1. Khái
quát về vùng biển, ven bờ và các đảo vùng Nam Bộ
Nam Bộ
là khu vực phía cực nam của Việt Nam
và chính là Nam Kỳ
từ khi Việt Nam giành được độc lập vào
năm 1945.
Nam Bộ là một trong ba vùng chính của lãnh thổ Việt Nam (gồm Bắc Bộ, Trung Bộ
và Nam Bộ). Trước đây Nam Bộ còn được gọi là Nam phần. Địa hình trên toàn vùng
Nam Bộ khá bằng phẳng, phía Tây giáp vịnh Thái Lan, phía Đông và Đông Nam giáp
biển Đông, phía Bắc và Tây Bắc giáp Campuchia và một phần phía Tây Bắc giáp Nam
Trung Bộ. Nam Bộ bao gồm 17 tỉnh từ Bình Phước trở xuống phía Nam và hai thành
phố: thành phố Hồ Chí Minh và và thành phố Cần Thơ. Khu vực này chia làm 2 vùng
chính: i) vùng Đông Nam Bộ có 5 tỉnh và 1 thành phố: 5 tỉnh: Bình Phước, Bình
Dương, Đồng Nai, Tây Ninh, Bà Rịa – Vũng Tàu, và thành phố Hồ Chí Minh; trong
số 5 tỉnh thành ở vùng Đồng Nam Bộ có 3 tỉnh thành thuộc vùng ven biển là Bà
Rịa – Vùng Tàu, Đồng Nai, và thành phố Hồ Chí Minh; ii) vùng đồng bằng sông Cửu
Long, còn gọi là Tây Nam Bộ, có 12 tỉnh và 1 thành phố: Long An, Đồng Tháp,
Tiền Giang, An Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Kiên Giang, Sóc
Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, và thành phố Cần Thơ; trong số 12 tỉnh, thành phố vùng Tây Nam Bộ có 6 tỉnh thuộc
vùng ven biển là Bạc Liêu, Bến Tre, Cà Mau, Kiên Giang, Sóc Trăng, Tiền Giang,
và Trà Vinh.
Ngoài các đơn vị hành chính trong
đất liền, Nam Bộ còn bao gồm một số huyện đảo tiêu biểu. Trước hết phải nói đến
huyện đảo Phú Quý là đơn vị hành chính đảo tiếp nối giữa các huyện đảo miền
Trung và các huyện đảo miền Nam. Phú
Quý (còn gọi là cù lao Thu
hay cù lao Khoai Xứ) là một đảo
nhỏ, với diện tích 16 km². Huyện đảo Phú Quý thuộc tỉnh Bình Thuận, cách thành
phố Phan Thiết 120 km về hướng Đông Nam; cách quần đảo Trường Sa 540 km về phía
Tây Bắc; cách thị xã Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa 150km (về phía Nam); cách Côn Đảo
330km (về phía Đông Bắc); và cách thành phố Vũng Tàu 200km (về phía Đông).
Ngoài đảo chính, chung quanh đảo Phú Quý còn Hòn Đá Cao hướng tây-bắc, Hòn Đỏ
hướng đông-bắc và Hòn Tranh và Hòn Hải hướng Tây Nam. Huyện đảo Phú Quý có 3
xã: i) Long Hải: thôn Tân Hải, Quý Hải, Đông Hải, Phú Long; ii) Ngũ Phụng
(huyện lỵ): thôn Phú An, Thương Châu, Quý Thạnh; iii) Tam Thanh: thôn Mỹ Khê,
Hội An, Triều Dương.
Tiếp
theo huyện đảo Phú Quý thuộc miền Trung, huyện đảo đầu tiên thuộc vùng biển
miền Nam là Côn Đảo. Đây là tên một quần đảo ngoài khơi
thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, cách Vũng Tàu 97 hải lý và cách song Hậu 45 hải
lý. Côn Đảo còn được gọi là Côn Sơn, là tên của hòn đảo lớn nhất trong quần đảo
này. Trong sách sử, sách trước đây, Côn Đảo thường được gọi là đảo Côn Lôn. Trong các văn bản tiếng
Anh và tiếng Pháp khu vực đảo này được gọi là Poulo Condor. Năm 1977, Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam quyết định tên gọi chính thức là Côn Đảo. Côn Đảo cũng là đơn vị hành
chính cấp huyện của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Côn Đảo có cùng một kinh độ với
thành phố Hồ Chí Minh (106°36′) và cùng một vĩ độ với tỉnh Cà Mau (8°36′). Côn
Đảo gồm 16 hòn đảo với tổng diện tích 76 km², trong đó lớn nhất là đảo Côn Lôn hay
Côn Sơn, với diện tích là 51,52km². 15 đảo còn lại có diện tích từ 0,1 đến 5,5 km².
Tên gọi Côn Đảo có nguồn gốc từ chữ "Pulau Kundur" nghĩa là "Hòn
Bí". Người Âu Châu phiên âm là "Poulo Condor". Sử Việt thì gọi
là "Đảo Côn Lôn" có thể cũng từ "Kundur" mà ra. Cuối thế kỷ
17 và đầu thế kỷ 18 các công ty của Anh, Pháp cho người tới Côn Đảo điều tra,
dò xét tình hình mọi mặt với dụng ý xâm chiếm Côn Đảo. Năm 1702, năm thứ 12 đời
chúa Nguyễn Phúc Chu, công ty Đông Ấn của Anh đổ quân lên Côn Đảo xây dựng pháo
đài và cột cờ. Tháng 4 năm 1861, Pháp đánh chiếm Định Tường và ngày 28 tháng 11
năm 1861 đến xâm chiếm Côn Lôn. Tháng 2 năm 1862 Pháp thành lập nhà tù Côn Đảo,
và từ đó biến Côn Lôn thành nơi giam giữ những người tù chính trị Việt Nam với
hệ thống chuồng cọp nổi tiếng. Quần đảo Côn Lôn trước khi thuộc Pháp, thuộc
tỉnh Hà Tiên, sau đổi cho tỉnh Vĩnh Long quản lý. Tháng 9 năm 1954 chính quyền
Ngô Đình Diệm tiếp tục chế độ nhà tù của Pháp và đổi tên quần đảo Côn Lôn thành
hải đảo Côn Sơn. Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh thành lập
tỉnh Côn Sơn. Ngày 24 tháng 4 năm 1965 Việt Nam Cộng hoà đổi tỉnh Côn Sơn thành
cơ sở hành chính Côn Sơn, trực thuộc bộ Nội vụ và chức tỉnh trưởng được đổi
thành Đặc phái viên hành chính. Kể từ khi thống nhất đất nước vào năm 1975, Côn
Đảo trở thành một huyện có chính quyền một cấp, thông qua các cơ quan chức năng
huyện, trực tiếp đến địa bàn dân cư, không có các cấp phụ thuộc như xã, phường
hay thị trấn. Dân số tính đến cuối năm 2003 là 4.466 người, thuộc 9 khu dân cư.
Tiếp đến
huyện đảo Kiên Hải là một huyện thuộc tỉnh Kiên
Giang nằm ngoài khơi vùng biển Tây Nam Việt Nam. Huyện có diện tích khoảng 30
km² và dân số khoảng 25.000 người, sinh sống trên các đảo trong quần đảo Kiên
Hải. Huyện Kiên Hải có 4 xã là Hòn Tre (trung tâm hành chính), Lại Sơn, An Sơn và
quần đảo Nam Du. Người dân ở đây chủ yếu sinh sống bằng nghề biển. Hòn Tre -
trung tâm hành chính của huyện, cách Thành phố Rạch Giá 30 km. Xã có diện tích
nhỏ nhất, chỉ rộng khoảng 4 km², đỉnh cao nhất là 395 m. Số dân trên 4 ngàn
người, họ sinh sống bằng nghề làm vườn, đánh bắt và chế biến thuỷ hải sản. Trên
đảo có hai ngọn núi, ngọn cao phía nam và ngọn thấp phía bắc. Hai ngọn núi này
tạo cho đảo có hình dáng giống như một con rùa nổi giữa biển nên người dân còn
gọi khu vực này là Đảo Rùa. Hòn Rái là một hòn đảo độc lập nằm trong vịnh Thái Lan,
thuộc địa bàn xã Lại Sơn, huyện Kiên Hải, Kiên Giang cách bờ biển Kiên Giang
khoảng 25 km. Đảo có tên chữ là Thát Dự, nhưng do người dân trên đảo trồng nhiều
cây rái để ép dầu, vì thế, mới có tên là Hòn Rái. Cũng có người giải thích
rằng, gọi tên là Hòn Rái vì đảo có hình dáng giống như một con rái lộn về hướng
thành phố Rạch Giá.
Phú Quốc
hay còn được mệnh danh là Đảo Ngọc,
là đảo lớn nhất trong quần thể 22 đảo tại đây, và cũng là hòn đảo lớn nhất đất
nước, nằm trong vịnh Thái Lan. Đảo Phú Quốc cùng với các đảo khác tạo thành huyện đảo Phú Quốc trực thuộc tỉnh
Kiên Giang. Toàn bộ huyện đảo có tổng diện tích 589,23 km²(theo thống kê số
liệu đất năm 2005), xấp xỉ diện tích đảo quốc Singapore. Trong đó đảo Phú Quốc
lớn nhất có diện tích 567 km² (56.700 ha), dài 49 km, nơi rộng nhất (ở phía bắc
đảo) 25 km, nơi hẹp nhất (ở phía nam đảo) 3km. Điểm cao nhất tới 603 m (núi
Chúa). Địa hình thiên nhiên thoai thoải chạy từ bắc xuống nam với 99 ngọn núi
đồi. Phú Quốc cách thành phố Rạch Giá 120 km và cách thị xã Hà Tiên 45 km. Trước
năm 1975 dân số trên đảo chỉ hơn 5000 người; sau năm 1975, dân số trên đảo tăng
lên nhanh chóng do hiện tượng di dân. Đến năm 2003, theo thống kê của tỉnh Kiên
Giang dân cư sinh sống trên đảo đã lên đến trên 79.800 người, với mật độ trung
bình là 135 người/km², thấp hơn mật độ trung bình của cả nước 253 người/km². Các
khu dân cư chính gồm có: thị trấn Dương Đông, thị trấn An Thới, làng chài Hàm
Ninh, làng chài Cửa Cạn, và xã đảo Hòn Thơm. Thuộc vào đơn vị huyện đảo Phú
Quốc còn có quần đảo Thổ Châu, ở cực tây nam
nước Việt Nam, đơn vị hành chính là xã đảo Thổ Châu. Quần đảo gồm 8 đảo, lớn
nhất là đảo Thổ Chu, điểm cao nhất là 167 m. Quần đảo cách Mũi Cà Mau 80 hải
lý, cách đảo Phú Quốc 100 km về phía tây nam. Xã hiện có 5.500 dân, trong đó có
gần 500 là người dân nhập cư. Đảo được các nhà thám hiểm phương Tây biết đến
với tên Mã Lai là Poulo Panjang.
2. Đặc điểm Khảo cổ học vùng biển,
ven bờ và các đảo vùng Nam Bộ
2.1. Văn hoá Khảo cổ học Đồng Nai
Văn hóa Đồng Nai là nền văn hóa khảo cổ tiền sử vùng Đông
Nam Bộ, gồm các tỉnh Tây Ninh, Bình Phước, Bình Dương. Đồng Nai, TP.Hồ Chí
Minh, Bà Rịa- Vũng Tàu. Phạm vi phân bố của văn hóa Đồng Nai là lưu vực các con
sông Đồng Nai, sông Bé, sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ. Từ cuối thế kỷ 19, người
ta đã phát hiện được các di vật khảo cổ học ở khu vực này trong khi xây dựng
một số công trình lớn ở Sài Gòn. Thập niên 1960-1970 một số nhà địa chất học người
Pháp đã công bố việc phát hiện các công cụ thời đá cũ ở Xuân Lộc (Đồng Nai) và
nhiều di tích ở vùng hạ lưu sông Đồng Nai mà họ định danh là “văn hóa Cù Lao
Rùa” [Fontaine, Hoàng Thị Thân 1975]. Từ sau 1975 việc khai quật và nghiên cứu
văn hóa Đồng Nai được đẩy mạnh và cho đến nay tiền sử lưu vực sông Đồng Nai đã được
làm rõ nét qua hệ thống hàng trăm di tích và hàng chục ngàn di vật. [Lê Xuân
Diệm - Đào Linh Côn - Võ Sĩ Khải 1995; Nguyễn
Thị Hậu 2009 a,b].
Các di tích khảo cổ văn hóa Đồng Nai chia thành 3 khu
vực: khu vực đồi đất đỏ bazan và cao nguyên đất xám phù sa cũ: các di tích ở
đây có diện phân bố rộng, tích tụ văn hóa dày, hiện vật vô cùng phong phú chủ
yếu là đồ gốm và công cụ đá. Tiêu biểu là cụm di tích Xuân Lộc – Đồng Nai, di
tích thành tròn ở Lộc Ninh – Bình Phước. Khu vực hạ lưu sông Đồng Nai: Đây là
khu vực di tích phân bố dày đặc, nhiều loại hình di tích như nơi cư trú, nơi
chế tạo các loại công cụ và đồ dùng sinh hoạt, các khu mộ táng với nhiều táng
thức khác nhau… Các di tích nổi tiếng ở đây là Cù Lao Rùa, Dốc Chùa, Bưng Sình
(Bình Dương), Bình Đa, Suối Linh, Đồi Phòng Không, Gò Me…(Đồng Nai), An Sơn,
Rạch Núi, Lộc Giang…(Long An). Khu vực ven biển Đông Nam bộ: đây là vùng đất
thấp trũng, phần lớn là rừng ngập mặn. Di tích cư trú và mộ táng rải rác trên
các gò, giồng đất cao hoặc ven các bưng lầy, di vật ở đây rất đa dạng, thể hiện
những mối quan hệ giao lưu văn hóa rộng rãi, chẳng hạn như nhóm di tích mộ chum
ở Cần Giờ – TP.HCM, các di tích vùng bưng lầy Bà Rịa-Vũng Tàu như Bưng Bạc, Bưng
Thơm, Cái Vạn, Cái Lăng, Giồng Nổi, Gò Me…[Hoàng Xuân Chinh 1984; Phạm Quang
Sơn 1984; Nguyễn Thị Hậu 2009a,b].
Đồ đá là di vật phổ biến nhất và có số lượng lớn nhất,
đồng thời cũng là loại công cụ- vũ khí tồn tại lâu dài đến cả những giai đoạn
về sau, do sự khan hiếm của quặng kim loại. Loại hình công cụ phổ biến là rìu,
cuốc, dao hái, “Qua đá”, đục, mũi tên, … được chuyên môn hóa về chức năng. Đồ
trang sức nhiều nhất là các loại vòng đeo tay, đeo tai. Việc phát hiện được
những bộ đàn đá trong địa tầng di tích khảo cổ học ở Đồng Nai, Bình Phước đã
khẳng dịnh sự ra đời và tồn tại của loại nhạc cụ cổ truyền này ở lưu vực Đồng Nai từ 3000 – 2000 năm
cách ngày nay. Nghề đúc đồng và luyện kim đồng thau phổ biến trong văn hóa Đồng
Nai khoảng 3000 năm cách ngày nay. Đồ đồng ở đây được chế tạo bằng phương pháp
đúc trong khuôn hai mang “liên hoàn”
nhiều vật đúc: Rìu, giáo, lao, mũi tên, lục lạc, lưỡi câu, lao có ngạnh…
Tại di tích Long Giao (Đồng Nai) còn tìm thấy một kho “qua đồng”- một loại vũ
khí cổ phổ biến cả trong văn hóa Đông
Sơn. Gần đây còn tìm thấy một số trống đồng “kiểu Đông Sơn” được sử dụng làm
nắp đậy những ngôi mộ chum bằng gỗ ở di tích Bưng Sình- Phú Chánh (Bình Dương)
[Phạm Đức Mạnh 1985; Phạm Đức Mạnh – Thuý Nga 1995; Nguyễn Thị Hậu 2009a].
Đồ gốm và nghề làm gốm rất phát triển, các loại đồ dùng
trong sinh hoạt như nồi, bát đĩa chân cao, bình, bếp lò… có mặt trong tất cả
các di tích khảo cổ. Ngoài ra còn có nhiều dụng cụ bằng gốm như bàn xoa, dọi se
sợi, chì lưới… Ngoài các chất liệu chủ yếu trên trong văn hóa Đồng Nai còn tìm
thấy những di vật bằng gỗ, xương, sừng hay mai rùa… làm công cụ và đồ trang
sức. Giai đoạn muộn của văn hóa Đồng Nai xuất hiện những di tích mộ táng với
táng thức chủ đạo là “mộ chum”: than tro hỏa táng hoặc di cốt được chôn nguyên vẹn trong những chum, vò lớn bằng gốm
hay bằng gỗ, cùng nhiều đồ tuỳ táng có giá trị như trang sức đá ngọc, mã não,
thủy tinh, giáo sắt, đồ gốm minh khí… nổi bật là bộ sưu tập 26 “khuyên tai hai
đầu thú” tại di tích Giồng Cá Vồ - số
lượng nhiều nhất được tìm thấy trong các di tích mộ chum ở Việt nam và Đông Nam
Á [Hà Văn Tấn 1979; Nguyễn Kim Dung và những người khác 1995; Nguyễn Thị Hậu
2009 a,b].
Các nhà khảo cổ học cho rằng qua gần 2000 năm phát triển,
phương thức kinh tế chính của cư dân cổ Đồng Nai là nông nghiệp ruộng khô
(nương rẫy, dùng cuốc) kết hợp với khai thác tự nhiên như đánh bắt cá, hái
lượm… đồng thời phát triển các nghề thủ công. Tuy nhiên, tại vùng cửa sông Đồng
Nai đã xuất hiện những dấu tích của một nhóm cư dân đặc biệt sinh sống bằng
nghề trao đổi buôn bán, đó là chủ nhân các di tích mộ chum ở Cần Giờ-TP.HCM.
Trong khoảng 2500-2000 năm cách ngày nay Cần Giờ đã từng là một “cảng thị sơ
khai” phát triển thương mại qua đường sông, đường biển với nhiều nơi như với
khu vực văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung, các đảo ở Philippine, Indonesia, đặc
biệt quan hệ kinh tế-kỹ thuật với Ấn Độ đã thể hiện rõ nét từ rất sớm. Văn hóa
Đồng Nai phát triển trong thiên niên kỷ I-II trước Công Nguyên đã được nhìn
nhận như bước mở đầu cho truyền thống văn hóa bản địa ở Nam Bộ với bản sắc
riêng và sức sống mãnh liệt. Truyền thống văn hóa Đồng Nai cùng với một số yếu
tố văn hóa “ngoại sinh” do cư dân cổ Đồng Nai tiếp thu đã trở thành những yếu
tố quan trọng để hình thành nền văn hóa Óc Eo nổi tiếng trong giai đoạn lịch sử
kế tiếp– thế kỷ I-VII sau Công nguyên [Hoàng Xuân Chinh 1984; Phạm Đức Mạnh
1996; Nguyễn Thị Hậu 2009 a].
2.2. Mối quan hệ giữa văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Đồng Nai
Văn hóa Sa Huỳnh phân bố ở khu vực miền Trung phát triển
từ sơ kỳ đồng thau đến sơ kỳ đồ sắt, từ khoảng 3500 năm đến những thế kỷ trước
sau Công nguyên. Đặc trưng cơ bản của văn hóa Sa Huỳnh là táng thức mộ chum, vò
suốt từ giai đoạn sớm đến muộn, tuy ở một vài địa điểm vẫn có sự hiện diện của
mộ huyệt đất. Các khu mộ phân bố tập trung ở những cồn cát ven biển, lan dần ra
các đảo ven bờ, ngoài ra còn phân bố ở vùng đồng bằng và miền núi phía tây. Di
tích là những khu mộ táng rộng lớn gồm hàng chục, hàng trăm chum, vò gốm chôn
đứng trong địa tầng. Loại hình chum, vò chủ yếu hình trụ, hình trứng, hình cầu
đáy bằng có nắp đậy hình nón cụt hay hình lồng bàn. Đặc biệt trong các mộ táng
chum, vò thuộc văn hóa Sa Huỳnh ít tìm thấy di cốt hay than tro hỏa táng, vì
vậy theo các nhà nghiên cứu táng tục của cư dân Sa Huỳnh có thể là “chôn tượng
trưng” [Hà Văn Tấn 1983; Nguyễn Thị Hậu 2009 b; Lâm Thị Mỹ Dung và Nguyễn Đức
Minh 1997].
Trong các mộ chum và mộ vò chứa nhiều đồ tùy táng gồm các
chất liệu đá, gốm, sắt, đá quý, thủy tinh rất đa dạng về loại hình: công cụ lao
động, vũ khí, đồ dùng sinh hoạt, trang sức… Đặc trưng về di vật là sự phổ biến
của công cụ lao động và vũ khí bằng sắt, đồ gốm tô màu trang trí nhiều đồ án
hoa văn khắc vạch, đồ trang sức bằng đá ngọc, mã não, thủy tinh như vòng, hạt
chuỗi, khuyên tai ba mấu, khuyên tai hai đầu thú… Chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh có
nền kinh tế đa thành phần, gồm trồng trọt trên nương rẫy và khai thác sản phẩm
rừng núi, trồng lúa ở đồng bằng, phát triển các nghề thủ công, đánh bắt cá ven
biển và trao đổi buôn bán với những tộc người trong khu vực Đông Nam Á và xa
hơn, với Trung Quốc và Ấn Độ. Những di tích văn hóa Sa Huỳnh ven biển đã có thể
từng là những “tiền cảng thị” (như khu vực Hội An với di tích Hậu Xá chẳng
hạn). Trung tâm của văn hóa Sa Huỳnh là khu vực Quảng Nam – Quảng Ngãi. Khu vực
Nam Trung Bộ, từ Phú Yên đến Bình Thuận những di tích và di vật thời tiền – sơ
sử mới được phát hiện và nghiên cứu từ sau năm 1975. Cho đến nay số lượng di
tích và di vật ở khu vực này chưa nhiều lắm song đã thể hiện tính chất và diện
mạo của “văn hóa Sa Huỳnh” có phần khác biệt so với vùng trung tâm, kể cả giai
đoạn nối tiếp từ văn hóa Sa Huỳnh sang văn hóa Chămpa. Văn hóa khảo cổ ở đây có
những nét độc lập nhất định so với vùng trung tâm của văn hóa Sa Huỳnh. Ngay từ
giai đoạn đồ đồng ở khu vực Khánh Hòa đã
phân lập được một văn hóa khảo cổ là “văn hóa Xóm Cồn”. Đến giai đoạn muộn sơ
kỳ thời đại Đồ Sắt, ở một số di tích mộ vò ở Nam Trung bộ như Hòa Diêm (Cam
Ranh, Khánh Hòa), Hòn Đỏ, Bàu Hòe (Bình Thuận) có nhiều yếu tố khác biệt mộ
chum vò Sa Huỳnh điển hình và thậm chí còn có những yếu tố gần gũi với văn hóa
Đồng Nai ở miền Đông Nam bộ như hình dáng chum, vò mai táng, hiện tượng di cốt
và than tro có trong mộ chum, mộ vò [Hà Văn Tấn 1983; Nguyễn Thị Hậu 2009 b;
Lâm Thị Mỹ Dung và Nguyễn Đức Minh 1997].
Dưới đây là một số so sánh giữa giai đọan phát triển cao
nhất của hai văn hóa Sa Huỳnh và Đồng Nai từ nửa sau thiên niên kỷ I trước CN
đến đầu CN, trong đó đối với văn hoá Đồng Nai, tiêu biểu là nhóm mộ chum ở Cần
Giờ - TPHCM. Cần Giờ nằm ở phía Đông Nam và là cửa ngõ đi ra biển Đông của Tp
Hồ Chí Minh, là một phần của miền Đông Nam Bộ thành tạo do dòng chảy của sông
Cửu Long cổ. Với diện tích khoảng gần 700 km2 được bao bọc bốn phía
bởi sông và biển ( phía Bắc là sông Nhà Bè và sông Lòng Tàu, phía Đông là sông
Đồng Tranh và sông Thị Vải, phía Tây là sông Soài Rạp và phía Nam là biển
Đông). Trên vùng đất sình lầy ven biển này đã có một thảm thực vật kiểu rừng
nước mặn phát triển phong phú – nổi danh với địa danh Rừng Sác. Từ đầu nguồn
chảy xuống, sông Đồng Nai và sông Sài Gòn hợp lưu ở Nhà Bè rồi lại tách ra làm
hai đổ xuôi ra biển: từ đây, sông Sài Gòn được gọi là sông Lòng Tàu đổ ra biển
bằng cửa chính là cửa Cần Giờ ở vịnh Rành Gái; sông Đồng Nai được gọi là sông
Soài Rạp, hợp lưu với sông Vàm Cỏ ( Đông – Tây)
đổ ra biển bằng cửa Soài Rạp ở vịnh Đông Tranh. Cả hai sông Sài Gòn và
Đồng Nai đều có một hệ thống chi lưu, phụ lưu và các con sông rạch nhỏ, Khí hậu
ở khu vực Cần Giờ vô cùng khắc nghiệt. Mùa khô kéo dài và mùa mưa đến chậm ,
lượng mưa cũng ít hơn những nơi khác ở miền Đông Nam Bộ [Nguyễn Thị Hậu 2009
a,b].
Phân bố trên vùng đất ven biển có địa hình hết sức phức
tạp này, nhóm mộ chum Cần Giờ gồm 2 di tích Giồng Phệt và Giồng Cá Vồ có những
đặc trưng cơ bản sau: Là một nhóm di tích cư trú và mộ chum phân bố trên những
giồng đất đỏ hoặc đất nâu đen. Mộ chum phân bố dày đặc không có qui luật ngay
trên tầng văn hóa của di chỉ cư trú. Bên cạnh số lượng mộ chum lớn còn có cả mộ
đất. Loại hình chum mai táng tuyệt đại đa số là hình cầu đáy tròn, miệng hơi
khum được mài khá nhẵn. Chum được đặt đứng trên một lớp đất gia cố đặc biệt,
hoàn toàn không có nắp đậy. Trong chum di cốt còn khá nguyên vẹn thể hiện tục
hung táng.Truyền thống mộ táng ở Cần Giờ có sự chuyển biến về táng thức: Mộ
huyệt đất sét – mộ chum gốm đặt trong huyệt đất sét – mộ chum gốm – mộ huyệt
đất. Có thể nhận biết truyền thống này qua các di tích Khu Bao Đồng – Giồng Cá
Vồ - Giồng Phệt [Đặng Văn Thắng, Nguyễn Thị Hậu 2006].
Tầng văn hóa gồm mộ táng và một hệ gốm di chỉ có lọai
hình và kỹ thuật sản xuất riêng biệt “gốm Cần Giờ”. Đây là lọai gốm do cư dân
cổ Cần Giờ sản xuất, nguyên liệu tại chỗ, lọai hình riêng biệt, kỹ thuật đặc
thù, diễn biến liên tục qua các di tích KCH ở đây từ khỏang 3000 năm đến khỏang
1500 năm cách nay. Lọai hình đặc trưng là bình thân cầu miệng khum có rãnh,
bình đáy hình trứng cổ thắt miệng loe vành miệng gập vào trong có rãnh, bình
đáy chỏm cầu cổ thắt vành miệng vê tròn. Hoa văn in đập xương cá hay ô vuông, ô
trám. Kỹ thuật nặn tay, gắn chắp. Xương gốm pha cát khá mịn, độ nung cao. Đáng
chú ý là các lọai chum gốm mai táng cũng cùng chất liệu và kỹ thuật sản xuất. Hiện
vật trong mộ chum, mộ đất và trong tầng văn hóa có cùng loại hình và chất liệu,
thể hiện mối giao lưu vô cùng rộng rãi và mật thiết với nhiều vùng khác nhau,
như văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Đồng Nai, văn hóa Óc Eo và của cả những vùng xa
hơn như Thái Lan, Campuchia và nhất là Philippin. Nhóm di tích này có khung
niên đại khoảng từ 3000 năm đến 2000 năm cách ngày nay, niên đại C14 của
lớp mộ táng Giồng Cá Vồ 2480 ± 50 năm cách ngày nay và Giồng Phệt là 2100 ± 50
năm, tương đương giai đoạn Hậu kỳ của
Văn hóa Sa Huỳnh. Từ những đặc trưng này đã có ý kiến kiên trì phân lập nhóm di
tích này thành một văn hóa mới: “Văn hóa Giồng Phệt” [Nguyễn Thị Hậu, Đặng Văn
Thắng, 2004].
Đặc trưng đầu tiên của Văn hóa Sa Huỳnh là từ giai đoạn
Sơ kỳ đến gia đoạn Hậu kỳ đều được mai táng bằng những chum gốm lớn, trong đó
một số một đất, nằm ở vùng địa tầng và có cùng loại đáy tròn và chum có vai gãy
đáy bằng của Văn hóa Giồng Phệt khá khác biệt 3 loại chum hình trụ hay hình
ống, hình trứng và hình cầu dùng mai táng trong Văn hóa Sa Huỳnh. Mộ chum ở Sa
Huỳnh thường không tìm thấy xương răng người chết, nên có thể đó là những chum
dùng để cải táng. Trong khi đó tuyệt đại đa số mộ chum ở Cần Giờ còn di cốt
người như: sọ, răng, sương ống, xương chi.. trong nhiều mộ, di cốt còn khá
nguyên vẹn cho thấy cư dân cổ nơi đây đã chôn nguyên thi thể người chết trong
chum bằng cách bó ngồi [Nguyễn Lân Cường, 1995]. Tục cải táng hay chôn ở mộ đất
chỉ là những ngoại lệ. Với số lượng lớn mộ chum ở di tích Giồng Cá Vồ: 339
mộ/225 m2 , với sự đồng nhất của loại hình chum mai táng và sự thống
nhất trong táng tục, ta thấy cư dân ở đây đã có một tập tục hung táng lâu dài,
ổn định và độc đáo. Đây là yếu tố đầu tiên giúp ta phân biệt Giồng Phệt với các
đặc điểm văn hóa khác có cùng tục mai táng bằng chum gốm. Đồ gốm tùy táng ở
Giồng Phệt và Giồng Cá Vồ dễ dàng nhận thấy những yếu tố của gốm Sa Huỳnh về loại
hình và hoa văn: các loại nồi gãy góc ở thân, bình Sa Huỳnh, bát đĩa chân cao với
số lượng không nhiều. Các hiện vật kiểu Sa Huỳnh ấy được tìm thấy trong mộ
chum, mộ đất và trong tầng văn hóa. Thủ pháp trang trí gốm các của cư dân Sa
Huỳnh là khắc vạch kết hợp in mép sò và tô màu ( chủ yếu là tô đen ánh chì)
cũng chính là thủ pháp trang trí gốm của chủ nhân nhóm mộ chum Giồng Cá Vồ,
Giồng Phệt. Hoa văn gốm uốn lượn mềm mại kết hợp với in mép sò, ấn chân chim
vào một số họa tiết đệm khác như tam giác, những vạch chéo…tạo nên những đồ án
chữ S kép nối nhau chạy ngang thanh gốm với những vạch xiên chéo, hay những chữ
S gấp khúc nằm xiên móc vào nhau có tam giác đệm. Đồ gốm “kiểu Sa Huỳnh” ở đây
hoàn toàn vắng mặt thủ pháp tô đen ánh chì, mà chỉ có một số tiêu bản được tô
thổ hoàng. Ở Giồng Phệt và Giồng Cá Vồ đã tìm thấy 32 khuyên tai hai đầu thú
(Giồng Phệt 5 chiếc bằng đá ngọc và Giồng Cá Vồ 27 chiếc, trong đó có 19 chiếc
bằng đá và 8 chiếc bằng thủy tinh [Nguyễn Thị Hậu 2006].
Đặc biệt, ở Giồng Cá Vồ còn tìm thấy một chiếc khuyên tai
hai đầu thú bằng đá hình chiếc khánh, đây là tiêu bản độc đáo nhất của loại
hình này và cho đến nay là tiêu bản duy nhất đã tìm thấy ở Việt Nam và Đông Nam
Á. Tại Giồng Cá Vồ, đã tìm thấy 4 cặp khuyên tai 2 đầu thú bằng đá giống nhau
trong mộ chum. Quan trọng hơn, trong mộ chum di cốt còn khá nhiều hộp sọ còn
nguyên với 2 hàm đầy đủ có một khuyên tai hai đầu thú bằng đá màu xanh nằm áp
sát vào tay trái rất ngay ngắn. Móc đeo và hai cặp sừng quay lên trên, hai
miệng ở phía dưới đúng tư thế và vị trí của một khuyên tai. Như vậy, việc phát
hiện những khuyên tai hai đầu thú ở Giồng Phệt và Giồng Cá Vồ đã cung cấp thêm
những tư liệu để xác định chức năng của nó. Chủ nhân văn hóa Giồng Phệt đã sử
dụng đồ trang sức này ở cả nam và nữ, đeo ở một hay cả hai bên tai, cả chủ nhân
mộ chum và mộ đất. Cùng tượng hình “hai đầu thú”, ở Giồng Phệt và Giồng Cá Vồ
còn tìm thấy nhiều tượng hình chim bằng đất nung có 2 hoặc 3,4 đầu. Những tượng
hình chim này được gắn lên đỉnh mộ hình tháp bằng đất nung có 4 mặt, hoặc đơn
giản hơn, gắn trên một đoạn gốm hình trụ có chân đế choãi cao. Loại hình đồ gốm
độc đáo này tìm thấy trong cả mộ táng và trong tầng văn hóa. Rõ ràng hình tượng
hai, hay nhiều đầu chim, đầu thú thể hiện trên đồ trang sức và đồ gốm ở đây có
mối quan hệ với nhau, theo chúng tôi, chúng đều là biểu tượng của một hình thái
tôn giáo – tín ngưỡng, có thể coi loại hình hiện vật có hình tượng đầu chim,
đầu thú là một đặc trưng văn hóa của văn hóa Giồng Phệt [Vũ Quốc Hiền, Nguyễn
Thị Hậu 1995; Nguyễn Thị Hậu, 1997].
Ngoài khuyên tai 2 đầu thú ở đây còn phổ biến một số loại
hình trang sức quen thuộc của văn hóa Sa Huỳnh như: khuyên tai 3 mấu, hạt chuỗi
mã não có số lượng nhiều nhất với nhiều hình dáng và kích cỡ. Đồ trang sức thủy
tinh: Ngoài khuyên tai 2 đầu thú và khuyên tai 3 mấu, còn có rất nhiều loại hạt
chuỗi và vòng đeo. Có thể nói đồ trang sức của Giồng Cá Vồ và Giồng Phệt đã thể
hiện khả năng “hội tụ” những yếu tố đặc trưng của nhiều nền văn hóa trong Sơ kỳ
Thời đại sắt ở Đông Nam Á và vùng xa hơn, trong đó ảnh hưởng của Văn hóa Sa
Huỳnh là khá đậm nét. Trong Văn hóa Sa Huỳnh công cụ bằng sắt khá phong phú như
rìu, cuốc, thuổng, dao, liềm. Nhưng trong Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt lại phổ biến
các loại vũ khí như giáo, kiếm, lao kích thước khá lớn, thường được bẻ cong
hoặc gấp đôi để đặt vào mộ chum. Chủ nhân của những mộ chum này chắc chắn là
người có địa vị cao trong xã hội; công cụ sản xuất nông nghiệp rất ít, bên cạnh
số lượng lớn các loại dao dùng trong sinh hoạt và nhiều loại lưỡi câu để đánh
bắt hải sản. Một số hiện vật sắt được bọc nhiều lớp vải. Một số hiện vật sắt
được bọc nhiều lớp vải, có loại vải thô nhưng cũng có loại khá mịn, cho thấy
giá trị cao của chúng. Công cụ vũ khí bằng sắt ngoài chất năng thông dụng còn
là biểu tượng cho quyền lực của chủ nhân chúng trong một xã hội đã có sự phân
hóa khá sâu sắc. Yếu tố của nông nghiệp trồng trọt khá mờ nhạt trong văn hóa
Giồng Phệt; cảnh quan môi trường sinh thái ở đây đã không cho phép cư dân sống
bằng nghề nông chứ chưa nói đến việc phát triển kinh tế nông nghiệp; chỉ có
nghề khai thác biển là khá phát triển [Nguyễn Thị Hậu 2009 a,b].
Như vậy, những yếu tố của Văn hóa Sa Huỳnh trong “văn hóa
Giồng Phệt” khá rõ nét trên đồ gốm tùy táng và đồ trang sức, là những loại hình
hiện vật thể hiện tư duy thẩm mỹ và đời sống tâm linh của cư dân cổ. Chính vì
vậy, đồ gốm và đồ trang sức thường xuyên được trao đổi giao lưu về cả sản phẩm
và kỹ thuật. Như trên đã nói, đã tìm thấy những bằng chứng chế tạo đồ trang sức
tại Giồng Cá Vồ, và kỹ thuật nặn tay, gắn chắp làm gốm di chỉ cũng sử dụng
trong làm đồ gốm tùy táng. Khu vực Cần Giờ thể hiện hiện rõ sự tiếp nhận kỹ
thuật từ các vùng xung quanh và phát triển thành một đặc trưng riêng biệt. Di
tích mộ chum Hòa Diêm (xã Cam Thịnh, thị xã Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa) và nhóm
di tích mộ chum Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt (Cần Giờ, TP.HCM). Qua diễn biến tầng
văn hóa, đối sánh với các di tích trong khu vực và xa hơn, bước đầu những người
khai quật cho rằng niên đại di tích Hòa Diêm có thể kéo dài trong khoảng thế kỷ
1-2 TCN đến thế kỷ 2-3 sau CN, trong đó lớp sớm có quan hệ chặt chẽ với văn hóa
Xóm Cồn – văn hóa sơ kỳ kim khí ở Khánh Hòa, lớp văn hóa muộn có quan hệ với
giai đoạn sớm của văn hóa Chăm, còn giai đoạn Hòa Diêm tương đương với văn hóa
Sa Huỳnh cổ điển ở ven biển miền Trung Việt Nam. Ngoài ra di tích Hòa Diêm còn
có mối quan hệ rộng hơn với các di tích liền kề cũng như một số văn hóa cùng
thời ở khu vực phía Nam. Con đường phát triển và quan hệ văn hóa của di tích
Hòa Diêm đã góp phần tạo nên một khu vực văn hóa tiền sử mang những đặc điểm
riêng ở Nam Trung bộ [Nguyễn Thị Hậu 2009 a,b].
Tầng văn hóa di tích Hòa Diêm còn khá nguyên vẹn và chứa
nhiều hiện vật đồ đá, gốm, vỏ nhuyễn thể, kim loại. Sự diễn biến từ sớm đến
muộn với các giai đoạn văn hóa khác nhau, kể cả địa tầng gốm và cả địa tầng mộ
táng cho biết tính chất của di tích là nơi cư trú đồng thời là khu mộ táng có
nhiều táng thức như hung táng, cải táng, mộ đất, mộ chum, mộ vò gốm, mộ tượng
trưng. Đặc trưng nổi bật của di tích Hòa Diêm là mộ chum: mật độ phân bố dày
đặc, chum hình cầu có một chum khác đậy lên trên, chum dưới ghè rộng miệng để
dễ sắp xếp di cốt và hiện vật. Do cải táng và hỏa táng rồi cho xương vào chum
nên di cốt trong chum không theo quy luật nào cả, có mộ có tới 3 cá thể, nhiều
mộ có 2 cá thể, mộ số 1 có 1 cá thể và nhiều mộ chỉ có vài mẩu xương vụn, thậm
chí có mộ không còn di cốt. Trong các mộ chum có di cốt người lớn và cả trẻ em.
Phần di cốt được bảo quản cẩn thận nhất là sọ, thường có mảnh gốm lớn kê ở
dưới. Nhiều mộ chum có hiện tượng nắp vỡ sụp xuống lòng chum, vị trí một số đồ
gốm tùy táng có chức năng như kê, che cho di cốt quan trọng như sọ, hàm [Nguyễn
Công Bằng, 2005].
Như vậy, mộ táng trong di tích Hòa Diêm đã thể hiện những
đặc trưng gần với Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt thuộc khu vực văn hóa Đồng Nai hơn là
văn hóa Sa Hùynh. Ngoài ra, các mộ đất có hiện tượng rải, phủ gốm, loại hình
rìu đồng tùy táng, đá cuội trong mộ chum và mộ đất ở Hòa Diêm đều là những hiện
tượng đã gặp và khá phổ biến trong văn hóa Đồng Nai. Tất nhiên không thể vì vậy
mà mở rộng phạm vi của “văn hóa Giồng Phệt” hay văn hóa Đồng Nai đến Nam Trung
bộ, một vùng cảnh quan sinh thái tương đối khác biệt. Với những bằng chứng
trên, Khánh Hòa – rộng hơn là khu vực Nam Trung bộ với nhóm di tích Bàu Hòe –
Hòn Đỏ - Mỹ Tường ở Bình Thuận mà các mộ vò ở đây với phong cách mai táng, hình
dáng và kích thước gần gũi với cụm di tích Suối Chồn – Đồng Nai và khác lạ với
cụm vò lớn hình trụ hay hình trứng điển hình của văn hóa Sa Huỳnh, đã thể hiện
rõ tính chất vùng giao thoa, vùng đệm của hai trung tâm văn hóa thời đại kim
khí trong thời gian sơ kỳ đồ sắt giao lưu văn hóa qua buôn bán và các luồng di
dân ven biển Đông Nam Á. [Lương Ninh 2001; Nguyễn Thị Hậu 2009a,b; Phạm Đức
Mạnh và cộng sự1984].
Văn hóa Sa Huỳnh có vị trí quan trọng trong việc định vị
và đối sánh các văn hóa cùng thời, nhất là những văn hóa ven biển và hải đảo có
mối quan hệ giao lưu mật thiết với nó. Sự giao thoa giữa các nền văn hóa cùng
thời, cùng trình độ phát triển, địa bàn
kề cận nhau là hiện tượng văn hóa mang tính quy luật. Ở khu vực giáp ranh Nam
Trung bộ tùy từng giai đọan mà văn hóa ở đây ảnh hưởng đậm nét các yếu tố văn
hóa Sa Huỳnh hay văn hóa Đồng Nai. Những đặc trưng của văn hóa Sa Hùynh ngày
nay đã tìm thấy trong nhiều nền văn hóa ở những môi trường và địa hình khác
nhau. Điều này càng cho thấy rõ hơn mối quan hệ qua biển, bằng biển của cư dân
cổ Đông Nam Á: yếu tố văn hóa biển mang lại những nét tương đồng còn yếu tố lục
địa làm nên nét khác biệt cho các nền văn hóa cổ, Biển Đông từ thời xa xưa cho
đến nay luôn có một vị trí quan trọng trong sự phát triển của khu vực Đông Nam
Á. Đây cũng là một trong những yếu tố thúc đẩy sự phát triển từ văn hóa Sa Huỳnh
đến văn hóa Chămpa và từ văn hóa Đồng Nai đến văn hóa Óc Eo. [Nguyễn Thị Hậu
2004; Nguyễn Thị Hậu 2009a,b; Lâm Thị Mỹ Dung 2009].
Từ sau năm 1975, nghiên cứu về các văn hóa cổ ở Nam bộ là
một nhiệm vụ trọng yếu của khảo cổ học Việt Nam. Những phát hiện mới về văn hóa
Đồng Nai, văn hóa Oc Eo đã làm cho diện mạo các nền văn hoá cổ này ngày càng rõ
nét. Đặc biệt, một trong những thành tựu quan trọng nhất là đã phát hiện và
khai quật những di chỉ có niên đại thuộc giai đoạn sơ kỳ sắt như Gò Cây Tung
(An Giang ), Gò Cao Su, Gò Ô Chùa ( Long An), Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt ( Cần
Giờ- TP.HCM ), Giồng Nổi (Bến Tre), Giồng Lớn (Bà Rịa –Vũng Tàu). Các khám phá mới về giai đoạn
“tiền Óc Eo”
ở Nam bộ ngày càng làm rõ hơn nguồn gốc bản điạ của văn hóa này từ nhiều di
tích thuộc văn hóa tiền – sơ sử. Những
di tích được xếp vào giai đoạn “tiền Óc Eo” khi trong sưu tập di vật hiện diện rõ ràng các yếu tố của văn hóa Óc
Eo ở loại hình, chất liệu hay kỹ thuật chế tác. Trong các di tích điểm lại một
cách khái quát dưới đây yếu tố văn hóa Óc Eo được nhận biết trong di vật gốm và
đồ trang sức. Qua đó có thể nhận biết tính chất xã hội và các mối quan hệ giao
lưu văn hóa của văn hóa Óc Eo đã có mầm mống từ các di tích tiền sử ở Nam Bộ.
Vì vậy, nhìn lại các di tích thuộc giai đoạn “tiền Óc Eo” là để góp thêm tư
liệu cho việc làm sáng tỏ lịch sử vùng đất Nam bộ, giai đoạn chuyển biến từ
thời kỳ tiền sử vào thời kỳ lịch sử với sự hình thành nền văn hóa Óc Eo rực rỡ [Sở Văn hóa Thông tin An Giang 1984; Nguyễn Thị Hậu
2009a,b; Lâm Thị Mỹ Dung 2009].
Các di tích thuộc giai đoạn
“tiền Óc Eo” gồm có Gò Cây Tung (An Giang), Gò Cao Su, Gò
Ô Chùa (Long An), Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt, Giồng Cá Trăng (Cần Giờ- Thành phố
Hồ Chí Minh), Giồng Nổi (Bến Tre), Giồng Lớn (Bà Rịa-Vũng Tàu), đều được khai
quật trong những năm 1990 đến nay. Niên đại của các di tích này khoảng từ 500
năm trước công nguyên đến thế kỷ 1-2 sau công nguyên. Địa hình di tích là những
gò, giồng đất cao phân bố ở những khu vực sinh thái khác nhau: Gò Cây Tung nằm
trong đồng bằng tứ giác Long Xuyên thấp trũng, Gò Cao Su, Gò Ô Chùa ở ven Đồng
Tháp Mười đầm lầy, Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt, Giồng Cá Trăng ở vùng rừng ngập mặn
ven biển Đông Nam Bộ, Giồng Nổi, Giồng Lớn là những giồng cát cổ gần biển.
Trong thời tiền sử đây là những khu vực chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của chế độ bán
nhật triều của biển Đông - Tây Nam Bộ và mùa nước nổi của sông Cửu Long. Tầng
văn hóa di tích do phù sa cổ (sông, biển) cùng với quá trình cư trú của con
người tạo thành, độ dày tầng văn hóa trung bình khoảng 1-1,5m, Gò Cây Tung dày
đến 3,5m. Qua khảo sát thực tế, các di tích này hầu như không bị ngập trong mùa
lũ lụt hay khi triều cường, đây chính là điều kiện tiên quyết để người xưa chọn
làm nơi cư trú lâu dài. Các di tích nói trên là di chỉ cư trú - mộ táng. Dấu
tích di chỉ cư trú chủ yếu là mảnh gốm ken dày trong tầng văn hóa lẫn với một
số hiện vật khác như đồ đá ở Gò Cây Tung, xương răng động vật ở Gò Ô Chùa,
Giồng Nổi, hay vỏ nhuyễn thể ở các di tích khu vực Cần Giờ. Di tích cư trú và
lớp mộ táng thường không có ngăn cách mà diễn biến liên tục qua vài trăm năm.
Sinh thổ là lớp sét xám đen hay vàng nhạt, loại sét có thể sử dụng làm gốm. Loại hình phân bố mộ táng khá phức tạp, gồm mộ huyệt đất,
mộ chum vò, dấu vết cải táng, hỏa táng. Đồ tùy táng nhiều loại hình, nhiều chất
liệu, cả đồ gia dụng và minh khí, mang tính chất riêng nhưng cũng thể hiện mối
quan hệ với nhau, nhất là qua đồ gốm [Tống Trung
Tín, Bùi Minh Trí, Nguyễn Minh Sang 1994; Tống Trung Tín, Bùi Minh Trí, Nguyễn
Minh Sang 1995].
Gốm trong các di
tích “tiền Óc Eo” gồm
hai loại gốm thô và gốm mịn, trong đó gốm mịn ở các lớp văn hóa trên và số
lượng cũng ít hơn gốm thô, tuy đều có thể nhận biết hai loại gốm cùng làm từ
nguyên liệu sét tại chỗ. Ở di tích Gò Cây Tung thì số lượng đồ gốm rất nhiều,
với hai loại chất liệu gốm thô và gốm mịn, tỷ lệ gốm mịn ít và chỉ có ở lớp 1
của hố II. Loại hình gốm Gò Cây Tung có mâm bồng, bát có chân đế, bình, nồi,
nắp vung, vòi ấm, mảnh chai gốm. Trang trí văn thừng kết hợp miết láng, đắp nổi
hoặc ấn lõm, tô màu đỏ gạch. Tại đây có một hệ thống gốm dường như chưa thấy ở
một di tích nào, trong suốt thời kỳ dài gần như không có gốm mịn nhưng giai
đoạn cuối của thời tiền sử gốm mịn đã xuất hiện với loại hình mảnh vòi ấm,
bình, chai gốm tuy số lượng không nhiều. Trong chừng mực nhất định, gốm Gò Cây
Tung có lẽ cũng phát huy ảnh hưởng đối với văn hóa Óc Eo qua kỹ thuật trang trí
hoa văn đắp gờ nổi, ấn lõm, trổ lỗ kết hợp với tô màu đỏ. Gò Cây Tung được
những người khai quật định niên đại khá dài, trong đó lớp văn hóa tiền Óc Eo
khoảng 2500 BP đến 2000 – 1800 BP [Trần Anh Dũng, Bùi Văn Liêm, Nguyễn Đăng Cường,
Vương Thu Hồng 1995].
Di
tích Gò Cao Su: hàng vạn mảnh gốm của các loại bình, vò, nắp gốm, nồi, chậu,
dọi xe chỉ, mảnh khuôn đúc, mảnh bếp gốm… Đặc biệt là một nắp gốm trắng mịn,
trang trí nhiều kiểu hoa văn khắc vạch. Tại đây còn phát hiện loại gốm trắng
mốc ở cả giai đoạn sớm và muộn, tuy chất lượng có khác nhau. Đây là loại gốm
đặc trưng của văn hóa Óc Eo, như vậy loại gốm này có một quá trình hình thành
và mang tính bản địa, phát triển từ trước khi văn hóa Óc Eo định hình. Niên đại C14 của Gò Cao Su là 3370 ± 80 và 2650
± 70BP. Di tích Gò Ô Chùa: Chất liệu gốm Gò Ô Chùa khá mịn, tỷ lệ gốm thô do
pha cát ít. Gốm thường có xương xám đen, một số ít gốm xương đen, đỏ, xương gốm
trắng rất ít. Hầu hết mảnh gốm có lớp áo khá mịn. Lớp áo gốm trắng ngà hoặc
trắng hồng, sau đó tô màu vàng, đỏ cam hay đen láng. Điều đó chứng tỏ kỹ thuật
gia công đồ gốm ở đây khá cao, nhất là khâu nguyên liệu và độ nung. Hoa văn chủ
yếu là văn thừng đập và văn chải, văn khắc vạch bằng que một hay nhiều răng.
Đặc biệt một số mảnh gốm có dấu in khuôn bên trong. Loại hình khá tập trung gồm
mâm bồng, nồi cổ thắt, bát, chậu, chum nhỏ, các loại hình… Hàng vạn mảnh gốm và
hàng chục tiêu bản gốm được phục dựng đã cho thấy di tích này là khu sản xuất
gốm, nhất là với sự có mặt của hàng trăm chạc gốm, mà Malleret gọi là vật kê
lò. Niên đại C14 của Gò Ô Chùa là 1900 ± 60 năm và 2420 ± 70BP [Nguyễn Mạnh
Cường 1996; Sở Văn hóa Thông tin An Giang 1984; Trần Anh
Dũng, Bùi Văn Liêm, Nguyễn Đăng Cường, Vương Thu Hồng 1995; Nguyễn Thị Hậu
2000; Ngô Thế Phong, Bùi Phát Diệm 2001].
Gốm
Cần Giờ: Là loại gốm tìm thấy tại các di tích cư trú có và không có mộ chum ở
khu vực này. Gốm Cần Giờ có một truyền thống riêng biệt cả về loại hình, hoa
văn, kỹ thuật tạo dáng và trang trí hoa văn, thể hiện trong cả một số đồ gốm
minh khí tùy táng. Loại hình phổ biến là gốm thân hình cầu, hình chai, đáy tròn
hay đáy hình trứng, không có chân đế. Miệng khum cong là chủ đạo, có thể có
vành miệng loe trang trí hoa văn in ấn hay khắc vạch. Hoa văn in đập ô vuông,
xương cá thô. Văn thừng ít, chỉ phổ biến ở chum gốm mai táng, hoa văn khắc vạch
trang trí ở vành miệng hoặc ngang thân. Các loại gốm tùy táng có chân đế loe
cao hình trụ, trang trí văn khắc vạch, ấn lõm hay trổ lỗ hình học, phổ biến
loại mâm bồng, bát chậu, bát chậu, bình, nồi cổ thắt hình giỏ cua, cà ràng với xương gốm khá mịn tuy pha nhiều cát, gốm
chắc, độ nung khá cao và đều. Gốm thường có màu đỏ, hồng hay xám nhạt, riêng
chum gốm dày hơn, áo láng và có màu xám đen. Gốm Cần Giờ nặn bằng tay là chính,
kết hợp với bàn đập hòn kê, dấu vết kỹ thuật này để lại rất rõ ở phần mép trong
miệng hay phần gắn chắp chân đế vào đáy gốm. Ngoài ra, có thể coi kỹ thuật tạo
gốm bằng in khuôn là đặc trưng của gốm Cần Giờ, vì đây là kỹ thuật tạo dáng hai
loại sản phẩm chủ yếu là chum gốm và chai gốm, ngoài ra còn dùng để làm gạch
nhỏ ở giai đoạn đầu Công nguyên. Kỹ thuật bàn xoay dùng để hỗ trợ tu sửa đồ
gốm. Sưu tập gốm Cần Giờ thể hiện yếu tố “tiền Óc Eo” tiêu biểu nhất là đồ tùy
táng trong hai di tích mộ chum Giồng Cá Vồ (2480 ± 50BP) và Giồng Phệt (2420 ±
480, 2100 ± 50BP) [Vũ Quốc Hiền,
Nguyễn Thị Hậu 1995 ; Đặng Văn Thắng, Vũ Quốc
Hiền 1995; Nguyễn Lân Cường, 1995].
Gốm Giồng Nổi: Mặc dầu địa tầng di chỉ Giồng
Nổi khá mỏng nhưng trong bộ sưu tập gốm ở đây dường như có hai nhóm gốm khá
tách biệt nhau: một nhóm gốm tương đương với gốm tiền sử Đông Nam bộ có niên
đại thuộc hậu kỳ đá mới – sơ kỳ đồng thau (trên dưới 3000 năm), và một nhóm gốm
khác có thể tương đương về niên đại với các di tích tiền Óc Eo vùng Nam bộ
(khoảng trước – sau công nguyên). Nhóm gốm “tiền Óc Eo” ở Giồng Nổi thể hiện
trên một số loại hình như chai gốm miệng dày và hơi uốn lõm, phảng phất loại
miệng bình Giồng Phệt, Giồng Cá Vồ, lọ gốm đáy nhọn, nắp vung, đĩa gốm cùng một
số loại hình khác, nồi nhỏ có tay cầm, miệng khum, nồi nhỏ hình gáo dừa. Hoa
văn gốm giai đoạn này có những mô típ tương tự hoa văn gốm tùy táng ở Giồng
Phệt, Giồng Cá Vồ, Gò Ô Chùa như kiểu ấn chìm tạo hình hoa 4 cánh, băng chữ V
liền nhau, chấm dải trang trí trên vành miệng… Chất liệu nhóm gốm này khá mịn. Niên
đại Giồng Nổi: 2200 ± 50, 2290 ± 65, 2310 ± 70 BP.Gốm Giồng Lớn: Phần lớn là đồ
tùy táng, chất liệu, loại hình, hoa văn khá giống gốm tùy táng ở Giồng Phệt,
Giồng Cá Vồ, bình cổ thắt miệng loe chân đế cao có hoa văn khắc vạch hồi văn,
bình kiểu Giồng Phệt, nồi gãy góc gần đáy thân trang trí những băng hồi văn.
Ngoài ra tại di tích này những công cụ sắt cũng rất giống công cụ sắt trong mộ
chum ở Cần Giờ. Niên đại Giồng Lớn: thế kỷ 1,2 trước sau công nguyên [Vũ Quốc Hiền, Nguyễn Thị Hậu 1995 ; Đặng Văn Thắng, Vũ Quốc Hiền 1995].
Đồ trang sức trong
các di tích “tiền Oc Eo”, nổi
bật là loại hình trang sức tùy táng trong các di tích mộ táng chum gốm, nồi gốm
Giồng Phệt, Giồng Cá Vồ, Giồng Lớn (đều nằm ven Vịnh Gành Rái của sông Đồng
Nai): vòng, hạt chuỗi, khuyên tai hai đầu thú bằng chất liệu đá ngọc, mã não,
thủy tinh, chất liệu vàng có những mảnh vành trổ lỗ, khuyên tai, hạt vàng hình đốt trúc, vàng dát
mỏng bọc ngoài hạt chuỗi gốm. Tại di tích mộ chum Giồng Cá Vồ còn tìm thấy dấu
tích chế tạo tại chỗ các loại trang sức bằng đá ngọc và thủy tinh [Nguyễn Thị
Kim Dung, Đặng Văn Thắng, Vũ Quốc Hiền, Nguyễn Thị Hậu, Trịnh Căn 1995 ; Nguyễn
Thị Kim Dung, Đặng Văn Thắng 1996]. Mối
quan hệ của các di tích “tiền Óc Eo” với
nhau và với văn hóa Óc Eo: thể hiện rõ ràng nhất qua sự phổ biến của
những loại hình, kiểu dáng đồ gốm và hoa văn gốm khá đặc trưng ở Nam Bộ, đồng
thời qua sự bảo lưu lâu dài các phương pháp kỹ thuật đặc thù trong việc chế tác
đồ gốm. Đồ gốm ở Gò Cao Su có một số nét giống gốm Giồng Cá Vồ, Long Bửu như
gốm cứng văn in ca rô và lá dừa nước, văn khắc vạch chữ S, chữ J, quay lưng vào
nhau. Nhưng gốm Gò Cao Su cũng có những yếu tố gần với gốm Óc Eo hơn như gốm áo
trắng mốc, áo đen miết láng, đã xuất hiện việc sử dụng sét lọc khá kỹ trong
nguyên liệu làm gốm. Hiện tượng này cũng xuất hiện trong gốm giai đoạn muộn ở
Giồng Nổi. Trong khi đó, Gò Ô Chùa lại có những loại miệng gốm giống tới từng
chi tiết với gốm Gò Cao Su: chấm dải trên mép miệng, mép miệng khía đôi nửa
dưới vạch chéo… Lớp muộn của Gò Cao Su tương đương giai đoạn sớm của Gò Ô Chùa
[Trần Anh Dũng và cộng sự 1996]. Như vậy, có thể coi Long Bửu (quận 9 TP.HCM)
và Gò Cao Su là gạch nối giữa Gò Ô Chùa và các di tích mộ chum ở Cần Giờ, tuy
niên đại sớm hơn chút ít. Giữa Gò Ô Chùa và Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt, Giồng Lớn
vừa có mối quan hệ giao lưu, vừa là đồng đại. Đây là dấu ấn của kỹ thuật nặn
gốm bằng cách đắp phôi gốm lên khuôn, người thợ gốm có thể tạo hai mảng sau đó
ghép lại. Những hạt tròn nổi bên trong chính là các chấm lõm trên khuôn, vì có
các chấm lõm này thì mới dễ dàng dỡ khuôn khi xương gốm se mặt. Cũng có thể
dùng vải bọc khuôn để nhấc hiện vật ra khỏi khuôn. Kỹ thuật làm gốm bằng khuôn
là một trong những kỹ thuật tương đối phổ biến trên thế giới, nhất là vùng hải
đảo và châu Đại Dương. Đến Giồng Am thuộc văn hóa Óc Eo thì kỹ thuật làm gốm
bằng khuôn là kỹ thuật chủ yếu sản xuất chai gốm đáy tròn, đồng thời có cả loại
gốm giống như khuôn đúc kim loại vì sản phẩm là các loại gạch hình cọc, hình
nêm [Nguyễn
Thị Hậu 1995; Vũ Quốc Hiền, Nguyễn Văn Đoàn
1995 ; Trần Anh Dũng và cộng sự 1996].
Như đã nói ở trên, đồ gốm Gò Cây Tung đã xuất
hiện một số về chất liệu, hoa văn trang trí và loại hình của đồ gốm Óc Eo. Còn
ở các di tích khác thì yếu tố Óc Eo đã khá rõ ràng, nhất là Gò Ô Chùa và hệ thống
gốm Cần Giờ. Đó là kiểu bếp gốm (cà ràng) minh khí và gia dụng, chân đế trổ lỗ,
các kiểu núm gốm hình tháp nhọn, hình hoa, hình sao, các trụ đế ở Cần Giờ; là
bình cổ nhỏ, chạc gốm, nắp gốm có núm cầm hay vành móc, loại nồi nhỏ hay nắp
vung gốm, đèn gốm ở Giồng Nổi. Nhiều kiểu hoa văn in đập hay vạch từ que nhiều
răng thành sóng nước, nửa vòng tròn. Trong hệ thống các di tích khảo cổ học ở Cần Giờ, di tích Giồng Am và 15 di
tích khác, thuộc hai xã Long Hòa và Cần Thạnh là nhóm di tích muộn nhất, được
xếp vào văn hóa Óc Eo niên đại khoảng thế kỷ IV – V sau Công nguyên, hiện vật
đặc trưng là chai gốm văn in đập thô, gạch xây dựng loại hình cọc gốm hình trụ
tròn, trụ vuông, gạch hình nêm, hình thang, một số hũ bình. Tuy nhiên, như đã
nói ở trên, không phải đến giai đoạn Giồng Am, vùng Cần Giờ mới có những dấu
hiệu thể hiện mối quan hệ với văn hóa Óc Eo, mà từ sớm hơn, đồ tùy táng trong
các mộ chum Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt đã cho thấy phong cách của văn hóa Óc Eo,
nhất là các di vật đặc trưng của nhóm mộ chum này. Về đồ gốm, điển hình là các
kiểu cà ràng ở Giồng Cá Vồ, sau này phổ biến trong các di tích cư trú ở vùng
đồng bằng thấp trong văn hóa Óc Eo. Các loại gốm hình con tiện, các kiểu núm
gốm hoa thị, hình nấm hay hình sao cùng mang phong cách và kỹ thuật trang trí
núm cầm nắp vung gốm trong văn hóa Óc Eo. Hoa văn đồ gốm gần gũi với nhau ở các
kiểu khắc vạch chữ S gấp khúc, khuôn nhạc tạo hình sóng nước hay díc dắc ở vai
đồ đựng, kiểu văn đắp nổi có ấn lõm, kiểu văn trổ lỗ tam giác hay hình tròn ở
chân đế khay cà ràng. Đáng lưu ý là hoa văn in đập xương cá thô đặc trưng của
gốm di chỉ Giồng Cá Vồ đã tìm thấy ở nhiều di chỉ Óc Eo, Cạnh Đền trong văn hóa
Óc Eo. [Nguyễn Thị Kim Dung, Đặng Văn Thắng, Vũ Quốc
Hiền, Nguyễn Thị Hậu, Trịnh Căn 1995; Nguyễn Thị Hậu, Đặng Văn Thắng 2000].
Đồ trang sức, nhất là loại hình hạt chuỗi bằng thủy tinh,
mã não, đá quý… có thể nói hoàn toàn giống nhau giữa những sưu tập đồ trang sức
Óc Eo tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh và nhiều bảo tàng các
tỉnh Nam bộ như bảo tàng Long An, bảo tàng An Giang, với sưu tập trang sức tùy
táng trong mộ chum Cần Giờ. Đó là các chuỗi hạt đá mã não hình cầu, đá Crystal
trong suốt, đá Agate vạch đen trắng có nguồn gốc từ Ấn Độ. Tại Giồng Cá Vồ, và Giồng
Am cũng tìm thấy những dấu tích của việc chế tạo thủy tinh tại chỗ như đã tìm
thấy trong văn hóa Óc Eo. Đặc biệt, sự có mặt của trang sức bằng vàng, bọc vàng
tại Giồng Cá Vồ, trong đó có cả những miếng vàng dát mỏng hoa văn trổ lỗ tương
tự các di vật vàng vô cùng phong phú và độc đáo trong văn hóa Óc Eo vài thế kỷ
sau đó. Ngoài ra còn đồ trang sức ở Giồng Lớn cũng có cùng những tính chất này.
Như vậy, loại hình, hoa văn, kỹ thuật của đồ gốm và
đồ trang sức trong những di tích trên có thể coi là là những yếu tố quan trọng
để xác định một truyền thống văn hóa riêng biệt của giai đoạn “tiền Oc Eo”.
Những di vật gốm trong các di tích khảo cổ học giai đoạn “tiền Óc Eo” nói trên
đã cho thấy những con đường phát triển đến nền văn hóa Óc Eo vừa độc lập, vừa
đan xen với nhau [Nguyễn Thị Hậu 1995; Nguyễn Thị Kim Dung, Đặng Văn Thắng, Vũ Quốc
Hiền, Nguyễn Thị Hậu, Trịnh Căn 1995].
2.4. Văn hoá Óc Eo các tỉnh ven biển Nam Bộ
Ngay từ đầu TK 20 những cổ vật đầu tiên của văn hóa Óc Eo
đã được phát hiện trên cánh đồng Óc Eo - Ba Thê thuộc xã Vọng Thê, huyện Thoại
Sơn, tỉnh An Giang. Các phát hiện này đã làm cho nhiều học giả nổi tiếng
người Pháp như G.Coedès, L.Malleret, H.Parmentier chú ý. Tuy nhiên công cuộc
nghiên cứu văn hóa này chỉ thực sự bắt đầu bằng cuộc khai quật của L.Malleret
tại di tích Óc Eo vào năm 1944 và những năm sau đó. L.Malleret đã công bố kết
qủa khám phá và nghiên cứu của mình và công trình này được coi là thành tựu
Khảo cổ học chủ yếu về Văn hóa Óc Eo cho đến trước năm 1975 [Malleret 1963]. Nền
văn hóa này có phạm vi phân bố chủ yếu ở vùng trũng miền Tây sông Hậu gồm điạ
bàn các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Bạc Liêu, và một phần
đất Đông Nam Campuchia. Các di tích cuả nền văn hóa này có quy mô khá lớn,
trong đó có hai thị trấn Trăm Phố và Óc Eo. Riêng Óc Eo có diện tích rộng tới
450 ha, là một đô thị mang đặc điểm của một thành phố ven biển với tiền cảng Tà
Keo (Cạnh Đền) cách đấy 15km. Óc Eo là một xã hội phát triển nhiều ngành nghề
thủ công như nghề gốm, nghề luyện đồng, luyện sắt, luyện thiếc, nghề kim hoàn.
Đặc biệt nông nghiệp và thương nghiệp lúc này đã khá phát triển với một loạt
chứng cứ như những công trình thuỷ lợi cổ, kênh rạch vừa tưới tiêu vừa là đường
giao thông, sản phẩm thủ công thể hiện sự chuyên hoá, những đồng tiền bằng
vàng, bạc, thiếc còn nguyên hay cắt làm tư làm tám, các loại trang sức, con dấu
bằng đá quý, thuỷ tinh, nhiều sản phẩm có nguồn gốc ngoại nhập. Nền văn hoá này
còn để lại nhiều kiến trúc khác nhau như vết tích nhà sàn, những kiến trúc đồ
sộ bằng gạch đá lẫn lộn thể hiện trình độ cao trong kỹ thuật xây dựng. Nghệ
thuật tạc tượng điêu luyện gồm hai nhóm tượng Ấn Độ giáo và Phật giáo. Ngoài ra
còn tìm thấy chữ viết trên các con dấu, mặt nhẫn, bia đá, đó là chữ Phạn.
L.Malleret cho rằng nền văn hóa này là sản phẩm của một nhà nước cổ đại tồn tại
từ thế kỷ II đến thế kỷ VI ở Đông Nam Á, từng được sử Trung Quốc ghi chép nhiều
lần, đó là Vương quốc Phù Nam. Tính chất cảng thị thể hiện qua vị trí địa lý
của thành thị Óc Eo và các di vật có nguồn gốc từ Ấn Độ, Điạ Trung Hải, Trung
Đông, Trung Hoa làm cho văn hóa Óc Eo mang đậm yếu tố ngoại sinh, được những
nhà nghiên cứu trước đây coi là nguyên nhân chủ yếu của sự phát triển văn
hóa này [Malleret L. 1963].
Các thành quả nghiên cứu mới kể từ sau năm 1975 đã làm
cho số lượng di tích và di vật tăng gấp nhiều lần trước đây. Diện mạo văn hoá
Óc Eo ngày càng rõ nét, nhất là tính chất và truyền thống phát triển cuả nó
trong khoảng 10 thế kỷ đầu Công nguyên và trong không gian từ lưu vực sông Hậu,
sông Tiền đến lưu vực Vàm Cỏ - Đồng Nai. Cư dân văn hóa Óc Eo cư trú trên những
tiểu vùng sinh thái khác nhau nên có những đặc điểm khác nhau về lối sống, thể
hiện trên các di tích và di vật khảo cổ học. Đó là các tiểu vùng: tứ giác Long
Xuyên, Đồng Tháp Mười, ven biển Tây Nam (vùng Bạc Liêu- Cà Mau),hạ lưu sông
Tiền, Đông Nam bộ và khu vực rừng ngập mặn ven biển Đông Nam bộ. Điạ bàn sinh
tụ cuả cư dân văn hóa Óc Eo rất rộng lớn nhưng họ đã thích ứng được với mọi
hoàn cảnh, tạo lập cuộc sống ổn định và phát triển nền văn hoá đặc sắc của
mình. Các cuộc khai quật quan trọng là tại các di tích Nền Chùa (Kiên Giang),
Óc Eo (An Giang), Gò Tháp (Đồng Tháp), Đá Nổi (An Giang), Cây Gáo (Đồng Nai),
Lưu Cừ (Trà Vinh), Bình Tả- Gò Xoài (Long An), Gò Thành (Tiền Giang), Phụng Sơn
Tự-Chùa Gò (TP.HCM)…[Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn, Võ Sỹ Khải 1995; Nguyễn Lân
Cường, Nguyễn Thị Kim Thuỷ 1996; Sở Văn hoá Thông tin An Giang 1984].
Đây cũng là những Di tích Lịch sử-Văn hóa Quốc gia được
bảo tồn và tôn tạo thành những bảo tàng ngoài trời phục vụ cho nghiên cứu, học
tập và du lịch. Di tích kiến trúc trong văn hóa Óc Eo gồm di tích cư trú, kiến
trúc đền tháp và mộ táng. Vật liệu xây dựng gồm gỗ, gạch, đá: dấu tích các cọc
nhà sàn và một số cấu kiện trang trí hoa văn, phế tích hay nền móng đền tháp
thờ hoặc đền tháp-mộ táng. Gỗ và đá là nguyên vật liệu cư dân bản điạ quen dùng
từ thời tiền sử còn gạch là vật liệu mới do tiếp thu kỹ thuật cuả Ấn Độ từ đầu
Công nguyên. Vật liệu đá có kích thước rất lớn, tham gia vào các công trình
là bộ phận cuả kiến trúc chứ không chỉ là các chi tiết trang trí, được
lắp ghép bằng kỹ thuật chốt mộng. Hầu hết phế tích cho biết đây là đền tháp
theo kiểu Ấn Độ có bình đồ hình vuông, nền móng dày đến hơn 1m xây bằng gạch,
đất sét và đá sỏi để có thể chịu lực cuả công trình đồ sộ bên trên. Đặc
biệt, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã phát hiện được loại hình mộ táng mà trước
đây các học giả Pháp chưa biết đến. Đó là các huyệt mộ hình vuông, hình chữ
nhật hay hình phễu, bên trên ốp gạch hay lát đá tạo thành bề mặt khá bằng
phẳng. Trong các huyệt mộ có cát trắng lẫn nhiều hiện vật quý giá như các mảnh
vàng chạm khắc những biểu tượng của Brahman hoặc Phật giáo, các loại đồ trang
sức, đồ tuỳ táng [Nguyễn Thị Hậu 2009 a,b; Lâm Thị Mỹ Dung 2009].
Các phát hiện mới về giai đoạn “tiền Óc Eo” ở Nam bộ ngày càng làm rõ
hơn nguồn gốc bản điạ cuả văn hóa này, đồng thời cũng cho thấy yếu tố văn hóa
Ấn Độ đã xuất hiện ngay từ giai đoạn tiền sử ở đây. Vì vậy ảnh hưởng cuả văn
hoá Ấn Độ đến văn hoá Óc Eo từ đầu Công nguyên trở về sau chỉ là sự tăng cường
các ảnh hưởng đã có từ trước đó. Hàng ngàn hiện vật nguyên vẹn làm bằng các
chất liệu như vàng, bạc, đồng, thiếc, chì, thuỷ tinh, đá, gỗ, gốm và hàng trăm
ngàn mảnh hiện vật đang được bảo quản và trưng bày tại bảo tàng các tỉnh Nam bộ
là nguồn tài liệu chủ yếu giúp các nhà khoa học nghiên cứu về nhiều mặt đời
sống cư dân văn hóa Óc Eo. Nổi bật là các loại đồ trang sức, tượng thờ và đồ
gốm gia dụng. Đây cũng là sản phẩm cuả các nghề thủ công phát triển cao, đa
dạng và tinh xảo. Nhiều di chỉ -xưởng chế tạo đồ gốm, đồ trang sức được tìm
thấy ở khu di tích lớn như Óc Eo-Ba Thê, Nền Chuà, Cạnh Đền, Gò Tháp, Gò Hàng. Hiện
vật bằng vàng có nhiều kiểu dáng như nhẫn, bông tai, hạt chuỗi, các lá vàng
chạm khắc chế tác bằng nhiều kỹ thuật khác nhau mà đặc sắc nhất là kỹ thuật
khắc miết tạo ra hình và chữ trên lá vàng. Đồ trang sức bằng đá ngọc, mã não,
thạch anh, thuỷ tinh với nhiều màu sắc, nhiều kích cỡ, nhiều hình dáng, những
con dấu, mặt nhẫn khắc hình người, động vật, khắc chữ Phạn cổ và các loại tiền
vàng, bạc, hợp kim thiếc [Nguyễn Thị Hậu 2009 a,b; Lâm Thị Mỹ Dung 2009].
Tượng thờ Brahman và Phật giáo bằng đá và bằng gỗ, một số
ít bằng đồng, được tìm thấy trong nhiều di tích và rải rác trên khắp vùng Nam
bộ cả miền Tây và miền Đông. Giai đoạn phát triển rực rỡ nhất cuả nghệ thuật
điêu khắc Hindu giáo và Phật giáo ở đây là từ TK 5 đến TK7. Về loại hình không
phải chỉ có tượng và biểu tượng thần phật mà còn có nhiều hình tượng linh thú,
thần thoại trong điện thờ Ấn Độ giáo và Phật giáo. Đặc biệt trong văn hóa Óc Eo
có những pho tượng Phật bằng gỗ khá lớn và độc đáo như sưu tập tượng gỗ ở di
tích Gò Tháp. Nghệ thuật Phật giáo và Ấn Độ giáo đến đồng bằng sông Cửu Long
thông qua giao lưu trao đổi các vật phẩm chủ yếu bằng đường biển, chúng góp
phần làm giàu thêm văn hóa bản điạ và là một trong những động lực quan trọng
thúc đẩy sự hình thành, phát triển các trung tâm văn hoá lớn ở vùng đất này
trong những TK đầu Công nguyên. Đồ gốm có mặt trong hầu hết các di tích khảo cổ
và là loại hình hiện vật thể hiện truyền thống bản địa nhất. Sản phẩm gồm các
loại bình, hũ, nồi, nắp, bát, cốc, chai. Phổ biến có loại bếp lò làm bằng gốm
“cà ràng”, bếp lò, loại vật dụng quen thuộc và rất cần thiết cuả cư dân sống ở
vùng ven biển và sông rạch, trên nhà sàn hay trên ghe xuồng. Bếp lò gốm đã xuất
hiện trong các di tích cư trú và cả trong mộ tang, với chức năng là đồ
tuỳ táng từ thời tiền sử trước đó ở lưu vực sông Vàm Cỏ - Đồng Nai. Đến văn hóa
Óc Eo loại hình này đã trở thành di vật đặc trưng văn hóa nơi đây [Trịnh Căn,
Nguyễn Thị Hậu 1995]. Ngoài đồ gốm gia dụng, vật liệu xây dựng bằng đất nung
như gạch ngói, phù điêu trang trí cũng là di vật chủ yếu trong các di tích kiến
trúc đền tháp cuả văn hóa Óc Eo. Các ghi chép về quốc gia cổ Phù Nam, các tài
liệu cổ văn tự trên các tấm bia đá, mảnh vàng, các đặc điểm hiện vật, nghệ
thuật điêu khắc và nhất là kết quả các mẫu niên đại C14 của các di tích khảo cổ
cho thấy niên đại cho nền văn hóa Óc Eo có thể trải từ TK I đến TK VII; giai
đoạn “hậu Óc Eo” từ thế kỷ VIII đến khoảng thế kỷ X – XII, truyền thống văn hoá
Óc Eo vẫn được cư dân cổ nơi đây bảo lưu và có sự phát triển nhất định trong
hoàn cảnh lịch sử – xã hội có nhiều biến đổi [Nguyễn Thị Hậu 2009 a,b; Lâm Thị
Mỹ Dung 2009].
2.5. Khảo cổ
học Côn Đảo gắn liền với các đặc điểm khảo cổ học ven biển Bà Rịa – Vũng Tàu
Riêng đối với
Côn Đảo tuy cách đất liền tới 97 hải lý, nhưng khoảng 2000 đến 3000 năm cách
ngày nay đã là một khu vực cư trú quan trọng của nhóm cư dân thuộc văn hoá Sa
Huỳnh. Mặc dù đến nay trên địa bàn Bà Rịa Vũng Tàu chưa phát hiện dấu tích của
con người và di vật thời đại đá cũ đến hậu kỳ đá mới. Nhưng những phát hiện khảo
cổ học liên tục về giai đoạn sơ kỳ thời đại sắt (sắt sớm) trong những năm gần
đây, mang lại nhận thức mới thời kỳ tiền sơ sử và những giá trị văn hoá độc đáo
của thời kỳ này trên đất Bà Rịa - Vũng Tàu. Trong đó: - Nhóm di chỉ khảo cổ Gò
Cá Sỏi và các gò ven sông Thị Vải, đảo Long Sơn phân bố trên vùng ngập mặn
triền sông, cửa biển. - Nhóm di chỉ Bưng Bạc, Bưng Thơm, phân bố trên vùng đầm
lầy cận biển. - Nhóm di tích phân bố trên triền cát hải đảo Côn Đảo, được xem
là những nhóm di tích tiêu biểu, do tính chất quy mô khu di tích và những đặc
trưng độc đáo về loại hình di tích, di vật. Đây là cơ sở khoa học quan trọng
giới thiệu, trưng bày về văn hoá tiền sơ sử Bà Rịa - Vũng Tàu [Bảo tàng Bà Rịa Vũng Tàu 2006; Nguyễn Trung
Chiến 2001; Phạm Quang Minh 2005].
Những sưu tập
hiện vật quan trọng từ những di tích được khai quật đa dạng về loại hình, chất
liệu: kim loại, đồ đá, đồ gốm, đồ gỗ, dấu tích động thực vật. Trong đó đặc
trưng nổi bật là các công cụ đá, những khuôn đúc, vòng trang sức, gốm tô vẽ
màu, công cụ là đồ gỗ và di tích nhà sàn, mộ vò và đồ tuỳ táng… nhiều di vật có
giá trị về loại hình, chất liệu lần đầu tiên được tìm thấy ở khu vực. Những di
vật đó vừa mang những nét chung với truyền thống văn hoá lưu vực sông Đồng Nai,
Sa Huỳnh và quá trình giao lưu tiếp xúc văn hoá trong vùng, trong khu vực Đông
Nam Á. Gò cá Sỏi, Bưng Bạc, Bưng Thơm, Hòn Cau, Côn Đảo là những minh chứng
hiển nhiên về những “làng” cổ cư trú trên địa bàn cận biển. Từ những làng cổ
này, có thể nghiên cứu để giới thiệu về các loại hình hoạt động kinh tế sản
xuất, đời sống vật chất, tinh thần thần. Trong đó, khác với những làng nông
nghiệp thuần tuý ở các tiểu vùng văn hoá khác, Bưng Bạc - Bưng Thơm được xem là
những “làng nghề” cổ truyền thống trên cơ sở kết hợp sản xuất nông nghiệp và
hoạt động thủ công. Thông qua con đường giao lưu tiếp xúc kinh tế - văn hoá, họ
thay đổi tập quán tự cung tự cấp để tồn tại và phát triển. Những sản phẩm của
họ có thể đã được dùng làm hàng hoá trao đổi với khu vực xung quanh. Đời sống
vật chất và tinh thần của họ đã phát triển ở một trình độ nhất định. [Lê Xuân Diệm, Phạm Quang Sơn, Phạm Đức Mạnh 1996;
Nguyễn Trung Chiến 2001; Phạm Quang Minh 2005].
Hoạt động
khảo cổ học được biết đến gần một thế kỷ nay, các nhà nghiên cứu khảo cổ, địa
chất người Pháp đã có những thành tựu bước đầu nghiên cứu tiền sơ sử Bà Rịa –
Vũng Tàu và miền Đông Nam Bộ. từ sau 1975, hoạt động nghiên cứu khảo cổ tiến hành
trên quy mô lớn, nhịp điệu mạnh hơn và đạt được những thành tựu quan trọng,
bước đầu làm rõ được một số giai đoạn trong thời tiền sơ sử. Vào hậu kỳ đồng,
sơ kỳ sắt,. cách nay khoảng 3000 năm, tại Bà Rịa – Vũng Tàu đã xuất hiện những
lớp cư dân mới từ vùng cao, theo dòng sông Đồng Nai về hạ lưu, Họ đã khởi dựng
những làng trên các gò đất cao ven sông Thị Vải, Những làng nông nghiệp trù phú
trên vùng đồng bằng ven biển ở Bưng Bạc, Bưng Thơm và cả ở Côn Đảo xa khơi. Đất
Bà Rịa – Vũng Tàu từ thiên nhiên hoang sơ, nguyên thủy đã dần dần trở thành địa
bàn kinh tế dân cư trù phú, góp phần tạo dựng một truyền thống văn hoá lưu vực
sông Đồng Nai phát triển trong sơ kỳ thời đại sắt. nhiều di vật khảo cổ học tìm
thất ở Bà Rịa – Vũng Tàu đã khẳng định đỉnh cao của tiến trình phát triển văn
hoá, kỹ thuật vào khoảng thời gian giữa thiên niên kỷ thứ I trước công nguyên. Từ
một vùng đất tưởng chừng qúa hiếm di tích khảo cổ. Những phát hiện liên tục bởi
các cuộc điều tra, khảo sát, khai quật khảo cổ trong những năm gần đây, mang
lại nhận thức mới về nghiên cứu thời tiền sơ sử trên đất Bà Rịa – Vũng Tàu.
trong đó: Nhóm di tích khảo cổ Bưng Bạc, Bưng Thơm; Nhóm di tích Gò Cá Sỏi và
các gò ven sông Thị Vải, Long Sơn; Nhóm các di tích Côn Đảo được xem là những
nhóm di tích tiêu biểu, do tính chất quy mô khu di tích và những đặc trưng độc
đáo về loại hình di tích, di vật. Do vậy việc trưng bày ở chủ đề này sẽ tập
trung giới thiệu những đặc trưng cơ bản về những làng cổ sơ khai với những di
vật và tài liệu diễn tả sinh hoạt kinh tế, đời sống vật chất, tinh thần của các
cộng đồng cư dân cổ [Bùi Chí Hoàng 1991Nguyễn Trung Chiến 2001; Phạm Quang Minh
2005; Trần Quốc Vượng 1998].
Hai làng di
tích khảo cổ học Bưng Bạc, Bưng Thơm nằm kề gần nhau về cơ bản đều có những đặc
trưng di tích, di vật giống nhau, có thể sắp xếp chung cùng trong một loại hình
di tích và văn hoá. Chúng được biết đến như một loại hình di tích tiêu biểu,
phân bố trên vùng đầm lầy cận biển của vùng Đông Nam Bộ thuộc giai đoạn sơ kỳ
thời đại sắt. Với diện tích khai quật, đào thám sát 907m2, có thể nói Bưng Bạc,
Bưng Thơm là những di tích được nghiên cứu trên quy mô lớn nhất ở Bà Rịa –Vũng Tàu
và Đông Nam Bộ cho đến nay. Những sưu tập hiện vật quan trọng gồm nhiều chất
liệu: Kim loại, Đồ đá, Đồ gốm, Đồ gỗ…Trong đó đặc trưng nổi bật là những khuôn
đúc vòng trang sức, gốm tô, vẽ màu.. vừa mang nét chung với truyền thống văn hoá
lưu vực sông Đồng Nai và quá trình giao lưu tiếp xúc văn hoá trong vùng. Sự
phân bố rộng của dấu tích nhà sàn và di vật cho thấy tính chất quy mô, phạm vi
cư trú của những làng cổ thời tiền sơ sử ở vùng cận biển Đông Nam Bộ. Đặc điểm
cư trú: Làng bố trí khá rộng, ở nhà sàn trên đầm lầy di chuyển bằng thuyền (độc
mộc). Đời sống kinh tế: sản xuất nông nghiệp: Biết trồng lúa, kết hợp khai thác
tự nhiên hái lượm, săn bắt. Sản xuất thủ công: Là “xưởng” chế tác khuôn đúc,
vòng tay đá, biết đúc đồng, chế tác đồ gốm mà tiêu biểu là kiểu gốm bát bồng,
đồ có chân đế cao, nghề mộc ở trình độ phát triển nhất định. Quan hệ: Có những nét
tương đồng với cư dân Dốc Chùa về kỹ thuật đúc đồng, tương đồng cư dân Cái Vạn,
Cái Lăng về cách sống trên nhà sàn. Kỹ thuật vẽ màu trên gốm, sản xuất bát bồng
là chính, sản xuất vòng tay đá, việc có quặng nguyên liệu để đúc đồng chứng tỏ người
Bưng Bạc, Bưng Thơm biết giao lưu, trao đổi rất sớm có thể tận Thái Lan, Cămpuchia.
Niên đại: 2500 đến 2700 năm cách ngày nay [Bùi Chí Hoàng 1991; Đặng Văn Thắng
1998; Phạm Đức Mạnh 1996; Nguyễn Trung Chiến 2001; Phạm Quang Minh 2005].
Cư dân Gò Cá
Sỏi, là những nhóm người đầu tiên khai phá vùng đất ngập mặn ven biển ở Bà Rịa-
Vũng Tàu. Nguời Gò Cá Sỏi sinh sống trên gò cao trong sinh thái rừng ngập mặn
giống với nhóm di tích Cần Giờ (thành phố Hồ Chí Minh). Do nằm trên một bình
địa thấp, địa bàn cư trú của cư dân Gò Cá Sỏi vẫn bị ảnh hưởng của chế độ thủy
triều. Họ sinh sống chủ yếu bằng phương thức kinh tế khai thác sản vật từ biển.
Cùng khối lượng lớn vỏ nhuyễn thể sò, ốc biển tìm thấy trong di tích đã minh
chứng điều đó. Đặc điểm cư trú: Vùng gò nổi ven sông Thị Vải, nơi chịu tác động
của chế độ thủy triều. Đời sống kinh tế: Kinh tế khai thác tự nhiên là chính:
săn bắt, khai thác sản vật biển, đánh cá, tàn tích các vỏ ốc, sò điệp dày đặc
bên cạnh bếp lửa cùng những công cụ chày đập đơn giản chứng tỏ điều đó. Sản
xuất thủ công: Biết chế tác đồ gốm, nhưng còn ở trình độ thấp, gốm chỉ nặn bằng
tay, chưa biết kỹ thuật bàn xoay, hoa văn đơn giản, chủ yếu là khắc vạch. Đồ đá
là công cụ chủ yếu, sử dụng: Ghè đập, chày, bàn nghiền. Niên đại: Khoảng 3000
năm cách ngày nay. [Bùi Chí Hoàng 1991; Đặng Văn Thắng 1998; Hoàng Xuân Chinh
1984].
Táng thức là
những tư liệu quan trọng để nghiên cứu đời sống tinh thần của người xưa. Ngoài
khu mộ vò tại Côn Đảo. Di chỉ Giồng Lớn, xã Long Sơn (được đánh giá như loại
hình Giồng Phệt, Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh). Cuộc khai quật Giồng Lớn, xã
Long Sơn vào tháng 4 năm 2003 và tháng 6 năm 2005 cho thấy trên một địa điểm
khu mộ táng, có cả mộ nồi, mộ đất cùng nhiều di vật được chôn theo. Trong giai
đoạn này, việc chôn người chết bằng vò, chum lớn khá phổ biến ở những địa bàn
ảnh hưởng văn hoá Sa Huỳnh gần kề, thì tại Bà Rịa -Vũng Tàu chưa phát hiện loại
hình mộ chum. Những di vật chôn theo khá phong phú, đa dạng, cho thấy đời sống
vật chất tinh thần của cư dân Long Sơn bấy giờ đã đạt một trình độ phát triển
khá cao, nhờ sự phát triển tự thân, nội tại và giao lưu tiếp xúc kinh tế văn
hoá trong khu vực… Có thể khẳng định tính chất của di tích Giồng Lớn là một khu
mộ táng, bao gồm hai loại hình: mộ nồi và mộ đất, trong đó mộ đất chiếm ưu thế.
Quy mô khu mộ táng được định vị trên sườn phía Nam của Giồng Lớn, diện tích
trong khoảng 1000m2 (chiều dài khoảng 50m, chiều rộng khoảng 20m). Vấn đề chủ
nhân khu mộ táng Giồng Lớn: chủ nhân của khu mộ rất có thể chính là chủ nhân
của các di tích Giồng Ông Trượng, Bãi Cá Xỉu, Bãi Cá Sóng trên đảo Long Sơn. Với
2.310 hiện vật thu được trong các đợt khai quật (lần 1: 672 hiện vật, lần 2:
1.638 hiện vật) di tích Giồng Lớn đã có một sưu tập lớn rất phong phú về chất liệu
và loại hình. Đây là một sưu tập quý giá có giá trị nhiều mặt trong nghiên cứu
và trưng bày. Đồ trang sức ở Giồng Lớn được làm từ nhiều chất liệu khác nhau
như: thuỷ tinh, đá quý và vàng... có được chắc chắn thông qua con đường giao
thương buôn bán. Về văn hóa, qua di tích và di vật có thể xếp di tích Giồng Lớn
thuộc văn hoá Óc Eo. Về niên đại, đồng tiền Ngũ Thù thời Tây Hán (206 TCN đến
năm 25 SCN) cho phép khẳng định niên đại của di tích này vào khoảng trên dưới
2.000 năm cách ngày nay. [Hoàng Xuân Chinh 1984; Lê Xuân Diệm, Phạm Quang Sơn,
Phạm Đức Mạnh 1996; Trần Quốc Vượng 1998].
Làng cổ Hòn Cau, là đảo có nguồn
nước ngọt, thung lũng hẹp nhưng có điều kiện sản xuất trồng trọt. Làng cổ Hòn
Cau có mối liên hệ với các làng cổ trên đảo Côn Đảo, thuộc văn hoá Sa Huỳnh.
Kinh tế khai thác tự nhiên là chính, gồm có săn bắt, khai thác sản vật biển,
đánh cá bằng lưới, chì lưới được làm bằng đá, san hô đục lỗ để buộc dây lưới;
tàn tích vỏ ốc núi, xương vích dày đặc bên cạnh bếp lửa cùng những công cụ chày
đập đơn giản chứng tỏ điều đó. Sản xuất thủ công đã biết chế tác đồ gốm, trang
trí nhiều kiểu hoa văn khắc vạch, chạm, nhiều gốm tô thổ hoàng. Đồ đá là công
cụ chủ yếu, nhiều công cụ ghè đẽo thô sơ cùng tồn tại với những công cụ mài tinh
xảo. Đặc biệt nhiều công cụ, vũ khí được làm từ xương vích. Niên đại khoảng
2500 năm cách ngày nay. [Nguyễn Trung Chiến 2001; Phạm Quang Minh 2005]. Làng cổ Côn Đảo và khu mộ vò cồn Hải Đăng, Miếu
Bà, nằm trên quần đảo cách xa đất liền, những di vật đa dạng, phong phú,
mức độ dày đặc các di tích khảo cổ học tại đây cho thấy vào sơ kỳ thời đại kim
khí, con người đã khai phá, lập nên những làng nông nghiệp trù phú. Các làng cổ
Côn Đảo phân bố trên những cồn cát quanh hồ nước ngọt (hồ Sen) ở vùng trung tâm
đảo. Đến nay tuy chưa khai quật một di chỉ cư trú nhưng đã phát hiện nhiều dấu
tích, di vật đồ đá, gốm cổ thuộc thời đại kim khí. Các di tích tiền sơ sử Côn
Đảo ảnh hưởng văn hoá Sa Huỳnh. Khu mộ vò cồn Hải Đăng, Miếu Bà có quy mô khá rộng
và mật độ dày đặc. Hiện vật chôn theo bên trong hoặc bên ngoài vò là những công
cụ lao động, đồ dùng sinh hoạt của họ như: Nồi, bình, bát, đồ trang sức.. mộ
vò, mộ chum là một táng thức độc đáo của văn hoá Sa Huỳnh. Những phát hiện khảo
cổ học ở đây đã giúp phục dựng, cung cấp thông tin về những giá trị lịch sử, văn
hoá thời kỳ này, góp phần làm rõ các đặc trưng, đặc thù của Bà Rịa – Vũng Tàu
thời kỳ tiền sơ sử. [Nguyễn Trung Chiến 2001; Phạm Quang Minh 2005].
__________________________________________
(Còn nữa…)
*
Ghi chú: Chuyên
đề thuộc đề tài KC.09-13/06-10 “Lập luận chứng khoa học kỹ thuật về mô hình
quản lý tổng hợp và phát triển bền vững dải ven bờ biển Nam Bộ” của Viện Tài
nguyên và Môi trường biển, Bộ Khoa học và Công nghệ, Hà Nội 2010.
Tài liệu tham
khảo
Bảo tàng Bà Rịa Vũng Tàu 2006. Đề cương Trưng bày Nhà Bảo tàng Bà Rịa - Vũng Tàu. Vũng Tàu, 2006.
Cao Tự Thanh (Chủ biên) 2007. Lịch sử Sài Gòn – Gia Định trước 1802.
Nxb. Văn hoá Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.13-15.
Chu Đạt Quan 2006. Chân Lạp phong thổ ký. Nxb. Thế
giới, Hà Nội, tr.45.
Đặng Văn Thắng
và những người khác 1998.
Khảo
cổ học tiền sử và sơ sử TP.HCM. Nxb. Trẻ, 1998.
Đặng Văn Thắng, Nguyễn Thị Hậu, 2006. Khai quật di tích Khu Bao Đồng (Cần Giờ -
TPHCM). Tạp chí KCH số 5/2006, tr. 38 – 49.
Đặng Văn Thắng, Vũ Quốc Hiền 1995. Khai quật Giồng Cá Vồ, Khảo cổ học, số
2, tr.3-19.
Fontaine, Hoàng Thị Thân 1975. Nouvelles notes
sur le champ de jarres funèraires de Phu Hoa avec une remarque rur la crémation
au Vietnam, BSEL, T.I.No.1, Sai Gon.pp.7-50.
Hà Văn Tấn 1979. Khuyên tai hai đầu thú ở Đông Nam Á
và những nơi khác. Trong Những phát
hiện mới về khảo cổ học năm 1978, tr. 196-198.
Hà Văn Tấn 1983. Suy
nghĩ về Sa Huỳnh và từ Sa Huỳnh. Trong Thông
báo Khảo cổ học, Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, số 1, tr.45-50.
Hall D.G.E. 1968. Đông Nam Á sử lược. Bản dịch của Nguyễn Phút Tấn, Nhà sách Khai
trí, Sài Gòn.
Harrison B. 1966. South-East Asia – A short History, Third Edition. MacMillian and
Company Limited, Great Britain.
Hiệp hội du lịch TP HCM 1995. Kiến thức phục vụ thuyết
minh du lịch. Giáo trình do
Hiệp hội du lịch Thành phố Hồ Chí Minh biên soạn, Nxb Tp. HCM, Thành phố Hồ Chí
Minh.
Hoàng Xuân Chinh 1984. Đông Nam Bộ - một trung tâm văn hoá thời đại kim khí. Trong: Văn hoá Óc Eo và các văn hoá cổ đồng bằng
sông Cửu Long. Long Xuyên; tr.93-98.
Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam 2008. Lược sử vùng đất
Nam Bộ (in lần thứ 2) do GS TSKH Vũ Minh Giang chủ biên. Sách của Hội Khoa
học Lịch sử Việt Nam tổ chức biên soạn, Nxb. Thế Giới ấn hành, Hà Nội, 2008.
Lâm Thị Mỹ Dung 2009. Khảo cổ học Óc
Eo. http://dzunglam.blogspot.com/.
Lâm
Thị Mỹ Dung và Nguyễn Đức Minh 1997. Những
di tích mộ chum Sa Huỳnh và di tích Chăm cổ ở Hội An. Khảo cổ học, số 3,
tr.66-74.
Lê
thị Liên 2003. Nghệ thuật Phật giáo và Hindu giáo ở đồng bằng sông Cưủ Long trước TK10.
Luận án TS Lịch sử, Viện Khảo cổ học,
Hà Nội.
Lê Xuân Diệm, Phạm Quang Sơn, Bùi Chí Hoàng 1991. Khảo cổ Đồng Nai thời tiền sử. Nxb Đồng
Nai, 1991
Lê Xuân Diệm - Đào Linh Côn - Võ Sĩ Khải 1995. Văn hoá Óc Eo những khám phá mới. NXB Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
Lương Ninh (chủ biên) 2000. Lịch sử Việt Nam giản yếu. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Lương Ninh, 2001. Xóm
Cồn – Hòa Diêm – Sa Hùynh. Tạp chí Khảo cổ học số 2/ 2001. Tr 72 – 80.
Lý Tùng Hiếu 2009. Vùng văn hoá Nam Bộ:
Định vị và đặc trưng văn hoá, www.vanhoahoc.edu.vn, 15/5/2009.
Mã Đoan Lâm, Văn hiến thông khảo, Quyển 332, Tứ
duệ khảo, tờ 9. (Tư liệu khoa Sử, Đại học Quốc gia Hà Nội, H. 875.
Malleret L. 1963.
L’archéologie du delta du Mekong, BEFEO, Tome XLIII, 1959-1963. Paris.
Ngô Thế
Phong, Bùi Phát Diệm 2001. Khai
quật di chỉ Gò Ô Chùa (Long An). Thông báo khoa học BTLSVN
2001, tr. 1-38.
Ngô thư, Ngô chủ
truyện (quyển 47, tờ 31). Dẫn lại theo Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam,
tr. 14.
Ngô Văn Doanh 1999. Từ điển Văn hóa Đông Nam Á phổ
thông. Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
Ngô Văn Doanh 2002. Văn hóa Chăm Pa, Nxb. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
Ngô Văn Doanh 2009. Vương
quốc Phù Nam (khái quát những giai đoạn lịch sử), Trong Nghiên cứu Đông Nam Á, số tháng 3, trang
13-20.
Nguyễn Công Bằng, 2005. Di tích Hòa Diêm - Khánh Hòa nhìn từ văn hóa Đồng Nai. Tạp chí Khảo
cổ học số 4/2005. Tr 48 – 54.
Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm,
Mạc Đường 1990. Văn hoá và cư dân đồng
bằng sông Cửu Long. Nxb. KHXH, Hà Nội.
Nguyễn Kim Dung và những người khác 1995. Đồ trang sức trong các mộ chum ở Cần Giờ
(thành phố Hồ Chí Minh), Khảo cố học, số 2, tr.27-46.
Nguyễn Lân Cường, 1995. Nghiên cứu các di cốt người cổ tại Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt (Cần Giờ -
TPHCM). Tạp chí KCH số 2/1995.
Nguyễn Lân Cường, Nguyễn Thị Kim Thuỷ 1996. Tư liệu mới về những sọ cổ Óc Eo. Khảo
cổ học, số 1, tr.3-9.
Nguyễn Mạnh
Cường 1996. Trở lại vấn đề Tiền Óc Eo.
Những phát hiện mới về khảo cổ học (NPHMVKCH), 1996, tr. 640-641.
Nguyễn Thị Hậu
1995. Mộ chum Giồng Cá Vồ.
Khảo cổ học, số 2, tr.47-50.
Nguyễn Thị Hậu, 1997.
Khuyên tai hai đầu thú trong các di tích
mộ chum Cần Giờ (TPHCM) . Tạp chí VHNT số 8/1997 trang 23 - 26.
Nguyễn Thị Hậu
2000. Gốm Cần Giờ.
NPHMVKCH, 2000, tr. 285-287.
Nguyễn Thị Hậu 2004. Hệ
thống di tích khảo cổ học vùng sinh thái ngập mặn ở Cần Giờ, thành phố Hồ
Chí Minh. Trong Một thế kỷ Khảo cổ học
Việt Nam, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Khảo cổ học, Nxb. KHXH, Tập
I, Hà Nội. Tr. 874-893.
Nguyễn Thị Hậu, 2006. Di
tích KCH ở Cần Giờ - TPHCM, những tư liệu mới. NPHVKCH 2006.
Nguyễn Thị Hậu 2009a. Văn
hoá Óc Eo, một nền văn hoá cổ ở Nam Bộ.
http://www.vanchuongviet.org/vietnamese/tulieu_tacpham.asp?TPID=10694&LOAIID=18&TGID=1046.
Nguyễn Thị Hậu 2009b. Văn
hoá Sa Huỳnh nhìn từ văn hoá Đồng Nai.
http://www.vanchuongviet.org/vietnamese/tulieu_tacpham.asp?TPID=10694&LOAIID=18&TGID=1046.
Nguyễn Thị Hậu, Đặng Văn Thắng 2000. Văn hoá Giồng Phệt và văn hoá Sa Huỳnh.
Thông báo Khoa học Bảo tàng Lịch sử Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh, số 2,
tr.102-108.
Nguyễn Thị Hậu, Đặng Văn Thắng, 2004. Về những yếu tố
Sa Hùynh trong văn hóa Giồng Phệt. Trong Văn hóa Sa Hùynh ở Hội An – Kỷ yếu HTKH, Hội An 2004. Tr.262 – 281.
Nguyễn Thị Kim Dung 2007. Di chỉ Giồng Nổi (Bến Tre) trong nền cảnh khảo cổ học tiền – sơ sử vùng
Nam bộ Việt Nam. Tạp chí Khảo cổ học số 2/2007, tr.86.
Nguyễn Thị Kim Dung, Đặng Văn Thắng 1996. Về những bằng chứng của nghề chế tạo thuỷ tinh địa phương ở Cần Giờ,
trong NPHMVKCH năm 1995, tr.242.
Nguyễn Thị Kim Dung, Đặng Văn Thắng, Vũ Quốc Hiền, Nguyễn Thị Hậu,
Trịnh Căn 1995. Đồ trang sức trong mộ
chum ở Cần Giờ. Khảo cố học, số 2, tr.27-45.
Nguyễn Trung Chiến 2001. Khảo cổ học trên các vùng biển Việt Nam. Tư liệu Viện Khảo cổ học,
2001.
Pelliot P. 1903. Le Fou Nan, Hanoi, 1903.
Phạm Việt Trung, Nguyễn Xuân Kỳ, Đỗ Văn Nhung 1982. Lịch Sử Campuchia. Nxb
Đại Học & THCN, Hà Nội.
Phạm Đức Mạnh 1985. Qua
đồng Long Giao (Đồng Nai). Khảo cổ học, số 1, tr.37-68.
Phạm Đức Mạnh 1996. Di
tích khảo cổ học Bưng Bạc, Bà Rịa – Vũng Tàu. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Phạm Đức Mạnh, Bùi Chí Hoàng 1984. Cụm di tích mộ vò miền đông Nam bộ. Văn hóa Óc Eo và các văn hóa cổ
ĐBSCL, Long Xuyên 1984, trang 128- 131.
Phạm Đức Mạnh – Thuý Nga 1995. Phát hiện những đồ đồng ở Long Giao (Xuân Lộc). Tạp chí Thông tin
Đồng Nai, số 1,12.
Phạm Quang Minh 2005. Diện
mạo thời Tiền Sơ sử Bà Rịa Vũng Tàu qua di chỉ Bưng Thơm. Thông tin Khoa
học Công nghệ Bà Rịa – Vũng Tàu. Số 4-2005
Phạm Quang Sơn 1978. Bước
đầu tìm hiểu sự phát triển văn hoá hậu kỳ đá mới – sơ kỳ đồng ở lưu vực sông
Đồng Nai. Khảo cổ học, số 1. Tr.35-40.
Sở
Văn hóa Thông tin An Giang 1984. Văn hóa Óc Eo và các văn hóa cổ ở đồng bằng
sông Cửu Long. Long Xuyên,
An Giang 1984.
Tân Đường thư, (bản chữ Hán). Tư liệu khoa sử, Đại học
Quốc Hà Nội, H.1948.
Tùy thư, Quyển 82, Liệt truyện 47, tờ 5. Tư liệu khoa sử,
Đại học Quốc Hà Nội, H. 1949.
Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh Lứa,
Nguyễn Quang Vinh 1992. Văn hoá dân gian
người Việt ở Nam Bộ. Nxb. KHXH, Hà Nội.
Thái Văn Chải – Tỳ kheo Thiện Minh 2009. Nghiên cứu chữ viết cổ trên bia ký ở Đông
Dương. Viện Khoa học Xã hội, Viện Phát triển Bền vững vùng Nam Bộ, Nxb.
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Tống Trung
Tín, Bùi Minh Trí, Nguyễn Minh Sang 1994. Khai quật di tích Gò Cây Tung (An Giang) lần
thứ nhất. NPHMVKCH,
1994, tr. 419-422.
Tống Trung
Tín, Bùi Minh Trí, Nguyễn Minh Sang 1995. Khai quật di tích Gò Cây Tung (An Giang) lần
thứ hai. NPHMVKCH,
1995tr. 233-234.
Tổng cục Thống kê 2009. Báo cáo kết quả sơ bộ Tổng điều tra dân số
và nhà ở 01/4/2009. Trình bày tại Hội
nghị công bố Kết quả sơ bộ Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009. Hà Nội.
Trần Anh
Dũng, Bùi Văn Liêm, Nguyễn Đăng Cường, Vương Thu Hồng 1995. Khai quật di chỉ Gò Cao Su (Long An).
NPHMVKCH, 1995, tr. 220-222.
Trần Anh Dũng và cộng sự 1996. Khai quật di chỉ khảo cổ học Gò Cao Su (Long
An). Trong NPHMVKCH năm 1995, Hà Nội, tr. 220-222.
Trần Ngọc Thêm 2001. Bản sắc văn hóa Việt Nam trước ngưỡng cửa
thiên niên kỷ mới. Trong tuyển tập Văn
hóa Việt Nam - đặc trưng và cách tiếp cận (Lê Ngọc Trà chủ biên), Nxb. Giáo
dục, tr. 292-301.
Trần Quốc V ượng 1998. Việt Nam cái nhìn địa - văn hoá. Nxb Văn hoá Dân tộc, Tạp chí Văn
hoá Nghệ thuật, 1998.
Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (Chủ biên) 1998. Địa chí văn hóa Thành
phố Hồ Chí Minh, Tập 1: Lịch sử, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, Thành
phố Hồ Chí Minh.
Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng
1998. Địa chí văn hoá Thành phố Hồ Chí
Minh, Tập IV: Tư tưởng và tín ngưỡng.
– Nxb.Tp. Hồ Chí Minh.
Trịnh Căn, Nguyễn Thị Hậu 1995. Trở lại với cà ràng, trong NPHMVKCH năm 1994, tr. 182.
Trịnh Hoài Đức 1998: Gia Định thành thông chí (1820). Nxb.
Giáo dục (phối hợp với Viện Sử học), Hà Nội.
Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh 2011. Giới thiệu lịch sử văn hoá ,
kinh tế - xã hội Thành phố Hồ Chí Minh. http://hochiminhcity.gov.vn/default.aspx.
Viện Văn hóa 1993. Văn hóa người Khmer ở Đồng bằng
sông Cửu Long. Nxb. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
Võ Sĩ Khải 1987. Địa chí văn hóa TP. Hồ
Chí Minh, tập I, phần 2. Nxb TP. Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí
Minh.
Võ Sĩ Khải 2003. Văn hoá đồng bằng Nam bộ (di tích kiến trúc
cổ). Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Vũ Công Quý, 1995. Văn
hóa Sa Huỳnh trong thời đại kim khí Việt Nam. Văn hóa Sa Huỳnh ở Hội An –
Kỷ yếu HTKH, Hội An 2004. Tr 283 – 296.
Vũ Quốc Hiền, Nguyễn Thị Hậu 1995. Di tích mộ táng ở Giồng Phệt và Giồng Cá Vồ, trong NPHMVKCH năm 1994. Hà Nội, tr. 149.
Vũ Quốc Hiền, Nguyễn Văn Đoàn 1995. Về hiện vật lạ trong di chỉ Giồng Cá Vồ,
trong NPHMVKCH năm 1994, tr.152.