Bi ký Chăm ở Biên Hòa
Antoine
Cabaton
Người dịch: Hà Hữu Nga
Tại ngôi chùa An Nam có tên gọi Bửu
Sơn, thuộc làng Trước Bình, Bình Thạnh, thị trấn Phước Vinh Thượng, cách Nha
Thanh tra Biên Hòa 800 m về phía Tây Bắc, và cách Sài Gòn 20km, có thể thấy một
minh văn Chăm khắc trên một tấm bia nửa hình elip cao 85cm, gắn liền với một bức
tượng thần Visnu cao 150cm [1]. Trên bia có 9 dòng chữ không ngang bằng nhau,
dòng thứ nhất dài 32 cm, trong khi đó dòng áp chót thì lại dài đến 65cm. Các chữ có chiều cao từ 30 – 33 mm, thường được
chạm sâu khoảng 2mm, được sắp xếp rất ngăn nắp, và tự dạng gợi lại dáng chữ của
minh văn Bến Làng, có niên đại 1358 saka [1436 công lịch], gồm có ba mảnh đã được
Bergaigne sao chép lại [2].
Minh văn này viết bằng chữ Chăm
pha trộn với các từ tiếng Phạn lặp lại các âm được ông Bergaigne và ông Ayinonier
đã phiên âm và dịch một phần [3]. Một vài mẫu tự đáng chú ý vẫn còn được bảo
lưu trong cách viết chữ Chăm hiện nay rất đáng được xem xét. Các từ Nauk và
Glaun, chẳng hạn, đã được phiên âm theo từng ký hiệu, bằng cách phân biệt khi विराम* virāma [dấu ngắt giọng] được viết lên phía trên, gần như thẳng
hàng theo trục dọc tính từ ngoài cùng bên phải của dấu hiệu sử dụng ưa thích
đó. Tất cả đều là từ yān được viết với bán nguyên
âm, dài và là अनुनासिक*anunāsika, âm mũi; còn hiện nay thì nó được viết là [...]. Cuối
cùng nét cong lớn vượt hẳn lên các từ khác, chính là cái ký hiệu mà tôi đã lưu
ý với ông Finot trong cách phiên âm của tôi cho cho cái dấu ngã uue, mà người
Chăm vẫn thường dùng thay thế cho cái âm hầu mũi विराम* virāma ngắt giọng ưa thích của họ.
Phần ghi niên đại, thật không may,
lại là phần bị mất mát nhiều nhất trên minh văn, nên rất đáng ngờ. Được thể hiện
bằng cả chữ số và các từ biểu trưng lạ lẫm, nhưng lại không hề có các dữ liệu
phụ thêm (nhật thực, nguyệt thực, ngày trong tuần) cho phép xác định rõ. Tuy
nhiên như chúng tôi đọc được [4], thì có thể chấp nhận cả sự tương đồng của cái
ký tự lớn trên tấm bi ký này với các dấu hiệu đó của minh văn năm 1358 saka đã
dẫn ở trên để làm cơ sở cho việc định niên đại. Vấn đề thực sự là cái tên của vị
hoàng tử có tên là Nauk Glaun Vijaya, con trai của Sri Jaya Simhavarman V, vị
vua có thể được coi là thuộc tấm bi ký núi Bến Làng, các mảnh của tấm bi ký
Bình Định [5]. Nauk Glaun Vijaya, người chiến thắng quân An Nam, đã hiểu rõ
vương quốc có tên gọi Brah Kānda; đã đánh thắng nhiều trận, sau đó quay về
Champa, dựng tượng Visnu và rất ưa dùng các chiến lợi phẩm thu được của người
Khmer để xây dựng các cơ sở tôn giáo. Tấm bi ký này có niên đại 1441 (hoặc
1461) SCN, một vài năm trước khi kinh đô Chăm bị chiếm (1446 SCN) hoặc việc phá
hủy hoàn toàn đất nước Champa vào năm 1471 SCN.
Về phương diện địa lý, thì minh
văn này bên cạnh những cái tên Kvir (Cambodia) và Yvan (An Nam), còn cho chúng
ta biết về một nước nào đó có tên là Brah Kānda, mà ông Aymonier, dù không có cơ
sở hợp lý, vẫn thiên về cái tên gốc của Chân Lạp [6].
Cuối cùng, việc xây dựng công
trình tưởng niệm kỳ lạ này là một bằng
chứng rõ ràng về sự tồn tại của tục thờ cúng Visnu trong vương quốc cổ Champa.
Việc có thêm một tấm bi ký đen có
thể là cách quan tâm đến thực chất tâm lý và một cái gì đó có tính mỉa mai, đó
là: khúc khải hoàn khoa trương này lại là một Khúc hát Thiên nga**. Hai mươi
năm sau, và có thể còn ít hơn nữa, nếu chúng ta chấp nhận niên đại 1383 saka –
người Chăm đã hoàn toàn bị người An Nam đánh bại, và chỉ còn để lại lời ai ca
sau:
ḍuiṣṣak
sā båḥ nơgar аnnơk yụơn paḍar čaṃ yău kabav;
anak
čaṃ baṣaiḥ adhᴉā bơṅ ᴉā mơta yụā yụơn paḍar
Hổ thay cho xứ sở ta! Lũ trai Yuôn
đã choàng ách trâu lên cổ dân Chăm;
Trong đám con Chăm kẻ Bà Sế ừng ực
nuốt lệ, bởi lũ Yuôn đã đóng ách lên rồi!
Nội
dung bài minh:
(1). |svasti| pu põ ku nan sῡnnu
(2) yāṅ põ ku Çrī Jaya Siṅhavarmmadeva
(3) uraṅ Ṅauk glauṅ vijaya paripāla rāṣṭra sei
tmũ
(4) jaya di nagara Yvan ma udyāṇna gulāc tok
nagara
(5) Braḥ Kānda nī yuddha aneka sei tmũ gulāc jẽ
nagara Ca
(6)mpa di çaka loka saṣṭārthānalaḥ ṇdapaḥ pakrãttha
(?) Tri
(7) bhavanākrānta nī ṅan vijitta sa trā si sei
tmũ jaya di Kvīr
(8) tmũ vuḥ bhogopabhoga yathā deva liṅga vukān
rei sei jmai tmũ
(9) jẽ nagara Kvīr jẽ nagara Campa sadākāla.
“Con trai của Çrï Jaya Simhavarman, Ṅauk Glauṅ
Vijaya che chở cho xứ sở; đã đánh bại [7] nước Yuôn; đã bị bỏ lại (trên chiến
trường), rồi lại trở về [8] coi giữ xứ Braḥ Kānda này. Người đã thắng nhiều trận
đánh và quay trở về xứ sở Champa (năm saka) (được xác định bằng) các vùng sáu
mươi (hoặc tám), ba, đám sậy (hoặc lửa)[9]. Người đã cung kính dựng lên [10] Tribhuvanakranta
bằng chiến lợi phẩm [11] thu được của người Kvīr (Khmer). Người dâng [12] tất cả
những gì chiếm được lên các vị thần, các lingas, và không bao giờ quên hưởng niềm
vui cả ở xứ sở Khmer lẫn xứ Champa.
Ghi
chú bổ sung - Bản sao minh văn Biên Hòa được công bố ở trên
đã được thực hiện dựa trên các nét rất khó nhận dạng. Vì vậy ông Aymonier đã có
nhã ý gửi cho tôi bản sao mới nhờ hảo ý của ông Rodier, Thống đốc Nam Kỳ; bản
sao đó nét chữ rất rõ ràng. Ông Aymonier cũng đã đến để cùng đồng thuận dịch bài
minh, ngoại trừ niên đại ông đưa ra để đọc:
loka-aṣṭa-ardha-anala = 1282 saka.
Việc hiệu chỉnh dường như có thể chấp nhận; nó
cũng gần với sự thật lịch sử mà niên đại trong bài viết của chúng tôi đề cập đến
thời gian Champa vẫn còn có thanh thế [13].
________________________________
Nguồn: Antoine
Cabaton L'inscription chame de Bien-Hoa,
Bulletin de l'Ecole française d'Extrême-Orient. Tome 4, 1904. pp. 687-690.
Ghi
chú của người dịch:
* Các chữ Phạn này là do tôi tự dịch ra để hiểu nghĩa của từ mà thôi.
* Các chữ Phạn này là do tôi tự dịch ra để hiểu nghĩa của từ mà thôi.
** Chant du cygne [κύκνειο άσμα] cách ngôn Khúc hát Thiên nga là ẩn dụ về sự gắng gỏi cuối cùng trước thời khắc lâm chung. Người Hy Lạp cổ đại tin rằng trước khi chết Thiên nga cất tiếng hát một bài hát mê hồn mà nó không bao giờ hát trong suốt cuộc đời. Tham chiếu sớm nhất về niềm tin này thấy trong vở kịch Agamemnon của Aeschylus từ năm 458 TCN. Trong vở kịch, Clytemnestra so sánh cái chết của Cassandra với một con Thiên nga đã cất tiếng hát khúc Bi ca chung cục cuộc đời. Phaedo của Plato đã ghi lại lời của Socrates nói rằng mặc dù Thiên nga biết hát từ lúc còn nhỏ, nhưng nó không bao giờ hát hay như tiếng hát lúc lâm chung. Truyện ngụ ngôn Thiên nga bị nhầm là ngỗng của Aésop đã đã lồng vào đó huyền thoại Tiếng hát Thiên nga như sau: “Một chú Thiên nga bị tóm vì người ta tưởng là ngỗng, thế là nó cất lên khúc hát dạo đầu trước cái chết đang đợi mình. Người ta đã nhận ra giọng hát mê hồn của nó, và nhờ vào giọng hát của mình mà nó đã được cứu sống”.
Chú
thích:
1. Voir B. E. F. E.-O i, 18.
2. L'ancien royaume de Campa, dans L’Indo -
Chine, d'après les inscriptions (Journal Asiatique, janvier 1888, pp. 18-19).
3. Première élude sur les inscriptions chames
(Journal Asiatique, janvier-lévrier 1891.pp. 7 et 84-85;
4. 1363 ou 1383 çaka.
5. Aymonier, loc. land., pp. 82-83.
6. Nouvelles observations sur le Founan
(Journal Asiatique, septembre-octobre 1903,p. 340, n. t).
7. tmῡ = tāmơṅ “usage, jouissance, possession
; fortuné, propice, favorable”.
8. gulāc = gulač (bahn. gleč) “tourner,
retourner, revenir”.
9. 1363 (ou 1383). — Sasta (pour sasti) = 60,
est incorrect et inaccontumé, car on emploie dans les dates non les dizaines,
ou les centaines, mais les unités seulement. On pourrait lire asta = 8, l'a initial étant presque
identique à s [...] et l'on obtiendrait alors la date de 1383, mais historiquement
1363 convient mieux. Nala ou anala est inconnu comme symbole
numérique, mais ne peut évidemment être que 1.
10. Je traduis faute de mieux ndapah par le mot tapah “oeuvre pie, acte de piété” de la langue moderne — skr. tapas, et je suppose que pakràttha = skr. prakrta, sans perdre de vue ce que cette interprétation a de
conjectural.
11. ? vijita.
12. vuh = buh “donner, confier, remettre”. Ex.:
buh kà čei jö “il le conserva au
service du prince”.
13. [Je prends la liberté de proposer une troisième
interprétation. La date me semble devoir se lire: loka astārdhāualah nrapah = 1343 (nrapah = nrpah = rājā = soniah = 1). Je reviendrai prochainement
sur cette question en étudiant quelques autres inscriptions du même personnage -
L. Finot].