Người
Hy Lạp và người La Mã ở Trung Quốc xưa [I]
Lucas
Christopoulos
Người dịch: Hà Hữu Nga
Kαθ᾽ ὅλου δέ φησιν ἐκεῖνος τῆς
συμπάσης Ἀριανῆς πρόσχημα εἶναι τὴν Βακτριανήν καὶ δὴ καὶ μέχρι Σηρῶν καὶ Φρυνῶν
ἐξέτεινον τὴν ἀρχήν.
Tóm lại, Apollodoros nói rằng
Bactriana là đồ trang sức của Ariana nói chung; và hơn thế nữa, họ đã mở rộng đế
quốc xa tới tận xứ Seres và Phryni.
— Στράβων (Strabo, Geography 11,
XI, 1)
Giới thiệu
Sau cái chết của Alexander Đại đế,
một số lớn binh lính đã buộc phải ở lại các thành thị châu Á thuộc Bactria và
tây bắc Ấn Độ để kiểm soát các vùng lãnh thổ đã chiếm được. Những thực dân địa
phương Đông mới này đã hấp dẫn dân di cư, trong số đó nhiều người là nghệ sỹ hoặc
lính đánh thuê Hy Lạp, thuộc triều đại của người kế vị Alexander là Seleucos.
Nhiều đứa con sinh ra từ các cuộc hôn nhân hỗn chủng giữa người Hy Lạp và người
địa phương thuộc giới quý tộc Hy Lạp hóa bắt đầu cai trị Bactria và tây bắc Ấn
Độ ở một vài vị trí, trong vòng 300 năm tiếp theo. Ngay sau khi Seleucos thiết
lập liên minh với vua Ấn Độ Chandragupta Maurya thì đẳng cấp chiến binh của Ấn
Độ đã bắt đầu coi những người Hy Lạp hoàn toàn là thành viên của thị tộc mình.
Sau vương triều của cháu Chandragupta là Asoka, vị vua Phật giáo đầu tiên của Ấn
Độ thì liên minh này đã được phản ánh ở गन्धार
Gandhara với sự phát triển của một văn hóa Phật giáo-Hy Lạp. Vương quốc Bactria
độc lập của nhà Diodotes đã đưa lại sự hưng thịnh cho một nền văn hóa độc đáo hỗn
hợp các yếu tố Ba Tư, Ấn Độ và Hy Lạp, và sau đó nó bùng nổ về phía đông để rồi
tác động ảnh hưởng lớn đến thế giới Trung Quốc. Các đội quân người Hy Lạp-Bactrian
và người Scythian Hy Lạp hóa đã đến tận Trung Quốc qua thung lũng Cát Lâm và đã
xây dựng các thực dân địa tại phần phía nam thung lũng, dọc theo sườn bắc của
dãy Himalayas. Sau đó đế quốc Đông La Mã đã thay thế nó, tụ họp rất nhiều lữ
khách, các sứ bộ và thương nhân đến Trung Quốc bằng con đường qua Sri Lanka, đế
quốc Kushana và Ấn Độ, theo con đường Hương liệu từ Ai Cập thuộc La Mã. Sau khi
Thiên chúa giáo xuất hiện, Byzantium đã phát triển các mối quan hệ gần gũi với
Trung Quốc dưới thời nhà Đường, đến lượt mình, hầu hết với các nhà sư Syrian đã
hành xử với tư cách là các trung gian kết nối hai đế quốc.
Trong bài viết này, tôi tập hợp
các dữ liệu từ các văn bản lịch sử, các phát hiện khảo cổ học và công trình
nghiên cứu của các học giả để xác lập sự kết nối giữa các nền văn minh này. Một
số phát hiện khảo cổ học đã được thực hiện tại Trung Quốc, nhưng việc thiếu
thông tin về phương diện đó đã gây khó dễ cho nghiên cứu này. Các nguồn sử liệu
Hy Lạp và La Mã cổ đại cũng có ý nghĩa rất lớn về phương diện giao lưu văn hóa
tại Đông Á. Các học giả phương Tây hiện đại không có nhiều công cụ để khảo sát
chủ đề này một cách nghiêm túc, và họ rất thận trọng khi nó liên quan đến lịch
sử dân tộc Trung Quốc. Chủ đề này có thể động chạm đến các tình cảm dân tộc, vì
nước này nằm ở ngã tư đường của các nền văn minh cổ đại chủ yếu, và một vài người
có thể xem khảo sát Lucas Christopoulos về các mối tương tác giữa “người Hy Lạp
và người La Mã” tại Trung Quốc xưa như là một điều cấm kỵ. Nhưng nếu chúng ta
có thể vượt qua được rào cản tâm lý này bằng cách không để ý đến các tộc người
riêng biệt và coi lịch sử nhân loại là có tính toàn cầu, thì có thể đưa ra được
các diễn giải hấp dẫn liên quan đến những gì đã diễn ra dọc theo Con đường Tơ lụa
ở Tân Cương. Tôi chỉ tìm ra được một vài manh mối trong cái mớ bòng bong lịch sử
đặc thù ấy; trong khi đó những manh mối cần thiết khác lại vẫn biệt tăm ở đâu
đó, hoặc bản thân chúng có thể lại làm dấy lên các câu hỏi khác nữa. Tôi không
có ý định buộc mình phải đưa ra các kết luận tối hậu đối với các vấn đề chưa được
giải quyết này, nhưng tôi muốn gợi ý rằng chúng ta cần tập hợp toàn bộ các manh
mối có thể để đưa ra được một cái nhìn rõ ràng hơn. Đó chính là tiền đề của tiểu
luận này. Tôi hy vọng rằng các phát hiện khảo cổ học trong tương lai cùng việc
trao đổi với các học giả khác sẽ giúp làm sáng tỏ phần lịch sử này của nhân loại,
một lịch sử đã kết nối hai nền văn minh cổ đại có ảnh hưởng lớn – Hy Lạp và
Trung Quốc.
1. Ngựa ô, người Hy Lạp và người Lê Hiên
Người Hy Lạp và những đội quân của
họ sống ở Bactria, Sogdiana và Ferghana đã bắt đầu được biết với các tên gọi
Trung Quốc là người 黎軒
Lixuan [Lê Hiên], 驪軒 Lixuan
[Li Hiên],
犁鞬 Lijian [Lê Kiện] ngay sau khi Hán Vũ đế (漢武帝 156–87
BC) [1] khai thông Con đường Tơ lụa đến Trung Á. Theo Paul Pelliot, thì từ 犁鞬 Lijian
có nguồn gốc từ việc phiên âm của Alexandria ở Ai Cập [2]. Tuy nhiên cái tên 犁鞬 Lijian
lại xuất hiện trước khi người Trung Quốc biết về Con đường Hương liệu theo đường
biển đến thành phố Alexandria trên sông Nile, vì vậy dường như 犁鞬 Lijian
chẳng có vẻ gì gắn với nó. Thành phố Alexandria
Margiana trù phú nằm ở Mary thuộc
Turkmenistan, và được Alexander Đại đế (Aλέξανδρος ὁ Μέγας 356–323 BC) xây dựng
vào năm 328 hoặc 327 TCN, được Pliny Lớn đề cập đến (Natural History,
Book 6, XVIII, 46–47) là nơi có khí hậu tuyệt vời và là nơi sản xuất nho và rượu.
Thành phố này được Antiochos đặt tên lại
là Antiochia, vì vậy mà sự kết hợp Lixuan–Antiochia của người Hán có lẽ là đáng
ngờ. Cái tên “Alexandria” quen thuộc nhất với Trung Quốc là “Alexandria Tối viễn”
hoặc Alexandria Eskhata, và thành phố này do Alexander Đại đế thành lập năm 329
TCN, sau khi ông kết hôn với công chúa người Sogdian là Roxane (Ρωξάνη 345–310
TCN).
Nằm ở tây nam Ferghana, trên các miền đất thuộc Sogdian, vị trí thực của nó là Khudjend ở Tadjikistan (Leninabad cũ). Alexandria Eskhata là cách giải thích hợp lý hơn cho sự kết hợp với 黎軒 Lixuan như Pelliot đã đề xuất. Trong “大宛傳 Dayuan zhuan Đại Uyển truyện – Truyện về Ferghana” của 史記 Sử ký, thì 黎軒 Lixuan phân bố ở vùng biên giới phía bắc của Parthia, làm cho Alexandria Eskhata trở thành vị trí tiềm năng đối với Lixuan–Alexandria. Trong sách Hán thư (chương 96), thì 犁軒 Lixuan cùng với 條支 Tiaozhi Điều Chi nằm ở vùng biên giới phía tây của 烏弋山離 Wuyishanli Ô Dặc San Ly Ariana–Arachosia, hoặc thành phố Alexandria Arachosia), và được giới hạn bởi 西海 Xihai Tây Hải. 顏師古 Nhan Sư Cổ giải thích rằng Li (犁) có thể được viết là Li (驪 li) và Xuan (軒 hiên) có cách phát âm cổ Julian (鉅連 cự liên) or Juyan (鉅言 cự ngôn). Theo 正義 Chính Nghĩa thì Li (黎) được phát âm là Lixi (力奚 - lực hề), vậy thì cách phát âm gốc của 驪軒 có lẽ là Lixijulian hoặc Lixijuyan cả hai đều rất gần với Alexandria. Vì các vua người Hy Lạp-Bactrian hoặc Ấn Độ - Hy Lạp là quyền lực quân sự và văn hóa – xã hội chủ yếu ở Bactria, Sogdiana và tây bắc Ấn Độ vào thời nhà Tần (秦始皇帝 Tần Thủy Hoàng đế 259–210 TCN), nên đương nhiên là chúng ta cần đặt câu hỏi xem liệu đã có bất cứ sự tiếp xúc nào của họ hay chưa. Khoảng cách giữa Ferghana, nơi cư ngụ của người Hy Lạp-Bactrian, và Tần Thủy hoàng là khoảng 3000 km. Tên gọi Lixuan lần đầu tiên được sử gia Tư Mã Thiên sử dụng trong “大宛傳 Dayuan zhuan Đại Uyển truyện – Truyện về Ferghana” của sách 史記 Sử ký. Quận 酒泉 Tửu Tuyền – Suối rượu nằm trải theo hướng tây bắc của các nước này để tạo thuận lợi cho việc giao lưu với 安息 Anxi An Tức [Parthian - Ba Tư], 奄蔡 Yancai Yểm Thái [Aorsoi – bắc Ba Tư], 黎軒 Lixuan, 條支 Tiaozhi Điều Chi [Bán đảo Arab], và 身毒 Thân Độc [Ấn Độ]. Thiên tử - Con trời được mãn nguyện với đàn chiến mã Đại Uyển, còn các sứ bộ thì luôn luôn muốn tiếp xúc với Con trời [3].
Nằm ở tây nam Ferghana, trên các miền đất thuộc Sogdian, vị trí thực của nó là Khudjend ở Tadjikistan (Leninabad cũ). Alexandria Eskhata là cách giải thích hợp lý hơn cho sự kết hợp với 黎軒 Lixuan như Pelliot đã đề xuất. Trong “大宛傳 Dayuan zhuan Đại Uyển truyện – Truyện về Ferghana” của 史記 Sử ký, thì 黎軒 Lixuan phân bố ở vùng biên giới phía bắc của Parthia, làm cho Alexandria Eskhata trở thành vị trí tiềm năng đối với Lixuan–Alexandria. Trong sách Hán thư (chương 96), thì 犁軒 Lixuan cùng với 條支 Tiaozhi Điều Chi nằm ở vùng biên giới phía tây của 烏弋山離 Wuyishanli Ô Dặc San Ly Ariana–Arachosia, hoặc thành phố Alexandria Arachosia), và được giới hạn bởi 西海 Xihai Tây Hải. 顏師古 Nhan Sư Cổ giải thích rằng Li (犁) có thể được viết là Li (驪 li) và Xuan (軒 hiên) có cách phát âm cổ Julian (鉅連 cự liên) or Juyan (鉅言 cự ngôn). Theo 正義 Chính Nghĩa thì Li (黎) được phát âm là Lixi (力奚 - lực hề), vậy thì cách phát âm gốc của 驪軒 có lẽ là Lixijulian hoặc Lixijuyan cả hai đều rất gần với Alexandria. Vì các vua người Hy Lạp-Bactrian hoặc Ấn Độ - Hy Lạp là quyền lực quân sự và văn hóa – xã hội chủ yếu ở Bactria, Sogdiana và tây bắc Ấn Độ vào thời nhà Tần (秦始皇帝 Tần Thủy Hoàng đế 259–210 TCN), nên đương nhiên là chúng ta cần đặt câu hỏi xem liệu đã có bất cứ sự tiếp xúc nào của họ hay chưa. Khoảng cách giữa Ferghana, nơi cư ngụ của người Hy Lạp-Bactrian, và Tần Thủy hoàng là khoảng 3000 km. Tên gọi Lixuan lần đầu tiên được sử gia Tư Mã Thiên sử dụng trong “大宛傳 Dayuan zhuan Đại Uyển truyện – Truyện về Ferghana” của sách 史記 Sử ký. Quận 酒泉 Tửu Tuyền – Suối rượu nằm trải theo hướng tây bắc của các nước này để tạo thuận lợi cho việc giao lưu với 安息 Anxi An Tức [Parthian - Ba Tư], 奄蔡 Yancai Yểm Thái [Aorsoi – bắc Ba Tư], 黎軒 Lixuan, 條支 Tiaozhi Điều Chi [Bán đảo Arab], và 身毒 Thân Độc [Ấn Độ]. Thiên tử - Con trời được mãn nguyện với đàn chiến mã Đại Uyển, còn các sứ bộ thì luôn luôn muốn tiếp xúc với Con trời [3].
Trước khi đề cập đến người黎軒 Lixuan, chúng ta đã biết về những bộ lạc du mục có nguồn gốc
Scythian lang thang trên các thảo nguyên mênh mông vùng Tân Cương, Cam Túc, và
Ninh Hạ cùng các ốc đảo thời đầu nhà Tần (秦國
778–207 TCN). Trong suốt giai đoạn Hán sớm, một bộ lạc có tiếng sống ở Cam Túc
có tên gọi là 月氏
Nguyệt Thị hoặc 月支 Nguyệt Chi; cuối cùng họ đã đến
vùng Tây Vực. [4] Nhà Tần luôn ở trong tình trạng chiến tranh với rợ 西戎 Tây
Nhung [các đội quân phía tây], đặc biệt một trong số bộ lạc đó là 驪戎 Li
Nhung, “đội quân ngựa ô”. Vì 驪 li có nghĩa là ngựa đen [ngựa ô]
nên nó đã trở thành tên gọi chung cho các bộ lạc du mục trên thảo nguyên cưỡi
trên những con ngựa ô cao lớn vùng Trung Á [5].
Sử liệu sớm nhất nói về một nơi có
tên gọi 驪山
Li Sơn – Núi Ngựa ô là thời nhà Chu, khi ông hoàng 獻公 Hiến
công 886–855 TCN [魯獻公 Lỗ
Hiến công 姬具 Cơ Cụ, đời vua thứ 7 nước Lỗ, một chư hầu nhà Chu*] đánh nhau với
rợ Tây Nhung. Núi Li Sơn ở gần Tây An, và đó chính là nơi sinh sống của các
đoàn quân 驪戎
ngựa ô Li Nhung. “Rợ Li Nhung là một chi của Tây Nhung. Thủ lĩnh của
họ tên là 姫
Ji - Cơ. Nhà Tần gọi họ là 驪邑 Li
Ấp; Hán Cao đế gọi họ là 豐邑 Li Ấp, sau đó nó được đổi thành Xinli
(新豐).
Chúng nằm ở Kinh Triệu, gần Tràng An) [6]”**.
Vua U Vương (幽王 781–771
TCN) nhà Chu bị các “đội quân Ngựa ô”
giết chết ở Li Sơn. Theo sách左傳 Tả truyện [7] vào năm thứ 38 đời 莊公 Trang
Công (665 TCN)***, các kỵ binh “Ngựa ô” vùng thảo nguyên đã được nói đến như một
đạo quân Tây Nhung riêng biệt. [8]
Bắt đầu
vào thế kỷ VI TCN, rợ 狄
Địch thảo nguyên phương bắc đôi
khi cũng ra nhập các đội quân Trung Quốc với tư cách là lính đánh thuê. Chữ được
dùng để viết tộc danh 狄
Địch được tạo bởi bằng hai chữ là 犭khuyển-chó và 火 hỏa-lửa,
và nó được dùng để chỉ các bộ lạc săn bắn bằng ngựa sống ở vùng biên giới phía
bắc Trung Quốc. Các bộ lạc 狄 Địch
vùng thảo nguyên bắc Trung Quốc được nhà
Tần gọi là白狄
Bạch Địch, trong khi đó các nhóm
vùng đông bắc lại được gọi là 赤狄 Xích Địch.
Nhóm khác sống ở nam Cát Lâm dọc theo dãy Hymalaya, từ Tân Cương đến Tứ Xuyên
thì lại được gọi là 羌
Khương. Nhiều vị thần mang họ
Khương có truyền thống chống lại 黃帝 Hoàng đế, vốn là biểu tượng của tổ tiên người Hán. Một
vài nhân vật quan trọng trong thần thoại Trung Quốc – chẳng hạn như 蚩尤
Xi Vưu là 戰神 Chiến thần; 神農
Thần nông, chủ về nông nghiệp; 共工 Cộng Công hoặc 大禹 Đại Vũ, tất cả đều gắn với người Khương. Trong chữ 羌 Khương có chữ 羊 dương là con dê, và nó là biểu tượng của người
du mục chăn cừu Tây Tạng hoặc người có râu 西羌 Tây Khương từ tây nam Cát Lâm giáp giới với Himalayas. Một từ khác
của chữ Hánđể chỉ Tây Vực và các rợ tây bắc là 胡 Hồ có nghĩa gốc rõ ràng là để gọi cục yết hầu
dưới họng. Trước thời nhà Tần (221 – 206 TCN), chữ 古 cổ được viết là 喉 hầu [họng], và 月 nguyệt - mặt trăng được viết là 肉 nhục – thịt. Chẳng hạn chữ 有 hữu [có] thể hiện bằng hình bàn tay cầm miếng
thịt trong thời cổ. Vì vậy “người có yết hầu béo” chủ yếu là để chỉ người 匈奴 Hung Nô, Mông Cổ hoặc các chiến binh Tây Vực
“cứng cổ”. [9]
_____________________________________
Nguồn: Lucas Christopoulos, Hellenes and Romans in Ancient China (240
BC – 1398 AD), Sino-Platonic Papers, 230 (August, 2012).
Tác giả: Chưa có thông tin.
Người dịch chú:
** Đoạn này của Lucas
Christopoulos dường như không ổn: trong trường hợp Hán ngữ của Lucas giỏi thì có lẽ nó đã được viết lúc anh ấy ngủ
gật; một trường hợp khác tệ hơn là anh ấy không thạo chữ Hán. Vì vậy nó đã được
viết như thế này: The armies of Li are a particular branch of the Western
armies. Their Warlord has the name of Ji (姫).
The Qin called them the Liyi (驪邑); Han Gaodi
called them the Liyi (豐邑), then it was changed to Xinli
(新豐).
They are located in Jingzhao (京兆; near Chang’an). [Rợ
Li Nhung là một chi của Tây Nhung. Thủ lĩnh của họ tên là 姫 Ji. Nhà Tần gọi họ là 驪邑 Li
Ấp; Hán Cao đế gọi họ là 豐邑 Li Ấp, sau đó nó được đổi thành Xinli
(新豐).
Chúng nằm ở Kinh Triệu, gần Tràng An].
Đoạn nguyên văn tiếng Anh trên, viết
Liyi (驪邑)
thì đúng; nhưng tiếp theo viết Liyi (豐邑) thì sai, vì
ai cũng biết chữ 豐
là phong [phiên âm là fèng], có nghĩa
là: béo tốt, đầy đặn, to lớn, tốt tươi, được mùa; bình đựng rượu tế; họ Phong;
và [động từ] làm cho dồi dào, phong nhiêu; nhưng đã bị Lucas viết phiên âm
thành li, giống hệt phiên âm của chữ li 驪 có nghĩa là:
ngựa ô, viên ngọc dưới cổ con long mã, một tên gọi khác của long nhãn; và [động
từ] sóng đôi, ngang hàng. Không chỉ nhầm một lần, mà nó còn được tiếp tục ở chữ
新豐 [xin fèng - Tân Phong] vẫn được
ghi phiên âm là 新豐
[xinli].
Không
chỉ sai ở phần chính văn, mà đoạn Hán văn cho chú dẫn số 6 cũng đã sai khá buồn
cười: “驪戎,西戎之别在驪山者也。其君男爵姬姓.秦曰驪邑,漢高帝徒豐邑於驪邑更曰新豐,在京兆也” - Li Nhung, Tây Nhung chi biệt tại Li Sơn giả dã. Kì
quân nam tước cơ tính. Tần viết Li Ấp,
Hán Cao đế đồ phong ấp ư Li Ấp canh viết Tân Phong, tại Kinh Triệu dã”.
Nguyên văn trong Quốc ngữ đoạn đó
được viết như sau: “獻公卜伐驪戎” 三國吳韋昭注: 驪戎,西戎之別在驪山者也。其君男爵,姬姓。秦曰驪邑,漢高祖徙豐民於驪邑,更曰新豐,在京兆也”.
[國語•晉語一] “Hiến công bốc phạt Li Nhung” Tam
Quốc Ngô Vi Chiêu chú: “Li Nhung, Tây nhung chi biệt tại Li Sơn giả dã. Kì quân nam tước, Cơ tính. Tần
viết Li Ấp, Hán Cao tổ tỉ phong dân ư Li Ấp, canh viết Tân Phong, tại Kinh Triệu
dã”. [Quốc ngữ - Tấn ngữ nhất]
Đoạn dẫn của Lucas viết: 漢高帝徒豐邑於驪邑更曰新豐
Hán Cao đế đồ phong ấp ư Li Ấp canh viết Tân Phong. Vì có chữ 徒 đồ
[chữ này có nghĩa là: lũ, nhóm, bè, đảng; xe của vua, học trò, môn đệ, lính bộ,
hình phạt thời xưa; không, trống, uổng công, vô ích; lại, chỉ có, chỉ vì; [động
từ] đi bộ] nên đã làm cho đoạn đó trở nên vô nghĩa, sai nghĩa, tối nghĩa; trong
khi đó nguyên bản Quốc ngữ - Tấn ngữ viết: 漢高祖徙豐民於驪邑, 更曰新豐 Hán
Cao tổ tỉ phong dân ư Li Ấp, canh viết Tân Phong. Trong câu này, thay cho
chữ đồ 徒
là chữ tỉ 徙 [nghĩa
là: di chuyển, chuyển dời, đưa đi, dọn đi nơi khác] làm cho câu đó trở nên rõ nghĩa: Hán Cao tổ chuyển nhiều dân đến
Li Ấp, nên đổi tên [Li Ấp] thành Tân Phong [có nghĩa là đổi tên từ ấp Ngựa ô
thành ấp mới Phong nhiêu]. Sở dĩ có sai sót đó là vì chữ đồ 徒 và
chữ tỉ 徙 nhìn thoáng qua thì rất giống nhau, nếu không chú ý
đến nghĩa của văn cảnh thì thật dễ nhầm lẫm.
Chú thích
1. The roads between Central Asia
and the Mediterranean Sea through Persia were already widely used by the
Persians during the Achaemenid Empire. See Pierre Briant, Highways, Byways,
and Road Systems in the Pre-Modern World, first edition, edited by Susan E.
Alcock, John Bodel, and Richard J. A. Talbert (John Wiley & Sons,Inc,
2012). (Map III, 1)
2. Paul Pelliot thought that Ljian
would have been Alexandria of Egypt: « Note sur les anciens itinéraires Chinois
dans l’orient Romain, » Journal Asiatique 17, (1921). Friedrich Hirth
thought earlier that Lijian was the transcription of the word Rekhem,
meaning the city of Petra after the Chinese travelers met the Parthians; Hirth,
Friedrich, China and the Roman Orient, (1875), pp. 159 and 170. I do not
take this explanation to be correct because the Greeks were living in Central
Asia before the rule of the Parthians. Leslie and Gardiner took Lijian (or
Ligan) for the whole Seleucid Empire; “Chinese knowledge of Western Asia,” T’ong
Pao 168 (1982) pp. 290–297. Homer Hasenpflug Dubs also thought that Lijian
was related to Alexander in: A Roman City in Ancient China, London, The
China Society (1957), 2. See also Edouard Chavannes; «Les pays d’occident
d’après le Heou Han Chou,» T’ong Pao 8, (1907).
3.史記,大宛傳“初置酒泉郡以通西北國。因益發使抵安息,奄蔡,黎軒,條枝,身毒國。而天子好宛馬,使者相望於道.” Beijing: 中華書局, 1959 – 1999, chap. 123, p. 2404.
4. According to Kazuo
Enoki, the name “Yuezhi” derived from “Yushi” (禺氏), the region of Khotan that engaged in trade with the Chinese
from the end of the Warring States period. See “The So-called Sino-Kharoshthi
Coins,” Studia Asiatica: The Collected Papers in Western Languages of the
Late Dr. Kazuo Enoki (Tokyo: Kyu-Shoin, 1998), p. 424.
5. Alexander the Great
rode “Bull-headed” (Βουκέφαλας), a black horse as
well (Arrian, Anabasis of Alexander, Book 5, XIX, 4–6), and Plutarch (Life
of Alexander, 6, 1–8).
6.國語,
chap. 7, 晉語,上海古籍出版社,
1978), p. 253 “驪戎,西戎之别在驪山者也。其君男爵姬姓.秦曰驪邑,漢高帝徒豐邑於驪邑更曰新豐,在京兆也.”
7.左傳,莊公二十年,史記,周本記,幽王舉烽火徵兵,兵莫至。遂殺幽王驪山下,虜襃姒,盡取周賂而去。水經注
explains that “he died near 戱水 at the Northern side of 驪山.
Beijing, 1959, p. 179.
8.史記, chap. 4, 周本記 Beijing, 1959, p. 179.
9. Source: 說文解字, 許慎, chap. 4 (下) (Beijing: Zhonghua
Shuju 中華書局,
1963), p. 89.
không thấy có bài 2, mong tác giả dịch tiếp
Trả lờiXóaVâng, nếu có thời gian, vì bị công việc khác cuốn đi nên cho đến giờ vẫn chưa dịch tiếp bài II được. Xin thành thật cáo lỗi cùng bạn Hà Khánh.
Xóa