Powered By Blogger

Thứ Ba, 29 tháng 6, 2021

Văn bản Chuyển động: Trở về với Sử tính và Tính văn bản (II)

Kristin Asdal and Helge Jordheim1

Người dịch: Hà Hữu Nga

Trong mắt Derrida, khiếm khuyết chính của tư tưởng phương Tây về giao tiếp bằng văn tự là ở việc tưởng tượng rằng không gian giao tiếp mở rộng này thực sự là “đồng nhất”, và những gì thay đổi chỉ là phương tiện, “các môi giới kỹ thuật mạnh mẽ, ở một khoảng cách xa hơn.”42 Tuy nhiên, ý nghĩa, về mặt đại diện cho suy nghĩ, ý tưởng và ý định của mọi người, ít nhiều vẫn như nhau. Điều này xảy ra “trong một phương tiện mà về cơ bản vẫn liên tục và tự đồng nhất, một yếu tố đồng nhất mà qua đó nhất tính và tổng thể tính của ý nghĩa sẽ không bị ảnh hưởng về bản chất của nó.”43 Là một đại diện cho quan điểm này về văn bản viết, Derrida trích dẫn Nhà triết học Pháp thế kỷ XVIII Condillac, rằng viết là một vấn đề của “nền kinh tế cơ học: đạt được hoặc tiết kiệm được không gian và thời gian nhiều nhất có thể bằng cách viết tắt thuận tiện nhất.”44 Vì vậy, Condillac tiếp tục, “viết sẽ không bao giờ có hiệu lực yếu nhất lên cấu trúc hoặc nội dung của nghĩa (ý tưởng) mà nó được cho là truyền tải.”45 Ngôn ngữ trở thành một vấn đề đơn thuần về sự đại diện, chính xác hơn là nền kinh tế của sự đại diện, từ chữ tượng hình Ai Cập đến các ký tự Latinh, qua ký hiệu Hán tự - mặc dù không có hệ thống ký hiệu nào trong số này có bất kỳ ảnh hưởng nào đến nghĩa hoặc bản thân giao tiếp.

Cả Condillac và Derrida đều hiểu văn bản viết được đặc trưng bởi sự vắng mặt. Đối với Condillac, đó là sự vắng mặt của người nhận: “Người ta viết để thông báo điều gì đó cho những người vắng mặt.”46 Nhưng đối với Derrida, một đặc điểm nổi bật hơn của văn bản viết là sự vắng mặt của người gửi: văn bản viết đó “tự cắt đứt” khỏi người khởi xướng nó, và “tiếp tục tạo ra các hiệu ứng độc lập với sự hiện diện của ông ta và thực tính hiện diện của ý định của ông ta, thực sự ngay cả sau khi ông ta qua đời.”47 Đóng góp của văn bản viết bao gồm việc mang lại cho ngôn ngữ một tính di động cụ thể, cắt đứt khỏi cả người gửi và người nhận, và thậm chí khỏi cả ngữ cảnh và bộ mã. Thật vậy, vai trò cụ thể của chữ viết là cắt đứt ngôn ngữ khỏi cái mà nó ban cấp nghĩa và biến nó thành một thứ gì đó — một đơn vị hoặc một gói — có thể luân chuyển trong một không gian mở rộng. Nó có đặc điểm là đồng thời di động và lặp đi lặp lại; nó liên quan đến “sự phá vỡ quyền hạn của bộ mã như một hệ thống quy tắc” cũng như “sự phá hủy triệt để bất kỳ bối cảnh nào với tư cách là giao thức của mã.”48

Như chúng ta đã thấy, một điểm tham chiếu quan trọng, và thực sự đã được chia sẻ, đối với Derrida và Latour là cách họ đề cao vai trò quan trọng đối với việc thực hành viết. Như đã nói ở trên, trong công trình của Latour, việc khắc ghi chỉ ra một cách thực hành cụ thể, điều cốt yếu liên quan đến việc viết một thứ gì đó thành một thứ khác và do đó cho phép nó di chuyển từ nơi này sang nơi khác. Sau đó, quan trọng hơn, viết là một thực hành vừa ổn định vừa cho phép chuyển động, hoặc tính di động.

Do đó, cả Derrida và Latour đều quan tâm đến tính di động. Ở Derrida, văn bản được làm cho di động bằng cách viết hoàn toàn tách rời khỏi các tọa độ giao tiếp gốc của nó, tức là người gửi và bối cảnh. Văn bản được ném vào thế giới và đồng thời tách rời khỏi ý nghĩa ban đầu được khắc ghi vào nó. Theo cách tương tự, Latour bác bỏ việc vận chuyển ý nghĩa như là chức năng chính của văn bản hoặc việc ghi chép. Trong khi Derrida cụ thể hóa văn bản như một trò chơi liên tục của những khác biệt và biểu hiện của sự vắng mặt, thì Latour lại chủ yếu quan tâm đến tác dụng của các văn bản hoặc việc ghi chép. Trọng tâm của ông hướng đến năng lực biến đổi thế giới của văn bản viết: làm thế nào văn bản, trong khi trở nên ổn định, lại đồng thời trở nên di động hoặc có thể vận chuyển. Tuy nhiên, điều này có liên quan mật thiết đến mối quan tâm về việc làm thế nào việc ghi chép gắn liền được với các tham vọng, kế hoạch và dự án của các tác nhân cá nhân hoặc tập thể. Khi lập luận chống lại những gì ông cho là “quan điểm thần bí của Derrida về những quyền năng được cung cấp bởi vật liệu ký hiệu,49 Latour cho rằng sở thích độc quyền đối với việc viết (và hữu hình hóa) “là thiển cận, thậm chí có thể phản tác dụng. 50

Chúng ta hãy xem xét kỹ hơn một trong những ví dụ cốt lõi của ông để phác họa lập luận của ông: sự kiện lịch sử khi viên sĩ quan hải quân Pháp và nhà thám hiểm Bá tước La Pérouse thay mặt vua Louis XVI đến Nam Thái Bình Dương với sứ mệnh mang một thứ gì đó trở về: một bản đồ rõ ràng hơn. Bước chân lên đảo Sakhalin, La Pérouse gặp một nhóm người Trung Quốc và cố gắng học hỏi từ họ xem đó là một hòn đảo hay bán đảo. Một người trong số họ vẽ bản đồ hòn đảo trên cát cho ông ta xem. Tuy nhiên, thủy triều đang dâng lên và một người khác đã dùng bút chì vẽ một bản đồ tương tự vào cuốn sổ ghi chép của La Pérouse. Đó là cuốn sổ ghi chép có cái bản đồ được vẽ ra, và sau đó La Pérouse đã mang về nhà cho vị hoàng đế của mình.

Latour nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ghi chép và thiết bị ghi chép đối với tích truyện này. Bản đồ được hiển thị di động bằng cách được ghi vào một cuốn sổ nhỏ, mà La Pérouse có thể mang về Versailles, là minh họa cho những gì mà các thiết bị ghi chép có thể làm được. Như Latour đã viết, “nếu không có hàng tá đổi mới trong cách ghi chép, trong phép chiếu, trong việc viết, lưu trữ và tính toán, thì chuyến đi của ông ấy qua Thái Bình Dương sẽ hoàn toàn phí hoài.”51 Tuy nhiên, và đây là lúc Latour quay lưng lại với Derrida, điều này không tự nó trở nên đầy đủ “Ông ấy viễn du qua tất cả những nơi ấy, để mang một thứ gì đó trở về Versailles, nơi mà nhiều người mong đợi tấm bản đồ của ông để xác định ai đúng ai sai về việc Sakhalin có phải là một hòn đảo hay không, ai sẽ sở hữu phần này hay phần kia của thế giới, và những con tàu sau đó sẽ đi theo các tuyến đường nào”52. Theo Latour, nếu không có bối cảnh cụ thể này, thì mối quan tâm của La Pérouse đối với các ghi chép sẽ không thể hiểu được.

Do đó, có hai điểm cần được đưa ra: Thứ nhất, trái ngược với Derrida, Latour cho rằng các ghi chép không thể được hiểu một cách chính xác, cũng như chúng cũng không đáng để quan tâm, nếu không có người gửi hoặc không có mối quan tâm làm cho chúng trở nên hiện hữu. Đây là một điều thú vị nhưng vẫn có phần bí ẩn trong lập luận của Latour. Trong suốt công trình của mình, bao gồm cả phần đầu mà chúng ta rút ra ở đây, Latour bác bỏ những diễn giải nhận thức luận, và cả những giải thích mang tính xã hội trên quy mô lớn, chẳng hạn như chủ nghĩa tư bản. Về cách tiếp cận nhận thức luận, ông theo các nhà phê bình văn học như Wimsatt và Beardsley cũng như triết gia Gadamer khi cho rằng chúng ta không thể tiếp cận đời sống nội tâm, động cơ và suy tư của các tác nhân. Nhưng không giống như những phương pháp của những người khác, cách tiếp cận của Latour hoàn toàn mang tính thực nghiệm. Theo một cách nào đó, đến lượt dữ liệu thực nghiệm cung cấp cho Latour một lối thoát khỏi những nghịch lý Derridean và những phân vân về văn bản viết. Về phương pháp luận, điều này ngụ ý rằng chúng ta có thể kiểm tra hoặc chỉ theo dõi những gì để lại dấu vết.

Điều này gắn liền với mục tiêu vận động. Tất cả các ghi chép xuất hiện trong chuyến du hành của La Pérouse sẽ bị phí hoài nếu “chúng không giúp kiểm chứng, định hướng và lôi kéo các đồng minh mới và bất ngờ.”53 Nói cách khác, tất cả chỉ nhằm buộc “những người bất đồng chính kiến ​​tin vào những sự thật mới và hành xử theo những cách mới.”54 Latour quan tâm đến cách thức mà các ghi chép tham gia vào việc huy động các đồng minh. Câu hỏi quan trọng là làm thế nào người gửi có thể đảm bảo trả lại những gì ban đầu đã được gửi vào thế giới: “Bạn phải ra đi và quay trở về với 'những gì đó' sao cho chuyến viễn du của bạn không bị phí hoài.”55 Theo cách này Derrida và Latour đi đến những kết luận hoàn toàn khác nhau: Trong khi đối với Derrida, các ghi chép, nói cách khác, các văn bản, không để lại dấu vết của cả người gửi hoặc người đọc chúng, thì đối với Latour, các ghi chép lại trở thành một phần của chuỗi lưu thông hoặc, như ông đã nói ở chỗ khác, một tham chiếu lưu chuyển.56

Trong bối cảnh này, một khái niệm khác trong công trình của Latour trở nên quan trọng, đó là cái “di động bất biến”: “Những gì” được mang về phải “làm cho chuyến trở về không bị hoài phí.”57 Điều này muốn nói rằng “bạn phải phát minh ra các đối tượng có đặc tính di động, nhưng cũng bất biến, có thể trình hiện, có thể đọc đượccó thể kết hợp với nhau.”58 Trong khi đối với cả Derrida và Latour thì tính di động được hiểu là chất lượng của văn tự với tư cách là một thực hành ký hiệu học, thì việc tập trung vào tính bất biến sẽ chuyển sự chú ý tới tính vật chất của các văn bản hoặc những ghi chép được đề cập. Để phân tích tầm quan trọng khả thể của sự thay đổi này đối với các ngành học lịch sử, chúng tôi sẽ thiết lập một cuộc gặp gỡ giữa ký hiệu học vật chất và truyền thống thứ ba được gợi ra trong bài viết này: nghiên cứu văn hóa in ấn và lịch sử sách vở.

Bước ngoặt In ấn: Từ Vật chất Được in đến các Di động Bất biến

Các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và lý thuyết liên kết với nghiên cứu khoa học và công nghệ theo phương pháp thực nghiệm, dân tộc chí mượn cách tiếp cận cốt lõi của chúng từ các bộ môn lịch sử và văn học. Điều này không có nghĩa là phòng thí nghiệm bị quy giản hoặc làm phẳng thành văn bản (nếu chúng ta chọn cách hiểu các văn bản đối lập với thực tế ngoài văn bản). Khái niệm “ghi chép” được xác lập như một phần của hệ thống chuyển dịch cho phép các thực thể vật chất lưu thông và di động, di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Các chất liệu liên tục di chuyển và được chuyển dịch liên tục khi chúng được ghi chép vào các thiết bị mới. Điều này ngụ ý một cách tiếp cận vật chất-ký hiệu học, trong đó các thiết bị văn liệu là các tác nhân của sự thay đổi. Các thực hành mà Latour và các đồng nghiệp của ông đặt ra để nghiên cứu được hiểu là các thực hành biến đổi-thế giới, một loạt biến đổi và chuyển đổi tham gia vào việc thay đổi hiện thực. Do đó ký hiệu học được phát triển thành một cách tiếp cận hữu thể luận: Các ghi chép văn liệu là những thiết bị mà qua đó thế giới được sửa đổi và biến đổi. Những sửa đổi cụ thể và liên tục này chính là đối tượng nghiên cứu thực sự.

Sau bước ngoặt ngôn ngữ học và bước ngoặt văn tự, thời điểm thứ ba chúng ta sẽ phân tích ở đây là bước ngoặt in ấn. Giai đoạn này được đặt ra vào đầu những năm 1960 khi Marshall McLuhan xuất bản Thiên hà Gutenberg, trong đó ông mô tả bằng những gợi ý về cách phát minh ra thể loại có thể di chuyển đã làm biến đổi cách giao tiếp của chúng ta, và cuối cùng biến đổi cách suy nghĩ của chúng ta.59 Ngoài việc phân tích hiệu ứng vật chất của công nghệ in ấn, McLuhan còn nhấn mạnh vào những thay đổi xã hội và chính trị theo sau cuộc cách mạng công nghệ ấy. Trong dự án này, ông đã được nhà sử học người Mỹ Elizabeth Eisenstein kế tục, cô đã đưa những ý tưởng cao cả của McLuhan vào thực tiễn lịch sử trong nghiên cứu uy tín của mình về sự chuyển đổi từ “văn hóa viết tay” sang “văn hóa in”, The Printing Press as a Agent of Change – Máy in như một Tác nhân Thay đổi, từ năm 1979.60

Đối với Eisenstein, việc phát minh ra công nghệ in được coi là một “cuộc cách mạng chưa được thừa nhận” về cơ bản không chỉ biến đổi việc buôn bán và lưu thông sách và các sản phẩm in ấn khác, mà còn biến đổi toàn bộ cấu trúc xã hội và trí tuệ của Tây Âu. Theo lời kể của Eisenstein, sau năm 1600, tất cả những đột phá lớn trong khoa học, tôn giáo hoặc thương mại đều phụ thuộc vào công nghệ in ấn.61 Mặc dù chịu tác động mạnh mẽ từ phần chính yếu của công trình này, nhưng một số khả tính lý thuyết vẫn chưa được khám phá và thảo luận. Lĩnh vực lịch sử sách vở thường khá thực chứng cho đến nay đã cho thấy tình trạng thiếu quan tâm đến các hàm ý lý thuyết khả thể của công trình mang tính mở đường của Eisenstein. Hơn nữa, cuộc cách mạng in ấn đã tranh thủ được những gợi ý mang tính quyết định luận bởi các lý thuyết hiện đại hóa quy mô lớn.62 Vì vậy, có lẽ rất đáng ngạc nhiên, và cũng dễ bị lãng quên bởi một thực tế là khi Latour, nổi tiếng với lập luận cho rằng “chúng ta chưa bao giờ hiện đại,”63 đã phát triển khái niệm “di động bất biến” và giới thiệu các khái niệm “các ghi chép” và “các thiết bị ghi chép”, thì ông lại chuyển sang nghiên cứu văn hóa in ấn. Ví dụ cốt lõi mà ông viện đến chính là công trình của Eisenstein.64

Trong công trình của mình, Eisenstein khám phá cách thức mà ba chuyển đổi lớn về xã hội và trí tuệ ở Châu Âu Thời kỳ Hiện đại sớm — Phục hưng, Cải cách và Cách mạng Khoa học — tất cả đều phụ thuộc đáng kể vào việc triển khai công nghệ in ấn, diễn ra dần dần và theo các quỹ đạo không gian-thời gian phức tạp từ năm 1600 trở đi. Dự đoán trước chỉ trích của Latour đối với những giải thích “tâm thần luận” và chủ nghĩa cá nhân, Eisenstein nhấn mạnh rằng cuộc cách mạng in ấn không thể được quy cho bất kỳ người nào hoặc một thời điểm phát minh nào, mà nó diễn ra ở các nhà in khác nhau phân bố trên khắp lục địa Châu Âu trong hơn một thế kỷ.65 Nổi bật là thứ mà cô gọi là “văn hóa in ấn”, thay thế cho, mặc dù với tốc độ khác nhau và trong một thời gian dài, “văn hóa viết tay”. Thay đổi này được mang lại bởi ba đặc điểm đặc trưng của các văn bản in ấn: chúng có thể được phổ biến, tiêu chuẩn hóa và cố định.66 Bằng công nghệ in, Eisenstein tuyên bố, sách đã xâm nhập thị trường và do đó bất cứ ai có đủ khả năng cũng có thể mua được, kể cả bằng những khổ đôi xa xỉ hay bằng những khổ tư quartos hoặc khổ tám octavos ít tốn kém hơn. Nhưng quan trọng là, chúng có thể được chuẩn hóa, chẳng hạn bằng cách in và kèm theo các bảng kê lỗi in ấn, trong trường hợp người thợ sắp chữ thực sự mắc lỗi. Điều đạt được, chí ít là nói một cách lý tưởng, chính là cái mà Eisenstein gọi là “tính cố định kiểu chữ”, có liên quan chặt chẽ đến ý tưởng của Latour về “thiết bị di động bất biến.”67 Việc triển khai “tính cố định kiểu chữ” hoặc “những di động bất biến” cho phép các học giả của Respublica literaria nền cộng hòa chữ nghĩa thế kỷ XVII so sánh các phép đo và kết quả thu được của các đồng nghiệp trên khắp châu Âu, để xem chúng ăn khớp như thế nào với các ghi chú và quan sát của riêng họ. Nói cách khác, chúng ta có một trường hợp về cái mà Latour gọi là “gia tốc của sự dịch chuyển không có biến đổi,”68 theo đó các mẩu thông tin, thu được bằng các phương pháp khoa học khác nhau, di chuyển từ một nơi trong nền cộng hòa chữ nghĩa, từ một bàn viết của học giả, từ một đài quan sát, hay nói theo cách hiện đại hơn là từ phòng thí nghiệm này sang phòng thí nghiệm khác, mà không bị khác đi, bị sai lạc hoặc bị biến đổi trong suốt cuộc hành trình.

Nhiều lời chỉ trích đã nhắm vào cả Eisenstein và vào việc Latour sử dụng công trình của cô để phát triển cái “di động bất biến”, có thể là kiên định nhất từ một sử gia khoa học khác, cũng là một sử gia về cuốn sách, Adrian Johns.69 Nói chung, hầu hết độc giả của Eisenstein, bao gồm cả Latour, đều đồng ý rằng cô coi công nghệ in ấn như một thứ gì đó sui generis đặc biệt, gia nhập vào lịch sử từ bên ngoài và thay đổi nó, mà bản thân công nghệ lại không được lịch sử hóa một cách chính xác. Nhưng lời chỉ trích của Johns cũng nhắm vào ý tưởng về tính cố định, và đặc biệt là chống lại việc sử dụng Tycho Brahe của Eisenstein và Latour để minh họa cách thức hoạt tác tính cố định của các văn bản in ấn. Bởi vì ông có toàn quyền sử dụng các phiên bản in của cả hai hệ thống Copernic và Ptolemaic, họ lập luận, nên ông có thể phát hiện ra những bất nhất nghiêm trọng. Sau đó, ông chỉnh sửa dữ liệu, tạo ra một kho dữ liệu hệ thống mới, in ra và phổ biến trên khắp nền cộng hòa chữ nghĩa, toàn bộ thời gian khi bản thân ông ở lại lâu đài Uraniborg của mình trên hòn đảo nhỏ Hven của Đan Mạch, ngay phía bắc Copenhagen, do đó hoàn toàn dựa vào “tính cố định” và “tính bất biến” của các tác phẩm in cũng như việc phổ biến chúng bằng thương mại sách.70 Tương phản với phiên bản lý tưởng hóa này của Tycho Brahe là “hiện thân của trật tự văn bản, xã hội và nhận thức”,71 Johns đấu lại một phiên bản khác của vị học giả Đan Mạch, vốn đã không sản xuất hàng loạt các bản sao giống hệt để phân phối và đem bán; thay vào đó, ông đã tạo ra những ấn bản độc nhất, thường được tô màu bằng tay, “hầu như không hề nhằm mục đích xuất bản mà chỉ được đưa ra làm quà tặng cho những người bảo trợ tại các triều đình và các đại học.”72

Sau lời chỉ trích của Johns, có thể có những lý do chính đáng để nghi ngờ hình ảnh của Tycho Brahe với tư cách là “hiện thân của văn hóa in ấn”;73 tuy nhiên, đối với lập luận mà chúng tôi quan tâm ở đây, thì các lập luận và ví dụ phản bác dường như lại để củng cố cho khẳng định chủ yếu. Ở trên, chúng ta đã thảo luận, liên quan đến các văn bản và các đại diện văn bản, về tính di động không thể được thảo luận nếu không tham chiếu đến việc huy động — nói cách khác, sự di chuyển của các đại diện văn bản từ nơi này đến nơi khác, từ người gửi đến người nhận, phục vụ cho việc huy động người nhận vì lợi ích của người gửi. Trong cái mà Latour gọi là “cuộc chạm trán cam go giữa hai tác giả”, người chiến thắng nổi lên là người “có thể lập tức tập hợp được số lượng lớn nhất các đồng minh trung thành và thống nhất.”74 Việc viết và thậm chí hơn thế, việc in ấn và phổ biến văn bản chứng minh một cách hiệu quả “làm cho tình huống gay cấn này trở nên thuận lợi hơn.”75 Như đã thấy, đây chính là những gì Tycho Brahe đã làm khi ông chọn một ấn bản màu thủ công, độc bản để gửi cho những người bảo trợ của mình, nhằm biến họ thành đồng minh của ông trong cuộc đấu tranh chính trị, tôn giáo và khoa học sắp tới.

Công trình sớm của Latour, đúng ra, đã bị chỉ trích chính vì cách tiếp cận trên, trong đó mọi thứ, hoặc có vẻ như vậy, bắt đầu bị quy giản thành vấn đề về cuộc tranh giành quyền lực,về việc huy động và tạo đồng minh — bằng các phương tiện vật chất-ký hiệu học.76 Hơn nữa về phương diện triết học, cái làm nền tảng cho công trình của Latour chính là điều ông đã mô tả ở nơi khác là “sở thích đầy đam mê.”77 Do đó, các sở thích, hoặc có thể một từ rõ hơn là năng lượng, thúc đẩy hành động; không có đam mê, hoặc các sở thích, sẽ không có gì xảy ra. Như Latour đã nói trong công trình Pasteu hóa nước Pháp, “Tôi chỉ nói về những điểm yếu muốn tăng sức mạnh của chúng. Những thứ khác không thể quy giản được phải cần đến các nhà thơ hơn là các nhà triết học.” Ở trung tâm của cuộc tranh giành quyền lực này, Latour đặt cái di động bất biến, việc ghi chép văn học, hoặc theo các thuật ngữ ngôn ngữ học hoặc văn học, là một văn bản. Mục tiêu nghiên cứu của ông là khám phá cách thức chúng di chuyển, cách thức chúng luân chuyển. Trong các công trình mới đây, Latour đã đề xuất cụm từ “tham chiếu lưu hành” để khám phá và chứng minh tầm quan trọng của việc xác định dấu vết đối với việc xây dựng các sự kiện.79 

Cái đang được truy vết chính là phương thức lưu thông cụ thể tạo nên một thực tiễn riêng biệt, ví dụ khoa học chẳng hạn. Để vạch lại những gì chúng tôi đã chỉ ra ở trên, đây là chỗ mà Derrida và Latour đi đến những kết luận rất khác nhau: Trong khi đối với Derrida, các ghi chép (inscriptions) được để lại không có dấu vết của cả người gửi lẫn người đọc, đối với Latour, các ghi chép là một phần của các chuỗi chuyển dịch, chúng đang lưu hành các tham chiếu ở nơi mà điểm ấy chính xác là cái mà chúng tham chiếu trở lại nơi chúng xuất phát. Điều này quan trọng đối với câu hỏi về người gửi. Nhưng điều quan trọng không kém khi nói đến mối quan hệ giữa văn bản và bên ngoài của nó, cái hors-texte – ngoài văn bản, theo thuật ngữ của Derrida: Lập luận không phải là cái mà văn bản phản ánh hoặc vận chuyển trực tiếp cái mà văn bản tham chiếu, vào dòng chữ, nhưng là cái mà đối tượng văn bản nói về nó, được chuyển dịch thành một văn bản hoặc một thiết bị ghi chép, nói chung. Không thể thiếu cho quá trình chuyển dịch này chính là một loạt sửa đổi cho phép đối tượng được di chuyển, được chuyển dịch sang một phương tiện hoặc thiết bị ghi chép mới. Do đó, điều này chỉ ngược trở lại công trình hữu thể luận mà chúng ta đã đề cập ở trên liên quan đến Greimas: Trái ngược hoàn toàn với các cách tiếp cận liên quan đến các văn bản và không có gì ngoài văn bản, cách tiếp cận này lại quan tâm triệt để đến cách thức mà việc tạo dựng-thế giới thực sự xảy ra theo cách của công việc-văn bản hoặc công việc-thiết bị ghi chép. Do đó, không có sự đối lập giữa cái thuộc về chất liệu và cái mang tính văn bản; mọi thứ đồng thời là vật chất và ký hiệu.

Đối với Latour, các ghi chép tự thân không phải là điều thú vị mà chỉ vì chúng làm tăng tính di động và tính bất biến của các dấu hiệu. Để đưa ra lập luận này, ông chỉ ra công trình của Eisenstein, theo cách nói của Latour, cô ấy coi máy in là một thiết bị vận động: “một thiết bị đồng thời làm cho vận động và bất biến trở nên khả thể.”80 Tính bất biến được đảm bảo bởi quy trình in nhiều bản giống nhau; tính di động được đảm bảo bởi số lượng bản sao, giấy và loại có thể di chuyển được. Như Latour đã nói, “các mối liên hệ giữa các địa điểm khác nhau trong thời gian và không gian hoàn toàn bị sửa đổi bởi khả năng tăng tốc tuyệt vời này của các thứ di động bất biến luân chuyển khắp mọi nơi theo mọi hướng ở Châu Âu.”81

Trong cách đọc của Latour về Eisenstein, tác dụng của lập luận của cô là biến đổi những giải thích tâm thần luận thành lịch sử của những di động bất biến: Trước khi có máy in, không có điều gì xảy ra, ngay cả khi về nguyên tắc mọi thứ đều đạt được: “Nhưng mỗi thành tựu chỉ là cục bộ và tạm thời chỉ vì không có cách nào để di chuyển kết quả của chúng đến nơi khác và mang về kết quả của những người khác mà không có những hư hỏng hoặc lỗi mới xuất hiện.”82 Sau cuộc cách mạng in ấn, các ghi chép văn liệu, hay nói ngắn gọn là các văn bản, đã trở thành những di động bất biến, tốc độ di chuyển ngày càng tăng, và số lượng ngày càng tăng trên khắp không gian châu Âu và toàn cầu. Và ở nơi chúng xuất hiện, chúng làm cho các sự kiện và chuỗi sự kiện khác trở nên chuyển động: các sự kiện chính trị, sự kiện khoa học hoặc các sự kiện công nghệ đều có tác động biến đổi đối với kết cấu lịch sử.

Kết luận: Tính văn bản và Sử tính

Trong tiểu luận này, trước tiên, chúng tôi đặt định để chỉ ra các xu hướng trí tuệ thống trị trong các ngành khoa học nhân văn, chẳng hạn như ngôn ngữ học cấu trúc luận và phê bình văn học, và sau đó, thay vào đó, thuộc về lịch sử sách vở, có thể được cho là trùng lặp theo những cách đáng kể với một trong những xu hướng có ảnh hưởng và gây tranh cãi nhất trong khoa học xã hội của những thập kỷ gần đây: lý thuyết-mạng-tác nhân, hay nói đúng hơn, bằng thành ngữ mà chúng ta đã áp dụng ở đây là ký hiệu học vật chất. Và thứ hai, chúng tôi muốn khám phá cách thức những sự chồng chéo này, được đọc một cách hệ thống qua lăng kính của ba “bước ngoặt” ngôn ngữ, chữ viết và in ấn, đưa ra khuôn khổ cho một lý thuyết thay thế về tính văn bản và sử tính, tập trung vào tính di động và các biến đổi hơn là tính ổn định và các diễn giải. Cuối cùng, cái mà chúng tôi đề xuất là một cách tiếp cận các văn bản, có liên quan như nhau đối với các ngành lịch sử và nhân học, tập trung vào tính vật chất, tính di động và biến đổi, đồng thời cho phép chúng ta nghiên cứu và thảo luận về sử tính theo những cách thức mới — nói cách khác: một tập hợp các đổi mới về phương pháp luận, tương đương với một lý thuyết mới và khác biệt về lịch sử.

Những cuộc chạm trán giữa ký hiệu học vật chất, theo đề xuất của Latour và những thứ khác, và các bước ngoặt ngôn ngữ, chữ viết và in ấn, được Saussure, Derrida và Eisenstein làm thành mẫu mực, đã cung cấp những nguồn lực quan trọng cho việc viết lịch sử, cả về phương pháp luận và lý thuyết. Mặc dù các văn bản đóng một vai trò quan trọng trong nghiên cứu lịch sử, nhưng các sử gia vẫn lo ngại rằng việc chú mục hơn đến tính văn bản của các nguồn sử liệu sẽ khiến họ tránh xa những vấn đề cấp bách hơn liên quan đến các sự kiện lịch sử và những thay đổi xã hội và chính trị. Chừng nào các văn bản được coi là có đặc điểm ổn định về cấu trúc, tính đóng kín hệ thống và tính tự tham chiếu nội tại, thì vẫn khó lòng hiểu được bằng cách nào chúng có thể giúp chúng ta tiếp cận và hiểu được các sự kiện và quá trình lịch sử, vốn dựa trên một tập hợp đối lập của các bộ định tính hữu thể luận: tính di động và chuyển động, tính mở và tính định hướng, giao tiếp và tính trình diễn. Trong tiểu luận này, chúng tôi đã nhằm mục đích khôi phục lại tính di động và tính trình diễn của chúng bằng các khái niệm và nguồn lực, trong đó các nghiên cứu về tính văn bản được mở rộng bằng các nghiên cứu về hiệu ứng và biến đổi chất liệu. Điều này không có nghĩa là chúng ta bỏ qua tác động ổn định của “các văn bản” đối với sự lưu thông của ngôn ngữ.

Ngược lại, một chức năng rõ ràng của các thuật ngữ như “ghi chép văn học” và “tính di động bất biến” là việc nhấn mạnh cách thức việc viết ổn định hóa ngôn ngữ bằng cách tạo cho nó một dạng vật chất, bằng cách “ghi chép” các chữ cái vào một chất liệu có độ bền nhất định, mặc dù trong một số trường hợp, nó có thể khá ngắn, và do đó loại bỏ một phần ngôn ngữ cụ thể khỏi tính biến đổi tuyệt đối của giao tiếp bằng khẩu ngữ thành tính bất biến tương đối của chữ viết, hay chính xác hơn là của bản in. Tuy nhiên, một chức năng khác của chính các thuật ngữ đó là liên kết tính bất biến này, được biết rõ nhờ các loại nghiên cứu văn bản khác, về mặt khái niệm cũng như về mặt vật chất đối với chuyển động, với tính di động. Thực tiễn giống hệt như vậy — việc ghi chép — mang lại cho ngôn ngữ tính bất biến của nó với tư cách “văn bản” cũng làm cho ngôn ngữ được ghi chép và do đó ngôn ngữ được “văn bản hoá” hoàn toàn di động. Được ghi chép bằng một số loại chất liệu, mà cho đến gần đây hầu hết chỉ có nghĩa là bản in, ngôn ngữ được giải phóng khỏi toàn bộ ngữ cảnh giao tiếp, khỏi người gửi cũng như khỏi tình huống, và có thể tự do được ngữ cảnh và tái ngữ cảnh hóa bằng các phương tiện của các hệ thống để lưu hành bản in vật chất, hệ thống bưu chính, thương mại hóa sách, xuất bản báo và tạp chí, v.v.

Tuy nhiên, trong khuôn khổ phương pháp luận và lý thuyết mà chúng tôi đang đề xuất ở đây, các “văn bản”, theo nghĩa chung nhất của từ này, không chỉ di động, mà còn vận động. Chúng không chỉ di chuyển xuyên không gian và thời gian, mà còn di chuyển những thứ khác, hay nói một cách tổng quát hơn, chúng gây ra những thay đổi, cả những biến đổi nhỏ lẫn biến đổi quy mô lớn, cả một thiết kế mới cho một con dao dùng để loại bỏ tình trạng đục thủy tinh thể và ít nhiều ở cùng thời điểm đó, là cuộc Cách mạng Pháp. Xử lý văn bản từ quan điểm về tính di động, tính vật chất và tính trình diễn của chúng dẫn đến một quan điểm khác và phức tạp hơn về sử tính của chúng và về sử tính nói chung. Điều đặc trưng cho sự tồn tại lịch sử của các văn bản, chúng tôi khẳng định, không phải là tính ổn định, mà là tính di động của chúng: không phải những gì chúng nói, mà là những gì chúng làm. Do đó, việc nghiên cứu “tính văn bản của lịch sử và sử tính của tính văn bản”, việc sử dụng khẩu hiệu khoa trương của Montrose, có nghĩa là nghiên cứu sự chuyển động, các văn bản đang di chuyển, xuyên không gian và thời gian, để khởi động hoặc thực hiện các sự kiện biến đổi, đổi mới, và chuyển đổi lớn hoặc nhỏ: đang di chuyển, đang chuyển dịch những thứ khác.

___________________________________________

Nguồn: Asdal, Kristin and Helge Jordheim (2018). Texts on the Move: Textuality and Historicity Revisited, History & Theory, Studies in the Philosophy of History, Volume 57, Issue1, Wesleyan University,  March 2018, pp. 56-74. 

Tác giả:

Kristin Asdal: học lịch sử kinh tế, tiến sĩ chuyên nghiên cứu khoa học & công nghệ (STS) lịch sử. Từ năm 2009, cô là giáo sư tại Trung tâm Công nghệ, Đổi mới và Văn hóa, Khoa Các Khoa học Xã hội, Đại học Oslo (Centre for Technology, Innovation and Culture, Faculty of Social Sciences, Oslo University).

Helge Jordheim: Giáo sư Lịch sử Văn hóa, Đại học Oslo; Giáo sư thỉnh giảng, Đại học New York (2015-2016). Ông chuyên về văn hóa trí tuệ thế kỷ 18 ở châu Âu, lịch sử của các khái niệm và lý thuyết về lịch sử. Cuốn sách mới nhất của ông viết về lịch sử xuyên quốc gia của các khái niệm tính văn minh và văn minh hóa, được viết cùng một nhóm các học giả quốc tế (Civilizing Emotions, 2015). Hiện tại ông đang viết một cuốn sách về lịch sử văn hóa trong các thế kỷ 17 và 18.

Chú thích

1. We would like to thank Hilde Reinertsen for assistance in the preparation of the final manuscript and the Research program KULTRANS at the University of Oslo as well as the European ResearchCouncil (ERC) under the grant 637760.                

2. Louis A. Montrose, “Professing the Renaissance: The Poetics and Politics of Culture,” in The New Historicism, ed. H. Aram Veeser (New York and London: Routledge, 1989), 20.

3. See, for example, Carlo Ginzburg, “Just One Witness,” in Probing the Limits of Representation: Nazism and the “Final Solution,” ed. Saul Friedländer (Cambridge, MA, and London: Harvard University Press, 1992), 82-96; Hayden White, “Historical Emplotment and the Problem of Truth,” in Friedländer, ed., Probing the Limits of Representation, 37-53; Martin Jay, “On Plots, Witnesses, and Judgements,” in Friedländer, ed., Probing the Limits of Representation, 97-107; J. Hillis Miller, “Presidential Address 1986: The Triumph of Theory, the Resistance to Reading, and the Question of the Material Base,” in Theory Now and Then (Durham, NC: Duke University Press, 1991), 313. In addition, early on, see The Structuralist Controversy: The Languages of Criticism and the Sciences of Man, ed. Richard Macksey and Eugenio Donato (Baltimore and London: Johns Hopkins University Press, 1970).

4. See, for example, H. Aram Veeser, The New Historicism Reader (New York and London: Routledge, 1994); Lynn Hunt, The New Cultural History (Berkeley: University of California Press, 1989).

5. For a discussion of this position, cf. Kristin Asdal and Gro Ween, “Writing Nature,” Nordic Journal of Science and Technology Studies 2, no. 1 (2014), 5-6.

6. Key contributions in the debate over nonhuman agency, often referred to as the “Epistemological Chicken Controversy,” may be found in Andrew Pickering, Science as Practice and Culture (Chicago: University of Chicago Press, 1992). Cf. the chapters by Collins and Yearley, Woolgar, and Callon and Latour.

7. Rita Felski, “Context Stinks!,” New Literary History 42, no. 4 (2011), 573-591.

8. Bruno Latour, Reassembling the Social: An Introduction to Actor-Network-Theory (Oxford: Oxford University Press, 2005), 148. Quoted in Felski, “Context Stinks!,” 574. For a more problematizing account of the ANT approach, see Kristin Asdal, “Contexts in Action—and the Future of the Past in STS,” Science, Technology and Human Values 37, no. 4 (2012).

9. Richard Rorty, “Nineteenth-Century Idealism and Twentieth-Century Textualism,” in Consequences of Pragmatism: Essays, 1972–1980 (Minneapolis: University of Minnesota Press, 1982), 140.

10. Felski, “Context Stinks!,” 581.

11. Paul de Man, “The Return to Philology,” in The Resistance to Theory (Minneapolis and London: Universtiy of Minnesota Press, 1986), 24.

12. Martin Heidegger, Die Frage nach dem Ding: Zu Kants Lehre von der transzendentalen Grundsätzen (Tübingen: Max Niemeyer, 1962).

13. Geoffrey Bowker, Memory Practices in the Sciences (Cambridge, MA: MIT Press, 2005).

14. Ferdinand de Saussure, Cours de linguistique generale, critical edition by Tullio De Mauro [1916] (Paris: Payot, 1967), 31-32 (our translations).

15. Ibid., 27-30.

16. See, for example, Roland Barthes, S/Z. (Paris: Seuil, 1970); Paul de Man, Allegories of Reading: Figural Language in Rousseau, Nietzsche, Rilke, and Proust (New Haven and London: Yale University Press, 1979); Jacques Derrida, Acts of Literature (New York and London: Routledge, 1992).

17. Paul J. Thibault, Re-Reading Saussure: The Dynamics of Signs in Social Life (London and New York: Routledge, 1997).

18. Saussure, Cours de linguistique generale, 33.

19. Ibid., 31.

20. Bruno Latour and Steve Woolgar, Laboratory Life: The Construction of Scientific Facts (Princeton: Princeton University Press, 1986).

21. Bruno Latour, Science in Action: How to Follow Scientists and Engineers through Society (Cambridge, MA: Harvard University Press, 1987).

22. Latour and Woolgar, Laboratory Life, 45.

23. Saussure, Cours de linguistique generale, 33.

24. Latour worked with the two semioticians Paolo Fabri and François Bastide, the scientist who was also a semiotician. The latter is, for example, one of the contributors to the influential book that we turn to later in this article: Representation in Scientific Practice, ed. Michael Lynch and Steve Woolgar (Cambridge, MA: MIT Press, 1990). Cf. especially Latour’s chapter: “Drawing Things Together,” 19-68.

25. Bruno Latour, “Where Constant Experiments Have Been Provided: A Conversation with Bruno Latour,” Arch Literary Journal. Cf. also Timothy Lenoir, “Was the Last Turn the Right Turn? The Semiotic Turn and A. J. Greimas,” Configurations 2, no. 1 (1994), 119-136, and Roar Høstaker, “Latour – Semiotics and Science Studies,” Science and Technology Studies 18, no. 2 (2005), 5-25.

26. See Latour, Reassembling the Social, 54, footnote 54. See also Johannes Beetz, Latour with Greimas: Actor-Network Theory and Semiotics (2013), 1 (unpublished ms.).

27. Høstaker, “Latour – Semiotics and Science Studies.”

28. A. J. Greimas and J. Courtés, Semiotics and Language: An Analytical Dictionary (Bloomington: Indiana University Press: 1982), 5.

29. For a more the detailed account of this argument, cf. Asdal and Ween, “Writing Nature,” 5-6.

30. Latour, “Where Constant Experiments Have Been Provided.”

31. Latour and Woolgar, Laboratory Life.

32. Jacques Derrida, De la grammatologie (Paris: Les editions de Minuit, 1967), part 1, 15-144.

33. In addition to De la grammatologie, see especially Jacques Derrida, L’écriture et la différence (Paris: Seuil, 1967), esp. 9-50, 409-428.

34. Jacques Derrida, “Signature Event Context,” in Limited Inc (Evanston, IL: Northwestern University Press, 1988), 1.

35. Ibid., 3.

36. Ibid.

37. In his works he identifies and discusses a series of such aporias, such as giving, hospitality, forgiving, and mourning. See, for example, Derrida, On Cosmopolitanism and Forgiveness (New York and London: Routledge 1997).

38. Bruno Latour, We Have Never Been Modern (Cambridge, MA: Harvard University Press, 1991), 123.

39. For this discussion of writing and mobility, however, we stop before Derrida completes his ontological turn, arguing that the specific features of writing that he discusses and develops in the first part of the essay are really “to be found in all language, in spoken language for instance, and ultimately in the totality of ‘experience’.” Cf. Derrida, “Signature Event Context,” 10. This must be—and indeed has been—discussed on a philosophical level, to which we are not going to rise here. Prior to this turn, however, Derrida goes to a series of arguments concerning the specificity of writing and the relationship between writing and mobility, which, even though they go back to Plato, are stated with rare force and conviction. For our methodology of reading texts, this is what we are interested in.

40. Jacques Derrida, “Freud et la scène de la écriture,” in L’écriture et la différence (Paris: Seuil, 1967), 302-304.

41. Derrida, “Signature Event Context,” 3.

42. Ibid.

43. Ibid.

44. Quoted in ibid.

45. Ibid.

46. Ibid., 5.

47. Ibid.

48. Ibid., 8.

49. Bruno Latour, “Drawing Things Together,” in Representation in Scientific Practice, ed. Michael Lynch and Steve Woolgar (Cambridge, MA: MIT Press, 1990), 25. Latour here refers to Derrida, De la grammatologie.

50. Latour, “Drawing Things Together,” 25.

51. Ibid.

52. Ibid.

53. Ibid.

54. Ibid.

55. Ibid., 26.

56. Bruno Latour, “Circulating Reference: Sampling the Soil in the Amazon Forest,” in Pandora’s Hope: Essays on the Reality of Science Studies (Cambridge, MA: Harvard University Press, 1999), 25-79.

57. Latour, “Drawing Things Together,” 26.

58. Ibid.

59. Marshall McLuhan, The Gutenberg Galaxy: The Making of Typographic Man (Toronto: University of Toronto Press, 1962).

60. Elizabeth L. Eisenstein, The Printing Press as an Agent of Change, 2 vols. (Cambridge, UK: Cambridge University Press, 1979).

61. Ibid., 3-42. See also 193-194.

62. See, for example, Benedict Anderson, Imagined Communities: Reflections on the Origin and Spread of Nationalism (London: Verso, 1983), 30-49.

63. Latour, We Have Never Been Modern.

64. Latour, “Drawing Things Together,” 31-36.

65. Eisenstein, The Printing Press as an Agent of Change, 23-42.

66. Ibid., 71-88.

67. Ibid., 113-19.

68. Latour, “Drawing Things Together,” 47.

69. Adrian Johns, The Nature of the Book: Print and Knowledge in the Making (Chicago and London: University of Chicago Press, 1998), 8-28.

70. Eisenstein, The Printing Press as an Agent of Change, 575-630; Latour, “Drawing Things Together,” 11-14.

71. Johns, The Nature of the Book, 14.

72. Ibid.

73. Ibid., 20.

74. Latour, “Drawing Things Together,” 23.

75. Ibid., 24.

76. Cf. Donna Haraway, Modest_Witness@Second_Millennium. Femaleman© Meets Oncomouse™ (New York and London: Routledge, 1997). Emily Martin, Flexible Bodies: Tracking Immunity in American Culture from the Days of Polio to the Age of Aids (Boston: Beacon Press, 1994).

77. Bruno Latour and Vincent Antonin Lépinay, The Science of Passionate Interests: An Introduction to Gabriel Tarde’s Economic Anthropology (Chicago: University of Chicago Press, 2009).

78. Bruno Latour, The Pasteurization of France (Cambridge, MA: Harvard University Press, 1988), 167.

79. Cf. the chapter “Circulating Reference: Sampling the Soil in the Amazon Forest” in Latour, Pandora’s Hope.

80. Latour, “Drawing Things Together,” 31.

81. Ibid., 32.

82. Ibid., 33-34.

 

 

 

 

Chủ Nhật, 27 tháng 6, 2021

Tính văn bản là gì?

Hugh J. Silverman 

Người dịch: Hà Hữu Nga

Văn bản là một thứ bất định. Tính bất định của văn bản được tạo ra bởi, và như là một đặc điểm hoạt tác của văn bản. Thật vậy, tính văn bản của văn bản chính là tính bất định của nó. Không phải văn bản là một đồ vật và có một vấn đề về việc xác định thứ đó là gì - mặc dù việc trình bày rõ ràng tình trạng của văn bản không phải là một vấn đề dễ dàng và việc làm sáng tỏ tính văn bản của nó không phải là một thủ tục đơn giản. Bất định không phải là một trạng thái tâm lý của người đọc, mặc dù việc diễn giải thường là cần thiết để hiểu được tính chất văn bản của văn bản. Người đọc thường yêu cầu việc diễn giải để loại bỏ bất kỳ sự nhầm lẫn nào có thể nảy sinh trong quá trình đọc, hoặc việc đọc một văn bản. Tuy nhiên, tính bất định của văn bản không nằm trong sự nhầm lẫn của người đọc. Hơn nữa, tính bất định của văn bản không phải là kết quả của một tham chiếu không xác định hoặc nhiều tham chiếu đơn giản. Nhiều văn bản thể hiện một thế giới trong đó thực tại thường không rõ ràng là gì (nếu có), trải nghiệm gì (nếu có), sự kiện gì (nếu có) được trích dẫn hoặc viện dẫn. Và nhiều văn bản đưa ra vô số thế giới khả thể khác nhau phù hợp, hoặc có thể phù hợp với thứ tự sự được đưa ra trong một văn bản cụ thể. Tuy nhiên, cả hai tính năng này đều không đặc trưng cho tính bất định của văn bản. Tính bất định của văn bản nằm ở tính chất văn bản hoặc các tính chất văn bản mà qua đó văn bản ấy (hoặc một văn bản nào đó) thiết lập tính đồng nhất của nó như một văn bản.

Tính văn bản là cái cấu thành một văn bản với tư cách là một văn bản theo một cách cụ thể. Tính văn bản cấu thành văn bản như một thứ bất định. Tính văn bản của một văn bản tạo ra kiến ​​thức về văn bản. Kiến thức mà nó tạo ra thuộc một loại cụ thể và theo một cách cụ thể. Khả tính xác định của nó không nằm ở tri thức được tạo lập mà là ở trạng thái của văn bản mà quá trình tạo lập diễn ra. Tính văn bản (nói chung) được tạo ra trong quá trình hình thành văn bản. Khi văn bản tự tạo lập, văn bản xuất trình một tính văn bản mà bản thân nó là bất định. Văn bản là một thứ bất định bởi vì tính văn bản của nó là bất định. Tính văn bản của nó là bất định bởi vì tính văn bản xuất hiện ở nơi mà văn bản thoát khỏi định nghĩa, sự xác định cụ thể, đặc tả, nơi văn bản tự xóa bỏ thiên về điều mà Paul DeMan gọi là “sự biến dạng”. Tính chất văn bản xuất hiện khi văn bản tự lệch tâm. Văn bản bị lệch tâm (lệch tâm); tính văn bản của nó là sự giải trung tâm của nó theo những cách cụ thể.

Việc đọc văn bản diễn ra thông qua tính văn bản hoặc những tính văn bản của nó. Văn bản là cái được đọc, nhưng tính văn bản hoặc những tính văn bản lại là cách đọc nó. Việc diễn giải văn bản nảy sinh trong đó những tính văn bản được hiểu là (các) cấu trúc-nghĩa của văn bản. Việc diễn giải văn bản mang lại tính văn bản hoặc những tính văn bản để sao cho đưa chúng ra bên ngoài văn bản, để cụ thể hóa và xác định văn bản theo một kiểu cụ thể. Văn bản tách rời khỏi các cách đọc và diễn giải. Tính văn bản hoặc những tính văn bản của nó được cấu thành trong quá trình đọc văn bản và được xác định thông qua việc diễn giải nó. Nhưng, nếu văn bản là một thứ bất khả xác định và tính chất văn bản của nó là bất khả xác định, thì có thể có ý nghĩa gì khi nói về việc đọc hoặc diễn giải một văn bản? Nếu không thể xác định, thì loại đọc và diễn giải thích nào là khả thể? Nếu không thể xác định, thì tại sao lại phải đọc hoặc diễn giải?

Để đưa ra bất cứ điều gì giống như một lời đáp cho những câu hỏi này, thì phải đánh giá cả bản chất của tính bất định và vị trí của văn bản. Bằng cách xác lập vị trí của văn bản, thì khía cạnh nó là một thứ bất định sẽ trở nên rõ ràng. Việc đánh giá và diễn giải về tính bất định của nó cũng sẽ là việc đánh giá và diễn giải về tính văn bản của nó.

Như Edward Said (1980, tr. 89) đã chỉ ra, tính văn bản là một thực tiễn. Thông qua tính văn bản của nó, văn bản tự làm cho mình trở nên có nghĩa, tự làm cho mình hiện hữu, tự làm cho mình xuất hiện một cách cụ thể. Đồng thời, thông qua tính văn bản của nó, văn bản làm cho chính nó trở nên khác với những gì nó vốn có theo một cách hoặc nhiều cách cụ thể. Thông qua tính văn bản của nó, văn bản từ bỏ vị thế của mình với tư cách là đồng nhất tính và khẳng định trạng huống của nó là thuần túy khác biệt. Vì tính văn bản của nó, văn bản tự ẩn mình, tự định nghĩa, hoặc tự xác định theo những cách cụ thể. Nhưng vì tính văn bản của nó là khác, nên văn bản tự “xác định”, tự miêu tả bằng một kết cấu hoặc mạng ý nghĩa không giới hạn trong bản thân văn bản. Bằng cách tự giải xác định, văn bản cung cấp khả năng đọc một cách dứt khoát và một cách diễn giải quyết định. Tự bản chất tính văn bản của nó, không có cách đọc dứt khoát cũng không có diễn giải quyết định nào thành công. Mặc dù cách đọc có thể xác định và việc diễn giải có thể quyết định, nhưng văn bản không định nghĩa hay quyết định. Văn bản vẫn hoạt tác và về cơ bản là bất định. Tính văn bản của nó như một thông lệ, là văn bản tự giải xác định và tự bản thân nó hoạt tác, và về cơ bản là bất định. Văn bản tự thân là sự khác biệt; tính văn bản của nó khác với chính nó, làm cho chính nó trở nên khác biệt. Mỗi văn bản là khác nhau. Vì khác biệt, nên nó trì hoãn lại; nó tạo ra một tính văn bản phù hợp và thậm chí giống hệt với tính văn bản của các văn bản khác. Do đó, thông qua tính văn bản của nó, văn bản đưa vào, tích hợp và viện dẫn các văn bản khác. Nhưng bởi vì văn bản là bất định, nên tính văn bản của nó không xác định một lần duy nhất nghĩa hoặc các nghĩa nào, cách diễn giải hay những cách diễn giải nào, cách đọc hay những cách đọc nào chiếm ưu thế, còn cách nào thì không.

Tính bất định về tính văn bản của văn bản khác với văn bản như một thứ bất định. Văn bản như một thứ bất định được quy định bởi bản chất và chức năng của các bất định. Theo Derrida, cái bất định không phải là những cấu hình lý thuyết được đánh dấu và định vị trong văn bản viết dưới dạng các “từ” hoặc các “khái niệm” nổi bật nhất. Derrida vận hành và sử dụng một chiến lược tổng quát về giải cấu trúc “tránh vô hiệu hóa một cách đơn giản các đối lập nhị phân của siêu hình học. Nó cũng “không chỉ đơn giản tập trung vào cái trường đóng của các đối lập nhị phân, vì điều đó sẽ chỉ xác nhận bản thân trường nhị phân” (Derrida, 1981a, p. 41). Do đó, các bất định thực hiện một chức năng kép. Chúng giữ cho các ý niệm không biến thành thuật ngữ thứ ba, tổng hợp và do đó vô hiệu hóa các cặp đối lập và chúng ngăn chặn các ý niệm choán chiếm bên này hay bên kia. Nói một cách ngắn gọn, những cái bất định không phải là Aufhebungen (tương trừ) Hegelian nhưng chúng cũng không chỉ đơn giản là cấu tạo nên những cặp cấu trúc phản đề (hoặc đối lập).

Các bất định tự định vị tại giao diện hoặc vệt chéo giữa các cặp đối lập như vậy. Chúng nghiêng về mỗi hướng cùng một lúc mà không khẳng định, với tính loại trừ, cả bên này hay bên kia. Các bất định xuất hiện trong ngữ cảnh của các thuật ngữ siêu hình, triết học hoặc văn học truyền thống và do đó trong lĩnh vực văn bản viết chung. Các bất định không có vị thế độc lập ngoài lĩnh vực văn bản viết chung và các cấu trúc đối lập nơi chúng diễn ra. Hơn nữa, chúng được truyền bá - phổ biến - thông qua lĩnh vực văn bản viết chung. Chúng biểu thị những giới hạn của các quan niệm truyền thống và vẫn được khắc sâu trong chính các diễn ngôn mà ở đó các quan niệm truyền thống như vậy được đặt định.

Chiến lược giải cấu trúc của Derrida thực hành một loại văn bản “viết kép”. Viết kép mà ông trình bày trong bài luận về “Phiên kép” cho thấy khía cạnh mà văn bản tác hoạt ở hai nơi cùng một lúc. Viết kép cũng là một khoa học kép, một phiên kép, một cảnh kép, v.v. Viết kép là cách viết một cấu trúc đối lập nhị phân trong lĩnh vực viết chung. Trong lĩnh vực chung đó, với các khái niệm siêu hình truyền thống của nó, các hệ thống thứ bậc tự khẳng định mình. Chiến lược giải cấu trúc tạo ra và gây nên sự đảo lộn hoặc đảo ngược hệ thống thứ bậc như đã khẳng định trong truyền thống. Để thực hiện được việc đảo lộn như vậy, cần phải định vị các thuật ngữ đối lập có liên quan trong trường chung và do đó cũng định vị các bất định nữa.

Derrida xác định hàng loạt loại bất định: giao tiếp, không phải là cho cũng không phải là cái nhận; sự khác biệt, không phải là sự trì hoãn theo thời gian cũng không khác biệt về không gian; pharmakon, không phải là phương thuốc hay thuốc độc, cũng không phải là nói hay viết; màng trinh, không phải là tuyệt mãn cũng không phải là trinh tiết, không phải là màng che cũng không phải là khai mở; bổ sung, không phải là ngẫu nhiên cũng không phải bản chất, không phải là bên ngoài cũng không phải là bổ sung của bên trong; và v.v… (Derrida, 1981a, tr. 43). Sau đó, chiến lược là hoạt tác ở giao diện bất định giữa “cũng không” và “không”. Cái bất định không phải là thuật ngữ thứ ba, cũng không phải, nó có thể giải quyết được cho một trong hai bên. Nếu giờ đây văn bản là một văn bản bất định, thì nó sẽ dễ dàng rõ rệt hơn theo nghĩa nào đó như vậy.

Văn bản là “thái quá” (Said, 1980, PP. 93-94). Văn bản vượt ngoài bản thân nó. Văn bản thể hiện tính bổ sung của nó bằng cách là một cái gì đó khác hơn những gì hiện có. Cái gì đó đặt ra giới hạn cho chính nó, thiết lập các ranh giới, mép lề, đường biên, giới hạn, các ngoại tiếp của chính nó. Tuy nhiên, đồng thời văn bản cũng tràn qua các ranh giới, mép lề, đường biên, và giới hạn đó. Văn bản tràn vào một hoặc một định nghĩa khác về chính nó. Nó không thể và không còn nguyên sự khác biệt thuần túy. Luôn luôn có một phần còn lại, theo đó văn bản khẳng định một đồng nhất tính cho chính nó. Văn bản có xu hướng rơi vào bên này hoặc bên kia của toàn bộ phức hợp các đối lập nhị phân. Theo nghĩa này, văn bản (a) không hữu hình cũng không vô hình, (b) không phải bên trong cũng không phải bên ngoài, (c) không hiện diện cũng không vắng mặt, (d) không phải văn bản cũng không phải ngữ cảnh, (e) không phải một cũng không phải nhiều. Bằng cách xem xét các khía cạnh mà văn bản nằm ở giao diện của những đối lập này, sẽ hoàn toàn trở nên rõ ràng tính văn bản của văn bản xuất hiện ở đâu và cụ thể nó có xu hướng tràn sang bên này hay bên kia ra sao với tư cách là độ phân giải của loại tính bất định này hay tính bất định khác của nó.

Hữu hình / Vô hình

Văn bản luôn luôn che giấu một cái gì đó: một cái gì đó của chính nó, một cái gì đó không phải là nó. Như Said đã chỉ ra, không giống như quan điểm của Foucault trong đó văn bản là vô hình, có điều gì đó phải được khải lộ, tuyên nêu, mang đến một kiến tính nhất định. Tuy nhiên, đối với Derrida, càng hiểu nhiều về văn bản, thì càng có nhiều chi tiết về những gì không có ở đó (Said, 1980, trang 89). Quan điểm được đề xuất ở đây là những gì vô hình hoặc ẩn giấu trong văn bản sẽ được nhìn thấy về phương diện tính văn bản của nó, nhưng với tư cách văn bản thì càng được khẳng định về văn bản về phương diện tính văn bản, thì văn bản càng làm lu mờ chính nó, lảng tránh định nghĩa, thoát khỏi sự xác định hữu hình. Văn bản hữu hình ở chỗ nó trình hiện một tự sự, khải lộ một thế giới, khai quang một khoảng không trong đó các thanh âm, ý tưởng, nhịp điệu và tích truyện được thể hiện rõ ràng. Nhưng văn bản cũng có xu hướng che đậy bản thân tính văn bản hoặc những tính văn bản của nó. Nó có xu hướng đậy điệm ý nghĩa và cấu trúc ý nghĩa của nó.

Các cách đọc chỉ khải lộ các bề mặt; cần phải diễn giải để khai mở ý nghĩa của nó, làm cho đặc tính bí ẩn và bất định của nó trở nên rõ ràng hơn. Không thể khẳng quyết được liệu văn bản có hữu hình hay không. Việc lựa chọn cái này hay cái kia là làm cho tính văn bản của nó có thể xác định được  — mặc dù tính văn bản của nó về cơ bản vẫn là bất định. Một văn bản có thể là một thiên tiểu thuyết sử thi hoặc cũng có thể chỉ là một phân đoạn, có thể là một bài thơ dài hoặc cũng có thể là cả một kịch bản. Các giới hạn của Thần khúc Dante được soạn thảo rõ ràng dưới dạng bộ ba lặp đi lặp lại: từ toàn bộ Thần khúc đến các đoạn khổ Thần khúc và từ các đoạn khổ đến từng khổ thơ ba dòng; từ Địa ngục đến Thiên đường qua Luyện ngục, từ Virgil đến Beatrice qua Statius, v.v. nhưng phần lớn tính văn bản tự truyện, tính văn bản lịch sử và tính văn bản thi ca đều bị che đậy khỏi tầm nhìn. Các khổ thơ ba dòng của Thần khúc làm cho một số đặc điểm nhất định về tính văn bản thần học của nó trở nên hữu hình và để mở cho việc kiểm nghiệm. Mặc dù ở các biên lề, ba ngôi biến thành một thể thống nhất, chín mươi chín khổ Thần khúc sinh ra thứ một trăm, cùng với Địa ngục, Luyện ngục và Thiên đường, cũng có một Vừng hồng hoặc một Hỏa thiên là nơi Chúa ngự quy tụ lấy tất cả. Những gì có thể nói về ba ngôi, về những tranh cãi giữa những người theo hiện thực luận và duy danh luận, về chức năng của những ngụ ngôn tôn giáo trong những thiên diễm tình thời trung cổ thế tục, những phát minh của Dante về Weltanschauung (Vũ trụ quan), đều không hiển hiện trong văn bản. Việc chúng được che giấu và việc tuyên rằng chúng cấu thành bản văn theo một cách cơ bản nào đó chính là việc quyết định về tính văn bản thần học của nó ở mức độ không thể quyết định được, nơi nó hoạt tác ở ranh giới giữa những gì hữu hình và những gì vô hình trong bản văn.

Bên trong / Bên ngoài

Nếu có thể xác định được cái ở bên trong văn bản và cái ở bên ngoài, thì tính văn bản hoặc những tính văn bản của văn bản cũng sẽ có thể quyết định được. Aporia – các phân vân - của các vở kịch Shakespeare thuộc bên trong văn bản hay bên ngoài? Phần kết của Roman de Ia rose Tiểu thuyết Đóa hồng - của Jean de Meun và được thêm vào bài thơ của Guillaume de Lorris thuộc bên trong hay bên ngoài văn bản? Stephen Hero có phải là một phần A Portrait of the Artist as a Young ManChân dung của một Nghệ sỹ trẻ - của Joyce theo cách mà các phiên bản A và B của Kant là một phần của (bên trong) cuốn Phê phán Lý tính Thuần túy không? Khoảng cách giữa các câu cách ngôn trong Khoa học Đồng tính của Nietzsche nằm trong hay ngoài văn bản? Cái là bất định về mỗi văn bản này cũng chính là bất định về văn bản. Văn bản không phải là một tác phẩm cũng không phải là một loạt các từ, không phải là một cuốn sách, cũng không phải nội dung các trang của nó. Văn bản là lệch tâm, được định vị giữa nội văn bản gặp gỡ ngoại văn bản và giải định nghĩa các đường biên của nó. Tính văn bản của nó chính xác là điều kiện của việc không thiết lập ranh giới rõ ràng giữa nội văn bản và ngoại văn bản, giữa những gì được coi là một phần của văn bản và những gì không được coi như vậy. Tính văn bản của nó cũng là việc thực hành việc đảo lộn các quy cách liên quan đến nơi xuất hiện các đường biên. Như Said đã xác định, văn bản “bừng nở qua các chân trời ngữ nghĩa” (Said, 1980, tr. 108). Việc thực hành tính văn bản là vượt qua những giới hạn của ý nghĩa và đặc biệt là những giới hạn thiết lập võ đoán các ranh giới cho văn bản.

Hiện diện / Vắng mặt

Văn bản không hiện diện cũng không vắng mặt, không phải thể viết cũng không phải thể nói, không phải bản viết cũng không phải đoạn nói. Văn bản không phải là bản đồ họa cũng không phải là những âm thanh được nói ra. Văn bản không phải là sự thay thế cho một điều gì đó vắng mặt cũng như không phải là hình thức trực tiếp của một điều gì đó hiện diện. Cái mà Derrida gọi là văn tự (ecriture) là cái bất định giữa cái hiện diện và cái vắng mặt, giữa văn tự dưới dạng ký hiệu đồ họa và văn ngôn với tư cách âm thanh khẩu ngữ. Giống như văn tự ecriture, văn bản hoạt tác ở giao diện giữa các cực đối lập. Mặc dù có những văn bản cụ thể, nhưng Derrida vẫn cho rằng có một “văn bản chung” “thực tế khắc ghi và tràn vượt giới hạn của một diễn ngôn” hoàn toàn được quy định bởi bản chất, ý nghĩa, chân lý, ý thức, lý tưởng, v.v. ” Derrida tiếp tục khẳng định “có một văn bản chung như vậy ở khắp mọi nơi mà diễn ngôn này và trật tự của nó (bản chất, ý thức, chân lý, ý nghĩa, ý thức, lý tưởng, v.v.) bị tràn vượt, nghĩa là, ở mọi nơi mà thẩm quyền của chúng được đưa trở lại vị trí của một nhãn hiệu trong một chuỗi mà thẩm quyền này tin tưởng một cách thực chất và ảo tưởng rằng nó mong muốn chi  phối, và trên thực tế, có chi phối. Văn bản chung này không giới hạn trong các văn tự theo trang viết” (Derrida, 1981a, p. 60). Văn bản chung không hiện diện đầy đủ trong bất kỳ văn bản cụ thể nào. Thật ra, cũng hệt như không có cách nào để quyết định những gì tồn tại trong một văn bản, không có cách nào để quyết định những gì hiện diện trong văn bản. Những gì hiện diện trong văn bản cụ thể thì cũng hiện diện trong văn bản chung, nhưng những gì vắng mặt trong văn bản cụ thể lại có thể không vắng mặt trong văn bản chung. Các đặc điểm của văn bản chung xuyên thấm văn bản cụ thể, tự thể hiện rõ ràng và hiện diện trong văn bản cụ thể, nhưng trong đó chúng cũng không vắng mặt trực tiếp và rõ ràng khỏi văn bản; chúng không thể được cho là hiện diện.

Văn bản là một trình diễn, một hành động nói theo một nghĩa nào đó. Với tư cách trình diễn, văn bản tự hiển thị hiện diện, nhưng những gì được hiển thị hiện diện lại hoàn toàn vắng mặt. Có lẽ trong văn bản chung, cái vắng mặt được nói ra và thậm chí được viết ra thể hiện cái vắng mặt hiện diện. Khái niệm Descartes về tính trong sáng và hiển minh được thể hiện trong tiểu thuyết Princesse de Cleves của Madame de Lafayette, các lý thuyết và trạng huống xa lánh được nói đến trong Mother Courage của Brecht, trong văn bản chung, Lâu đài của Kafka thể hiện cuộc tìm kiếm một lý tưởng bản ngã mà phân tâm học Freud đã xác định thuộc nền văn hóa. Tính văn bản của các văn bản tích hợp với tư cách hiện diện cả cái vắng mặt; tích hợp các yếu tố này theo cách không có cách nào để quyết định xem liệu chúng hiện diện hay vắng mặt — chỉ là chúng đang chơi, trong trò chơi của những khác biệt tạo thành văn bản.

Văn bản / Ngữ cảnh

Văn bản đặt ra các giới hạn riêng của nó. Trong việc thiết lập các giới hạn của riêng mình, nó cũng thiết lập những gì đi cùng với nó và những gì không. Nhưng một văn bản có khác biệt với ngữ cảnh của nó không? Ngữ cảnh là những gì đi kèm với văn bản. Nó cũng là những gì ở bên ngoài và do đó khác với văn bản. Trong tha tính của mình, nó chỉ là ngữ cảnh ở chỗ nó được báo hiệu trong văn bản hệt như văn bản đi cùng với nó vậy. Như Derrida (1977) đã chỉ ra trong “Limited Inc. a b c ...”, ngữ cảnh trong tiếng Pháp có thể được nói là “qu’on texte” — tức là văn bản nào. Nói cách khác, ngữ cảnh là văn bản được hiển thị. Nó bao gồm động từ tân dụng “tạo thành văn bản” (to text). Do đó, ngữ cảnh là phần tạo nên văn bản không phải là một phần của văn bản và là phần còn lại ngoài văn bản. Ngữ cảnh có thể là chính trị, lịch sử, văn học, văn hóa, xã hội, v.v. Mặc dù nhiều tính năng trong số này thường được coi là ngoại lai văn bản, bên ngoài văn bản, không phải văn bản, tuy nhiên chúng đi kèm với văn bản và được “biến thành văn bản”, ở chỗ chúng là ngữ cảnh cho văn bản được đề cập. Ở chỗ chúng được “biến thành văn bản”, hay về khía cạnh tính văn bản của chúng, “được văn bản hóa”, chúng cũng là nội tại của văn bản. Chiến tranh thế giới thứ hai được văn bản hóa trong tiểu thuyết Chemins de la liberte (Đường đến tự do) của Sartre, Nội chiến Hoa Kỳ trong cuốn The Red Badge of Courage (Huy chương Quả cảm Đỏ) của Stephen Crane. Tình cảnh của người da đen ở Mỹ được mô tả bằng văn bản trong Invisible Man (Người vô hình) của Ralph Elliston; nạn phân biệt chủng tộc được hiển thị bằng văn bản trong Cry the Beloved Country (Khóc cho Quê hương Dấu yêu) của Alan Paton. Cấu trúc xã hội đầu thế kỷ 20 của tầng lớp tư sản thượng lưu được văn bản hóa trong Bà Dalloway của Virginia Woolf đối với nước Anh và trong A la Recherche du temps perdu (Tìm lại Thời gian Đã mất) của Marcel Proust đối với Pháp. Trong các trường hợp này, những gì được đưa ra không phải là sự trình hiện thế giới bên ngoài trong văn bản, mặc tính văn bản của văn bản có thể được diễn giải như vậy. Thay vào đó, mặc dù tách biệt và khác, nhưng ngữ cảnh hoặc bối cảnh khái quát hóa được tích hợp vào khuôn khổ của văn bản mà không có chủ đề và nhận dạng cụ thể.

Cùng với các ngữ cảnh, các văn bản còn có các liên văn bản. Mặc dù các liên văn bản là các văn bản đi cùng với các văn bản, chúng cũng được xác định và chỉ rõ trong văn bản. Các liên văn bản được bao gồm trong các văn bản ở chỗ chúng trở thành một phần của phức hợp các văn bản tạo thành văn bản được đề cập. Bởi vì các liên văn bản trải rộng các ranh giới giữa văn bản và liên văn bản, nên không có cách nào để quyết định xem liệu chúng nằm bên trong hay bên ngoài, là một phần hay tách biệt với văn bản được đề cập.

Văn bản: Nhất tính hay Đa tính?

Tính văn bản là tính bất định của văn bản. Văn bản nằm ở giao diện giữa hữu hình / vô hình, bên trong / bên ngoài, hiện diện / vắng mặt, văn bản /ngữ cảnh. Văn bản là một thứ bất định. Văn bản không rơi vào bên nay hay bên kia. Không thể quyết định nó thuộc về bên nào. Tính bất định của nó chính là tính văn của nó. Đặc trưng khác biệt của nó chính là tính bất định. Tính văn bản của văn bản vừa là điều kiện của văn bản vừa là thực hành của văn bản. Tính văn bản, tuy nhiên, không phải là duy nhất. Đối với mỗi văn bản, có nhiều tính văn bản. Các tính văn bản khác nhau này được đọc và diễn giải. Các tính văn bản không bị ràng buộc với các văn bản cụ thể. Chúng là một phần của văn bản chung. Tuy nhiên, các văn bản cụ thể thể hiện, biểu lộ và hoạt tác các tính văn bản cụ thể. Tính văn bản tự truyện xuất hiện trong Ecce Homo Kẻ Người của Nietzsche và Walden - Ở Rừng của Thoreau, nhưng cũng nằm trong một phạm vi hạn chế hơn trong nhiều sách giáo khoa sinh học hoặc trong các tài liệu nghiên cứu tâm lý. Tính văn bản lịch sử xuất hiện trong các văn bản đa dạng như Chiến tranh và Hòa bình của Tolstoy, Đỏ Đen của Stendhal, và Tích truyện hai Thành phố của Dickens, nhưng nó cũng đi vào Hiện tượng học Tư duy của Hegel và Nguồn gốc các loài của Darwin. Tính văn bản khoa học, tính văn bản tâm lý, tính văn bản ẩm thực, v.v. hoạt tác để tạo ra tính bất định của các văn bản. Chắc chắn không phải tất cả các văn bản đều thể hiện và thực hành tất cả các loại tính văn bản. Một số có được ưu thế trong khi những văn bản khác lại giữ vị thế thứ yếu trong các văn bản cụ thể. Các tính văn bản cụ thể có thể được đặc trưng và đủ phẩm chất khác với các văn bản, nhưng chúng đạt được tính thực hành và chức năng của chúng trong khuôn khổ các văn bản cụ thể. Từ đa tính của mình, chúng góp phần tạo nên tính bất định của văn bản và có được vị thế của chính chúng ở nơi và những nơi khác biệt.

_____________________________________

Nguồn: Silverman, Hugh I. (1986). What is Textuality? Part II, in Phenomenology + Pedagogy Volume 4, Number 2 1986, State University of New York at Stony Brook.

Tác giả: Hugh J. Silverman (1945-2013) sinh ra ở Boston, Massachusetts, là một nhà triết học và lý thuyết văn hóa người Mỹ. Ông là Giám đốc Điều hành của Hiệp hội Triết học và Văn học Quốc tế và là Giáo sư Triết học và Nghiên cứu Văn học & So sánh tại Đại học Stony Brook (New York, Hoa Kỳ). Ông là Giám đốc Chương trình Chứng chỉ Tốt nghiệp Cao học Stony Brook về Nghệ thuật và Triết học. Ông cũng là đồng sáng lập và đồng giám đốc của Hội thảo Triết học Quốc tế hàng năm kể từ năm 1991 tại Nam Tyrol, Ý. Từ năm 1980-86, ông là Đồng Giám đốc Điều hành của Hiệp hội Hiện tượng học và Triết học Hiện sinh. Các công trình của ông dựa trên giải cấu trúc, tường giải học, ký hiệu học, hiện tượng học, mỹ học, lý thuyết nghệ thuật, lý thuyết phim và khảo cổ học tri thức. Ông nhận bằng tiến sĩ tại Đại học Stanford (1973). Từ năm 1980, ông giữ các chức danh giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Warwick và Đại học Leeds (Anh), Đại học Milan, Đại học Torino và Đại học Rome-Tor Vergata (Ý), Đại học Vienna và Đại học Klagenfurt (Áo), Đại học Helsinki và Đại học Tampere (Phần Lan), Đại học Sydney và Đại học Tasmania ở Hobart (Úc), Đại học Trondheim (Na Uy) và Đại học Cao đẳng, Cork (Ireland), Đại học Nice (Faculte des Lettres) (Pháp ). Giáo sư Silverman đã viết và giảng dạy chuyên về các lĩnh vực triết học lục địa, mỹ học, đạo đức hậu hiện đại và lý thuyết văn hóa / nghệ thuật / phim ảnh / xã hội. Các công trình của ông chủ yếu liên quan đến các tác phẩm của Maurice Merleau-Ponty, Jacques Derrida, Mikel Dufrenne, Roland Barthes, Michel Foucault, Jean-François Lyotard, và đối thoại với những nhân vật đương thời như Julia Kristeva, Gianni Vattimo, Mario Perniola và Carlo Sini. Các bài viết của ông dựa trên triết lý của Friedrich Nietzsche, Edmund Husserl, Martin Heidegger, Hans-Georg Gadamer và Paul Ricoeur. Silverman qua đời ở Long Island, vì bệnh ung thư.

Tài liệu dẫn

Barthes, R. (1968). Writing degree zero. (A. Layers and C. Smith, Trans.). New York: Hill and Wang. (Original book published 1953)

Barthes, R. (1975). The pleasure of the text. (R. Miller, Trans.). New York: Hill and Wang. (Original book published 1973)

DeMan, P. (1979). Shelley disfigured. Deconstruction and criticism. New York: Seabury.

Derrida, J. (1977). Limited Inc. a b c.. . . Glyph 2 (pp. 162-254). Baltimore: The John Hopkins University Press.

Derrida, J. (1981a). Positions. (A. Bass, Trans.). Chicago: University of Chicago Press.

Derrida, J. (1981b). The double session. Dissemination. (B. Johnson, Trans.). Chicago: University of Chicago Press.

Foucault, M. (1970). The order of things: An archeology of the human sciences. New York: Pantheon. (Original book published 1966)

Heidegger, M. (1961). Nietzsche II. Pfullingen: Neske.

Heidegger, M. (1971). Poetry, language, and thought. (A. Hofstadter, Trans.). New York: Harper & Row. (Original essays written in the 1950s)

Heidegger, M. (1972). On Time and Being. (J. Stambaugh, Trans.). New York: Harper & Row. (Original book published 1969)

Heidegger, M. (1973). Being and time. (J. Macquarrie and E. Robinson, Trans.). New York: Harper & Row. (Original book published 1927)

Merleau-Ponty, M. (1962). Phenomenology of Perception. (C. Smith, Trans.). New York: Humanities Press. (Original book published 1945)

Ryle, G. (1949). The concept of mind. London: Huchinson.

Said, E. (1980). The problem of textuality: Two exemplary positions. In M. Philipson and P.J. Gudel (Eds.). Aesthetics today. New York: Meridian/New American Library.

Sartre, J. (1956). Being and nothingness: A phenomenological essay on ontology. (H. Barnes, Trans.). New York: Washington Square Press. (Original book published 1943)

Sartre, J. (1965). What is literature? (B. Frechtman, Trans.). Secaucus: Citadel Press. (Original book published 1947)

Sartre, J. (1972). The transcendence of the ego: An existentialist theory of consciousness. (F. Williams and R. Kirkpatrick, Trans.). New York: Octagon Books. (Original book published 1936).