Powered By Blogger

Thứ Hai, 1 tháng 12, 2025

Lược khảo Thuyết Văn Giải Tự (I)

Lại Minh Đức

Người dịch: Hà Hữu Nga

[Hứa Thận (không rõ năm sinh năm mất), tự là Thúc Trọng, người Chiêu Lăng, Nhuận Nam (nay là huyện Chiêu Lăng, thành phố Tháp Hà, tỉnh Hà Nam) vào thời Đông Hán. Ông là một học giả kinh điển, nhà ngữ văn và nhà ngôn ngữ học thời nhà Hán, đồng thời là người tiên phong của ngữ văn Trung Quốc. Ông được tôn là Tự Thánh - Thánh Chữ. Hứa Thận đã viết Thuyết văn Giải tự. Ông cũng viết ‘Ngũ kinh Dị nghĩa’‘Hoài nam Hồng liệt Giải cổ’, nhưng hai tác phẩm này đã bị thất lạc. Trần Thủ Kỳ thời nhà Thanh đã viết ‘Ngũ kinh Dị nghĩa Sơ chứng’. Hứa Thận là hậu duệ của Viêm Đế Thần Nông. Viêm Đế có một hậu duệ tên là Tấn Vân, sau Tấn Vân là Cộng Công. Cháu trai của Cộng Công là Thái Nhạc được phong tước Hầu vì có công trị thủy và được gọi là ‘Lã Hầu’. Vào đầu thời nhà Chu, Văn Thúc, hậu duệ của Lã Hầu, được phong Hầu đất Hứa (cách thành phố Hứa Xương, tỉnh Hà Nam ngày nay khoảng 18 km về phía đông). Văn Thúc lấy tên nơi mình được phong làm họ. Sau đó, Hứa Quốc thiên di nhiều lần, cuối cùng vào năm 524 TCN định cư ở Dung Thành (cách huyện Lỗ Sơn, tỉnh Hà Nam ngày nay khoảng 15 km về phía đông nam). Đến đầu thời Chiến Quốc, Hứa Quốc bị Sở Quốc tiêu diệt. Sau khi Hứa Quốc sụp đổ, những người còn sống sót trong gia tộc họ Hứa đã di cư đến Chiêu Lăng bên bờ sông Nhữ Thủy ở Nhữ Nam, và Hứa Thận thuộc chi này. Quan điểm học thuật chính thống cho rằng Hứa Thận sinh ra ở làng Vạn Tuế, huyện Triệu Lăng, Nhữ Nam. Tiểu sử của ông được ghi chép trong ‘Hậu Hán thư’ của Phạm Diệp thời Nam Tống, nhưng chỉ gồm 85 chữ nên khá ngắn gọn. Hứa Thận giữ chức Thái Úy Phủ Tế Tửu, học với Kinh học Học giả Giả Quỳ, và được Mã Dung hết lời ca ngợi, được mệnh danh là ‘Ngũ kinh Vô song Hứa Thúc Trọng’. Ông bắt đầu biên soạn ‘Thuyết văn Giải tự’ vào năm 100 SCN (năm Vĩnh Nguyên thứ 11 của Hán Hòa Đế thời Đông Hán). Hoàn thành vào năm 121 SCN (năm Kiến Quang thứ nhất) sau 21 năm miệt mài khảo cứu viết lách. ‘Thuyết văn Giải tự’ là cuốn từ điển đầu tiên của Trung Quốc, gồm 9.353 chữ đơn và 1.163 chữ biến thể, được chia thành 540 mục, với 540 bộ thủ của chữ Hán. Khi Hứa Thận lâm bệnh nặng, ông sai con trai là Hứa Trùng dâng sách lên Hán An Đế. Sau khi Hứa Thận mất, ông được chôn cất ở phía đông thôn Hứa Trang, hương Cơ Thạch, huyện Yển Thành.HHN]

‘Thuyết văn Giải tự’ là tác phẩm kinh điển đầu tiên của Trung Quốc trong lịch sử ngữ văn và ngôn ngữ học, phân tích một cách có hệ thống hình thái, cách phát âm và ý nghĩa của chữ Hán dựa trên học thuyết 六書 Lục Thư. Sách có bề dày lịch sử 1914 năm, từ khi xuất bản cho đến nay (năm 100 SCN - 2014). Sách luôn là tài liệu tham khảo thiết yếu cho các học giả đọc kinh điển Trung Quốc và nghiên cứu chữ Hán, đồng thời là một tài liệu kinh điển mà những người làm công tác giảng dạy tiếng Hán nên biết khi tích lũy kiến ​​thức. Nội dung sách tóm tắt các quy tắc cấu tạo chữ Hán, phân tích chữ Tiểu Triện căn cứ vào 六書 Lục Thư dựa trên mối quan hệ cấu trúc giữa hình, âm và nghĩa, đồng thời phân loại 9353 chữ Hán thành 540 bộ thủ theo thành phần ngữ nghĩa của chúng. Điều này tạo nên một khuôn khổ thống nhất cho chữ Hán, giúp việc tra cứu dễ dàng và cung cấp những giải thích súc tích về hình thái, âm và ý nghĩa của từng chữ. Đây cũng là một tác phẩm kinh điển cực kỳ quan trọng để nghiên cứu nguồn gốc, sự phát triển và tiến hóa của chữ Hán. Học giả Vương Minh Thịnh thời nhà Thanh đã nói:文》為天下第一種書,讀遍天下書不讀《文》猶不讀也。但能通《文》,餘書皆未讀,不可謂非通儒也。Phiên âm: “Thuyết văn’ vi thiên hạ đệ nhất chủng thư, độc biến thiên hạ thư bất độc ‘Thuyết văn’ do bất độc dã. Đãn năng thông‘Thuyết văn’, dư thư giai vị độc, bất khả vị phi thông nho dã.” Dịch nghĩa: “Thuyết văn’ là cuốn sách hàng đầu thế gian. Đọc hết sách trên đời mà không đọc ‘Thuyết văn’ thì cũng chẳng khác nào chưa hề đọc sách vậy. Nếu có thể hiểu được ‘Thuyết văn’, ngay cả khi không đọc bất kỳ sách nào khác, thì không thể coi là người không uyên thâm vậy.” (Lời tựa ‘Thuyết văn Giải tự Chính nghĩa’). Tuy mấy lời trên có phần phóng đại, nhưng nó đã nhấn mạnh được vai trò quan trọng của sách Thuyết văn Giải tự trong việc giải thích cấu trúc chữ Hán và nghiên cứu văn bản cổ. Tóm lại, sách ‘Thuyết văn Giải tự’ có nội dung phong phú, bao gồm việc thiết lập bộ thủ, định nghĩa Lục thư - Sáu loại chữ Hán, phân tích cấu trúc, ghi chép cách phát âm cổ, biên soạn các diễn giải ngữ nghĩa, truy tìm nguồn gốc chữ viết, bảo tồn văn bản cổ, liên kết chữ viết theo hình thức, khám phá nguyên lý vạn vật và truyền bá văn hóa.

[Ghi chú về 六書: Lục thư  là một khái niệm quan trọng liên quan đến chữ Hán, thảo luận về sáu loại hình thành chữ và phương pháp viết chúng. Khái niệm Lục thư đã được đề xuất từ ​​thời Đông Hán. Lục Thư, bao gồm chữ tượng hình, chữ tượng ý, chữ tượng ý phức hợp, chữ ghép ngữ âm, chữ phái sinh và chữ mượn ngữ âm, đại diện cho lý thuyết hệ thống sớm nhất về cấu tạo chữ Hán. Chúng được Hứa Thận, tác giả sách ‘Thuyết Văn Giải Tự’ và là một học giả nghiên cứu Kinh điển thời Đông Hán giải thích. Lục Thư tạo thành nền tảng lý thuyết của ngữ văn học Trung Quốc truyền thống và luôn được đánh giá cao. Các thuật ngữ như chữ tượng hình, chữ tượng ý phức hợp, chữ ghép ngữ âm và chữ mượn ngữ âm vẫn được sử dụng rộng rãi trong giảng dạy và nghiên cứu chữ Hán ngày nay. Mãi đến khi ngành ngữ văn học mới của thế kỷ 20, các khuôn khổ hệ thống mới dần được phát triển vượt ra ngoài lý thuyết Lục Thư. Trong lịch sử, các học giả khác nhau đã sử dụng các sơ đồ phân loại hơi khác nhau cho Lục thư. Sau này chủ yếu sử dụng hệ thống do Hứa Thận, một học giả từ thời Đông Hán đề xuất, phân loại các ký tự thành sáu loại chính: tượng hình, chỉ sự, hội ý, hình thanh, chuyển chú và giả tá. Chữ tượng hình đề cập đến các ký tự có hình dạng giống với đối tượng mà chúng đại diện, chẳng hạn như (nhật-mặt trời), (nguyệt-mặt trăng), (hỏa-lửa) và (mộc-cây). Chỉ sự là chữ tượng hình ghép kết hợp hai chữ Hán đơn giản để tạo thành một chữ mới, chẳng hạn như (sâm- rậm rạp) và (lâm-rừng), được tạo thành từ nhiều chữ (mộc-cây), nghĩa là một nơi có nhiều cây cối. Hội ý: ghép ngữ âm-ngữ nghĩa kết hợp nghĩa của một chữ với cách phát âm của một chữ khác. Ví dụ, chữ 港啖 (cảng đạm) trong 香港 (Hồng Kông) có nghĩa là ‘bến cảng’, ám chỉ một nơi gần nước, trong khi cách phát âm thông tục của chữ ‘cảng’ tương tự như chữ (hạng-hẻm). Bộ thủ‘thủy’ kết hợp với chữ ‘hạng’ tạo thành chữ ‘cảng’. Ngược lại, giả tá - mượn chữ giống như việc sử dụng hơn là tạo chữ. Nó không liên quan đến việc tạo ra các chữ mới mà là sử dụng một chữ Hán có sẵn để viết các từ thông tục không liên quan về nghĩa nhưng có cách phát âm chính xác. Lục thư có thể được coi là nền tảng của chữ viết Quảng Đông. Điều này là do viết tiếng Quảng Đông đòi hỏi phải sử dụng các chữ Quảng Đông, hầu hết được xây dựng theo Lục thư. Ví dụ, chữ ‘mão’ không có - được tạo ra bằng phương pháp tượng hình, hoặc các chữ như ‘khái’ than thở và ‘định’ được tạo ra bằng phương pháp ghép ngữ âm-ngữ nghĩa. Ngay cả đầu thế kỷ 21, các trường tiểu học và trung học ở khu vực Quảng Đông-Hồng Kông-Ma Cao vẫn dạy học sinh khái niệm Lục thư. HHN]

Tính đặc sắc của Thuyết văn Giải tự

Một trong những đặc điểm của sách ‘Thuyết văn Giải tự’ là cách sắp xếp có hệ thống các chữ cổ. Dựa trên hình thức chữ viết, nó sử dụng phương pháp liên tưởng hình thức để diễn giải chính xác ba yếu tố hình, thanh, và nghĩa vốn có trong chữ Hán. Ví dụ: ‘hy’ khô, lấy từ chữ ‘nhật’ mặt trời và chữ ‘hy’ (âm đọc). Chữ ‘mai’ mơ, ‘nam’ cây chò, lấy từ chữ ‘mộc’ và chữ ‘mai’ (âm đọc). Do đó, cố học giả nhà Thanh Đoàn Ngọc Tài đã nói:『許君以為音生於義,義着於形,聖人之造字,有義以有音,有音以有形。學者之識字,必審形以知音,審音以知義。』Phiên âm: “Hứa Quân dĩ vi âm sinh ư nghĩa, nghĩa trứ ư hình, Thánh nhân chi tạo tự, hữu nghĩa dĩ hữu âm, hữu âm dĩ hữu hình. Học giả chi thức tự, tất thẩm hình dĩ tri âm, thẩm âm dĩ tri nghĩa.” Dịch nghĩa: “Hứa Quân cho rằng âm sinh từ nghĩa, nghĩa hiện ở hình. Thánh hiền tạo ra chữ có nghĩa thì có âm, còn âm thì có hình. Học giả học chữ phải xem hình mới biết âm, và nghe âm mới biết nghĩa vậy.” Điều đó có nghĩa là đặc điểm của chữ Hán nằm ở sự hiện diện của âm thanh trong hình thức và ý nghĩa hiển hiện trong âm thanh. Đoàn Ngọc Tài còn nói: 聖人造字,實自象形始,故合所有之字,分別其部為五百四十,每部各建一首,而同首者曰凡某之屬皆從某,於是形立而音義易明.Phiên âm: “Thánh nhân tạo tự, thật tự tượng hình thủy, cố hợp sở hữu chi tự, phân biệt kì bộ vi ngũ bách tứ thập, mỗi bộ các kiến nhất thủ, nhi đồng thủ giả viết phàm mỗ chi chúc giai tòng mỗ, ư thị hình lập nhi âm nghĩa dịch minh.” [‘Thuyết văn Giải tự chú’] “Thánh nhân tạo ra chữ viết khởi từ chữ tượng hình. Do đó, họ gộp tất cả các chữ lại và chia thành 540 bộ, mỗi bộ có một bộ thủ, và những chữ có cùng bộ thủ được tạo thành từ các chữ này chữ kia. Nhờ đó, hình được tạo lập, âm nghĩa trở nên rõ ràng vậy.” (Trích từ ‘Thuyết văn Giải tự chú’) Một đặc điểm nổi bật khác của ‘Thuyết văn Giải tự’ là việc thiết lập 540 bộ thủ, 始一終亥 ‘thủy nhất chung hợi’ bắt đầu bằng ‘’ ‘nhất’ (bộ Nhất) và kết thúc bằng ‘’ ‘hợi’ (chi Hợi), để bao hàm các chữ cái trong cùng một phạm trù ngữ nghĩa. 540 bộ thủ này được sắp xếp theo nguyên tắc liên tưởng ngữ nghĩa. [tr.2] Thông qua phương pháp này, người ta không chỉ nắm bắt được phạm trù ngữ nghĩa của nhiều chữ mà còn hiểu được cấu trúc cụ thể, cách phát âm gốc và nghĩa gốc của từng chữ.

Học giả nhà Thanh Vương Niệm Tôn đã nói:文》之為書,以文字而兼聲音,訓詁者也。凡許氏形聲,讀若,皆與古音相準,或為古之正音,或為古之合音,方以類聚,物以群分,循而考之,各有條理.Phiên âm: ‘Thuyết văn’ chi vi thư, dĩ văn tự nhi kiêm thanh âm, huấn cổ giả dã. Phàm hứa thị hình thanh, độc nhược, giai dữ cổ âm tương chuẩn, hoặc vi cổ chi chính âm, hoặc vi cổ chi hợp âm, phương dĩ loại tụ, vật dĩ quần phân, tuần nhi khảo chi, các hữu điều lí’. Dịch nghĩa: ‘Thuyết văn’ là một cuốn sách kết hợp chữ viết với âm thanh và chú giải. Tất cả các tổ hợp ngữ âm và cách phát âm của Hứa Thận đều phù hợp với cách phát âm cổ xưa, một số là cách phát âm cổ chính xác, số khác là cách phát âm cổ kết hợp. Chúng được nhóm theo thể loại, và sự vật được phân theo loại; khi xem xét, mỗi sự vật đều có ‘điều lý’ riêng.” [條理 ‘điều lý’ là một từ chỉ cấu trúc và thứ bậc của sự vật, sau đó được mở rộng thành sự sắp xếp có quy luật của tư tưởng, lời nói, cuộc sống hoặc trật tự công việc, và bao hàm hàm ý về phân loại, cấu trúc và quản lý có hệ thống; cốt lõi của nó bao gồm ba khía cạnh: cấu trúc, thứ bậc, sắp xếp trật tự, quản lý và tổ chức công việc. HHN] Ông cũng nói:文》之訓,首列制字之本意,而亦不廢假借,凡言一曰及所引經,類多有之. Phiên âm: ‘Thuyết văn’ chi huấn, thủ liệt chế tự chi bản ý, nhi diệc bất phế giả tá, phàm ngôn nhất viết cập sở dẫn kinh, loại đa hữu chi.’ Dịch nghĩa: “Những lời giải thích của ‘Thuyết văn’ trước tiên liệt kê ý nghĩa gốc của các chữ viết, nhưng không bỏ qua các chữ vay mượn ngữ âm. Bất cứ khi nào nói hoặc trích dẫn một văn bản cổ điển, nó thường bao gồm các ví dụ tương tự.” (Trích từ lời tựa ‘Thuyết văn Giải tự’). Một đặc điểm khác của ‘Thuyết văn Giải tự’ là lời giải thích súc tích về các định nghĩa và ví dụ của Lục Thư. Ví dụ:

1. 象形者,畫成其物,隨體詰訕,日,月是也. Tượng hình giả, họa thành kì vật, tùy thể cật san, nhật, nguyệt thị dã. “Chữ tượng hình là những chữ miêu tả sự vật, theo hình dạng của nó; điển hình như ‘nhật’ mặt trời, và ‘nguyệt’ mặt trăng vậy.”

2. 指事者,視而可識,察而見意,上,下是也. ‘Chỉ sự giả, thị nhi khả thức, sát nhi kiến ý, thượng, hạ thị dã.’ “Chữ chỉ sự là những chữ dễ nhận biết và có nghĩa rõ ràng; như ‘thượng’ lên, và ‘hạ’ xuống, vậy.”

3. 會意者,比類合誼,以見指撝,武,信是也.‘Hội ý giả, bỉ loại hợp nghị, dĩ kiến chỉ huy, vũ, tín thị dã.’ “Chữ hội ý là những chữ kết hợp nghĩa để biểu thị mục đích của chúng; ‘vũ’ võ, và ‘tín’ tin chính là nó vậy.”

4. 形聲者,以事為名,取譬相成,江河是也.‘Hình thanh giả, dĩ sự vi danh, thủ thí tương thành, giang hà thị dã’ “Chữ hình thanh, ghép ngữ âm - ngữ nghĩa là những chữ sử dụng một thành phần ngữ nghĩa làm tên, kết hợp các ký tự tương tự; ‘giang’ sông, và ‘hà’ sông, là ý đó vậy.”

5. 轉注者,建類一首,同意相受,考老是也. ‘Chuyển chú giả, kiến loại nhất thủ, đồng ý tương thụ, khảo lão thị dã’ Chữ chuyển chú là những chữ có cùng bộ và có nghĩa tương tự; ‘khảo’ già, và ‘lão’ già chính là nó vậy.”

6. 假借者,本無其字,依聲託事,令長是也.‘Giả tá giả, bổn vô kì tự, y thanh thác sự, lệnh trường thị dã’. ‘Chữ giả tá là những chữ mượn một thành phần ngữ âm từ một chữ khác, mà không có chữ gốc tương ứng; ‘lệnh’ mệnh lệnh, và ‘trường’ dài, là rõ ràng vậy.”

Hơn nữa, ngoài việc giải thích hình thức, âm thanh, ý nghĩa của từng ký tự, nó còn giải thích Lục thư - Sáu loại chữ viết gắn liền với ký tự đó. Ví dụ: i) 烏,孝鳥也,象形 Ô, hiếu điểu dã, tượng hình’ ‘Quạ, con chim hiếu thảo, là tượng hình vậy’; ii) 上,高也,指事Thượng, cao dã, chỉ sự’ ‘Thượng, lên cao, là chỉ sự vậy; iii) 益,饒也,從水皿 ‘Ích, nhiêu dã, tòng thủy mãnh; tòng mỗ mỗ tức thị hội ý’ ‘Ích, dồi dào, có bộ gốc chỉ bình chứa nước để biểu nghĩa, thế là hội ý vậy; iv) 倫,輩也,從人倫聲Luân, bối dã, tòng nhân luân thanh’ ‘Luân có nghĩa là thế hệ, bao gồm từ gốc ‘quan hệ con người’ và thanh âm ‘luân’ nên gọi là hình thanh vậy; v). 追,逐也.逐,追也.追,逐二字轉注.‘Truy, trục dã; Trục, truy dã; Truy, Trục nhị tự chuyển chú.’ ‘Theo đuổi; đuổi bắt; Hai chữ được dùng thay thế cho nhau; thế là chuyển chú vậy’; vi). 西,鳥在巢上也.以為東西之西. (以為即是明假借.) ‘Tây, điểu tại sào thượng dã. Dĩ vi đông tây chi tây. (Dĩ vi tức thị thuyết minh giả tá.)’ “‘Tây’ là chim trên tổ vậy. Dĩ vi [lấy làm] ‘tây’ của hai phía đông - tây. (Cụm từ ‘dĩ vi” là một ví dụ về chữ giả tá - mượn ngữ âm vậy.) Nghĩa gốc của tựa đề ‘Thuyết văn Giải tự’ là ‘thuyết’ nghĩa là ‘diễn giải’ và ‘giải’ nghĩa là ‘phân tích’; ‘văn’ là để: 單獨而有意義的部件 ‘đan độc nhi hữu ý nghĩa đích bộ kiện’ ‘chỉ một thành phần có ý nghĩa duy nhất, còn ‘tự’ là để: 由數個部件連結形成的合體 ‘do sổ cá bộ kiện liên kết  hình thành đích hợp thể’ ‘chỉ một thành phần phức hợp.’ Do đó, ‘Thuyết văn Giải tự’ nghĩa là giải thích và phân tích hình thức, âm thanh và ý nghĩa của từng chữ ‘văn’ riêng lẻ và chữ ‘tự’ ghép lại.

[Ghi chú cụm từ 西,鳥在巢 ‘Tây, điểu tại sào’: chữ 西 là một chữ Hán thường dùng. Chữ này lần đầu tiên xuất hiện trong cả giáp cốt văn và kim văn từ thời nhà Thương. Hình dáng cổ xưa của nó giống như tổ chim, và ý nghĩa ban đầu của nó ám chỉ chim chóc bay về tổ. Sau đó nghĩa này được viết thành ‘tê, tây, thê’ là nghỉ ngơi, cái giường, chim đậu. Khi mặt trời lặn, chim chóc trở về tổ, vì vậy chữ 西 ‘tây’ được dùng để chỉ hướng mặt trời lặn. Nó cũng ám chỉ Tây Dương, và cũng ám chỉ những thứ có nội dung và hình thức thuộc về Tây Dương. Trong thời Nguyên và Minh, Tây Dương ám chỉ vùng biển phía tây Biển Đông. Sau cuối thời Minh và đầu thời Thanh, nó ám chỉ hai bờ Đại Tây Dương, tức là các nước Âu Mỹ. Chữ 西 ban đầu có nghĩa là ‘tê, thê’ nghĩa là “chim làm tổ”. Trong giáp cốt văn (đồ xương) và kim văn (đồ đồng), chữ 西 ‘tây’ mô tả một tổ chim nhưng không có chim. Trong triện văn, chữ 西 ‘tây’ có thêm một đường mô tả hình con chim phía trên tổ chim ( bộ cung) nên thành ‘tây, tê, trù’. Bất kể loại chữ viết nào, thì 西 đều là chữ tượng hình. Chim trở về tổ vào lúc hoàng hôn, do đó 西 cũng biểu thị hướng hoàng hôn, là hướng Tây. Thời cổ đại, (qī) và 西 (xī) là từ đồng âm, cho thấy 西 bắt nguồn từ . Vì chim trở về tổ vào lúc hoàng hôn, 西 trở thành tượng hình của hướng Tây, một trong bốn hướng chính. Sau này, 西 cũng được dùng để chỉ Tây Dương (dưới thời nhà Nguyên và nhà Minh, đại dương và vùng biển phía tây của Đông Hải được gọi chung là Tây Dương, như trong các chuyến đi của Trịnh Hòa; vào cuối Minh, đầu Thanh, nó được dùng để chỉ Đại Tây Dương, tức là châu Âu và châu Mỹ, hoặc những thứ có nguồn gốc phương Tây, chẳng hạn như ‘đồ ăn phương Tây’, ‘quần áo phương Tây’, ‘tranh vẽ phương Tây’. Trong trường hợp này, 西 ‘tây’ là để chỉ ‘phương hướng’. Khi chữ 西 được mượn để chỉ riêng phương hướng, thì người ta đã tạo ra một chữ khác, để chuyển tải nghĩa ‘chim làm tổ’. Lúc này, chữ 西 dần tách khỏi nghĩa ban đầu ‘chim làm tổ’ và được thay thế bằng chữ .HHN]

Cấu trúc của Thuyết văn Giải tự

Thuyết văn Giải tự có 540 bộ, mỗi bộ có số lượng ký tự khác nhau. Ví dụ: bộ ‘thảo’ có 445 ký tự, bộ ‘mộc’ có 421 ký tự và bộ ‘thủy’ có 468 ký tự. Các bộ như ‘ngôn’, ‘nhân’, ‘tâm’, ‘thủ’, ‘nữ’, và ‘mịch’ mỗi bộ có hơn 200 ký tự, trong khi các bộ như ‘ngọc’, ‘khẩu’, ‘mục’, ‘điểu’, ‘nhục’, ‘trúc’, ‘ấp’, ‘nạch’, ‘y’, ‘mã’, ‘hỏa’, ‘ngư’, ‘trùng’, ‘thổ’ và ‘kim’, mỗi loại có hơn 100 ký tự. Tuy nhiên, thứ tự các ký tự trong mỗi bộ tuân theo một khuôn mẫu nhất định. Đoàn Ngọc Tài nói: 凡部之先後,以形之相近為次.凡每部中,字之先後,以義之相引為次.Phiên âm: ‘Phàm bộ chi tiên hậu, dĩ hình chi tương cận vi thứ. Phàm mỗi bộ trung, tự chi tiên hậu, dĩ nghĩa chi tương dẫn vi thứ.’ Dịch nghĩa: “Thứ tự các ký tự trong mỗi bộ dựa vào sự tương đồng về hình. Trong mỗi bộ, thứ tự các ký tự dựa vào kết nối nghĩa.” Điều này có nghĩa là thứ tự của 540 bộ thủ trong Thuyết văn Giải tự dựa trên sự tương đồng và liên quan của các dạng chữ Tiểu Triện. Trong mỗi bộ thủ, các ký tự cùng loại hoặc có ý nghĩa tương tự được nhóm lại với nhau.

[Ghi chú Chữ Tiểu Triện do Lý Tư, Thừa tướng của Tần Thủy Hoàng, sáng tạo. Đây là một biến thể của chữ Đại Triện, khác với 籀文 Trứu văn Đại Triện, nên được gọi là chữ Tiểu Triện. Nó còn được gọi là chữ Tần Triện. Vào năm thứ hai mươi sáu của triều đại Tần Thủy Hoàng, ông thống nhất sáu nước. Lý Tư, lúc đó đang giữ chức 廷尉 Đình úy (ngang với Thượng thư Bộ Hình), đã bãi bỏ những chữ viết không phù hợp với chữ Tần. Nhờ đó, chữ viết lưu hành khắp đất nước trở nên sắc bén như sắt đá, uyển chuyển như bay lượn, là tổ tiên của Khải Thư, Lệ Thư, và là một chuẩn mực bất biến. Việc sử dụng nó trong các bản khắc trên chuông, đỉnh, và trong chế tác bùa chú và ấn triện vẫn còn được sử dụng cho đến ngày nay. [Chẳng hạn: 則《離》之六二:「黃離元吉,得中道也。」Tắc ‘Ly’ chi Lục nhị: ‘Hoàng li nguyên cát, đắc trung đạo dã.’ Điều đó được diễn giải như sau: 六二: 黃離, 元吉 Lục nhị: Hoàng ly, nguyên cát. Trong Kinh Dịch: Hào 2 là âm: có Sắc vàng chia tách là ‘cát’ tốt đẹp vậy. Hào này được hiểu là Quẻ Ly có văn đức, lại đắc trung, đắc chính, trên ứng với hào 5 cũng văn đức, đắc trung, nên đại cát vậy; do đắc trung, văn đức, nên sánh khứng ánh vàng, lộng lẫy vậy.] Lý Tư vừa là người sáng tạo khai thủy, nhưng ông cũng chính là người chung cục hoàn thiện nó. HHN]

[Thái Ung ca ngợi chữ Tiểu Triện: 龜文斜列櫛,比龍鱗隤,若黍稷之垂。穎蘊若蟲蛇之棼縕,若若連,似水露緣,絲凝垂下。端遠而望之,象鴻鵠群遊,絡繹遷延。研桑不能數其詰,曲離婁不能睹其隙. Phiên âm: “Quy văn tà liệt trất, bỉ long lân đồi, nhược thử tắc chi thùy. Dĩnh uẩn nhược trùng xà chi phần ôn, nhược tuyệt nhược liên, tự thủy lộ duyên, ti ngưng thùy hạ. Đoan viễn nhi vọng chi, tượng hồng hộc quần du, lạc dịch thiên diên. Nghiên Tang bất năng sổ kì cật, khúc li lâu bất năng đổ kì khích.” Dịch nghĩa: “Văn mai qui lượn xiên răng lược, lớp lớp vảy rồng, rủ trĩu bông kê lượm miến. Họa tiết tua rua, khác chi tơ tở sợi trùng xà, tưởng chừng rời rạc, mà kết buộc không rời, tợ hồ giọt giọt sương buông, mành mành tơ rủ. Xa trông kìa! khác chi bầy thiên nga, giăng giăng sải cánh, nên nỗi thần toán cỡ Nghiên-Tang cũng chịu bó tay không tài nào đếm xuể, những đường nét khuất khúc, ngay cả Ly Lâu [một nhân vật thời Hoàng Đế; không rõ năm sinh, năm mất; tương truyền ông có thể nhìn thấy đầu sợi tóc từ cách xa trăm bước] cũng không sao thấy được vết hở”. Sau chữ Tiểu triện, tám phong cách khác đã xuất hiện: Đỉnh Tiểu triện, Giới Diệp triện, Thùy Lộ triện, Huyền Châm triện, Anh Lạc triện, Liễu Diệp triện, Tiễn Đao triện và các kiểu chữ nước ngoài, tất cả đều là những biến thể của chữ Tiểu triện. Bài ‘Tán’ Tiểu triện của Thái Ung còn viết: 李君創法,神慮精微,鐵為肢體,虯作驂騑,江海淼漫,山嶽巍巍,風長萬里,鸞鳳于飛. Phiên âm: Lý Quân sáng pháp, thần lự tinh vi, thiết vi chi thể, cầu tác tham phi, giang hải miểu mạn, san nhạc nguy nguy, phong trường vạn lí, loan phụng vu phi.’ Dịch nghĩa: “Lý Quân [Tư] sáng pháp, thần trí tinh vi, thân thể gang thép, thắng rồng vào xe, hải hà mờ mịt, núi non nguy nga, gió lùa vạn dặm, loan phượng rợp trời.” [詩經, 大雅, 卷阿: 鳳皇于飛, 劌劌其羽 Thi Kinh, Đại nhã, Quyển A: Phượng hoàng vu phi, Quế quế kì vũ. Loan phượng [Trống-Mái] cùng bay, Cánh vỗ sầm sập. HHN]

Về các quy tắc chi phối thứ tự các ký tự trong mỗi bộ thủ của ‘Thuyết văn Giải tự’, các học giả hiện đại đã đưa ra nhiều giải thích khác nhau. Ví dụ, trong cuốn ‘Thuyết văn Lược thuyết’, Hoàng Khảm đã làm rõ vấn đề: các ký tự trong mỗi bộ thủ được sắp xếp theo kiểu 先名後事 ‘tiên danh hậu sự’ ‘danh trước, sự vật sau’. Trong cuốn ‘Cổ Hán ngữ Giản luận’, Ân Mộng Luân đã giải thích thêm về cách sắp xếp các ký tự trong mỗi bộ thủ, lập luận rằng nó tuân theo ba nguyên tắc: 認為一是先名後事,二是以字音為次序,三是以意義的同異為次序.‘Nhất thị tiên danh hậu sự, Nhị thị dĩ tự âm vi thứ tự, Tam thị dĩ ý nghĩa đích đồng dị vi thứ tự.’ ‘Thứ nhất, tên trước, nghĩa sau; Thứ hai, lấy phát âm làm thứ tự; và Thứ ba, lấy tương đồng hoặc khác biệt về nghĩa làm thứ tự.’ Trong tác phẩm ‘Thuyết văn Đoàn chú Nghiên cứu’ - Nghiên cứu Chú giải ‘Thuyết văn’ của Đoàn Ngọc Tài, Từ Hành Đạt đã tổng hợp ý kiến ​​của Đoàn, Hoàng và Ân, đồng thời đưa ra những giải thích bổ sung [tr.3]. Lập luận của ông được tóm tắt thành sáu điểm sau đây.

1.凡是有關人名,物名的字,以尊貴的,高大的排列在該部的前頭,如女部的姜(神農姓),(黃帝姓),(少昊姓),(帝舜姓)等,鳥部的鳳,鑾,鷟,鷞等。Phiên âm: Phàm thị hữu quan nhân danh, vật danh đích tự, dĩ tôn quý đích, cao đại đích bài liệt tại cai bộ đích tiền đầu, như nữ bộ đích Khương (Thần Nông tính), Cơ (Hoàng Đế tính), Doanh (Thiểu Hạo tính), Diêu (Đế Thuấn tính) đẳng, Điểu bộ đích Phụng, Loan, Trạc, Sương đẳng. Dịch nghĩa: “Các ký tự liên quan đến tên riêng và tên đồ vật được liệt kê ở đầu bộ thủ để chỉ sự cao quý hoặc danh vọng. Ví dụ bao gồm Khương (họ Thần Nông), Cơ (họ Hoàng Đế), Doanh (họ Thiếu Hạo), và Nghiêu (họ Vua Thuấn) từ bộ thủ ‘Nữ’, và Phụng, Loan, Trạc, và Sương từ bộ thủ ‘Điểu’.

2. 凡是貶義詞方面的字,多列在該部之末,如梟字列在木部之末,竊字列在米部之末,癡字列在疒部之末,欺字列在欠部之末等。有關死亡的字,也多列在該部之末,如弔字列在人部之末,誅字列在言部之末,字列在糸部之末,墳字列在土部之末等。Phiên âm: ‘Phàm thị biếm nghĩa từ phương diện đích tự, đa liệt tại cai bộ chi mạt, như Kiêu tự liệt tại Mộc bộ chi mạt, Thiết tự liệt tại Mễ bộ chi mạt, Si tự liệt tại Nạch bộ chi mạt, Khi tự liệt tại Khiếm bộ chi mạt đẳng. Hữu quan tử vong đích tự, dã đa liệt tại Cai bộ chi mạt, như Điếu tự liệt tại Nhân bộ chi mạt, Tru tự liệt tại Ngôn bộ chi mạt, Tự liệt tại Mịch bộ chi mạt, Phần tự liệt tại Thổ bộ chi mạt đẳng. Dịch nghĩa: “Các ký tự mang hàm ý miệt thị thường được liệt kê ở cuối bộ thủ. Ví dụ, ‘Kiêu’ được liệt kê ở cuối bộ thủ ‘Mộc’, ‘Thiết’ ở cuối bộ thủ ‘Mễ’, ‘Si’ ở cuối bộ thủ ‘Nạch’ và ‘Khi’ ở cuối bộ thủ ‘Khiếm’. Các chữ cái liên quan đến cái chết cũng thường được liệt kê ở cuối bộ thủ, chẳng hạn như ‘Điếu’ ở cuối bộ thủ ‘Nhân’, ‘Tru’ ở cuối bộ thủ ‘Ngôn’, ‘Tự’ ở cuối bộ thủ ‘Mịch’, và ‘Phần’ ở cuối bộ thủ ‘Thổ’.

3. 就字形的結構看,凡是經由部首字重疊而成的,或是由部首三合為一的,必定列在該部之末,如赫字列在赤部之末,圭字列在土部之末,磊字列在石部之末,轟字列在車部之末。但是這一類同文會意字如果本身是部首,則不在此例,如林、晶、焱等字。Phiên âm: ‘Tựu tự hình đích kết cấu khán, phàm thị Kinh do bộ thủ tự trọng điệp nhi thành đích, hoặc thị do bộ thủ tam hợp vi nhất đích, tất định liệt tại cai bộ chi mạt, như Hách tự liệt tại Xích bộ chi mạt, Khuê tự liệt tại Thổ bộ chi mạt, Lỗi tự liệt tại Thạch bộ chi mạt, Oanh tự liệt tại Xa bộ chi mạt. Đãn thị giá nhất loại đồng văn hội ý tự như quả bản thân thị bộ thủ, tắc bất tại thử lệ, như Lâm, Tinh, Diễm đẳng tự.’ Dịch nghĩa: “Xét về cấu trúc chữ, các chữ ‘Kinh’ được tạo thành bởi các bộ thủ chồng lên nhau hoặc bằng cách kết hợp ba bộ thủ thành một luôn được liệt kê ở cuối tên của bộ thủ đó. Ví dụ, chữ ‘Hách’ được liệt kê ở cuối bộ thủ ‘Xích’, ‘Khuê’ ở cuối bộ thủ ‘Thổ’, ‘Lỗi’ ở cuối bộ thủ ‘Thạch’, và ‘Oanh’ ở cuối bộ thủ ‘Xa’. Tuy nhiên, điều này không áp dụng cho các ký tự có liên quan về mặt ngữ nghĩa nhưng bản thân chúng là bộ thủ, như ‘Lâm’, ‘Tinh’ và ‘Diễm’ chẳng hạn.

4.凡是一字的形體和意義與部首字相反的,必在該部之末,如凡字列在二部之末,亍字列在彳部之末等.Phiên âm: ‘Phàm thị nhất tự đích hình thể hòa ý nghĩa dữ bộ thủ tự tương phản đích, tất tại cai bộ chi mạt, như Phàm tự liệt tại Nhị bộ chi mạt, Xúc tự liệt tại Xích bộ chi mạt đẳng. Dịch nghĩa: “Các ký tự có hình thức và ý nghĩa trái ngược với bộ thủ của chúng luôn được liệt kê ở cuối tên của bộ thủ đó. Ví dụ, ký tự ‘Phàm’ được liệt kê ở cuối bộ thủ ‘Nhị’, và ‘Xúc’ ở cuối bộ thủ ‘Xích’.

5. 有些字的形體、讀音或意義,許慎不明白,這些字基本上都列在該部之末,有時還以『闕』字表示,如字列在爪部之末,說:『從反爪,闕。』這是表示字的形義明白而其讀音不傳。叚字列在又部之末,『借也,闕。』這是表示只知道該字的字義,其他則不知。邑部184字,自邱至末 20 餘字,只『地名』,即表示不知道這些字所指的地點在何處。水部也有10餘字在一起,排列在約 150 字的『名』之末,300 餘字的『事』之前,只『水也』,這也是表示不知道這些水的源委在何處。Phiên âm: Hữu ta tự đích hình thể, độc âm hoặc ý nghĩa, Hứa Thận bất minh bạch, giá ta tự cơ bản thượng đô liệt tại cai bộ chi mạt, hữu thì hoàn dĩ ‘Khuyết’ tự biểu thị, như tự liệt tại Trảo bộ chi mạt, thuyết: ‘Tòng phản Trảo, Khuyết.] Giá thị biểu thị tự đích hình nghĩa minh bạch nhi kì độc âm bất truyền. Giả tự liệt tại Hựu bộ chi mạt, thuyết ‘Tá’ dã, Khuyết.] Giá thị biểu thị chỉ tri đạo cai tự đích tự nghĩa, kì tha tắc bất tri. Ấp bộ 184 tự, tự ‘Khâu’ chí mạt 20 dư tự, chỉ thuyết [địa danh], tức biểu thị bất tri đạo giá ta tự sở chỉ đích địa điểm tại hà xứ. Thủy bộ dã hữu 10 dư tự tại nhất khởi, bài liệt tại ước 150 tự đích [danh] chi mạt, 300 dư tự đích [sự] chi tiền, chỉ thuyết [thủy dã], giá dã thị biểu thị bất tri đạo giá ta thủy đích nguyên ủy tại hà xứ. Dịch nghĩa: “Đối với một số ký tự mà Hứa Thận không hiểu hình thức, cách phát âm hoặc ý nghĩa, các ký tự này thường được liệt kê ở cuối bộ thủ tương ứng, đôi khi được biểu thị bằng ký tự ‘Khuyết’. Ví dụ, ký tự được liệt kê ở cuối bộ thủ ‘Trảo’, với lời giải thích: “Từ ‘Trảo’ đảo ngược, ‘Khuyết’.’ Điều này cho thấy hình dạng và ý nghĩa của chữ này rõ ràng, nhưng cách phát âm thì không. Chữ ‘Giả’ được liệt kê ở cuối bộ ‘Hựu’, với lời giải thích: “‘Tá’ Mượn vậy, ‘Khuyết’.” Điều này cho thấy chỉ có ý nghĩa của chữ này được biết, còn lại thì không rõ. Trong số 184 chữ thuộc bộ ‘Ấp’, thì khoảng hơn 20 ký tự có chữ ‘Khâu’, chỉ đề cập đến ‘địa danh’, cho thấy địa điểm được các chữ này nhắc đến là không rõ. Bộ ‘Thủy’ cũng có hơn 10 chữ được nhóm lại với nhau, được liệt kê ở cuối khoảng 150 chữ trong bộ ‘Danh’ và trước khoảng 300 chữ trong bộ ‘Sự’, chỉ ghi là ‘Thủy’ thôi, cũng cho thấy nguồn gốc của những nguồn nước này không rõ.”

6. 從邑部,水部排列各自的先後次第看,都是由西北而東南。由於各部中字序的排列都有其明顯的規律性,所以段玉裁:『《文》每部自首至尾,次第井井,如一篇文字,《顏氏家訓》所謂隱括有條例,剖析窮根源也。』段氏如此推崇《文解字》一書,確有道理,因為早在一千九百一十四年前,許慎在他那個時代,能撰寫出這麼有系統的總結文字之學的專著,可以是前無古人。Phiên âm: “Tòng ‘Ấp’ bộ, ‘Thủy’ bộ bài liệt các tự đích tiên hậu thứ đệ khan, đô thị do tây bắc nhi đông nam. Do ư các bộ trung tự tự đích bài liệt đô hữu kì minh hiển đích quy luật tính, sở dĩ Đoàn Ngọc Tài thuyết: “‘Thuyết văn’ mỗi bộ tự thủ chí vĩ, thứ đệ tỉnh tỉnh, như nhất thiên văn tự, ‘Nhan Thị Gia Huấn’ sở vị ẩn quát hữu điều lệ, phẫu tích cùng căn nguyên dã.” Đoàn thị như thử thôi sung ‘Thuyết văn Giải tự’ nhất thư, xác hữu đạo lý, nhân vi tảo tại nhất thiên cửu bách nhất thập tứ niên tiền, Hứa Thận tại tha na cá thì đại, năng cú soạn tả xuất giá ma hữu hệ thống đích tổng kết văn tự chi học đích chuyên trứ, khả dĩ thuyết thị tiền vô cổ nhân.” Dịch nghĩa: “Xét về thứ tự các ký tự trong bộ ‘Ấp’ và ‘Thủy’, cả hai đều theo thứ tự từ tây bắc xuống đông nam. Vì sự sắp xếp các ký tự trong mỗi bộ có một quy luật rõ ràng, nên Đoàn Ngọc Tài nói: “Mỗi bộ trong ‘Thuyết văn Giải tự’ được sắp xếp gọn gàng, ngăn nắp từ đầu đến cuối, như một văn bản hoàn chỉnh, đúng như ‘Nhan Thị Gia Huấn’ đã nói: “Đó là một lời giải thích ẩn giấu và có hệ thống, phân tích và thấu hiểu nguồn gốc vậy’”. Việc Đoàn Ngọc Tài coi trọng ‘Thuyết văn Giải tự’ quả thực có cơ sở. Ngay từ 1914 năm trước vào thời của mình, Hứa Thận đã có thể viết một bản tóm tắt ngữ văn có hệ thống đến thế thì thật là một kỳ tích chưa từng có trong lịch sử vậy.

‘Thuyết văn Giải tự’ chứa 9353 ký tự bằng chữ Tiểu triện, trong đó 6797 ký tự là chữ hình thanh [ghép ngữ âm – nghĩa], chiếm 82% tổng số ký tự. Các ký tự ghép tượng hình, tượng ý và liên tưởng chiếm khoảng 18%.

_____________________________________

(Còn nữa…)

Nguồn: 賴明德 (2015).漢字的第一部字典《《文解字》》述評.華語教師之友 2015 年第 4 (總第86)Lại Minh Đức (2015). Hán tự đích Đệ nhất bộ Tự điển ‘Thuyết văn Giải tự’ Thuật bình. Hoa ngữ Giáo sư chi hữu 2 0 1 5 niên đệ 4 kì (tổng đệ 8 6 kì )