Original Italian edition: Il mondo magico. Prolegomeni a una storia del magismo. Torino: Einaudi, 1948.
De Martino E (1956 [2015]). Crisi della presenza e reintegrazione religiosa. Aut Aut 31: 17–38. (Crisis of presence and religious reintegration [trans. Charles Stewart and Tobia Farnetti]. HAU Journal of Ethnographic Theory 2015; 2(2): 434–450).
Della Costa F. (2023). Ritual as metaphor, In Anthropological Theory 2023, Vol. 23(1) 3–32.
Gennep, A. v. (1960). The Rites of Passage. Chicago, University of Chicago Press.
Goffman, E. (1958). The presentation of self in everyday life. Edinburgh, University of Edinburgh Social Sciences Research Centre.
Gudeman, Stephen and Chris Hann (2015). Introduction: Ritual, Economy and the Institutions of the Base. In Economy and Ritual - Studies of Postsocialist Transformations, Edited by Stephen Gudeman and Chris Hann, Published by Berghahn Books.
Halse, Joachim and Brendon Clark (2008). Design Rituals and Performative Ethnography, In EPIC 2008 proceedings of Ethnographic Praxis in Industry Conference, 15-18 October 2008, Copenhagen, Denmark, edited by Cefkin, Melissa; Cotton, Martha, 2008, p. 128-145.
Hardenberg R. (2014). Ritual Economy and Ritual Resource - Some General Remarks. Summerschool “Ritual as Resource”, Tübingen University.
Latour, Bruno (1999). For David Bloor… and Beyond: A Reply to David Bloor's Anti-Latour. Studies in the History and Philosophy of Science 30(1):81-112.
Leach, Edmund (2000). The Aesthetic Frills—Ritual. In The Essential Edmund Leach, ed. Stephen Hugh-Jones and James Laidlaw, Vol. 1, 153–209. New Haven: Yale University Press.
LeCount, Lisa (2001). Like Water for Chocolate: Feasting and Political Ritual among the Late Classic Maya at Xunantunich, Belize. American Anthropologist 103(4):935-953.
Mauss, Marcel (1990). The Gift. Translated by W. D. Halls with foreword for Mary Douglas. London: W. W. Norton.
McAnany, Patricia A., and E. Christian Wells (2008). Towards a Theory of Ritual Economy. In Dimensions of Ritual Economy, edited by E.C. Wells and P.A. McAnany, pp. 1–16. Emerald Group Publishing Limited, Bingley, UK.
Meillasoux, Claude (1960). Essai d’interpretation du phenomene economique dans les societies traditionelles d’autosubsistance. Cahiers d’Etudes Africaines, I, 4:38-67.
Moses, Victoria Carley (2020). The Zooarchaeology of Early Rome: Meat Production, Distribution, and Consumption in Public and Private Spaces (9th-5th Centuries BCE). Ph.D. Dissertation, The University of Arizona.
North, Douglass (2005). Institutions, Institutional Change and Economic Performance. Cambridge: Cambridge University Press.
O’Donovan Maria (2002). The Dynamics of Power. In The Dynamics of Power, pp. 3-18. Center for Archaeological Investigations Southern Illinois University Carbondale Occasional Paper No. 30. University of Carbondale: Illinois.
Pierre Janet F. M. (1935). Réalisation et interprétation. In: Bulletin de psychologie, tome 47 n°414, 1994. Pierre Janet. Les délires d'influence et les sentiments sociaux. Tome II. p. 129.
Preucel, Robert and Ian Hodder ed., (1996). Contemporary Archaeology in Theory. Blackwell Publishing: Oxford.
Sahlins, Marshall D. (1972). Stone Age Economics. Chicago: University of Chicago Press.
Sartre JP (1943). L’être et le néant. Essai d’ontologie phénoménologique. Paris: Gallimard.
Schechner, R. (1988). Performance Theory. New York, Routledge.
Spielmann, Katherine (2002). Feasting, Craft Specialization, and the Ritual Mode of Production in Small‐Scale Societies. American Anthropologist 104 (1):195-207.
Turner, V. (1996). Betwixt and Between: The Liminal Period in “Rites de Passage.” Sosialantropologiske Grunntekster. T. H. Eriksen. Oslo, Norway, Ad Notam Gyldendal: 509-523.
Uỷ ban Nhân dân Tỉnh Lào Cai – Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2016). Lễ hội Đề Bảo Hà - Lý lịch Di sản Văn hóa Phi vật thể đưa vào danh mục Di sản Văn hóa Phi vật thể Quốc gia. Sở Văn hóa Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lào Cai.
Wallerstein, Immanuel (1974). The Modern World System. New York: Academic Press.
Weber, Max (1947). The Theory of Social and Economic Organization. Translated by A. M. Henderson and Talcott Parsons. Oxford University Press: New York.
Wells, E. Christian (2006). Recent Trends in Theorizing Prehispanic Mesoamerican Economies. Journal of Archaeological Research 14(4):265-312.