Powered By Blogger

Thứ Ba, 10 tháng 6, 2014

Vùng kinh tế và các khái niệm liên quan



Vùng kinh tế và các khái niệm liên quan

Hà Hữu Nga

1. Khái niệm vùng kinh tế

Khái niệm vùng kinh tế hiện đại có một lịch sử phát triển hàng thập kỷ, với rất nhiều thay đổi, tuỳ từng điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia. Liên Xô và hầu hết các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây vẫn coi định nghĩa vùng kinh tế của Alaev là một định nghĩa mang tính kinh điển: “Vùng kinh tế là một bộ phận lãnh thổ nguyên vẹn của nền kinh tế quốc dân, có những dấu hiệu sau: chuyên môn hoá những chức năng kinh tế quốc dân cơ bản; tính tổng hợp: được hiểu theo nghĩa rộng như là mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận cấu thành quan trọng nhất trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu lãnh thổ của vùng..., coi vùng như là hệ thống toàn vẹn, một đơn vị có tổ chức trong bộ máy quản lý lãnh thổ nền kinh tế quốc dân” [Dẫn theo: Nguyễn Xuân Thu, Nguyễn Văn Phú (Đồng chủ biên) 2006: 20]. Kể từ khi Liên Xô tan vỡ, quan niệm về vùng kinh tế và cấu trúc vùng kinh tế của nước Nga đã có rất nhiều thay đổi. Hiện nay người Nga chia đất nước thành 12 vùng kinh tế và đó cũng chính là các nhóm đơn vị hành chính, có chung các đặc trưng sau: i) có các mục đích kinh tế và xã hội chung và đều tham gia vào các chương trình phát triển; ii) có các điều kiện và tiềm năng kinh tế tương đối giống nhau; iii) có các điều kiện địa chất, sinh thái và khí hậu tương đồng; iv) tương đồng về các phương pháp thanh tra kỹ thuật xây dựng mới; v) có các phương pháp giám sát hải quan tương đồng; vi) tương đồng tổng thể về các điều kiện sống của dân cư. Không có bất cứ một chủ thể nào của Liên bang có thể vừa thuộc về vùng kinh tế này lại vừa thuộc về một vùng kinh tế khác. Các vùng kinh tế còn được chia thành các khu kinh tế (còn gọi là các vùng vĩ mô “macrozones”). Một vùng kinh tế hoặc các bộ phận của nó có thể thuộc về các vùng vĩ mô khác nhau. Việc thành lập mới hoặc huỷ bỏ các vùng, các vùng vĩ mô, hoặc bất cứ thay đổi nào về cấu trúc của chúng cũng đều do chính phủ Liên bang quyết định [Russian Government 1997]. 

Các nước Đông Âu mới cũng đã không ngừng cải cách cấu trúc kinh tế của mình, trong đó có việc tái cấu trúc các vùng kinh tế thích hợp với những đòi hỏi của quá trình hội nhập quốc tế, đặc biệt là hội nhập với các nước thuộc Liên minh Châu Âu, trong đó Ba Lan có thể được coi là một trường hợp điển hình cho một cách tiếp cận mới đối với khái niệm vùng kinh tế. Theo họ “Một vùng kinh tế là một lĩnh vực xã hội tổng thể được tạo bởi các công ty, các thể chế cũng như­ các bản sắc và các tác nhân trong vùng. Trong một khuôn khổ  chung nhất, các lĩnh vực nh­ư vậy đ­ược tạo bởi: i) các tổ chức tìm cách cấu trúc các môi trư­ờng của chúng; ii) các đạo luật và các thể chế đã có từ trước, vận hành để vừa hạn chế vừa tạo điều kiện cho các tác nhân trong vùng; và iii) các tác nhân chiến l­ược có kỹ năng điêu luyện làm việc trong các tổ chức, giúp duy trì sự hợp tác giữa các nhóm và các lợi ích khác nhau” [Fligstein and Stone Sweet 2002: 1211)]. Các năng lực vùng đ­ược gắn chặt với năng lực tổ chức của các công ty, cấu trúc công nghiệp, các mô hình chuyên môn hóa, và trong cấu trúc thể chế của nó. “Đặc trưng này gắn liền với các khái niệm thuộc các hệ thống đổi mới vùng định danh mục tiêu, và các cụm vùng. Về cơ bản hệ thống đổi mới vùng bao gồm hai loại tác nhân chính và các tư­ơng tác giữa các tác nhân đó. Những tác nhân đầu tiên là các công ty trong cụm công nghiệp chủ yếu trong một vùng, bao gồm cả các ngành công nghiệp hỗ trợ của chúng. Tiếp đó, cần phải có một hạ tầng thể chế, tức là các viện nghiên cứu, các cơ sở giáo dục cấp cao, các cơ sở chuyển giao công nghệ, các tổ chức đào tạo nghề, các hội kinh doanh, các thể chế tài chính, v.v... có đủ năng lực để hỗ trợ cho quá trình đổi mới vùng” [Asheim and Isaksen 2002: 83].

Ng­ược lại với khái niệm cụm đ­ược định nghiã là “các công ty gần gũi về phương diện địa lý theo mối quan hệ dọc hoặc quan hệ ngang liên quan đến một hạ tầng cơ sở hỗ trợ công ty đ­ược địa phư­ơng hóa có một tầm nhìn phát triển chung cho tăng trư­ởng kinh doanh dựa trên cạnh tranh và hợp tác trong một khu vực thị trư­ờng cụ thể” (Cooke 2002: 121) – tầm quan trọng t­ương đối của các cấu trúc thể chế hỗ trợ là rất cao. Các cấu trúc đó chính là “ký ức” của vùng, là kết quả của những kinh nghiệm hợp tác và xung đột trong vùng. Các cấu trúc thể chế này đ­ược Salais và Storper [1997] mô tả là các trật tự vùng, chẳng hạn nh­ư các truyền thống, các mong muốn cố kết lẫn nhau, các thói quen, và các cách thức hành động trong vùng. Các thể chế, hoặc các cấu trúc hành chính, các truyền thống, các thói quen đó đư­ợc tạo ra và đư­ợc tái tạo theo cách cởi mở, nh­ưng lại phụ thuộc vào những cách thực hiện bởi: i) các chiến lư­ợc tối thiểu hóa chi phí giao dịch của công ty; ii) các nhà chức trách vùng (đặc biệt là nhà n­ước liên bang) và; iii) các tác nhân phi chính phủ (chẳng hạn nh­ư các công đoàn, các hội kinh doanh, hội nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ (NGOs) hoặc đôi khi là các tác tố cá nhân). Các cấu trúc hành chính đóng vai trò quyết định cho tiềm năng đổi mới của các vùng và các công ty trong vùng, vì chúng liên quan đến các mô hình tổ chức họat động, quản lý và đổi mới, luôn tạo ra các mô thức liên tổ chức hợp tác, cạnh tranh, và còn vì chúng điều chỉnh các mối quan hệ giữa các doanh nghiệp, khoa học, công nghệ, giáo dục và chính trị [Cooke 1998].

Khác với các định nghĩa tương đối phức tạp trên, người Canada lại quan niệm rất đơn giản: “Một vùng kinh tế là một cách nhóm các đơn vị dân cư nguyên vẹn để tạo thành một đơn vị địa lý chuẩn phục vụ cho việc phân tích các hoạt động kinh tế vùng”. Trong tỉnh Quebec, các vùng kinh tế còn được gọi là các vùng hành chính (régions administratives) và việc phân vùng được tuân thủ theo pháp luật. Trong tất cả các tỉnh và các vùng lãnh thổ khác, các vùng kinh tế được tạo bởi sự thoả thuận giữa Cục thống kê Canada và tỉnh/lãnh thổ liên quan. Đảo Prince Edward Island và ba vùng lãnh thổ khác mỗi vùng đều được coi là một vùng kinh tế. Riêng Ontario có một ngoại lệ vì ở đó ranh giới vùng kinh tế không tuân thủ theo các ranh giới đơn vị dân cư: đơn vị dân cư Halton bị chia tách bởi vùng kinh tế Hamilton – Bán đảo Niagara và vùng kinh tế Toronto.

Còn đối với người Mỹ thì quan niệm về vùng kinh tế đã có những thay đổi đáng kể. Từ giữa thế kỷ 19, Văn phòng Dân số đã tập hợp dữ liệu các bang thành các vùng gốm nhiều bang. Gần đây Văn phòng này đã chia 50 bang thành 4 vùng kinh tế và bốn vùng đó lại được chia thành 9 phân vùng. Không kể việc bổ sung Alaska và Hawaii vào phân vùng Thái Bình Dương vào những năm 1950 thì việc chia thành 9 phân vùng vẫn không thay đổi kể từ năm 1910. Tuy nhiên, sau cuộc tổng điều tra dân số năm 1950, một Uỷ ban Liên cơ quan thuộc Bộ thương mại đã xem xét lại định nghĩa về vùng và phân vùng bằng tiêu chuẩn đồng nhất kinh tế - xã hội. Cuối cùng các bang đã được phân chia lại, nhưng Văn phòng Dân số Mỹ đã không chấp nhận. Trong khi đó thì Văn phòng Phân tích Kinh tế Liên bang lại chấp nhận việc nhóm nhiều bang thành một vùng kinh tế, và việc chia toàn Liên bang thành 8 vùng đã được chấp nhận kể từ những năm 1950. Ngoại trừ khuynh hướng chia theo thu nhập đầu người (từ 1929 – 1950), các biến kinh tế được Uỷ ban Liên cơ quan thuộc Bộ Thương mại sử dụng đều mô tả các dữ liệu kinh tế theo thời điểm. Các nhân tố kinh tế khác được xem xét trong định nghĩa vùng đều được cấu trúc bởi thu nhập theo các nguồn dữ liệu năm 1950. Các nhân tố phi kinh tế được sử dụng để nhóm các bang thành vùng bao gồm mật độ dân số và mức tăng trưởng, các cấu trúc tộc người, chủng tộc, tỷ lệ chết của trẻ em năm 1949, số máy điện thoại trên đầu người năm 1950. Cơ sở cuối cùng để phân vùng bao gồm cả các nhân tố kinh tế và phi kinh tế. Các nhà kinh tế học Mỹ đã có ý định sử dụng các vùng của Văn phòng Phân tích Kinh tế Liên bang để phân tích vì việc nhóm các bang thành các vùng kinh tế rất thuận lợi cho việc phân tích. Một số nghiên cứu mới đây về khuynh hướng và chu kỳ xác định vùng kinh tế vẫn dựa trên các vùng do Văn phòng Phân tích Kinh tế Liên bang xác định, ngay cả khi các bang đã được phân vùng dựa trên cơ sở các tương đồng theo thời điểm. Vào cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980, các vùng kinh tế theo cách phân chia của Văn phòng Phân tích Kinh tế Liên bang đã được sử dụng để kiểm tra các hiệu ứng vùng về phương diện chính sách tài chính và tiền tệ. Kể từ cuối những năm 1990 người ta vẫn sử dụng các vùng kinh tế của Văn phòng Phân tích Kinh tế Liên bang. Và hiện nay đang có khuynh hướng sử dụng phương pháp phân tích cụm kinh tế để xác định các vùng, và người ta đã phân 48 bang thành 8 vùng kinh tế khác nhau căn cứ vào cách phân tích cụm [Crone 2003: 1-2].

2. Khái niệm cực tăng trưởng

Cực tăng trưởng - một trong những khái niệm cốt lõi tạo thành vùng kinh tế - được nhà kinh tế học Pháp François Perroux đưa ra năm 1949. Ông và những người khác đã mở rộng thêm khái niệm này, nhưng vẫn không có nhiều sự đồng thuận trong giới nghiên cứu, cho dù nó có sức hấp dẫn trực cảm đặc biệt, vì vậy nó đã tác động rất mạnh tới các nhà làm chính sách. Họ cho rằng các nhà kinh tế học có thể đưa ra một kỹ thuật phân tích cần thiết để tăng thêm ý nghĩa cho các chính sách dựa trên khái niệm cực tăng trưởng. Quan niệm trực cảm về khái niệm cực tăng trưởng coi một cực tăng trưởng như một ngành công nghiệp hoặc có lẽ là một nhóm công ty thuộc một ngành công nghiệp. Ở mức độ tối đa, một cực tăng trưởng có thể chỉ là một công ty hoặc có thể là một nhóm ngành công nghiệp. Tuy nhiên Perroux cũng đã định nghĩa các cực tăng trưởng  là “không gian kinh tế trừu tượng”. Đối với ông, không gian kinh tế trừu tượng có ba loại: i) một kế hoạch kinh tế; ii) một trường lực hoặc tác động; iii) một tổng thể đồng nhất. Vì quan niệm trừu tượng về cực tăng trưởng nên ông dứt khoát từ chối quan niệm cho rằng không gian kinh tế lại có thể tương hợp với một khu vực địa lý như một vùng hoặc một thành phố chẳng hạn.

Đối với Perroux, thuộc tính ưu thống của một cực tăng trưởng là rất quan trọng. Một công ty hoặc một ngành công nghiệp A được coi là ưu thống  đối với B nếu dòng hàng hoá và dịch vụ từ A đến B là phần đầu ra của A lớn hơn luồng hàng hoá dịch vụ từ B đến A so với phần đầu ra của B. Một công ty hoặc một ngành công nghiệp lớn có mức độ tác động qua lại cao với các công ty hoặc các ngành khác thì là công ty hoặc ngành ưu thống, trong đó tác động qua lại được coi là tương tác đẩy. Quá trình phát triển của một công ty hoặc ngành công nghiệp có lực đẩy được gọi là quá trình hình thành cực. Perroux và các tác giả khác về cực tăng trưởng cố gắng đặt cơ sở cho khái niệm này trên các quan niệm về các lợi thế kinh tế ngoại ứng, mức độ tập trung và các liên kết kinh tế. Có được một lợi thế kinh tế ngoại ứng khi sự thay đổi đầu ra của một công ty hoặc một ngành công nghiệp tác động đến chi phí ở các công ty khác. Các lợi thế qui mô kinh tế ngoại ứng có thể là âm như trong trường hợp các chi phí ô nhiễm, hoặc chúng có thể là dương như trong trường hợp phát triển công nghệ mạch tích hợp trong công nghiệp điện tử. Cùng với các khái niệm cực tăng trưởng là những khái niệm về tầm quan trọng biên duy nhất trong việc phân tích các vấn đề kinh tế vùng. Vì vậy thì ý tưởng về các cực tăng trưởng đã đóng một vai trò chủ chốt trong việc xây dựng chính sách phát triển vùng [Darwent, David 1969: 5-32].

Nhà kinh tế học vùng nổi tiếng J. Parr cho rằng: “Một trong những thuộc tính sâu sắc của việc phân tích và thực hiện kế hoạch hoá kinh tế vùng trong mấy thập kỷ qua đã làm thay đổi thái độ của chúng ta đối với chiến lược cực tăng trưởng. Chiến lược này hoặc tập hợp các chiến lược này đã được đưa ra trong rất nhiều môi trường khác nhau, vì vậy mà không dễ khái quát. Tuy nhiên vẫn có thể khái quát những đặc điểm chung. Chiến lược cực tăng trưởng đã tham gia một cách tích cực vào việc tập trung đầu tư ở một số địa phương nhất định (thường là một phần nỗ lực để thay đổi cấu trúc không gian vùng) mong cố gắng để cổ vũ hoạt động kinh tế và vì vậy mà phát triển các cấp độ phúc lợi trong một vùng” [Parr 1999: 1195-1215]. Vào giữa những năm 1960, chiến lược cực tăng trưởng đã nổi bật như một đối tượng hâm mộ nhiệt thành và đã được coi là một ý tưởng thời thượng. Và các kế hoạch kinh tế được tái chế theo khuôn khổ của chiến lược cực tăng trưởng. Kuklinski [1978: 21] cũng đã khẳng định vai trò của lý thuyết cực tăng trưởng với tư cách là một bộ phận của kinh tế học vùng: “...lý thuyết cực tăng trưởng là gần gũi nhất với lý thuyết tổng quát về phát triển vùng”.

Chiến lược cực tăng trưởng, hoặc các biến thể của nó, các cực phát triển hoặc các trung tâm tăng trưởng, được thảo luận và được thực hiện trong tất cả các chiến lược phát triển vùng khác nhau. Darwent [1969]; Isard, W. [1960]; Isard, W & Schooler, E. W. [1959]; và Friedmann, JR. [1966, 1967, 1968] đều cho rằng công trình của Perroux đã gây ra một sự lầm lẫn lớn một phần là vì sự mập mờ của hệ thống tri thức ban đầu của ông, một phần vì việc dịch nhầm từ tiếng Pháp ra tiếng Anh và ngược lại, và một phần vì sự lẫn lộn ngữ nghĩa của các tác giả sau này. Quan niệm gốc về cực tăng trưởng thực sự độc lập với một bối cảnh không gian hoặc một không gian địa lý học kinh tế, hoặc không gian địa lý. Hơn nữa các cực tăng trưởng chỉ liên quan và đặc biệt liên quan đến không gian kinh tế trừu tượng. Vì vậy mà ông đã xác định các cực tăng trưởng là: “các trung tâm, hoặc các cực, các tâm điểm, toả ra các lực ly tâm và hút vào các lực hướng tâm. Mỗi trung tâm hút và đẩy đều có một trường lực chính xác tạo ra trong trường lực của các trung tâm khác”. Vì vậy các cực có thể là các công ty, các ngành công nghiệp hoặc các nhóm công ty có thể là những “lực đẩy” nếu nó có mối tương tác cao với nhiều công ty khác, mức độ ưu trội cao và có qui mô lớn. Darwent [1969] đã giải thích rằng sự khác biệt rất cơ bản và quan trọng giữa không gian kinh tế và không gian địa lý đã bị bỏ qua, vì vậy đã gây ra những quan niệm lầm lẫn to lớn.

Tuy nhiên các tác giả sau này đã cố mở rộng khái niệm cực tăng trưởng mà không qui chiếu vào không gian địa lý hoặc cố gán ghép không gian kinh tế và không gian địa lý với nhau. Khi mở rộng khái niệm cực tăng trưởng các học giả Mỹ đã  phát triển các khái niệm hoàn toàn khác và rộng hơn quan niệm cực tăng trưởng gốc nhiều. Trong số các công trình liên quan đến lĩnh vực này nổi bật có công trình của Hirschman [1958]. Chính ông là người đã đưa ra khái niệm tăng trưởng bất cân bằng. Khi việc xác định vị trí xuất hiện trong phát triển vùng thì các nhà qui hoạch phát triển đặc biệt quan tâm đến lý thuyết tăng trưởng vùng và các khái niệm liên quan đến khái niệm cực tăng trưởng trong không gian địa lý. Chính điều đó đã kích thích các nhà nghiên cứu quan tâm nhiều đến việc phát triển khái niệm “các trung tâm tăng trưởng”, ngược lại với các cực tăng trưởng, đã qui chiếu vào các vị trí trong không gian địa lý. Quan niệm về trung tâm tăng trưởng cho rằng sự phát triển kinh tế và xã hội được khởi đầu và lan truyền đến các vùng xung quanh; theo đó đầu tư tốt nhất là tập trung vào các trung tâm tăng trưởng chứ không phải là phân tán ra xung quanh bằng một quan niệm mơ hồ “cân bằng” hoặc “bình đẳng”. Nhiều nghiên cứu về các trung tâm tăng trưởng đã dựa trên công trình của Boudeville [1966], đặc biệt là quan niệm của ông về ba loại vùng: vùng đồng nhất, vùng phân cực và vùng kế hoạch. Quan niệm này đã được đưa vào kế hoạch hoá vùng ở Pháp là nơi xác định các vùng là những khu vực để đầu tư. Vùng phân cực của Boudeville tương tự như mô hình trung tâm - ngoại vi của Friedmann, vì nó tương hợp với cấu trúc vị trí trung tâm của sự phân cấp các thành phố về việc nâng cấp qui mô và chức năng, với các “trung tâm tăng trưởng” thường là những thành phố lớn hơn trong vùng.

3. Trung tâm tăng trưởng

Các trung tâm tăng trưởng thường được coi là đồng nghĩa với các thành phố hoặc các khu vực đô thị. Điều đó là phổ biến vì trong hầu hết các trường hợp, các tiêu chuẩn được đưa ra để xác định một trung tâm tăng trưởng đều là các đặc trưng của vùng đô thị. Cũng có một số người chỉ giới hạn các trung tâm tăng trưởng vào các khu vực đô thị. Chẳng hạn Fox [1966] đã xác định trung tâm tăng trưởng là “một vị trí đô thị có thể hoạt động như một tâm điểm cho việc xây dựng kế hoạch phát triển”. Ông đề xuất các tiêu chuẩn phân biệt giữa các khu vực đô thị là các cực tăng trưởng và các vùng không phải cực tăng trưởng như sau: liên kết mạnh với nền kinh tế quốc gia; là trung tâm thị trường lao động; là một khu vực thương mại bán lẻ chủ yếu; các chức năng phân cấp cao; một khối lượng thương mại bán buôn lớn; và là các đầu mối giao tiếp thuận lợi. Còn Darwent [1969] thì lại cho rằng những tiêu chuẩn đó vẫn còn quá ít, không đủ để tạo điều kiện phân biệt vì chúng là những đặc điểm mô tả chung của các khu vực đô thị.

Friedmann được coi là một trong số những người đã vượt khỏi các quan niệm bị đơn giản hoá về cực tăng trưởng và trung tâm tăng trưởng. Khái niệm trung tâm - ngoại vi của ông đã vượt khỏi sự phân bổ các nguồn theo phương thức liên khu vực. Theo ông cực tăng trưởng phải cố gắng hướng tới giới hạn  các vấn đề hiện thực của phát triển vùng trong không gian địa lý. Bối cảnh ông sử dụng để đưa ra quan niệm của mình là các quốc gia đang trong giai đoạn chuyển tiếp từ chế độ thuộc địa thành các nền kinh tế độc lập. Ông cho rằng các nền kinh tế này thường có một trung tâm duy nhất và một khu vực ngoại vi gắn kết lỏng lẻo với trung tâm. Trung tâm và vùng ngoại vi của nó có những mối quan hệ tối thiểu và nếu đã phát triển thì nó thường phiến diện, trong đó vùng ngoại vi vẫn ở tình trạng lạc hậu và bị bóc lột, không thể phát triển vì nó chỉ hỗ trợ cho sự phát triển của trung tâm mà thôi. Friedmann cho rằng tăng trưởng kinh tế sẽ xuất hiện thông qua sự xuất hiện của một hệ thống phân cấp chức năng kết nối và phát triển cao của các thành phố và các thị trấn và sự phát triển như vậy tương ứng với mức độ tập trung cao. Hệ thống phân cấp đô thị này là một phương tiện thống nhất ngoại vi với trung tâm và với vùng lõi [Friedmann, JR. 1968].

Chịu ảnh hưởng đáng kể từ các lý thuyết và khái niệm của Perroux và Boudeville, Friedmann đã đưa ra thêm các khái niệm “vùng đồng nhất” và “vùng độc lập”. Trong đó vùng độc lập mang đặc trưng các vùng phân cực, còn khu vực ngoại vi của một vùng phân cực có thể được chia thành bốn phần: i) các vùng chuyển tiếp lên; ii) các vùng chuyển tiếp xuống; iii) các vùng ranh giới nguồn lực; và iv) các vùng có vấn đề đặc biệt. Các vùng chuyển tiếp lên là những vùng tăng trưởng bằng tiềm năng tăng trưởng cao nhưng lại hạn chế vốn. Các vùng chuyển tiếp xuống là những khu vực kinh tế nông nghiệp, hoặc công nghiệp cũ suy thoái và hiện tượng di cư là chỉ báo rõ ràng nhất. Các vùng ranh giới nguồn lực là những vùng định cư mới trong đó có nhiều tiềm lực cho tăng trưởng. Các vùng có vấn đề đặc biệt là những vùng cần các biện pháp can thiệp về chính sách nhiều hơn các vùng khác vừa được dẫn. Vì vậy phân loại này cho phép phân biệt các vùng theo các hoạt động chính sách cần thiết và việc xử lý các vấn đề vùng không tách biệt mà là cùng với sự xem xét tổng thể hệ thống vùng. Khái niệm của Friedmann đã được coi là một bước tiến vượt khỏi quan niệm gốc về cực tăng trưởng và trung tâm tăng trưởng và nó đã đưa ra được một mô hình tổng quát về các thuộc tính không gian của tăng trưởng kinh tế vùng. Vào thời gian đó, khái niệm cực tăng trưởng và trung tâm tăng trưởng ngày càng được giải thích gắn liền với sự phát triển của một trung tâm đô thị có thể thu hút được các hoạt động kinh tế thông qua hạ tầng cơ sở và việc khuyến khích trực tiếp tạo ra “hiệu ứng hấp dẫn” (theo thuật ngữ của Perroux là effets d’entrainment) trong vùng ngoại vi của trung tâm đô thị dưới hình thức tăng công ăn việc làm và tăng thu nhập. Người ta hy vọng rằng mô thức phát triển vùng như vậy kéo theo sự tăng trưởng của phân cấp đô thị, nhờ thế mà khoảng cách vùng có thể giảm đi bằng cách thay đổi cấu trúc tăng trưởng đô thị.

4. Khái niệm cụm kinh tế

Trong mấy thập kỷ qua đã xuất hiện các khái niệm cụm hoặc hợp thành cụm, các mạng lưới và các khái niệm liên quan khác. Việc sử dụng thuật ngữ cụm đã trở nên phổ biến bắt đầu từ khi Porter [1998] đặt khái niệm này trong bối cảnh cạnh tranh của các công ty và các địa điểm phát triển kinh tế. Ông định nghĩa cụm là “một nhóm công ty kề cận về địa lý có mối liên hệ qua lại và các thể chế kèm theo trong một lĩnh vực riêng biệt liên kết với nhau bằng những tương đồng và bổ sung”. Ông chỉ rõ tầm quan trọng của các liên kết liên công nghiệp đó trong tính cạnh tranh của các khu vực kinh tế vùng và quốc gia. Tuy nhiên theo Stohr [1998] thì các quan niệm này không hoàn toàn mới mà được phát triển từ các khái niệm đã được sử dụng trước đó. Stohr đã xác định nguồn gốc của các khái niệm này là các cực tăng trưởng liên khu vực của Perroux [1955] “các trung tâm tăng trưởng” được xác định về không gian của Boudeville [1966] và các “quận công nghiệp” của  Marshall [1890, 1920].

Có hai cách sử dụng cụm trong các chiến lược phát triển vùng. Trước hết là chiến lược truyền thống xác định một “cụm tăng trưởng” dựa trên hệ qui chiếu cực tăng trưởng hoặc trung tâm tăng trưởng. Một cụm tăng trưởng là việc tập hợp thành cụm của các khu vực (các đơn vị chính thể nhỏ, chẳng hạn như các đô thị độc lập) dựa trên các tiêu chuẩn chẳng hạn như các hoạt động kinh tế, các tiềm năng tăng trưởng, và các liên kết vật chất chung. Một cụm tăng trưởng có một trung tâm đưa ra các cấp dịch vụ cao và đa dạng hoá hơn những cách thức đang có trong khu vực ảnh hưởng có thể thực hiện bất cứ vai trò nào sau đây: trung tâm công nghiệp, trung tâm thương mại, trung tâm hành chính, trung tâm giải trí và các vai trò chức năng khác. Mới đây người ta còn sử dụng khái niệm cụm để phục vụ cho việc quản lý môi trường và phát triển đô thị bền vững. Ở đây một cụm được xác định là một khu vực phát triển ở qui mô tiểu vùng trong đó các ranh giới được xác định bằng cách sử dụng ranh giới liên địa phương bao gồm ít nhất hai khu vực hoặc các đơn vị chính thể. Một cụm như vậy là một tiểu vùng phát triển, thích hợp cho việc quản lý và qui hoạch đất theo các đặc trưng kinh tế, không gian, dân số và vật chất của nó. Các tiêu chuẩn để xác định các ranh giới của một cụm bao gồm: i) tiêu chuẩn kinh tế (sự tồn tại một cơ sở kinh tế chung, các nguồn lực bổ sung, những tiềm năng xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế cao); ii) tiêu chuẩn xã hội (có cơ sở văn hoá chung, và sử dụng cùng một ngôn ngữ hoặc phương ngữ); iii) tiêu chuẩn vật chất (liên tục về mặt địa lý, và được liên kết bởi các mạng lưới hạ tầng cơ sở); iv) tiêu chuẩn không gian (tính chất bổ sung của các vai trò chức năng trong cấu trúc đô thị); v) tiêu chuẩn chính thể (việc vạch ranh giới cụm phải trùng hợp với các ranh giới hành chính của các cấp chính quyền địa phương; vi) và tiêu chuẩn môi trường (trải nghiệm các vấn đề môi trường như nhau, và hiện có hoặc sử dụng các nguồn chung chẳng hạn như nước, đất đai, rừng, quặng mỏ...vv.)  [Mercado R.G. 2003]. 

Các lý thuyết cụm nhằm giải thích các khác biệt vùng trong hoạt động kinh tế về phương diện địa lý đã dẫn đến nảy sinh các khác biệt chính sách phát triển kinh tế quốc gia, vùng, và địa phương. Theo Maskell và Kebir thì có bốn vấn đề cơ bản liên quan đến khái niệm cụm kinh tế: i) các lợi ích kinh tế và xã hội mà các xí nghiệp được hưởng khi hình thành cụm hoặc các xí nghiệp cùng xây dựng liền kề nhau về phương diện địa lý; ii) những bất lợi về kinh tế mà các xí nghiệp phải đối mặt khi việc tập trung thành cụm đã vượt quá các ngưỡng khu vực kinh tế hoặc ngưỡng địa lý; iii) những lợi thế có được bằng cách khai thác các đồng hợp nội cụm hơn là việc cam kết tương tác ngoại cụm; và iv) khả năng sói mòn các lợi thế kinh tế và sự lấn át của các bất lợi thế kinh tế đối với vòng đời của cụm. Mỗi vấn đề đều được xem xét trong khuôn khổ của ba khung lý thuyết chủ chốt tương ứng có thể được đưa vào khái niệm cụm [Maskell, Peter & Leïla Kebir, 2005]. Vì vậy có thể xem xét các cách tiếp cận này dựa trên ý tưởng về các ngoại ứng địa phương (được Marshall minh hoạ trong công trình về “các quận công nghiệp”); về vấn đề cạnh tranh (được lý thuyết tăng trưởng cụm của Michael Porter minh hoạ); và về viễn cảnh lãnh thổ (được minh hoạ bằng cách tiếp cận xuất hiện trong nghiên cứu của nhóm nghiên cứu Châu Âu về Môi trường Đổi mới).
_____________________________________

Ghi chú: Bài viết năm 2008, thuộc đề tài cấp Bộ, Viện Phát triển Bền vững vùng Bắc Bộ, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Nghiên cứu cơ sở lý thuyết cho việc xác định các ưu tiên trong phát triển bền vững vùng kinh tế do tác giả làm Chủ nhiệm. 

Tài liệu tham khảo

Asheim B.T., and A. Isaksen 2002. Regional Innovation Systems: The Integration of Local ‘Sticky’ and Global ‘Ubiquitous’ Knowledge. Journal of Technology Transfer 27: 77‐86.

Boudeville 1966. Problems of regional economic planning. University Press, Edinburgh.

Cook, G.R. 1967. Canadian Centennial Cerebrations. In International Journal 22 (Autumn 1967).

Crone, M. Theodore 2003. An Alternative Definition of Economic Regions in the U.S. Based on Similarities in State Business Cycles. In Federal Reserve Bank of Philadelphia - October 2003.

Darwent, David 1969. Growth poles and growth centers in regional planning - A review," Environment and Planning, vol. 1 (1969).

Fligstein N. and Stone Sweet 2002. Integration. The American Journal of Sociology, Vol. 107, No. 5. (Mar., 2002), pp. 1206-1243.

Fox, Jonathan 2002. Ethnic minorities and the Clash of Civilizations: A quantitative analysis of Huntington's thesis. In British Journal of Political Science 32(3), pp. 415-434

Friedman, M. 1995. From outcomes to budgets: An approach to outcome based budgeting for family and children s services. Washington, DC: Center for the Study of Social Policy.

Friedmann, JR. 1966. Regional Development Policy – A Case Study of Venezuela. MIT Press, Cambridge;

Friedmann, JR 1967. A General Theory of Polarized Development, mimeo, Santiago, Chile, August;

Friedmann, JR 1968. The Role of Cities in National Development, mimeo, Santiago, Chile, February.

Friedmann, John 1986. The World City Hypothesis. In Development and Change 17:69-83

Friedmann, John, and Michael Douglass 1978. Agropolitan Development: Towards a New Strategy for Regional Planning in Asia. In Fu-chen Lo and Kamal Salih (eds.) Growth Pole Strategy and Regional Development Policy, New York: Pergamon Press.

Hirschman A.O. 1957. The Strategy of Economic Developmen. (London: Duckworth, 1957).  

Hirschman A.O. 1958. The strategy of economic development. Yale University Press. New Haven.

Isaacs, Harold  2004 (Ed.)  Exploring Conflicts and conflict Resolution in the Contemporary Third World. In ATWS Proceedings, Twenty Second Annual Meeting (2004) Americus, GA: Association of Third World Studies, Inc., 2005, 97 pp.

Isard, W. 1960. Industrial Complex Analysis, in Methods of Regional Analysis. MIT Press, Cambridge.

Isard, W and Schooler, E. W. 1959. Industrial Complex Analysis: Agglomeration, Economics and Regional Development, Journal of Regional Science, Spring;

Marshall A. 1920. Principles of Economics. London: Macmillan and Co., Ltd., 1920. Eighth edition. 

Maskell, Peter & Leïla Kebir, 2005. What Qualifies as a Cluster Theory? In DRUID Working Papers 05-09, DRUID, Copenhagen Business School, Department of Industrial Economics and Strategy/Aalborg University, Department of Business Studies.

Mercado R.G. 2003. Regional Development in the Philippines: A Review of Experience, State of the Art and Agenda for Research and Action. Philippines Institute for Development Studies – Discussion Paper Series No. 2002 – 2003.

Nguyễn Xuân Thu - Nguyễn Văn Phú (Đồng chủ biên) 2006. Phát triển kinh tế vùng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (Sách chuyên khảo). Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2006.

Parr, John B. 1999. Growth-pole Strategies in Regional Economic Planning: A Retrospective View. Part 1. Origins and Advocacy. Urban Studies, Vol. 36, No. 7, 1195 – 1215.

Perroux F. 1955. Note sur la notion de pôle de croissance. Economie Appliqueé, 8, pp. 307-320.

Perroux F. 1964. La notion de pole de croissance. En L’economie du X Xeme Siecle, 2nd ed. (Paris: Presses Universitaries de France, 1964), pp. 142-154

Perroux, F (1968) Les Investissements multinationaux et l’analyse des poles de developpement d’integration, Revue Tiers-Monde, IX, 34.

Porter, Michael 1998. On Competition. Boston: Harvard Business School Press.

Portes, A. 1998. Social Capital: its origins and applications in modern sociology.  In Annual Review of Sociology, 24, 1-24.

Russian Government 1997. Russian Classificaton of Economic Regions (OK 024-95) of January 1, 1997 as amended by the Amendments in January 1998 through May 2001. Section II. Economic Regions.

Salais R. and M. Storpper 1997. Worlds of Production: the Action Frameworks of the Economy, Cambridge, MA, Harvard University Press, 1997.

Storper M. and R. Walker 1989. The capitalist imperative: territory, technology, and industrial growth. Basil Blackwell, New York.



Chủ Nhật, 8 tháng 6, 2014

Nghiên cứu Trường hợp [I]



Nghiên cứu Trường hợp [I]

Robert K. Yin

COSMOS Corporation January 20, 2004

Người dịch: Hà Hữu Nga

Xuất hiện trong lần biên tập thứ ba của Bổ sung các phương pháp Nghiên cứu Giáo dục, (Complementary Methods for Research in Education, American Educational Research Association, Washington, DC, forthcoming). Tác giả chân thành cảm ơn GS. Chris Clark (University of Delaware) và Bob Stake (University of Illinois at Urbana-Champaign) vì những nhận xét hữu ích và Gregory Camilli, người biên tập tập sách.

Cho đến bây giờ nghiên cứu trường hợp đã đạt được tới vị thế thông lệ như một phương pháp vững vàng trong nghiên cứu giáo dục. Có nhiều phương pháp khác cũng bao gồm, nhưng không giới hạn vào các cuộc khảo sát, dân tộc học mô tả, các thực nghiệm, cận thực nghiệm, xây dựng mô hình kinh tế và thống kê, các bộ môn lịch sử, các tổng hợp nghiên cứu, và các phương pháp phát triển.

Điểm No. 1: So với các phương pháp khác thì điểm mạnh của phương pháp nghiên cứu trường hợp là khả năng xem xét sâu sắc một “trường hợp” trong bối cảnh “đời sống thực” của nó.

Chương Contemporary Methods này đem đến cho chúng ta một xuất phát điểm để biết được cách thức sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp như thế nào bằng cách làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản. Các vấn đề cơ bản được xem xét bao gồm hàng loạt “điểm tóm tắt”, như đã thực hiện ở Điểm No.1. ở trên. Chương này cũng rút ra kết luận bằng việc hướng dẫn thảo luận 5 “mối bận tâm” về việc sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp. Tuy nhiên tính chất cô đọng của chương này không nên làm chúng ta bị lạc hướng về những thách thức có thật trong việc thực hiện các nghiên cứu trường hợp.

Khi nào thì sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp

Nghiên cứu trường hợp giúp ta khám phá các đề tài quan trọng mà các phương pháp khác khó lòng bao quát được. Ngược lại các phương pháp khác bao quát nhiều đề tài tốt hơn là phương pháp nghiên cứu trường hợp. Ý tưởng tổng thể là các phương pháp nghiên cứu khác nhau được sử dụng làm các chức năng bổ sung. Nghiên cứu của bạn có thể sử dụng nhiều phương pháp kể cả phương pháp nghiên cứu trường hợp. Các chủ đề riêng áp dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp tối thiểu xuất hiện từ hai tình huống. Thứ nhất và quan trọng nhất [Shavelson and Townes, 2002, pp. 99-106] phương pháp nghiên cứu trường hợp là thích đáng khi nghiên cứu của bạn nhắm tới vấn đề mô tả (cái gì đã xảy ra?) hoặc một câu hỏi giải thích (như thế nào hoặc tại sao một cái gì đó lại xảy ra?); ngược lại cần thiết có một thực nghiệm được thiết kế tốt để bắt đầu suy luận các mối quan hệ nhân quả (chẳng hạn liệu một chương trình giáo dục mới có cải thiện việc học tập của học sinh không) và một cuộc khảo sát có thể giúp bạn tốt hơn bằng cách cho bạn biết một cái gì đó xảy ra thường xuyên đến mức độ nào.

Thứ hai, có thể bạn cũng muốn làm sáng tỏ một tình huống riêng biệt đế hiểu nó đợc rõ ràng hơn. Phương pháp nghiên cứu trường hợp giúp bạn thực hiện các quan sát trực tiếp và thu thập dữ liệu trong môi trường tự nhiên so với việc dựa vào các dữ liệu “dẫn xuất” (“derived” data) [Bromley, 1986, p. 23] chẳng hạn như các kết quả kiểm tra, các thống kê của nhà trường hoặc các con số thống kê khác do các cơ quan nhà nước lưu trữ, và các câu trả lời cho các bảng hỏi. Chẳng hạn các tập thể giáo dục có thể muốn biết về một hiệu trưởng trường phổ thông trung học đã thực hiện tốt công việc hoặc về một cuộc thương thảo tập thể thành công (hoặc không thành công) đã để lại những hệ quả to lớn (chẳng hạn các cuộc đình công của giáo viên) hoặc về cuộc sống hàng ngày trong một trường nội trú đặc biệt. Bạn có thể sử dụng các phương pháp khác, nhưng nghiên cứu trường hợp sẽ giúp bạn tốt hơn nhiều so với các phương pháp khác.

Hộp1 liệt kê các ví dụ điển hình của các đề tài nghiên cứu trường hợp trong giáo dục. Để bắt đầu tìm hiểu phương pháp nghiên cứu trường hợp đối với mỗi đề tài, bạn nên hỏi: trường hợp này là gì (đơn vị phân tích), và những tiểu chủ đề liên quan cần giải quyết với tư cách là một bộ phận của nghiên cứu trường hợp liên quan là gì? Hãy lấy đề tài ở Hộp 1 làm ví dụ. “Trường hợp” ở đây là một học sinh. Tiểu chủ đề liên quan bao gồm nhà trường, gia đình, và các bạn bè. Bạn có thể suy nghĩ về các tiểu chủ đề như là những điều kiện bối cảnh chủ chốt.

Điểm No. 2: Phương pháp nghiên cứu trường hợp được ứng dụng tốt nhất khi nghiên cứu nhắm tới các câu hỏi mô tả hoặc giải thích và nhắm tới việc nhanh chóng hiểu rõ được con người và sự kiện liên quan.

Kỹ năng thiết yếu cho các nhà nghiên cứu trường hợp

Bằng nhiều cách việc tiến hành nghiên cứu trường hợp sẽ không khác với việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác. Tất cả mọi phương pháp đều đòi hỏi phải xem xét lại các tư liệu, xác định các câu hỏi nghiên cứu và các chiến lược phân tích bằng cách sử dụng các giao thức (protocols) hoặc các công cụ thu thập dữ liệu chính thức, và viết được các báo cáo nghiên cứu có chất lượng cao. Khác với hầu hết các phương pháp còn lại, khi tiến hành nghiên cứu trường hợp có thể bạn cần phải vừa thu thập, vừa phân tích dữ liệu. Chẳng hạn một cuộc phỏng vấn tại thực địa có thể cung cấp cho ta thông tin trái ngược với thông tin từ một cuộc phỏng vấn trước đó. Tiến hành phỏng vấn được coi là thu thập dữ liệu, nhưng việc xử lý mâu thuẫn thông tin thì lại được coi là phân tích dữ liệu. Bạn muốn rằng công việc phân tích phải diễn ra nhanh chóng sao cho bạn có thể thay đổi các kế hoạch thu thập dữ liệu trong khi vẫn đang ở ngoài thực địa – bạn cũng có thể phỏng vấn lại người cung cấp thông tin trước đó hoặc tìm cách phát hiện ra một nguồn thứ ba để giải quyết xung đột thông tin.

Nhu cầu phân tích dữ liệu trong khi thu thập dữ liệu tạo ra những khác biệt lớn so với việc sử dụng các phương pháp khác. Kể cả với khảo sát lẫn thực nghiệm thì việc thu thập dữ liệu diễn ra trong một giai đoạn chính thức tách biệt khỏi việc phân tích dữ liệu. Giai đoạn này thường được thực hiện xong rồi mới đến giai đoạn tiếp theo. Việc thu thập dữ liệu cũng có thể được giao cho trợ lý nghiên cứu hoặc một người phỏng vấn được tập huấn cẩn thận, nhưng không được giao cho họ phân tích dữ liệu. Tương tự như vậy, việc phân tích dữ liệu có thể thuộc quyền của một nhà nghiên cứu có nhiều kinh nghiệm, là người ít liên quan đến việc thu thập dữ liệu.

Không nên coi khả năng cần phải phân tích dữ liệu trong khi thu thập dữ liệu là điều dĩ nhiên. Phép tất suy (implication: if - then) so với các phương pháp khác cũng rất quan trọng. Với tư cách là một người nghiên cứu trường hợp, bạn cần phải làm chủ được các rắc rối, phức tạp trong các vấn đề nghiên cứu cơ bản trong khi rất cần phải kiên nhẫn và tận tâm với việc thu thập dữ liệu một cách cẩn trọng và ngay thẳng - bằng cách dấu đi các ý tưởng thiết yếu của riêng mình (nếu có thể). Chẳng hạn trong các nghiên cứu trường hợp bạn có thể phải đưa ra các câu hỏi trong phỏng vấn tại thực địa, những câu trả lời của ai bạn tin rằng bạn đã biết. Bạn có nghĩ rằng mình có thể đưa ra được các câu hỏi ngay thẳng không?

Điểm No. 3: Một nhu cầu chủ chốt của phương pháp nghiên cứu trường hợp là kỹ năng và năng lực chuyên môn của người nghiên cứu trong việc theo đuổi một đường hướng nghiên cứu hoàn toàn nhất quán (nhưng đôi khi cũng khá mơ hồ) ngay trong khi đang thu thập dữ liệu.

Một nhà nghiên cứu trường hợp giỏi có thể vẫn thể hiện là mình bắt chước vai trò của một thám tử giỏi. Bạn cần phải biết liệu bạn có khả năng cần thiết và cũng phải biết làm thế nào để phát triển hơn nữa lỹ năng của mình theo hướng này.

Ba bước cơ bản trong thiết kế nghiên cứu trường hợp

Bước thứ nhất đã được đề cập đến ở Hộp 1, đó là xác định rõ “trường hợp” mà bạn cần nghiên cứu. Việc làm rõ định nghĩa “trường hợp” giúp cho bạn tổ chức nghiên cứu trường hợp thuận lợi một cách đáng kể. Nhìn chung bạn cần bám sát với lựa chọn ban đầu của mình, vì bạn có thể xem xét lại tư liệu hoặc đề xuất các câu hỏi nghiên cứu riêng cho lựa chọn đó. Tuy nhiên, một phẩm chất quan trọng của phương pháp nghiên cứu trường hợp là khả năng xác định lại “trường hợp” sau khi thu thập những dữ liệu ban đầu. Cần phải nhận thức rõ khi nào thì điều đó xuất hiện – sau đó rất có thể bạn phải quay trở lại điểm xuất phát bằng cách xem xét lại tư liệu và chỉnh sửa các câu hỏi nghiên cứu gốc.

Bước thứ hai liên quan đến việc quyết định xem liệu có phải tiến hành nghiên cứu đơn trường hợp hay một tập hợp các trường hợp. Thuật ngữ “nghiên cứu trường hợp” có thể vừa được hiểu là một trường hợp duy nhất, hoặc nhiều trường hợp. Chúng đại diện cho hai loại thiết kế nghiên cứu trường hợp. Bạn có thể chọn cho mình loại nghiên cứu trường hợp tổng thể hoặc các tiểu trường hợp bao hàm trong một trường hợp tổng thể. Chẳng hạn trường hợp tổng thể của bạn có thể là về vấn đề tại sao một hệ thống trường học lại thực hiện các chính sách thúc đẩy học sinh nào đó, và các lớp học của hệ thống đó có thể được coi là các “tiểu trường hợp” mà bạn có thể thu thập dữ liệu từ đó. Các nghiên cứu trường hợp tổng thể hoặc bao hàm đại diện cho hai loại thiết kế nghiên cứu trường hợp có thể tồn tại với các nghiên cứu đơn trường hợp hoặc đa trường hợp sao cho bạn có thể ngĩ đến việc kết hợp theo cặp 2-2 bằng cách tạo ra 4 thiết kế cơ bản cho các nghiên cứu trường hợp.

Trong số các kết hợp này thú vị nhất là những trường hợp đối lập các nghiên cứu đơn hoặc đa trường hợp. Việc tập trung vào một trường hợp duy nhất sẽ buộc bạn rất chú ý đến trường hợp đó. Tuy nhiên việc có nhiều trường hợp có thể giúp cho bạn củng cố các phát hiện từ toàn bộ nghiên cứu của bạn – vì đa trường hợp có thể được lựa chọn là các bản sao của nhau.

Bước thứ ba liên quan đến việc quyết định xem liệu có sử dụng hay không sử dụng phát triển lý thuyết để giúp lựa chọn các trường hợp của bạn, phát triển các giao thức thu thập dữ liệu của bạn, và tổ chức các chiến lược phân tích dữ liệu đầu tiên. Viễn cảnh lý thuyết khởi đầu về các hiệu trưởng các trường chẳng hạn, có thể khẳng định rằng các hiệu trưởng thành công là những người hành động như là những “lãnh đạo chỉ dẫn”. Nhiều tư liệu (mà bạn có thể dãn ra như là một phần trong nghiên cứu trường hợp của bạn) hỗ trợ cho quan điểm này. Nghiên cứu trường hợp của bạn có thể cố xây dựng, mở rộng hoặc thách thức quan điểm này, thậm chí có thể bằng cách cạnh tranh với cách tiếp cận thử nghiệm giả thuyết. Tuy nhiên một quan điểm lý thuyết như vậy cũng có thể hạn chế khả năng của bạn trong việc đưa ra được các phát hiện - tức là phát hiện từ điểm xuất phát xem tại sao một hiệu trưởng lại thành công và họ thành công như thế nào.

Nói chung càng thiếu kinh nghiệm trong tiến hành nghiên cứu trường hợp thì bạn có thể càng muốn chấp nhận một số viễn cảnh lý thuyết nào đó. Không có các lý thuyết và không đủ kinh nghiệm bạn có thể gặp khó khăn trong việc thuyết phục những người khác rằng nghiên cứu trường hợp của bạn đã đưa đến những phát hiện có giá trị ở thực địa. Ngược lại, những người có nhiều kinh nghiệm nghiên cứu thực địa có thể tránh phải chấp nhận bất cứ quan điểm lý thuyết nào khi mong muốn tạo ra một nghiên cứu trường hợp mang tính đột phá. 

Điểm No. 4: Một thiết kế nghiên cứu trường hợp tốt tối thiểu phải xác định rõ được trường hợp của bạn, biện minh được sự  lựa chọn đơn hay đa trường hợp của bạn, và chấp nhận hoặc giảm thiểu tối đa các quan điểm lý thuyết.

Lựa chọn những con người, các nhóm, hoặc địa điểm nghiên cứu cụ thể cho “trường hợp” của bạn

Nghiên cứu trường hợp của bạn thuộc về một hoặc một số trường hợp của đời sống thực. Trong khi bạn đã có thể xác định rõ trường hợp của mình về phương diện khái niệm như trong 7 ví dụ đã trình bày ở Hộp 1, bạn vẫn có thể cần lựa chọn (các) trường hợp của đời sống thực để nghiên cứu. Việc lựa chọn trường hợp được coi là bước quyết định nhất trong việc tiến hành nghiên cứu trường hợp [Stake, 1994, p. 243]. Qúa trình đó làm nảy sinh các vấn đề mà bạn có thể phải vượt qua với một nỗ lực và tư duy đầy đủ, nghiêm túc. Một trong những quan niệm sai lầm dễ gặp nhất mà bạn cần phải vượt qua là niềm tin rằng các nghiên cứu trường hợp là để thể hiện một “mẫu” chính thức từ một lĩnh vực nào đó rộng lớn hơn, và việc khái quát hoá từ các trường hợp của bạn tuỳ thuộc vào suy luận thống kê (khái quát thống kê); thay vì việc khái quát từ các nghiên cứu trường hợp phản ánh các đề tài hoặc các vấn đề cơ bản cần quan tâm, và thực hiện các suy luận logic (khái quát phân tích).

Khi thực hiện một nghiên cứu trường hợp đơn bạn có thể chọn nghiên cứu một trường hợp cực trị (extreme) hoặc duy nhất (unique), hoặc thậm chí một trường hợp khai mở (revelatory) - chẳng hạn như những hành động của một băng đảng trường học – và bạn có thể đã sẵn sàng nghiên cứu trường hợp này ngay từ đầu. Hoặc bạn đã có thể biết rõ trường hợp cần được nghiên cứu vì một cách tiếp cận đặc biệt nào đó mà bạn có để thu thập dữ liệu về trường hợp đó. Tuy nhiên, trong những tình huống khác (chẳng hạn như trong nghiên cứu một trường hợp điển hình (typical), một trường hợp tới hạn (critical) hoặc một trường hợp theo chiều dọc (longitudinal) có thể có một vài nếu không nói là có nhiều ứng viên sáng giá, và bạn phải lựa chọn từ số đó. Trong trạng huống đó bạn nên tiến hành một thao tác chính thức sàng lọc nghiên cứu trường hợp (case study screening). Thao tác này có thể dựa trên việc xem xét các nguồn tư liệu hoặc hỏi những người am hiểu về mỗi ứng viên. Các tiêu chuẩn sàng lọc cơ bản gồm: i) thiện chí của những người tham gia chủ chốt vào nghiên cứu của bạn; ii) mức độ phong phú của dữ liệu có thể thu thập được; và iii) cứ liệu ban đầu cho thấy các kinh nghiệm hoặc các tình huống mà bạn mong tìm được, thậm chí ngay cả khi đó là một trường hợp điển hình.

Điểm No. 5: Việc lựa chọn hoặc mục đích sàng lọc  trường hợp là để tránh một kịch bản là sau khi thực sự bắt đầu nghiên cứu trường hợp thì trường hợp được lựa chọn hoá ra là không đứng vững được hoặc không đại diện cho một cái gì đó khác hơn là những thứ bạn đã định nghiên cứu.

Khi thực hiện một nghiên cứu đa trường hợp (thậm chí một nghiên cứu trường hợp bao gồm hai trường hợp - a two-case case study) mà tất cả những xem xét này đều phù hợp thì vẫn cần thêm các vấn đề liên trường hợp (cross-case issues). Những vấn đề này phải được xử lý theo logic nghiên cứu của bạn. Bạn cần phải quyết định xem hai trường hợp (hay nhiều hơn) thì đại diện được cho các trường hợp có thể được chấp nhận (tức là các phiên bản được coi là bản sao của cùng một hiện tượng), các trường hợp đối lập nhau (chẳng hạn như một thành công, một thì thất bại), hoặc các trường hợp đa dạng về phương diện lý thuyết (chẳng hạn trường hợp một trường phổ thông tiểu học và một trường hợp trường phổ thông trung học cơ sở).

Với ba hoặc nhiều hơn ba trường hợp thì cũng cần phải coi các nhóm như là các biến địa lý, tộc thuộc, kích cỡ, hoặc các biến liên quan khác trong số các trường hợp cần xem xét. Không nên coi bất cứ trường hợp nào là “những biến kiểm soát” đối với nhau theo nghĩa “nhóm kiểm soát” vì trong nghiên cứu trường hợp bạn không thao tác “các cách xử lý” hoặc kiểm soát bất cứ sự kiện nào của đời sống thực. Mặc dù có những phức tạp đó và những hoạt động khác nữa thì các thiết kế nghiên cứu đa trường hợp có những lợi thế quan trọng mà bạn cần phải xem xét:

Trước hết, bạn có thể chỉ rõ cho nhóm của mình rằng bạn có thể thực hiện được một quy trình nghiên cứu trường hợp hoàn chỉnh (chẳng hạn như thiết kế, chọn lọc, phân tích, và viết báo cáo) với nhiều nghiên cứu trường hợp, bằng cách xua tan mối ngờ vực là các kỹ năng của bạn chỉ có thể hạn chế vào nghiên cứu một trường hợp đơn. Về phương diện nhân sự điều đó đặc biệt quan trọng đối với bạn theo một nghĩa nào đó.

Thứ hai, bạn cũng có thể đáp trả một lối chỉ trích thường tình đối với các nghiên cứu đơn trường hợp - rằng đó là các nghiên cứu về một phương diện nào đó là duy nhất và có tính đặc ứng, và vì vậy mà chúng giới hạn giá trị vượt khỏi các hoàn cảnh của một nghiên cứu đơn trường hợp.

Thứ ba, bạn cần phải thực hiện một số dữ liệu so sánh khiêm tốn ngay cả khi các trường hợp được chọn là những trường hợp xứng đáng chấp nhận bằng cách giúp bạn phân tích các phát hiện của mình.

Tính đa dạng của các nguồn dữ liệu nghiên cứu trường hợp 

Công việc nghiên cứu trường hợp không bị giới hạn vào một nguồn dữ liệu duy nhất như trong việc sử dụng các bảng hỏi để tiến hành một nghiên cứu khảo sát. Trong thực tế các nghiên cứu trường hợp thành công được hưởng lợi từ việc có được nhiều nguồn dữ liệu làm cứ liệu. Hộp 2 liệt kê 6 nguồn cứ liệu thông thường. Bạn cũng có thể sử dụng các nguồn từ các cuộc thảo luận nhóm tập trung và các nguồn khác bên cạnh 6 nguồn này. Mối bận tâm chính không phải là ở chỗ sử dụng nguồn dữ liệu riêng biệt nào.

Điểm No. 6: Trong việc thu thập các dữ liệu nghiên cứu trường hợp, ý tưởng chủ yếu là sử dụng “ tam giác đạc” hoặc xác lập các tuyến hội tụ cứ liệu để làm cho các phát hiện của bạn có sức thuyết phục cao nhất.

Có thể vận dụng phép tam giác đạc này như thế nào? Mức độ hội tụ đáng mong muốn nhất xuất hiện khi hai hoặc nhiều hơn hai nguồn độc lập đều chỉ rõ một tập các trường hợp hoặc “sự kiện”. Chẳng hạn những gì có thể xảy ra trong cuộc họp khoa có thể được thông báo đến bạn (một cách độc lập) bởi hai giáo viên và người hiệu trưởng, và sau đó cũng có thể có những tư liệu nào đó của cuộc họp (chẳng hạn như việc ban hành một chính sách mới đã được đề tài của cuộc họp giả định trước). Tự thân bạn không thể có mặt trong cuộc họp nhưng tất cả các nguồn này giúp cho bạn tin tưởng hơn về việc kết luận những gì xảy ra hơn là bạn chỉ dựa vào một nguồn cứ liệu duy nhất.

Phép tam giác đạc không phải lúc nào cũng dễ sử dụng. Đôi khi chẳng hạn như lúc bạn phỏng vấn các giáo viên và hiệu trưởng, tất cả đều đưa ra cứ liệu về việc trường của họ hoạt động như thế nào - chẳng hạn sử dụng các giáo viên trợ giảng trong lớp như thế nào. Nhưng trong thực tế tất cả các giáo viên đó đều có thể lặp lại cùng một “chân ngôn” (mantra) thể chế được phát triển theo thời gian để nói với người bên ngoài (chẳng hạn phụ huynh và các nhà nghiên cứu). Chân ngôn tập thể này có thể không nhất thiết trùng hợp với các hoạt động thực sự của nhà trường. Việc xem xét các tư liệu có thể giúp bạn tiên đoán được loại tình huống này, và việc trực tiếp quan sát của bạn cũng có thể cực kỳ hữu dụng. Tuy nhiên khi dựa vào các quan sát trực tiếp cần phải chú ý đến vấn đề khác có thể xuất hiện. Vì bạn có thể đã có thời gian biểu trước về việc quan sát lớp học, một giáo viên có thể đã quyết định thay đổi các hoạt động thể chế vì chính cuộc viếng thăm của bạn. Vì vậy việc vào vai trò thực sự của các giáo viên trợ giảng trong lớp học hoặc ở một hoạt động khác nào đó của nhà trường có thể không hề dễ như chúng ta vẫn nghĩ.

Tuy nhiên bạn sẽ luôn luôn thành công hơn bằng cách sử dụng nhiều nguồn cứ liệu hơn là một nguồn duy nhất. Ưu tiên phương pháp luận này lại làm nảy sinh nhu cầu về các năng lực bất kỳ nào đó trong việc sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp: khả năng làm việc thành thạo của bạn với nhiều nguồn hoặc với các nguồn cứ liệu khác nhau vàkhả năng là chuyên gia trong việc xử lý những loại cứ liệu khác nhau. Một số nhà nghiên cứu bằng đào tạo hoặc ưu tiên có thể chỉ giải quyết một cách thoải mái với một loại cứ liệu - chẳng hạn như các cuộc phỏng vấn. Những người như vậy có thể có quá nhiều tác động đối với cái mà họ nghe được người khác nói, có thể họ không hề có khả năng tiến hành một cách triệt để việc tìm kiếm các cứ liệu hợp lý khác, và họ có thể không chú ý đầy đủ đến các loại cứ liệu khác. Trong ví dụ này nghiên cứu trường hợp tiếp theo có lẽ cần dựa trên các “báo cáo miệng” - chẳng hạn những gì mà hiệu trưởng nói là đã xảy ra chứ không phải là điều thực sự đã xảy ra. Bạn nên tránh dựa vào một cơ sở cứ liệu hẹp như vậy. Trong ví dụ này nghiên cứu của bạn sẽ thực sự là một nghiên cứu phỏng vấn mở (một biến thể khảo sát), mà không thực sự là một nghiên cứu trường hợp. Một cách kể về việc bạn thành thạo đến mức nào trong thu thập nhiều nguồn cứ liệu chính là quan sát sự chú tâm của bạn vào các kỹ thuật thu thập dữ liệu khác nhau - liệu bạn có theo kịp với các kỹ thuật tiên tiến chứ không phải là một kỹ thuật đơn giản không?

Không kể nguồn của nó, cứ liệu nghiên cứu trường hợp cũng có thể bao gồm cả hai loại dữ liệu định tính và định lượng. Các dữ liệu định tính có thể được coi là các dữ liệu không phải là các con số - chẳng hạn như thông tin xác thực có thể được thu thập và thể hiện một cách hệ thống; các dữ liệu định lượng có thể được coi là các dữ liệu có tính chất số - chẳng hạn như thông tin dựa trên việc sử dụng số thứ tự nếu không bị đứt quãng hoặc các thước đo tỷ lệ. Cả hai loại dữ liệu đều có thể có độ phức tạp cao đòi hỏi các kỹ thuật phân tích vượt khỏi những hạng mục tính toán đơn giản.

Cùng với khả năng sử lý các nguồn cứ liệu khác nhau của mình, bạn cũng sẽ cảm thấy thuận lợi và yên tâm làm việc với cả các dữ liệu định tính lẫn định lượng. Chẳng hạn một số nghiên cứu trường hợp – như nghiên cứu về khuynh hướng thành công của học sinh một quận theo thời gian – có thể chủ yếu là thông tin định lượng. Các nghiên cứu trường hợp khác, chẳng hạn các chiến lược nhấn mạnh vào bước khởi đầu của một giám thị hỗn hợp nhà trẻ suốt ngày, các chương trình học chữ khi còn nhỏ, và các khoá học bố trí tân tiến để thúc đẩy cải cách giáo dục - lại có thể chủ yếu là định tính. Nhưng các nghiên cứu trường hợp khác - chẳng hạn như việc chứng minh thành tích của học sinh đã được cải thiện như thế nào khi kết hợp với các sáng kiến – thì lại có thể đòi hỏi cả định tính lẫn định lượng.

Một nhận xét quan trọng khác về cứ liệu nghiên cứu trường hợp: bạn cần phải trình bày cứ liệu trong nghiên cứu trường hợp của mình một cách rõ ràng để cho phép người đọc đánh giá một cách độc lập việc lý giải dữ liệu của bạn. Các nghiên cứu trường hợp cũ thường trộn lẫn cứ liệu với lý giải. Cách làm này vẫn có thể tha thứ được khi tiến hành một nghiên cứu trường hợp duy nhất hoặc một nghiên cứu trường hợp khai mở, vì các tri thức mô tả có thể quan trọng hơn là việc biết được thế mạnh của cứ liệu cho các hiểu biết như vậy. Tuy nhiên đối với hầu hết các nghiên cứu trường hợp việc trộn lẫn cứ liệu và giải thích có thể được coi là một dấu hiệu chứng tỏ bạn không hiểu sự khác biệt giữa hai hoặc loại đó hoặc bạn không biết cách xử lý dữ liệu (và vì vậy mà đã vội vã đưa ra các lý giải).

Khi tiến hành nghiên cứu trường hợ, bạn nên thực hiện theo cách trình bày cứ liệu cổ điển: xây dựng các bảng biểu, sơ đồ, biểu đồm các con số và các vật trưng bày khác (thậm chí kể cả hình ảnh), và các hoạ tiết minh họa. Các chú thích, trích dẫn từ các cuộc phỏng vấn, trật tự niên đại và các câu hỏi - trả lời trong các câu truyện cũng rất thích hợp miễn là chúng là một tập hợp tách rời khỏi phần tự sự giải thích của bạn. Bất luận cách trình bày dữ liệu nào thì cấu trúc hoặc hình thức sắp xếp dữ liệu phải phản ánh được mối quan tâm bao quát đối với việc trình bày dữ liệu một cách ngay thẳng. Cần có một đoạn mô tả ngắn gọn cách thức thu thập cứ liệu bao gồm cả việc sử dụng công cụ thu thập dữ liệu chính thức (giao thức nghiên cứu trường hợp).

Điểm No. 7: Các nghiên cứu trường hợp nên trình bày dữ liệu một cách chính thức và rõ ràng bằng hàng loạt cách trình bày dữ liệu khác nhau độc lập với phần tự sự (narrative) của nghiên cứu trường hợp. 
______________________________________


Tài liệu tham khảo

Bock, Edwin A., and Alan K. Campbell (eds.), Case Studies in American Government: The Inter-University Case Program, Prentice-Hall, Englewood Cliffs, NJ, 1962.

Bromley, D.B., The Case-Study Method in Psychology and Related Disciplines, John Wiley, Chichester, Great Britain, 1986.

Campbell, Donald T., “‘Degrees of Freedom’ and the Case Study,” Comparative Political Studies, 1975, 8:178-193.

Christensen, C. Roland, and Abby J. Hansen, Teaching and the Case Method: Text, Cases, and Reading, Harvard Business School, Boston, MA, 1981.

Cook, Thomas D., and Monique R. Payne, “Objecting to the Objections to Using Random Assignment in Educational Research,” in Frederick Mosteller and Robert Boruch (eds.), Evidence Matters: Randomized Trials in Education Research, Brookings Institution Press, Washington, DC, 2002, pp. 150-178.

Gomm, Roger, Martyn Hammerlsey, and Peter Foster, “Case Study and Generalization,” in Roger Gomm, Martyn Hammerlsey, and Peter Foster (eds.), Case Study Method: Key Issues, Key Texts, Sage, Thousand Oaks, CA, 2000, pp. 98-115.

Hammersley, Martyn, and Roger Gomm, “Introduction,” in Roger Gomm, Martyn Hammerlsey, and Peter Foster (eds.), Case Study Method: Key Issues, Key Texts, Sage, Thousand Oaks, CA, 2000, pp. 1-16.

Keeves, John P., Educational Research, Methodology, and Measurement: An International Handbook, Pergamon Press, Oxford, England, 1988.

Mitchell, J. Clyde, “Case and Situation Analysis,” in Roger Gomm, Martyn Hammerlsey, and Peter Foster (eds.), Case Study Method: Key Issues, Key Texts, Sage, Thousand Oaks, CA, 2000, pp. 165-186. Originally published in Sociological Review, 1983, 31:187-211.

Pigors, Paul, and Faith Pigors, Case Method in Social Relations: The Incident Process, McGraw- Hill, New York, NY, 1961.

Platt, Jennifer, “‘Case Study’ in American Methodological Thought,” Current Sociology, Spring 1992, 40(1):17-48.

Shavelson, Richard J., and Lisa Towne (eds.), Scientific Research in Education, National Academy Press, Washington, DC, 2002.

Sieber, Samuel D., “The Integration of Fieldwork and Survey Methods,” American Journal of Sociology, 1973, 78:1335-1359.

Simons, Helen, “The Paradox of Case Study,” Cambridge Journal of Education, 1996, 26:225- 240.

Stake, Robert E., “Case Studies,” in Norman K. Denzin and Yvonna S. Lincoln (eds.), Handbook of Qualitative Research, Sage Publications, Thousand Oaks, CA, 1994, pp. 236-247.

Stake, Robert E., “Case Study Methods in Educational Research: Seeking Sweet Water,” in Richard M. Jaeger (ed.), Complementary Methods for Research in Education, American Educational Research Association, Washington, DC, 1988, pp. 253-300.

Stake, Robert E., “Case Study Methods in Educational Research: Seeking Sweet Water,” in Richard M. Jaeger (ed.), Complementary Methods for Research in Education, American Educational Research Association, Washington, DC, 1997, 2nd edition, pp. 401-427.

Stenhouse, L., “Case Study Methods,” in John P. Keeves (ed.), Educational Research, Methodology, and Measurement: An International Handbook, Pergamon Press, Oxford, England, 1988, pp. 49-53.
Van Maanen, John, Tales of the Field: On Writing Ethnography, The University of Chicago Press, Chicago, IL, 1988.

Yin, Robert K., Applications of Case Study Research, Sage, Thousand Oaks, CA, 2003a, 2nd edition.

Yin, Robert K., Case Study Research: Design and Methods, Sage, Thousand Oaks, CA, 2003b, 3rd edition.

Yin, Robert K., “The Abridged Version of Case Study Research,” in Leonard Bickman and Debra J.

Rog (eds.), Handbook of Applied Social Research, Sage, Thousand Oaks, CA, 1998, pp. 229-259.

Yin, Robert K., The Case Study Anthology, Sage, Thousand Oaks, CA, 2004.

Yin, Robert K., “Evaluation: A Singular Craft,” in Charles Reichardt and Sharon Rallis (eds.), New Directions in Program Evaluation, 1994, pp. 71-84.