Vùng
kinh tế và các khái niệm liên quan
Hà
Hữu Nga
1. Khái niệm vùng kinh tế
Khái niệm vùng kinh tế hiện đại có một lịch sử phát triển
hàng thập kỷ, với rất nhiều thay đổi, tuỳ từng điều kiện kinh tế, chính trị, xã
hội của mỗi quốc gia. Liên Xô và hầu hết các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa
Đông Âu trước đây vẫn coi định nghĩa vùng kinh tế của Alaev là một định nghĩa
mang tính kinh điển: “Vùng kinh tế là một bộ phận lãnh thổ nguyên vẹn của nền
kinh tế quốc dân, có những dấu hiệu sau: chuyên môn hoá những chức năng kinh tế
quốc dân cơ bản; tính tổng hợp: được hiểu theo nghĩa rộng như là mối quan hệ
qua lại giữa các bộ phận cấu thành quan trọng nhất trong cơ cấu kinh tế và cơ
cấu lãnh thổ của vùng..., coi vùng như là hệ thống toàn vẹn, một đơn vị có tổ
chức trong bộ máy quản lý lãnh thổ nền kinh tế quốc dân” [Dẫn theo: Nguyễn Xuân
Thu, Nguyễn Văn Phú (Đồng chủ biên) 2006: 20]. Kể từ khi Liên Xô tan vỡ, quan
niệm về vùng kinh tế và cấu trúc vùng kinh tế của nước Nga đã có rất nhiều thay
đổi. Hiện nay người Nga chia đất nước thành 12 vùng kinh tế và đó cũng chính là
các nhóm đơn vị hành chính, có chung các đặc trưng sau: i) có các mục đích kinh
tế và xã hội chung và đều tham gia vào các chương trình phát triển; ii) có các
điều kiện và tiềm năng kinh tế tương đối giống nhau; iii) có các điều kiện địa
chất, sinh thái và khí hậu tương đồng; iv) tương đồng về các phương pháp thanh
tra kỹ thuật xây dựng mới; v) có các phương pháp giám sát hải quan tương đồng;
vi) tương đồng tổng thể về các điều kiện sống của dân cư. Không có bất cứ một
chủ thể nào của Liên bang có thể vừa thuộc về vùng kinh tế này lại vừa thuộc về
một vùng kinh tế khác. Các vùng kinh tế còn được chia thành các khu kinh tế
(còn gọi là các vùng vĩ mô “macrozones”). Một vùng kinh tế hoặc các bộ phận của
nó có thể thuộc về các vùng vĩ mô khác nhau. Việc thành lập mới hoặc huỷ bỏ các
vùng, các vùng vĩ mô, hoặc bất cứ thay đổi nào về cấu trúc của chúng cũng đều
do chính phủ Liên bang quyết định [Russian Government
1997].
Các nước Đông Âu mới cũng đã không ngừng cải cách cấu
trúc kinh tế của mình, trong đó có việc tái cấu trúc các vùng kinh tế thích hợp
với những đòi hỏi của quá trình hội nhập quốc tế, đặc biệt là hội nhập với các
nước thuộc Liên minh Châu Âu, trong đó Ba Lan có thể được coi là một trường hợp
điển hình cho một cách tiếp cận mới đối với khái niệm vùng kinh tế. Theo họ
“Một vùng kinh tế là một lĩnh vực xã hội tổng thể được tạo bởi các công ty, các
thể chế cũng như các bản sắc và các tác nhân trong vùng. Trong một khuôn
khổ chung nhất, các lĩnh vực như vậy được
tạo bởi: i) các tổ chức tìm cách cấu trúc các môi trường của chúng; ii) các
đạo luật và các thể chế đã có từ trước, vận hành để vừa hạn chế vừa tạo điều
kiện cho các tác nhân trong vùng; và iii) các tác nhân chiến lược có kỹ năng
điêu luyện làm việc trong các tổ chức, giúp duy trì sự hợp tác giữa các nhóm và
các lợi ích khác nhau” [Fligstein and Stone Sweet 2002: 1211)]. Các năng lực
vùng được gắn chặt với năng lực tổ chức của các công ty, cấu trúc công nghiệp,
các mô hình chuyên môn hóa, và trong cấu trúc thể chế của nó. “Đặc trưng này
gắn liền với các khái niệm thuộc các hệ thống đổi mới vùng định danh mục tiêu,
và các cụm vùng. Về cơ bản hệ thống đổi mới vùng bao gồm hai loại tác nhân
chính và các tương tác giữa các tác nhân đó. Những tác nhân đầu tiên là các
công ty trong cụm công nghiệp chủ yếu trong một vùng, bao gồm cả các ngành công
nghiệp hỗ trợ của chúng. Tiếp đó, cần phải có một hạ tầng thể chế, tức là các
viện nghiên cứu, các cơ sở giáo dục cấp cao, các cơ sở chuyển giao công nghệ,
các tổ chức đào tạo nghề, các hội kinh doanh, các thể chế tài chính, v.v... có
đủ năng lực để hỗ trợ cho quá trình đổi mới vùng” [Asheim and Isaksen 2002:
83].
Ngược lại với khái niệm cụm được định nghiã là “các
công ty gần gũi về phương diện địa lý theo mối quan hệ dọc hoặc quan hệ ngang
liên quan đến một hạ tầng cơ sở hỗ trợ công ty được địa phương hóa có một tầm
nhìn phát triển chung cho tăng trưởng kinh doanh dựa trên cạnh tranh và hợp
tác trong một khu vực thị trường cụ thể” (Cooke 2002: 121) – tầm quan trọng tương
đối của các cấu trúc thể chế hỗ trợ là rất cao. Các cấu trúc đó chính là “ký
ức” của vùng, là kết quả của những kinh nghiệm hợp tác và xung đột trong vùng.
Các cấu trúc thể chế này được Salais và Storper [1997] mô tả là các trật tự
vùng, chẳng hạn như các truyền thống, các mong muốn cố kết lẫn nhau, các thói
quen, và các cách thức hành động trong vùng. Các thể chế, hoặc các cấu trúc
hành chính, các truyền thống, các thói quen đó được tạo ra và được tái tạo
theo cách cởi mở, nhưng lại phụ thuộc vào những cách thực hiện bởi: i) các
chiến lược tối thiểu hóa chi phí giao dịch của công ty; ii) các nhà chức trách
vùng (đặc biệt là nhà nước liên bang) và; iii) các tác nhân phi chính phủ
(chẳng hạn như các công đoàn, các hội kinh doanh, hội nghề nghiệp, các tổ chức
phi chính phủ (NGOs) hoặc đôi khi là các tác tố cá nhân). Các cấu trúc hành
chính đóng vai trò quyết định cho tiềm năng đổi mới của các vùng và các công ty
trong vùng, vì chúng liên quan đến các mô hình tổ chức họat động, quản lý và
đổi mới, luôn tạo ra các mô thức liên tổ chức hợp tác, cạnh tranh, và còn vì
chúng điều chỉnh các mối quan hệ giữa các doanh nghiệp, khoa học, công nghệ,
giáo dục và chính trị [Cooke 1998].
Khác
với các định nghĩa tương đối phức tạp trên, người Canada lại quan niệm rất đơn
giản: “Một vùng kinh tế là một cách nhóm các đơn vị dân cư nguyên vẹn để tạo
thành một đơn vị địa lý chuẩn phục vụ cho việc phân tích các hoạt động kinh tế
vùng”. Trong tỉnh Quebec, các vùng kinh tế còn được gọi là các vùng hành chính
(régions administratives) và việc phân vùng được tuân thủ theo pháp
luật. Trong tất cả các tỉnh và các vùng lãnh thổ khác, các vùng kinh tế được
tạo bởi sự thoả thuận giữa Cục thống kê Canada và tỉnh/lãnh thổ liên quan. Đảo
Prince Edward Island và ba vùng lãnh thổ khác mỗi vùng đều được coi là một vùng
kinh tế. Riêng Ontario có một ngoại lệ vì ở đó ranh giới vùng kinh tế không
tuân thủ theo các ranh giới đơn vị dân cư: đơn vị dân cư Halton bị chia tách
bởi vùng kinh tế Hamilton – Bán đảo Niagara và vùng kinh tế Toronto.
Còn đối với người Mỹ thì quan niệm về vùng kinh tế đã có những
thay đổi đáng kể. Từ giữa thế kỷ 19, Văn phòng Dân số đã tập hợp dữ liệu các
bang thành các vùng gốm nhiều bang. Gần đây Văn phòng này đã chia 50 bang thành
4 vùng kinh tế và bốn vùng đó lại được chia thành 9 phân vùng. Không kể việc bổ
sung Alaska và Hawaii vào phân vùng Thái Bình Dương vào những năm 1950 thì việc
chia thành 9 phân vùng vẫn không thay đổi kể từ năm 1910. Tuy nhiên, sau cuộc
tổng điều tra dân số năm 1950, một Uỷ ban Liên cơ quan thuộc Bộ thương mại đã
xem xét lại định nghĩa về vùng và phân vùng bằng tiêu chuẩn đồng nhất kinh tế -
xã hội. Cuối cùng các bang đã được phân chia lại, nhưng Văn phòng Dân số Mỹ đã
không chấp nhận. Trong khi đó thì Văn phòng Phân tích Kinh tế Liên bang lại
chấp nhận việc nhóm nhiều bang thành một vùng kinh tế, và việc chia toàn Liên
bang thành 8 vùng đã được chấp nhận kể từ những năm 1950. Ngoại trừ khuynh
hướng chia theo thu nhập đầu người (từ 1929 – 1950), các biến kinh tế được Uỷ
ban Liên cơ quan thuộc Bộ Thương mại sử dụng đều mô tả các dữ liệu kinh tế theo
thời điểm. Các nhân tố kinh tế khác được xem xét trong định nghĩa vùng đều được
cấu trúc bởi thu nhập theo các nguồn dữ liệu năm 1950. Các nhân tố phi kinh tế
được sử dụng để nhóm các bang thành vùng bao gồm mật độ dân số và mức tăng
trưởng, các cấu trúc tộc người, chủng tộc, tỷ lệ chết của trẻ em năm 1949, số
máy điện thoại trên đầu người năm 1950. Cơ sở cuối cùng để phân vùng bao gồm cả
các nhân tố kinh tế và phi kinh tế. Các
nhà kinh tế học Mỹ đã có ý định sử dụng các vùng của Văn phòng Phân tích Kinh
tế Liên bang để phân tích vì việc nhóm các bang thành các vùng kinh tế rất
thuận lợi cho việc phân tích. Một số nghiên cứu mới đây về khuynh hướng và chu
kỳ xác định vùng kinh tế vẫn dựa trên các vùng do Văn phòng Phân tích Kinh tế
Liên bang xác định, ngay cả khi các bang đã được phân vùng dựa trên cơ sở các
tương đồng theo thời điểm. Vào cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980, các
vùng kinh tế theo cách phân chia của Văn phòng Phân tích Kinh tế Liên bang đã
được sử dụng để kiểm tra các hiệu ứng vùng về phương diện chính sách tài chính
và tiền tệ. Kể từ cuối những năm 1990 người ta vẫn sử dụng các vùng kinh tế của
Văn phòng Phân tích Kinh tế Liên bang. Và hiện nay đang có khuynh hướng sử dụng
phương pháp phân tích cụm kinh tế để xác định các vùng, và người ta đã phân 48
bang thành 8 vùng kinh tế khác nhau căn cứ vào cách phân tích cụm [Crone
2003: 1-2].
2.
Khái niệm cực tăng trưởng
Cực tăng trưởng - một trong
những khái niệm cốt lõi tạo thành vùng kinh tế - được nhà kinh tế học Pháp
François Perroux đưa ra năm 1949. Ông và những người khác đã mở rộng thêm khái
niệm này, nhưng vẫn không có nhiều sự đồng thuận trong giới nghiên cứu, cho dù
nó có sức hấp dẫn trực cảm đặc biệt, vì vậy nó đã tác động rất mạnh tới các nhà
làm chính sách. Họ cho rằng các nhà kinh tế học có thể đưa ra một kỹ thuật phân
tích cần thiết để tăng thêm ý nghĩa cho các chính sách dựa trên khái niệm cực
tăng trưởng. Quan niệm trực cảm về khái niệm cực tăng trưởng coi một cực tăng
trưởng như một ngành công nghiệp hoặc có lẽ là một nhóm công ty thuộc một ngành
công nghiệp. Ở mức độ tối đa, một cực tăng trưởng có thể chỉ là một công ty
hoặc có thể là một nhóm ngành công nghiệp. Tuy nhiên Perroux cũng đã định nghĩa
các cực tăng trưởng là “không gian kinh
tế trừu tượng”. Đối với ông, không gian kinh tế trừu tượng có ba loại: i) một
kế hoạch kinh tế; ii) một trường lực hoặc tác động; iii) một tổng thể đồng
nhất. Vì quan niệm trừu tượng về cực tăng trưởng nên ông dứt khoát từ chối quan
niệm cho rằng không gian kinh tế lại có thể tương hợp với một khu vực địa lý
như một vùng hoặc một thành phố chẳng hạn.
Đối với Perroux, thuộc tính ưu
thống của một cực tăng trưởng là rất quan trọng. Một công ty hoặc một ngành
công nghiệp A được coi là ưu thống đối
với B nếu dòng hàng hoá và dịch vụ từ A đến B là phần đầu ra của A lớn hơn
luồng hàng hoá dịch vụ từ B đến A so với phần đầu ra của B. Một công ty hoặc
một ngành công nghiệp lớn có mức độ tác động qua lại cao với các công ty hoặc
các ngành khác thì là công ty hoặc ngành ưu thống, trong đó tác động qua lại
được coi là tương tác đẩy. Quá trình phát triển của một công ty hoặc ngành công
nghiệp có lực đẩy được gọi là quá trình hình thành cực. Perroux và các tác giả
khác về cực tăng trưởng cố gắng đặt cơ sở cho khái niệm này trên các quan niệm
về các lợi thế kinh tế ngoại ứng, mức độ tập trung và các liên kết kinh tế. Có
được một lợi thế kinh tế ngoại ứng khi sự thay đổi đầu ra của một công ty hoặc
một ngành công nghiệp tác động đến chi phí ở các công ty khác. Các lợi thế qui
mô kinh tế ngoại ứng có thể là âm như trong trường hợp các chi phí ô nhiễm,
hoặc chúng có thể là dương như trong trường hợp phát triển công nghệ mạch tích
hợp trong công nghiệp điện tử. Cùng với các khái niệm cực tăng trưởng là những
khái niệm về tầm quan trọng biên duy nhất trong việc phân tích các vấn đề kinh
tế vùng. Vì vậy thì ý tưởng về các cực tăng trưởng đã đóng một vai trò chủ chốt
trong việc xây dựng chính sách phát triển vùng [Darwent, David 1969: 5-32].
Nhà kinh tế học vùng nổi tiếng
J. Parr cho rằng: “Một trong những thuộc tính sâu sắc của việc phân tích và
thực hiện kế hoạch hoá kinh tế vùng trong mấy thập kỷ qua đã làm thay đổi thái
độ của chúng ta đối với chiến lược cực tăng trưởng. Chiến lược này hoặc tập hợp
các chiến lược này đã được đưa ra trong rất nhiều môi trường khác nhau, vì vậy
mà không dễ khái quát. Tuy nhiên vẫn có thể khái quát những đặc điểm chung.
Chiến lược cực tăng trưởng đã tham gia một cách tích cực vào việc tập trung đầu
tư ở một số địa phương nhất định (thường là một phần nỗ lực để thay đổi cấu
trúc không gian vùng) mong cố gắng để cổ vũ hoạt động kinh tế và vì vậy mà phát
triển các cấp độ phúc lợi trong một vùng” [Parr 1999: 1195-1215]. Vào giữa
những năm 1960, chiến lược cực tăng trưởng đã nổi bật như một đối tượng hâm mộ
nhiệt thành và đã được coi là một ý tưởng thời thượng. Và các kế hoạch kinh tế
được tái chế theo khuôn khổ của chiến lược cực tăng trưởng. Kuklinski [1978:
21] cũng đã khẳng định vai trò của lý thuyết cực tăng trưởng với tư cách là một
bộ phận của kinh tế học vùng: “...lý thuyết cực tăng trưởng là gần gũi nhất với
lý thuyết tổng quát về phát triển vùng”.
Chiến lược cực tăng
trưởng, hoặc các biến thể của nó, các cực phát triển hoặc các trung tâm tăng
trưởng, được thảo luận và được thực hiện trong tất cả các chiến lược phát triển
vùng khác nhau. Darwent [1969]; Isard, W. [1960]; Isard, W & Schooler, E.
W. [1959]; và Friedmann, JR. [1966, 1967, 1968] đều cho rằng công trình của
Perroux đã gây ra một sự lầm lẫn lớn một phần là vì sự mập mờ của hệ thống tri
thức ban đầu của ông, một phần vì việc dịch nhầm từ tiếng Pháp ra tiếng Anh và
ngược lại, và một phần vì sự lẫn lộn ngữ nghĩa của các tác giả sau này. Quan
niệm gốc về cực tăng trưởng thực sự độc lập với một bối cảnh không gian hoặc
một không gian địa lý học kinh tế, hoặc không gian địa lý. Hơn nữa các cực tăng
trưởng chỉ liên quan và đặc biệt liên quan đến không gian kinh tế trừu tượng.
Vì vậy mà ông đã xác định các cực tăng trưởng là: “các trung tâm, hoặc các cực,
các tâm điểm, toả ra các lực ly tâm và hút vào các lực hướng tâm. Mỗi trung tâm
hút và đẩy đều có một trường lực chính xác tạo ra trong trường lực của các
trung tâm khác”. Vì vậy các cực có thể là các công ty, các ngành công nghiệp
hoặc các nhóm công ty có thể là những “lực đẩy” nếu nó có mối tương tác cao với
nhiều công ty khác, mức độ ưu trội cao và có qui mô lớn. Darwent [1969] đã giải
thích rằng sự khác biệt rất cơ bản và quan trọng giữa không gian kinh tế và
không gian địa lý đã bị bỏ qua, vì vậy đã gây ra những quan niệm lầm lẫn to
lớn.
Tuy nhiên các tác giả sau này đã cố mở rộng khái niệm
cực tăng trưởng mà không qui chiếu vào không gian địa lý hoặc cố gán ghép không
gian kinh tế và không gian địa lý với nhau. Khi mở rộng khái niệm cực tăng
trưởng các học giả Mỹ đã phát triển các
khái niệm hoàn toàn khác và rộng hơn quan niệm cực tăng trưởng gốc nhiều. Trong
số các công trình liên quan đến lĩnh vực này nổi bật có công trình của
Hirschman [1958]. Chính ông là người đã đưa ra khái niệm tăng trưởng bất cân
bằng. Khi việc xác định vị trí xuất hiện trong phát triển vùng thì các nhà qui
hoạch phát triển đặc biệt quan tâm đến lý thuyết tăng trưởng vùng và các khái
niệm liên quan đến khái niệm cực tăng trưởng trong không gian địa lý. Chính
điều đó đã kích thích các nhà nghiên cứu quan tâm nhiều đến việc phát triển
khái niệm “các trung tâm tăng trưởng”, ngược lại với các cực tăng trưởng, đã qui
chiếu vào các vị trí trong không gian địa lý. Quan niệm về trung tâm tăng
trưởng cho rằng sự phát triển kinh tế và xã hội được khởi đầu và lan truyền đến
các vùng xung quanh; theo đó đầu tư tốt nhất là tập trung vào các trung tâm
tăng trưởng chứ không phải là phân tán ra xung quanh bằng một quan niệm mơ hồ
“cân bằng” hoặc “bình đẳng”. Nhiều nghiên cứu về các trung tâm tăng trưởng đã
dựa trên công trình của Boudeville [1966], đặc biệt là quan niệm của ông về ba
loại vùng: vùng đồng nhất, vùng phân cực
và vùng kế hoạch. Quan niệm này đã được đưa vào kế hoạch hoá vùng ở Pháp là
nơi xác định các vùng là những khu vực để đầu tư. Vùng phân cực của Boudeville
tương tự như mô hình trung tâm - ngoại vi của Friedmann, vì nó tương hợp với
cấu trúc vị trí trung tâm của sự phân cấp các thành phố về việc nâng cấp qui mô
và chức năng, với các “trung tâm tăng trưởng” thường là những thành phố lớn hơn
trong vùng.
3. Trung tâm tăng trưởng
Các trung tâm tăng trưởng thường được coi là đồng
nghĩa với các thành phố hoặc các khu vực đô thị. Điều đó là phổ biến vì trong
hầu hết các trường hợp, các tiêu chuẩn được đưa ra để xác định một trung tâm
tăng trưởng đều là các đặc trưng của vùng đô thị. Cũng có một số người chỉ giới
hạn các trung tâm tăng trưởng vào các khu vực đô thị. Chẳng hạn Fox [1966] đã
xác định trung tâm tăng trưởng là “một vị trí đô thị có thể hoạt động như một
tâm điểm cho việc xây dựng kế hoạch phát triển”. Ông đề xuất các tiêu chuẩn
phân biệt giữa các khu vực đô thị là các cực tăng trưởng và các vùng không phải
cực tăng trưởng như sau: liên kết mạnh
với nền kinh tế quốc gia; là trung tâm thị trường lao động; là một khu vực
thương mại bán lẻ chủ yếu; các chức năng phân cấp cao; một khối lượng thương
mại bán buôn lớn; và là các đầu mối giao tiếp thuận lợi. Còn Darwent [1969]
thì lại cho rằng những tiêu chuẩn đó vẫn còn quá ít, không đủ để tạo điều kiện
phân biệt vì chúng là những đặc điểm mô tả chung của các khu vực đô thị.
Friedmann được coi là một trong số những người đã vượt
khỏi các quan niệm bị đơn giản hoá về cực tăng trưởng và trung tâm tăng trưởng.
Khái niệm trung tâm - ngoại vi của
ông đã vượt khỏi sự phân bổ các nguồn theo phương thức liên khu vực. Theo ông
cực tăng trưởng phải cố gắng hướng tới giới hạn
các vấn đề hiện thực của phát triển vùng trong không gian địa lý. Bối
cảnh ông sử dụng để đưa ra quan niệm của mình là các quốc gia đang trong giai
đoạn chuyển tiếp từ chế độ thuộc địa thành các nền kinh tế độc lập. Ông cho
rằng các nền kinh tế này thường có một trung tâm duy nhất và một khu vực ngoại
vi gắn kết lỏng lẻo với trung tâm. Trung tâm và vùng ngoại vi của nó có những
mối quan hệ tối thiểu và nếu đã phát triển thì nó thường phiến diện, trong đó
vùng ngoại vi vẫn ở tình trạng lạc hậu và bị bóc lột, không thể phát triển vì
nó chỉ hỗ trợ cho sự phát triển của trung tâm mà thôi. Friedmann cho rằng tăng
trưởng kinh tế sẽ xuất hiện thông qua sự xuất hiện của một hệ thống phân cấp
chức năng kết nối và phát triển cao của các thành phố và các thị trấn và sự
phát triển như vậy tương ứng với mức độ tập trung cao. Hệ thống phân cấp đô thị
này là một phương tiện thống nhất ngoại vi với trung tâm và với vùng lõi
[Friedmann, JR. 1968].
Chịu ảnh hưởng đáng kể từ các lý thuyết và khái niệm
của Perroux và Boudeville, Friedmann đã đưa ra thêm các khái niệm “vùng đồng nhất” và “vùng độc lập”.
Trong đó vùng độc lập mang đặc trưng các vùng phân cực, còn khu vực ngoại vi
của một vùng phân cực có thể được chia thành bốn phần: i) các vùng chuyển tiếp lên; ii) các vùng chuyển tiếp xuống; iii) các
vùng ranh giới nguồn lực; và iv) các vùng có vấn đề đặc biệt. Các vùng
chuyển tiếp lên là những vùng tăng trưởng bằng tiềm năng tăng trưởng cao nhưng
lại hạn chế vốn. Các vùng chuyển tiếp xuống là những khu vực kinh tế nông
nghiệp, hoặc công nghiệp cũ suy thoái và hiện tượng di cư là chỉ báo rõ ràng
nhất. Các vùng ranh giới nguồn lực là những vùng định cư mới trong đó có nhiều
tiềm lực cho tăng trưởng. Các vùng có vấn đề đặc biệt là những vùng cần các
biện pháp can thiệp về chính sách nhiều hơn các vùng khác vừa được dẫn. Vì vậy
phân loại này cho phép phân biệt các vùng theo các hoạt động chính sách cần
thiết và việc xử lý các vấn đề vùng không tách biệt mà là cùng với sự xem xét
tổng thể hệ thống vùng. Khái niệm của Friedmann đã được coi là một bước tiến
vượt khỏi quan niệm gốc về cực tăng trưởng và trung tâm tăng trưởng và nó đã
đưa ra được một mô hình tổng quát về các thuộc tính không gian của tăng trưởng
kinh tế vùng. Vào thời gian đó, khái niệm cực tăng trưởng và trung tâm tăng
trưởng ngày càng được giải thích gắn liền với sự phát triển của một trung tâm
đô thị có thể thu hút được các hoạt động kinh tế thông qua hạ tầng cơ sở và
việc khuyến khích trực tiếp tạo ra “hiệu ứng hấp dẫn” (theo thuật ngữ của
Perroux là effets d’entrainment) trong vùng ngoại vi của trung tâm đô
thị dưới hình thức tăng công ăn việc làm và tăng thu nhập. Người ta hy vọng
rằng mô thức phát triển vùng như vậy kéo theo sự tăng trưởng của phân cấp đô
thị, nhờ thế mà khoảng cách vùng có thể giảm đi bằng cách thay đổi cấu trúc
tăng trưởng đô thị.
4. Khái niệm cụm kinh tế
Trong mấy thập kỷ qua đã
xuất hiện các khái niệm cụm hoặc hợp thành cụm, các mạng lưới và các khái niệm
liên quan khác. Việc sử dụng thuật ngữ cụm đã trở nên phổ biến bắt đầu từ khi
Porter [1998] đặt khái niệm này trong bối cảnh cạnh tranh của các công ty và
các địa điểm phát triển kinh tế. Ông định nghĩa cụm là “một nhóm công ty kề cận
về địa lý có mối liên hệ qua lại và các thể chế kèm theo trong một lĩnh vực riêng
biệt liên kết với nhau bằng những tương đồng và bổ sung”. Ông chỉ rõ tầm quan
trọng của các liên kết liên công nghiệp đó trong tính cạnh tranh của các khu
vực kinh tế vùng và quốc gia. Tuy nhiên theo Stohr [1998] thì các quan niệm này
không hoàn toàn mới mà được phát triển từ các khái niệm đã được sử dụng trước
đó. Stohr đã xác định nguồn gốc của các khái niệm này là các cực tăng trưởng
liên khu vực của Perroux [1955] “các trung tâm tăng trưởng” được xác định về
không gian của Boudeville [1966] và các “quận công nghiệp” của Marshall [1890, 1920].
Có hai cách sử dụng cụm
trong các chiến lược phát triển vùng. Trước hết là chiến lược truyền thống xác
định một “cụm tăng trưởng” dựa trên hệ qui chiếu cực tăng trưởng hoặc trung tâm
tăng trưởng. Một cụm tăng trưởng là việc tập hợp thành cụm của các khu vực (các
đơn vị chính thể nhỏ, chẳng hạn như các đô thị độc lập) dựa trên các tiêu chuẩn
chẳng hạn như các hoạt động kinh tế, các tiềm năng tăng trưởng, và các liên kết
vật chất chung. Một cụm tăng trưởng có một trung tâm đưa ra các cấp dịch vụ cao
và đa dạng hoá hơn những cách thức đang có trong khu vực ảnh hưởng có thể thực
hiện bất cứ vai trò nào sau đây: trung tâm công nghiệp, trung tâm thương mại,
trung tâm hành chính, trung tâm giải trí và các vai trò chức năng khác. Mới đây
người ta còn sử dụng khái niệm cụm để phục vụ cho việc quản lý môi trường và
phát triển đô thị bền vững. Ở đây một cụm được xác định là một khu vực phát
triển ở qui mô tiểu vùng trong đó các ranh giới được xác định bằng cách sử dụng
ranh giới liên địa phương bao gồm ít nhất hai khu vực hoặc các đơn vị chính
thể. Một cụm như vậy là một tiểu vùng phát triển, thích hợp cho việc quản lý và
qui hoạch đất theo các đặc trưng kinh tế, không gian, dân số và vật chất của nó.
Các tiêu chuẩn để xác định các ranh giới của một cụm bao gồm: i) tiêu chuẩn
kinh tế (sự tồn tại một cơ sở kinh tế chung, các nguồn lực bổ sung, những tiềm
năng xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế cao); ii) tiêu chuẩn xã hội (có cơ sở văn
hoá chung, và sử dụng cùng một ngôn ngữ hoặc phương ngữ); iii) tiêu chuẩn vật
chất (liên tục về mặt địa lý, và được liên kết bởi các mạng lưới hạ tầng cơ
sở); iv) tiêu chuẩn không gian (tính chất bổ sung của các vai trò chức năng
trong cấu trúc đô thị); v) tiêu chuẩn chính thể (việc vạch ranh giới cụm phải
trùng hợp với các ranh giới hành chính của các cấp chính quyền địa phương; vi)
và tiêu chuẩn môi trường (trải nghiệm các vấn đề môi trường như nhau, và hiện
có hoặc sử dụng các nguồn chung chẳng hạn như nước, đất đai, rừng, quặng
mỏ...vv.) [Mercado R.G. 2003].
Các lý thuyết cụm nhằm giải thích các khác biệt vùng trong hoạt
động kinh tế về phương diện địa lý đã dẫn đến nảy sinh các khác biệt chính sách
phát triển kinh tế quốc gia, vùng, và địa phương. Theo Maskell và Kebir thì có
bốn vấn đề cơ bản liên quan đến khái niệm cụm kinh tế: i) các lợi ích kinh tế
và xã hội mà các xí nghiệp được hưởng khi hình thành cụm hoặc các xí nghiệp
cùng xây dựng liền kề nhau về phương diện địa lý; ii) những bất lợi về kinh tế
mà các xí nghiệp phải đối mặt khi việc tập trung thành cụm đã vượt quá các
ngưỡng khu vực kinh tế hoặc ngưỡng địa lý; iii) những lợi thế có được bằng cách
khai thác các đồng hợp nội cụm hơn là việc cam kết tương tác ngoại cụm; và iv)
khả năng sói mòn các lợi thế kinh tế và sự lấn át của các bất lợi thế kinh tế
đối với vòng đời của cụm. Mỗi vấn đề đều được xem xét trong khuôn khổ của ba
khung lý thuyết chủ chốt tương ứng có thể được đưa vào khái niệm cụm [Maskell,
Peter & Leïla Kebir, 2005]. Vì vậy có thể xem xét các cách tiếp cận này dựa
trên ý tưởng về các ngoại ứng địa phương (được Marshall minh hoạ trong công
trình về “các quận công nghiệp”); về vấn đề cạnh tranh (được lý thuyết tăng
trưởng cụm của Michael Porter minh hoạ); và về viễn cảnh lãnh thổ (được minh
hoạ bằng cách tiếp cận xuất hiện trong nghiên cứu của nhóm nghiên cứu Châu Âu
về Môi trường Đổi mới).
_____________________________________
Ghi chú: Bài viết năm 2008, thuộc đề tài
cấp Bộ, Viện Phát triển Bền vững vùng Bắc Bộ, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Nghiên
cứu cơ sở lý thuyết cho việc xác định các ưu tiên trong phát triển bền vững
vùng kinh tế do tác giả làm Chủ nhiệm.
Tài
liệu tham khảo
Asheim B.T., and A. Isaksen 2002. Regional
Innovation Systems: The Integration of Local ‘Sticky’ and Global ‘Ubiquitous’
Knowledge. Journal of Technology Transfer 27:
77‐86.
Boudeville 1966. Problems
of regional economic planning. University
Press, Edinburgh.
Cook, G.R. 1967. Canadian Centennial
Cerebrations. In International
Journal 22 (Autumn 1967).
Crone, M. Theodore 2003. An Alternative Definition of Economic Regions
in the U.S. Based on Similarities in State Business Cycles. In Federal Reserve Bank of Philadelphia - October 2003.
Darwent, David 1969. Growth poles and growth centers in regional
planning - A review," Environment
and Planning, vol. 1 (1969).
Fligstein N. and Stone Sweet 2002. Integration. The American Journal of Sociology, Vol. 107, No. 5. (Mar., 2002), pp. 1206-1243.
Fox, Jonathan 2002. Ethnic minorities and the Clash of Civilizations: A
quantitative analysis of Huntington's thesis. In British Journal of Political Science 32(3), pp.
415-434
Friedman, M. 1995. From
outcomes to budgets: An approach to outcome based budgeting for family and
children s services. Washington, DC: Center for the Study of Social Policy.
Friedmann, JR. 1966. Regional Development Policy –
A Case Study of Venezuela. MIT Press, Cambridge;
Friedmann, JR 1967. A General Theory of Polarized
Development, mimeo, Santiago, Chile, August;
Friedmann, JR 1968. The Role of Cities in National
Development, mimeo, Santiago, Chile, February.
Friedmann, John 1986. The
World City Hypothesis. In Development and Change 17:69-83
Friedmann, John, and Michael Douglass 1978. Agropolitan Development: Towards a New
Strategy for Regional Planning in Asia. In Fu-chen Lo and Kamal Salih
(eds.) Growth Pole Strategy and Regional Development Policy, New York:
Pergamon Press.
Hirschman A.O. 1957. The Strategy of Economic
Developmen. (London:
Duckworth, 1957).
Hirschman A.O. 1958. The strategy of economic development.
Yale University Press. New Haven.
Isaacs, Harold 2004 (Ed.) Exploring
Conflicts and conflict Resolution in the Contemporary Third World.
In ATWS Proceedings, Twenty Second Annual Meeting (2004) Americus, GA:
Association of Third World Studies, Inc., 2005, 97 pp.
Isard, W. 1960. Industrial Complex Analysis, in
Methods of Regional Analysis. MIT Press, Cambridge.
Isard, W and Schooler, E. W. 1959. Industrial Complex Analysis: Agglomeration,
Economics and Regional Development, Journal of Regional Science, Spring;
Marshall A. 1920. Principles of Economics. London: Macmillan and Co., Ltd., 1920. Eighth edition.
Maskell, Peter & Leïla Kebir, 2005. What Qualifies as a Cluster Theory? In DRUID
Working Papers 05-09, DRUID,
Copenhagen Business School, Department of Industrial Economics and
Strategy/Aalborg University, Department of Business Studies.
Mercado R.G. 2003. Regional Development in the Philippines: A
Review of Experience, State of the Art and Agenda for Research and Action. Philippines Institute for Development
Studies – Discussion Paper Series No. 2002 – 2003.
Nguyễn Xuân Thu - Nguyễn Văn Phú (Đồng chủ biên)
2006. Phát triển kinh tế vùng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
(Sách chuyên khảo). Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2006.
Parr, John B. 1999. Growth-pole
Strategies in Regional Economic Planning: A Retrospective View. Part 1. Origins and Advocacy. Urban Studies, Vol. 36, No. 7, 1195 – 1215.
Perroux F. 1955. Note
sur la notion de pôle de croissance. Economie Appliqueé, 8, pp. 307-320.
Perroux F. 1964. La
notion de pole de croissance. En L’economie du X Xeme Siecle, 2nd
ed. (Paris: Presses Universitaries de France, 1964), pp. 142-154
Perroux, F (1968) Les Investissements
multinationaux et l’analyse des poles de developpement d’integration, Revue
Tiers-Monde, IX, 34.
Porter, Michael 1998. On Competition. Boston: Harvard Business
School Press.
Portes, A. 1998. Social Capital: its origins and
applications in modern sociology. In
Annual Review of Sociology, 24, 1-24.
Russian Government 1997. Russian
Classificaton of Economic Regions (OK 024-95)
of January 1, 1997
as amended by the Amendments in January 1998 through May 2001. Section II.
Economic Regions.
Salais R. and M. Storpper 1997. Worlds of Production: the Action Frameworks of the Economy,
Cambridge, MA, Harvard University Press, 1997.
Storper M. and R. Walker 1989. The capitalist imperative: territory,
technology, and industrial growth. Basil Blackwell, New York.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét