Nghiên cứu Trường hợp [I]
Robert K. Yin
COSMOS Corporation January 20, 2004
Người dịch: Hà Hữu Nga
Xuất hiện trong lần biên tập thứ ba của Bổ sung các phương pháp
Nghiên cứu Giáo dục, (Complementary Methods for Research in Education,
American Educational Research Association, Washington, DC, forthcoming). Tác
giả chân thành cảm ơn GS. Chris Clark (University of Delaware) và Bob Stake
(University of Illinois at Urbana-Champaign) vì những nhận xét hữu ích và
Gregory Camilli, người biên tập tập sách.
Cho đến bây giờ nghiên cứu trường hợp đã đạt được tới vị thế thông
lệ như một phương pháp vững vàng trong nghiên cứu giáo dục. Có nhiều phương
pháp khác cũng bao gồm, nhưng không giới hạn vào các cuộc khảo sát, dân tộc học
mô tả, các thực nghiệm, cận thực nghiệm, xây dựng mô hình kinh tế và thống kê,
các bộ môn lịch sử, các tổng hợp nghiên cứu, và các phương pháp phát triển.
Điểm No. 1: So với các phương pháp khác thì điểm mạnh của
phương pháp nghiên cứu trường hợp là khả năng xem xét sâu sắc một “trường hợp”
trong bối cảnh “đời sống thực” của nó.
Chương Contemporary Methods này đem đến cho chúng ta một
xuất phát điểm để biết được cách thức sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp
như thế nào bằng cách làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản. Các vấn đề cơ bản được
xem xét bao gồm hàng loạt “điểm tóm tắt”, như đã thực hiện ở Điểm No.1. ở trên.
Chương này cũng rút ra kết luận bằng việc hướng dẫn thảo luận 5 “mối bận tâm”
về việc sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp. Tuy nhiên tính chất cô đọng
của chương này không nên làm chúng ta bị lạc hướng về những thách thức có thật
trong việc thực hiện các nghiên cứu trường hợp.
Khi nào thì sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp
Nghiên cứu trường hợp giúp ta khám phá các đề tài quan trọng mà
các phương pháp khác khó lòng bao quát được. Ngược lại các phương pháp khác bao
quát nhiều đề tài tốt hơn là phương pháp nghiên cứu trường hợp. Ý tưởng tổng
thể là các phương pháp nghiên cứu khác nhau được sử dụng làm các chức năng bổ
sung. Nghiên cứu của bạn có thể sử dụng nhiều phương pháp kể cả phương pháp
nghiên cứu trường hợp. Các chủ đề riêng áp dụng phương pháp nghiên cứu trường
hợp tối thiểu xuất hiện từ hai tình huống. Thứ nhất và quan trọng nhất
[Shavelson and Townes, 2002, pp. 99-106] phương pháp nghiên cứu trường hợp là
thích đáng khi nghiên cứu của bạn nhắm tới vấn đề mô tả (cái gì đã xảy ra?) hoặc một câu hỏi giải thích (như thế nào hoặc tại sao một cái gì đó lại xảy ra?); ngược lại cần thiết có một thực
nghiệm được thiết kế tốt để bắt đầu suy luận các mối quan hệ nhân quả (chẳng
hạn liệu một chương trình giáo dục mới có cải thiện việc học tập của học sinh
không) và một cuộc khảo sát có thể giúp bạn tốt hơn bằng cách cho bạn biết một
cái gì đó xảy ra thường xuyên đến mức độ
nào.
Thứ hai, có thể bạn cũng muốn làm sáng tỏ một tình huống riêng
biệt đế hiểu nó đợc rõ ràng hơn. Phương pháp nghiên cứu trường hợp giúp bạn
thực hiện các quan sát trực tiếp và thu thập dữ liệu trong môi trường tự nhiên
so với việc dựa vào các dữ liệu “dẫn xuất” (“derived” data) [Bromley, 1986, p.
23] chẳng hạn như các kết quả kiểm tra, các thống kê của nhà trường hoặc các
con số thống kê khác do các cơ quan nhà nước lưu trữ, và các câu trả lời cho
các bảng hỏi. Chẳng hạn các tập thể giáo dục có thể muốn biết về một hiệu trưởng
trường phổ thông trung học đã thực hiện tốt công việc hoặc về một cuộc thương
thảo tập thể thành công (hoặc không thành công) đã để lại những hệ quả to lớn
(chẳng hạn các cuộc đình công của giáo viên) hoặc về cuộc sống hàng ngày trong
một trường nội trú đặc biệt. Bạn có thể sử dụng các phương pháp khác, nhưng
nghiên cứu trường hợp sẽ giúp bạn tốt hơn nhiều so với các phương pháp khác.
Hộp1 liệt kê các ví dụ điển hình của các đề
tài nghiên cứu trường hợp trong giáo dục. Để bắt đầu tìm hiểu phương pháp nghiên
cứu trường hợp đối với mỗi đề tài, bạn nên hỏi: trường hợp này là gì (đơn vị phân tích), và những tiểu chủ đề
liên quan cần giải quyết với tư cách là một bộ phận của nghiên cứu trường hợp
liên quan là gì? Hãy lấy đề tài ở Hộp 1 làm ví dụ. “Trường hợp” ở đây là
một học sinh. Tiểu chủ đề liên quan bao gồm nhà trường, gia đình, và các bạn
bè. Bạn có thể suy nghĩ về các tiểu chủ đề như là những điều kiện bối cảnh chủ
chốt.
Điểm No. 2: Phương pháp
nghiên cứu trường hợp được ứng dụng tốt nhất khi nghiên cứu nhắm tới các câu
hỏi mô tả hoặc giải thích và nhắm tới việc nhanh chóng hiểu rõ được con người
và sự kiện liên quan.
Kỹ năng thiết yếu cho các nhà nghiên cứu trường hợp
Bằng nhiều cách việc tiến hành nghiên cứu trường hợp sẽ không khác
với việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác. Tất cả mọi phương pháp đều
đòi hỏi phải xem xét lại các tư liệu, xác định các câu hỏi nghiên cứu và các
chiến lược phân tích bằng cách sử dụng các giao thức (protocols) hoặc các công
cụ thu thập dữ liệu chính thức, và viết được các báo cáo nghiên cứu có chất
lượng cao. Khác với hầu hết các phương pháp còn lại, khi tiến hành nghiên cứu
trường hợp có thể bạn cần phải vừa thu thập, vừa phân tích dữ liệu. Chẳng hạn
một cuộc phỏng vấn tại thực địa có thể cung cấp cho ta thông tin trái ngược với
thông tin từ một cuộc phỏng vấn trước đó. Tiến hành phỏng vấn được coi là thu
thập dữ liệu, nhưng việc xử lý mâu thuẫn thông tin thì lại được coi là phân
tích dữ liệu. Bạn muốn rằng công việc phân tích phải diễn ra nhanh chóng sao
cho bạn có thể thay đổi các kế hoạch thu thập dữ liệu trong khi vẫn đang ở
ngoài thực địa – bạn cũng có thể phỏng vấn lại người cung cấp thông tin trước
đó hoặc tìm cách phát hiện ra một nguồn thứ ba để giải quyết xung đột thông
tin.
Nhu cầu phân tích dữ liệu trong khi thu thập dữ liệu tạo ra những
khác biệt lớn so với việc sử dụng các phương pháp khác. Kể cả với khảo sát lẫn
thực nghiệm thì việc thu thập dữ liệu diễn ra trong một giai đoạn chính thức
tách biệt khỏi việc phân tích dữ liệu. Giai đoạn này thường được thực hiện xong
rồi mới đến giai đoạn tiếp theo. Việc thu thập dữ liệu cũng có thể được giao
cho trợ lý nghiên cứu hoặc một người phỏng vấn được tập huấn cẩn thận, nhưng
không được giao cho họ phân tích dữ liệu. Tương tự như vậy, việc phân tích dữ
liệu có thể thuộc quyền của một nhà nghiên cứu có nhiều kinh nghiệm, là người
ít liên quan đến việc thu thập dữ liệu.
Không nên coi khả năng cần phải phân tích dữ liệu trong khi thu
thập dữ liệu là điều dĩ nhiên. Phép tất suy (implication: if - then) so với các
phương pháp khác cũng rất quan trọng. Với tư cách là một người nghiên cứu
trường hợp, bạn cần phải làm chủ được các rắc rối, phức tạp trong các vấn đề
nghiên cứu cơ bản trong khi rất cần phải kiên nhẫn và tận tâm với việc thu thập
dữ liệu một cách cẩn trọng và ngay thẳng - bằng cách dấu đi các ý tưởng thiết
yếu của riêng mình (nếu có thể). Chẳng hạn trong các nghiên cứu trường hợp bạn
có thể phải đưa ra các câu hỏi trong phỏng vấn tại thực địa, những câu trả lời
của ai bạn tin rằng bạn đã biết. Bạn có nghĩ rằng mình có thể đưa ra được các
câu hỏi ngay thẳng không?
Điểm No. 3: Một nhu cầu chủ chốt của phương pháp nghiên cứu
trường hợp là kỹ năng và năng lực chuyên môn của người nghiên cứu trong việc
theo đuổi một đường hướng nghiên cứu hoàn toàn nhất quán (nhưng đôi khi cũng
khá mơ hồ) ngay trong khi đang thu thập dữ liệu.
Một nhà nghiên cứu trường hợp giỏi có thể vẫn thể hiện là mình bắt
chước vai trò của một thám tử giỏi. Bạn cần phải biết liệu bạn có khả năng cần
thiết và cũng phải biết làm thế nào để phát triển hơn nữa lỹ năng của mình theo
hướng này.
Ba bước cơ bản trong thiết kế nghiên cứu trường hợp
Bước thứ nhất đã được đề cập đến ở Hộp 1, đó là xác định rõ “trường hợp” mà bạn cần nghiên cứu. Việc
làm rõ định nghĩa “trường hợp” giúp cho bạn tổ chức nghiên cứu trường hợp thuận
lợi một cách đáng kể. Nhìn chung bạn cần bám sát với lựa chọn ban đầu của mình,
vì bạn có thể xem xét lại tư liệu hoặc đề xuất các câu hỏi nghiên cứu riêng cho
lựa chọn đó. Tuy nhiên, một phẩm chất quan trọng của phương pháp nghiên cứu
trường hợp là khả năng xác định lại “trường hợp” sau khi thu thập những dữ liệu
ban đầu. Cần phải nhận thức rõ khi nào thì điều đó xuất hiện – sau đó rất có
thể bạn phải quay trở lại điểm xuất phát bằng cách xem xét lại tư liệu và chỉnh
sửa các câu hỏi nghiên cứu gốc.
Bước thứ hai liên quan đến việc quyết định xem liệu có phải tiến
hành nghiên cứu đơn trường hợp hay
một tập hợp các trường hợp. Thuật ngữ
“nghiên cứu trường hợp” có thể vừa được hiểu là một trường hợp duy nhất, hoặc
nhiều trường hợp. Chúng đại diện cho hai loại thiết kế nghiên cứu trường hợp. Bạn có thể chọn cho mình loại
nghiên cứu trường hợp tổng thể hoặc các tiểu trường hợp bao hàm trong một
trường hợp tổng thể. Chẳng hạn trường hợp tổng thể của bạn có thể là về vấn đề
tại sao một hệ thống trường học lại thực hiện các chính sách thúc đẩy học sinh
nào đó, và các lớp học của hệ thống đó có thể được coi là các “tiểu trường hợp”
mà bạn có thể thu thập dữ liệu từ đó. Các nghiên cứu trường hợp tổng thể hoặc
bao hàm đại diện cho hai loại thiết kế nghiên cứu trường hợp có thể tồn tại với
các nghiên cứu đơn trường hợp hoặc đa trường hợp sao cho bạn có thể ngĩ đến
việc kết hợp theo cặp 2-2 bằng cách tạo ra 4 thiết kế cơ bản cho các nghiên cứu
trường hợp.
Trong số các kết hợp này thú vị nhất là những trường hợp đối lập
các nghiên cứu đơn hoặc đa trường hợp. Việc tập trung vào một trường hợp duy
nhất sẽ buộc bạn rất chú ý đến trường hợp đó. Tuy nhiên việc có nhiều trường
hợp có thể giúp cho bạn củng cố các phát hiện từ toàn bộ nghiên cứu của bạn –
vì đa trường hợp có thể được lựa chọn là các
bản sao của nhau.
Bước thứ ba liên quan đến việc quyết định xem liệu có sử dụng hay
không sử dụng phát triển lý thuyết để giúp lựa chọn các trường hợp của bạn, phát
triển các giao thức thu thập dữ liệu của bạn, và tổ chức các chiến lược phân
tích dữ liệu đầu tiên. Viễn cảnh lý thuyết khởi đầu về các hiệu trưởng các
trường chẳng hạn, có thể khẳng định rằng các hiệu trưởng thành công là những
người hành động như là những “lãnh đạo chỉ dẫn”. Nhiều tư liệu (mà bạn có thể
dãn ra như là một phần trong nghiên cứu trường hợp của bạn) hỗ trợ cho quan
điểm này. Nghiên cứu trường hợp của bạn có thể cố xây dựng, mở rộng hoặc thách
thức quan điểm này, thậm chí có thể bằng cách cạnh tranh với cách tiếp cận thử
nghiệm giả thuyết. Tuy nhiên một quan điểm lý thuyết như vậy cũng có thể hạn
chế khả năng của bạn trong việc đưa ra được các phát hiện - tức là phát hiện từ
điểm xuất phát xem tại sao một hiệu trưởng lại thành công và họ thành công như
thế nào.
Nói chung càng thiếu kinh nghiệm trong tiến hành nghiên cứu trường
hợp thì bạn có thể càng muốn chấp nhận một số viễn cảnh lý thuyết nào đó. Không
có các lý thuyết và không đủ kinh nghiệm bạn có thể gặp khó khăn trong việc
thuyết phục những người khác rằng nghiên cứu trường hợp của bạn đã đưa đến
những phát hiện có giá trị ở thực địa. Ngược lại, những người có nhiều kinh
nghiệm nghiên cứu thực địa có thể tránh phải chấp nhận bất cứ quan điểm lý
thuyết nào khi mong muốn tạo ra một nghiên cứu trường hợp mang tính đột
phá.
Điểm No. 4: Một thiết kế nghiên cứu trường hợp tốt tối thiểu
phải xác định rõ được trường hợp của bạn, biện minh được sự lựa chọn đơn hay đa trường hợp của bạn, và
chấp nhận hoặc giảm thiểu tối đa các quan điểm lý thuyết.
Lựa chọn những con người, các nhóm, hoặc địa điểm nghiên cứu cụ
thể cho “trường hợp” của bạn
Nghiên cứu trường hợp của bạn thuộc về
một hoặc một số trường hợp của đời sống thực. Trong khi bạn đã có thể xác định
rõ trường hợp của mình về phương diện khái niệm như trong 7 ví dụ đã trình bày
ở Hộp 1, bạn vẫn có thể cần lựa chọn (các) trường hợp của đời sống thực
để nghiên cứu. Việc lựa chọn trường hợp được coi là bước quyết định nhất trong
việc tiến hành nghiên cứu trường hợp [Stake, 1994, p. 243]. Qúa trình đó làm nảy sinh các vấn đề mà
bạn có thể phải vượt qua với một nỗ lực và tư duy đầy đủ, nghiêm túc. Một trong
những quan niệm sai lầm dễ gặp nhất mà bạn cần phải vượt qua là niềm tin rằng
các nghiên cứu trường hợp là để thể hiện một “mẫu” chính thức từ một lĩnh vực
nào đó rộng lớn hơn, và việc khái quát hoá từ các trường hợp của bạn tuỳ thuộc
vào suy luận thống kê (khái quát thống kê);
thay vì việc khái quát từ các nghiên cứu trường hợp phản ánh các đề tài hoặc
các vấn đề cơ bản cần quan tâm, và thực hiện các suy luận logic (khái quát phân tích).
Khi thực hiện một nghiên cứu trường hợp đơn bạn có thể chọn nghiên
cứu một trường hợp cực trị (extreme)
hoặc duy nhất (unique), hoặc thậm chí
một trường hợp khai mở (revelatory) - chẳng hạn như những
hành động của một băng đảng trường học – và bạn có thể đã sẵn sàng nghiên cứu
trường hợp này ngay từ đầu. Hoặc bạn đã có thể biết rõ trường hợp cần được
nghiên cứu vì một cách tiếp cận đặc biệt nào đó mà bạn có để thu thập dữ liệu
về trường hợp đó. Tuy nhiên, trong những tình huống khác (chẳng hạn như trong
nghiên cứu một trường hợp điển hình
(typical), một trường hợp tới hạn
(critical) hoặc một trường hợp theo chiều
dọc (longitudinal) có thể có một vài nếu không nói là có nhiều ứng viên sáng
giá, và bạn phải lựa chọn từ số đó. Trong trạng huống đó bạn nên tiến hành một
thao tác chính thức sàng lọc nghiên cứu
trường hợp (case study screening).
Thao tác này có thể dựa trên việc xem xét các nguồn tư liệu hoặc hỏi những
người am hiểu về mỗi ứng viên. Các tiêu chuẩn sàng lọc cơ bản gồm: i) thiện chí
của những người tham gia chủ chốt vào nghiên cứu của bạn; ii) mức độ phong phú
của dữ liệu có thể thu thập được; và iii) cứ liệu ban đầu cho thấy các kinh
nghiệm hoặc các tình huống mà bạn mong tìm được, thậm chí ngay cả khi đó là một
trường hợp điển hình.
Điểm No. 5: Việc lựa chọn hoặc mục đích sàng lọc trường hợp là để tránh một kịch bản là sau
khi thực sự bắt đầu nghiên cứu trường hợp thì trường hợp được lựa chọn hoá ra
là không đứng vững được hoặc không đại diện cho một cái gì đó khác hơn là những
thứ bạn đã định nghiên cứu.
Khi thực hiện một nghiên cứu đa trường
hợp (thậm chí một nghiên cứu trường hợp bao gồm hai trường hợp - a
two-case case study) mà tất cả
những xem xét này đều phù hợp thì vẫn cần thêm các vấn đề liên trường hợp (cross-case
issues). Những vấn đề này phải được xử
lý theo logic nghiên cứu của bạn. Bạn cần phải quyết định xem hai trường hợp
(hay nhiều hơn) thì đại diện được cho các trường hợp có thể được chấp nhận (tức
là các phiên bản được coi là bản sao của cùng một hiện tượng), các trường hợp
đối lập nhau (chẳng hạn như một thành công, một thì thất bại), hoặc các trường
hợp đa dạng về phương diện lý thuyết (chẳng hạn trường hợp một trường phổ thông
tiểu học và một trường hợp trường phổ thông trung học cơ sở).
Với ba hoặc nhiều hơn ba trường hợp thì
cũng cần phải coi các nhóm như là các biến địa lý, tộc thuộc, kích cỡ, hoặc các
biến liên quan khác trong số các trường hợp cần xem xét. Không nên coi bất cứ
trường hợp nào là “những biến kiểm soát” đối với nhau theo nghĩa “nhóm kiểm
soát” vì trong nghiên cứu trường hợp bạn không thao tác “các cách xử lý” hoặc
kiểm soát bất cứ sự kiện nào của đời sống thực. Mặc dù có những phức tạp đó và
những hoạt động khác nữa thì các thiết kế nghiên cứu đa trường hợp có những lợi
thế quan trọng mà bạn cần phải xem xét:
Trước hết, bạn
có thể chỉ rõ cho nhóm của mình rằng bạn có thể thực hiện được một quy trình
nghiên cứu trường hợp hoàn chỉnh (chẳng hạn như thiết kế, chọn lọc, phân tích,
và viết báo cáo) với nhiều nghiên cứu trường hợp, bằng cách xua tan mối ngờ vực
là các kỹ năng của bạn chỉ có thể hạn chế vào nghiên cứu một trường hợp đơn. Về
phương diện nhân sự điều đó đặc biệt quan trọng đối với bạn theo một nghĩa nào
đó.
Thứ
hai, bạn cũng có thể đáp trả một lối chỉ trích thường tình đối với
các nghiên cứu đơn trường hợp - rằng đó là các nghiên cứu về một phương diện
nào đó là duy nhất và có tính đặc ứng, và vì vậy mà chúng giới hạn giá trị vượt
khỏi các hoàn cảnh của một nghiên cứu đơn trường hợp.
Thứ
ba, bạn cần phải thực hiện một số dữ liệu so sánh khiêm tốn ngay cả
khi các trường hợp được chọn là những trường hợp xứng đáng chấp nhận bằng cách
giúp bạn phân tích các phát hiện của mình.
Tính đa dạng của các nguồn dữ liệu nghiên cứu trường hợp
Công việc nghiên cứu trường hợp không bị giới hạn vào một nguồn dữ liệu duy nhất như trong việc sử dụng các bảng hỏi để tiến hành một nghiên cứu khảo sát. Trong thực tế các nghiên cứu trường hợp thành công được hưởng lợi từ việc có được nhiều nguồn dữ liệu làm cứ liệu. Hộp 2 liệt kê 6 nguồn cứ liệu thông thường. Bạn cũng có thể sử dụng các nguồn từ các cuộc thảo luận nhóm tập trung và các nguồn khác bên cạnh 6 nguồn này. Mối bận tâm chính không phải là ở chỗ sử dụng nguồn dữ liệu riêng biệt nào.
Công việc nghiên cứu trường hợp không bị giới hạn vào một nguồn dữ liệu duy nhất như trong việc sử dụng các bảng hỏi để tiến hành một nghiên cứu khảo sát. Trong thực tế các nghiên cứu trường hợp thành công được hưởng lợi từ việc có được nhiều nguồn dữ liệu làm cứ liệu. Hộp 2 liệt kê 6 nguồn cứ liệu thông thường. Bạn cũng có thể sử dụng các nguồn từ các cuộc thảo luận nhóm tập trung và các nguồn khác bên cạnh 6 nguồn này. Mối bận tâm chính không phải là ở chỗ sử dụng nguồn dữ liệu riêng biệt nào.
Điểm No. 6: Trong việc thu thập các dữ liệu nghiên cứu trường
hợp, ý tưởng chủ yếu là sử dụng “ tam giác đạc” hoặc xác lập các tuyến hội tụ cứ liệu để làm cho các phát hiện của bạn có sức
thuyết phục cao nhất.
Có thể vận dụng phép tam
giác đạc này như thế nào? Mức độ hội tụ đáng mong muốn nhất xuất hiện khi
hai hoặc nhiều hơn hai nguồn độc lập đều chỉ rõ một tập các trường hợp hoặc “sự
kiện”. Chẳng hạn những gì có thể xảy ra trong cuộc họp khoa có thể được thông
báo đến bạn (một cách độc lập) bởi hai giáo viên và người hiệu trưởng, và sau
đó cũng có thể có những tư liệu nào đó của cuộc họp (chẳng hạn như việc ban
hành một chính sách mới đã được đề tài của cuộc họp giả định trước). Tự thân
bạn không thể có mặt trong cuộc họp nhưng tất cả các nguồn này giúp cho bạn tin
tưởng hơn về việc kết luận những gì xảy ra hơn là bạn chỉ dựa vào một nguồn cứ liệu duy nhất.
Phép tam giác đạc không phải lúc nào cũng dễ sử dụng.
Đôi khi chẳng hạn như lúc bạn phỏng vấn các giáo viên và hiệu trưởng, tất cả
đều đưa ra cứ liệu về việc trường của họ hoạt động như thế nào - chẳng hạn sử
dụng các giáo viên trợ giảng trong lớp như thế nào. Nhưng trong thực tế tất cả
các giáo viên đó đều có thể lặp lại cùng một “chân ngôn” (mantra) thể chế được phát triển theo thời gian để nói với người bên
ngoài (chẳng hạn phụ huynh và các nhà nghiên cứu). Chân ngôn tập thể này có thể
không nhất thiết trùng hợp với các hoạt động thực sự của nhà trường. Việc xem
xét các tư liệu có thể giúp bạn tiên đoán được loại tình huống này, và việc trực
tiếp quan sát của bạn cũng có thể cực kỳ hữu dụng. Tuy nhiên khi dựa vào các
quan sát trực tiếp cần phải chú ý đến vấn đề khác có thể xuất hiện. Vì bạn có
thể đã có thời gian biểu trước về việc quan sát lớp học, một giáo viên có thể
đã quyết định thay đổi các hoạt động thể chế vì chính cuộc viếng thăm của bạn.
Vì vậy việc vào vai trò thực sự của các giáo viên trợ giảng trong lớp học hoặc
ở một hoạt động khác nào đó của nhà trường có thể không hề dễ như chúng ta vẫn
nghĩ.
Tuy nhiên bạn sẽ luôn luôn thành công hơn bằng cách sử
dụng nhiều nguồn cứ liệu hơn là một nguồn duy nhất. Ưu tiên phương pháp luận
này lại làm nảy sinh nhu cầu về các năng lực bất kỳ nào đó trong việc sử dụng
phương pháp nghiên cứu trường hợp: khả năng làm việc thành thạo của bạn với nhiều
nguồn hoặc với các nguồn cứ liệu khác nhau vàkhả năng là chuyên gia trong việc
xử lý những loại cứ liệu khác nhau. Một số nhà nghiên cứu bằng đào tạo hoặc ưu
tiên có thể chỉ giải quyết một cách thoải mái với một loại cứ liệu - chẳng hạn
như các cuộc phỏng vấn. Những người như vậy có thể có quá nhiều tác động đối
với cái mà họ nghe được người khác nói, có thể họ không hề có khả năng tiến
hành một cách triệt để việc tìm kiếm các cứ liệu hợp lý khác, và họ có thể
không chú ý đầy đủ đến các loại cứ liệu khác. Trong ví dụ này nghiên cứu trường
hợp tiếp theo có lẽ cần dựa trên các “báo cáo miệng” - chẳng hạn những gì mà
hiệu trưởng nói là đã xảy ra chứ không phải là điều thực sự đã xảy ra. Bạn nên
tránh dựa vào một cơ sở cứ liệu hẹp như vậy. Trong ví dụ này nghiên cứu của bạn
sẽ thực sự là một nghiên cứu phỏng vấn mở (một biến thể khảo sát), mà không
thực sự là một nghiên cứu trường hợp. Một cách kể về việc bạn thành thạo đến
mức nào trong thu thập nhiều nguồn cứ liệu chính là quan sát sự chú tâm của bạn
vào các kỹ thuật thu thập dữ liệu khác nhau - liệu bạn có theo kịp với các kỹ
thuật tiên tiến chứ không phải là một kỹ thuật đơn giản không?
Không kể nguồn của nó, cứ liệu nghiên cứu trường hợp cũng có thể
bao gồm cả hai loại dữ liệu định tính và
định lượng. Các dữ liệu định tính có thể được coi là các dữ liệu không phải
là các con số - chẳng hạn như thông tin xác thực có thể được thu thập và thể
hiện một cách hệ thống; các dữ liệu định lượng có thể được coi là các dữ liệu
có tính chất số - chẳng hạn như thông tin dựa trên việc sử dụng số thứ tự nếu
không bị đứt quãng hoặc các thước đo tỷ lệ. Cả hai loại dữ liệu đều có thể có
độ phức tạp cao đòi hỏi các kỹ thuật phân tích vượt khỏi những hạng mục tính
toán đơn giản.
Cùng với khả năng sử lý các nguồn cứ liệu khác nhau của mình, bạn
cũng sẽ cảm thấy thuận lợi và yên tâm làm việc với cả các dữ liệu định tính lẫn
định lượng. Chẳng hạn một số nghiên cứu trường hợp – như nghiên cứu về khuynh
hướng thành công của học sinh một quận theo thời gian – có thể chủ yếu là thông
tin định lượng. Các nghiên cứu trường hợp khác, chẳng hạn các chiến lược nhấn
mạnh vào bước khởi đầu của một giám thị hỗn hợp nhà trẻ suốt ngày, các chương
trình học chữ khi còn nhỏ, và các khoá học bố trí tân tiến để thúc đẩy cải cách
giáo dục - lại có thể chủ yếu là định tính. Nhưng các nghiên cứu trường hợp
khác - chẳng hạn như việc chứng minh thành tích của học sinh đã được cải thiện
như thế nào khi kết hợp với các sáng kiến – thì lại có thể đòi hỏi cả định tính
lẫn định lượng.
Một nhận xét quan trọng khác về cứ liệu nghiên cứu trường hợp: bạn
cần phải trình bày cứ liệu trong nghiên cứu trường hợp của mình một cách rõ
ràng để cho phép người đọc đánh giá một cách độc lập việc lý giải dữ liệu của
bạn. Các nghiên cứu trường hợp cũ thường trộn lẫn cứ liệu với lý giải. Cách làm
này vẫn có thể tha thứ được khi tiến hành một nghiên cứu trường hợp duy nhất
hoặc một nghiên cứu trường hợp khai mở, vì các tri thức mô tả có thể quan trọng
hơn là việc biết được thế mạnh của cứ liệu cho các hiểu biết như vậy. Tuy nhiên
đối với hầu hết các nghiên cứu trường hợp việc trộn lẫn cứ liệu và giải thích
có thể được coi là một dấu hiệu chứng tỏ bạn không hiểu sự khác biệt giữa hai
hoặc loại đó hoặc bạn không biết cách xử lý dữ liệu (và vì vậy mà đã vội vã đưa
ra các lý giải).
Khi tiến hành nghiên cứu trường hợ, bạn nên thực hiện theo cách
trình bày cứ liệu cổ điển: xây dựng các bảng biểu, sơ đồ, biểu đồm các con số
và các vật trưng bày khác (thậm chí kể cả hình ảnh), và các hoạ tiết minh họa.
Các chú thích, trích dẫn từ các cuộc phỏng vấn, trật tự niên đại và các câu hỏi
- trả lời trong các câu truyện cũng rất thích hợp miễn là chúng là một tập hợp
tách rời khỏi phần tự sự giải thích của bạn. Bất luận cách trình bày dữ liệu
nào thì cấu trúc hoặc hình thức sắp xếp dữ liệu phải phản ánh được mối quan tâm
bao quát đối với việc trình bày dữ liệu một cách ngay thẳng. Cần có một đoạn mô
tả ngắn gọn cách thức thu thập cứ liệu bao gồm cả việc sử dụng công cụ thu thập
dữ liệu chính thức (giao thức nghiên cứu trường hợp).
Điểm No. 7: Các nghiên cứu trường hợp nên trình bày dữ liệu một
cách chính thức và rõ ràng bằng hàng loạt cách trình bày dữ liệu khác nhau độc
lập với phần tự sự (narrative) của nghiên cứu trường hợp.
______________________________________
Tài
liệu tham khảo
Bock, Edwin A., and Alan K. Campbell (eds.), Case Studies in
American Government: The Inter-University Case Program, Prentice-Hall,
Englewood Cliffs, NJ, 1962.
Bromley, D.B., The Case-Study Method in Psychology and
Related Disciplines, John Wiley, Chichester, Great Britain, 1986.
Campbell, Donald T., “‘Degrees of Freedom’ and the Case Study,” Comparative
Political Studies, 1975, 8:178-193.
Christensen, C. Roland, and Abby J. Hansen, Teaching and the
Case Method: Text, Cases, and Reading, Harvard Business School, Boston,
MA, 1981.
Cook, Thomas D., and Monique R. Payne, “Objecting to the
Objections to Using Random Assignment in Educational Research,” in Frederick
Mosteller and Robert Boruch (eds.), Evidence Matters: Randomized Trials
in Education Research, Brookings Institution Press, Washington, DC,
2002, pp. 150-178.
Gomm, Roger, Martyn Hammerlsey, and Peter Foster, “Case Study and
Generalization,” in Roger Gomm, Martyn Hammerlsey, and Peter Foster (eds.), Case
Study Method: Key Issues, Key Texts, Sage, Thousand Oaks, CA, 2000, pp.
98-115.
Hammersley, Martyn, and Roger Gomm, “Introduction,” in Roger Gomm,
Martyn Hammerlsey, and Peter Foster (eds.), Case Study Method: Key
Issues, Key Texts, Sage, Thousand Oaks, CA, 2000, pp. 1-16.
Keeves, John P., Educational Research, Methodology, and
Measurement: An International Handbook, Pergamon Press, Oxford,
England, 1988.
Mitchell, J. Clyde, “Case and Situation Analysis,” in Roger Gomm,
Martyn Hammerlsey, and Peter Foster (eds.), Case Study Method: Key
Issues, Key Texts, Sage, Thousand Oaks, CA, 2000, pp. 165-186.
Originally published in Sociological Review, 1983, 31:187-211.
Pigors, Paul, and Faith Pigors, Case Method in Social
Relations: The Incident Process, McGraw- Hill, New York, NY, 1961.
Platt, Jennifer, “‘Case Study’ in American Methodological
Thought,” Current Sociology, Spring 1992, 40(1):17-48.
Shavelson, Richard J., and Lisa Towne (eds.), Scientific
Research in Education, National Academy Press, Washington, DC, 2002.
Sieber, Samuel D., “The Integration of Fieldwork and Survey
Methods,” American Journal of Sociology, 1973, 78:1335-1359.
Simons, Helen, “The Paradox of Case Study,” Cambridge
Journal of Education, 1996, 26:225- 240.
Stake, Robert E., “Case Studies,” in Norman K. Denzin and Yvonna
S. Lincoln (eds.), Handbook of Qualitative Research, Sage
Publications, Thousand Oaks, CA, 1994, pp. 236-247.
Stake, Robert E., “Case Study Methods in Educational Research:
Seeking Sweet Water,” in Richard M. Jaeger (ed.), Complementary Methods
for Research in Education, American Educational Research Association,
Washington, DC, 1988, pp. 253-300.
Stake, Robert E., “Case Study Methods in Educational Research:
Seeking Sweet Water,” in Richard M. Jaeger (ed.), Complementary Methods
for Research in Education, American Educational Research Association,
Washington, DC, 1997, 2nd edition, pp. 401-427.
Stenhouse, L., “Case Study Methods,” in John P. Keeves (ed.), Educational
Research, Methodology, and Measurement: An International Handbook,
Pergamon Press, Oxford, England, 1988, pp. 49-53.
Van Maanen, John, Tales of the Field: On Writing Ethnography,
The University of Chicago Press, Chicago, IL, 1988.
Yin, Robert K., Applications of Case Study Research,
Sage, Thousand Oaks, CA, 2003a, 2nd edition.
Yin, Robert K., Case Study Research: Design and Methods,
Sage, Thousand Oaks, CA, 2003b, 3rd edition.
Yin, Robert K., “The Abridged Version of Case Study Research,” in
Leonard Bickman and Debra J.
Rog (eds.), Handbook of Applied Social Research,
Sage, Thousand Oaks, CA, 1998, pp. 229-259.
Yin, Robert K., The Case Study Anthology, Sage,
Thousand Oaks, CA, 2004.
Yin, Robert K., “Evaluation: A Singular Craft,” in Charles
Reichardt and Sharon Rallis (eds.), New Directions in Program Evaluation,
1994, pp. 71-84.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét