Phổ biến
thông tin trong các
dự án phát triển
Người chuẩn bị: Hà Hữu Nga
Thế nào là phổ biến thông tin
Thông tin là gì?
Phổ biến thông tin hay còn gọi
là truyền thông là quá trình chia sẻ
thông tin và ý nghĩa của thông tin. Nó có thể được sử dụng để thông tin cho mọi
người về mọi lĩnh vực liên quan đến phạm vi thông tin được phổ biến.
Phổ biến thông
tin như thế nào?
Có nhiều cách khác nhau để phổ biến thông
tin và các chương trình phổ biến thông tin hiệu quả cần phải sử dụng hàng loạt
quá trình, phương tiện và kỹ thuật phổ biến thông tin khác nhau. Cách thức được
sử dụng và các thông điệp cũng như ý nghĩa mà các thông điệp chuyển tải có thể
khác nhau theo từng văn hoá và bối cảnh của nó. Các quá trình đó có thể bao gồm
việc đọc, viết, thảo luận, đặt câu hỏi, trả lời, xem truyền hình, hoặc học được
ở lớp học, nghe được ở nơi công cộng.
Các kỹ thuật phổ biến thông tin bao gồm việc sử dụng giọng nói, biểu hiện
bằng nét mặt, và động tác. Các phương thức phổ biến thông tin là những kênh
khác nhau mà chúng ta sử dụng để truyền thông tin, chủ yếu có bốn loại sau: “cá
nhân với cá nhân” hoặc còn gọi là phương thức thông tin “liên nhân”, các phương
thức phổ biến nhỏ lẻ, các phương thức truyền thống và các phương thức truyền
thông đại chúng hiện đại. Phổ biến thông tin công cộng bao gồm toàn bộ các
phương thức trên [Becker,
Ted & Slaton, Christa D. 2000; White, Stuart 2000; Seargeant, John &
Steele, Jane, 1998; Morrell, M. E. 1999].
Phương thức
cá nhân với cá nhân hoặc liên nhân
Đây là phương thức tiếp xúc trực
tiếp, trực diện và cho phép người tiếp xúc đặt câu hỏi và xác định rõ ràng ý
nghĩa của thông điệp. Phương thức phổ biến thông tin này đảm bảo cho sự hiểu biết
lẫn nhau một cách hiệu quả. Phương thức liên nhân bao gồm cả hình thức chuyện
trò giữa bạn bè hoặc người thân trong gia đình với nhau, và người ta có thể
thông tin cho nhau mọi điều liên quan đến mọi lĩnh vực mà các cá nhân, nhóm
quan tâm, kể cả những điều thầm kín, “bí mật” [Blaug, Ricardo 1999; Blomeley, N
1996; UK Cabinet Office 2000].
Các phương
thức truyền thống
Các phương thức phổ biến thông tin truyền
thống là các nghệ thuật trình diễn được sử dụng để minh hoạ và chuyển tải thông
tin một cách hấp dẫn và thú vị. Các cách thức trình diễn trong đời sống có thể
đem lại những cơ hội đặc biệt cho sự tương tác giữa người biểu diễn và khán
thính giả. Các hình thức đó gồm có kịch, các loại hình hát múa truyền thống, biểu
diễn con rối, hát rong, kể truyện, kịch câm, truyền thông tin bằng âm thanh, bằng
ánh sáng, bằng điệu bộ, bằng ký hiệu, v.v... Các phương thức truyền thống thường
là những cách thức mang tính nghệ thuật lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác [Carson,
Lyn & Martin, Brian 1999; Seargeant, John & Steele, Jane, 1998; Sarkissian,
Wendy & Walsh, Kevin (eds) 1994].
Các phương
thức nhỏ lẻ
Các phương thức phổ biến thông tin nhỏ lẻ
thường là những công cụ được sử dụng để hỗ trợ cho các cách thức phổ biến thông
tin rộng lớn hơn, hoặc minh họa cho phương thức thông tin cá nhân với cá nhân.
Các phương thức này gồm có: các áp phích, tờ rơi, băng cát sét, cách sách mỏng,
các bộ slides, video, các bảng biểu, thẻ hình (flash cards), quảng cáo trên
trang phục, phù hiệu, phổ biến trên loa phát thanh, v.v... [Carson L. and
Katharine Gelber 2001; Kathlene
L. & Martin, J. 1991; Morrell, M. E. 1999].
Các phương
thức phổ biến thông tin đại chúng
Các phương thức phổ biến thông
tin đại chúng cung cấp thông tin gián tiếp, một chiếu, và bao gồm các phương tiện
kỹ thuật hiện đại như phát thanh, truyền hình, báo, tạp chí, sách có hình vẽ,
phim ảnh, internets, các websites, hoặc nhiều phương tiện khác ở phạm vi cộng đồng,
quốc gia, và lớn nhất là ở phạm vi quốc tế và toàn cầu.
Thế nào là phổ biến thông tin
Phổ biến thông tin dự án liên quan đến việc
truyền thông cho các cá nhân, đơn vị, tổ chức, nhóm, cộng đồng và các bên liên
quan khác nhau. Vì vậy họ là người chủ động tìm kiếm, nhận, xử lý, phân tích
và tìm ra ý nghĩa của thông tin để tăng cường sự tham gia của mình vào các quá
trình của dự án. Các bên liên quan không phải là các khán, thính giả thụ động của
các hoạt động phổ biến thông tin [Carson, Lyn & Martin, Brian 1999; Seargeant,
John & Steele, Jane, 1998; Sarkissian, Wendy & Walsh, Kevin (eds)
1994].
Ai là đối
tượng mục tiêu của hoạt động phổ biến thông tin dự án?
Đây là câu hỏi quan trọng hàng đầu nhằm
xác định một cách rõ ràng đối tượng mục tiêu của các hoạt động phổ biến thông
tin dự án; i) đối tượng mục tiêu quan trọng nhất là các thành viên cộng đồng chịu
tác động (theo cả hai nghĩa tích cực lẫn tiêu cực từ dự án); ii) đối tượng mục
tiêu thứ hai là các bên liên quan trực tiếp đến quá trình hình thành, xây dựng
kế hoạch, và thực hiện các kế hoạch, và kết thúc dự án; iii) đối tượng quan trọng
thứ ba là các bên liên quan gián tiếp đến dự án. Tất cả các đối tượng phổ biến
thông tin được làm rõ ở phần Phân tích các bên liên quan [Carson L. and
Katharine Gelber 2001; Kathlene
L. & Martin, J. 1991; Morrell, M. E. 1999].
Quá trình chấp nhận hành vi mới
Mục đích của việc phổ biến thông tin dự án
là để các bên liên quan tiếp nhận thông tin, hiểu biết về dự án, tăng cường nhận
thức về vai trò tham gia của họ, và thay đổi hành vi để thực sự tham gia vào
các khâu, các quá trình của dự án. Điều quan trọng là đối tượng phổ biến thông
tin phải hiểu được tại sao họ cần thay đổi nhận thức và hành vi của mình, thay
đổi như thế nào, và họ phải làm gì để có thể tham gia một cách hiệu quả vào các
quá trình của dự án [Carson,
Lyn & Martin, Brian 1999; Seargeant, John & Steele, Jane, 1998; Sarkissian,
Wendy & Walsh, Kevin (eds) 1994].
Cơ sở xác lập
chiến lược phổ biến thông tin dự án
Vấn đề quan trọng là chiến lược phổ biến
thông tin cần phải dựa trên việc xác định rõ ràng các quá trình, các kỹ thuật,
các phương thức và các kênh phổ biến thông tin thích hợp nhất đối với các đối
tượng mục tiêu. Trong thực tế không có bất cứ một chiến lược phổ biến thông tin
chung nào mà lại áp dụng hiệu quả được vào mọi trường hợp cụ thể. Vì vậy các
quá trình, phương thức, kỹ thuật, kênh phổ biến thông tin phải được xác định dựa
trên các đặc điểm cụ thể của nhóm đối tượng mục tiêu về: dân tộc, lứa tuổi, giới
tính, ngôn ngữ, vị thế xã hội, bối cảnh địa lý, kinh tế, chính trị, thời gian,
không gian để có thể có được những tác động hiệu quả đến đối tượng được phổ biến
thông tin [Carson
L. and Katharine Gelber 2001; Kathlene L. & Martin, J. 1991; Morrell, M.
E. 1999].
Mỗi chiến lược phổ biến thông tin dự án cần
dựa trên việc nghiên cứu cẩn trọng và được xây dựng phù hợp với mỗi vùng, mỗi tộc
người, mỗi nhóm xã hội. Cần phải phối hợp các quá trình, các kênh khác nhau và
thông điệp cần phải được lặp đi lặp lại nhiều lần. Cần phải xác định một cách
rõ ràng mục tiêu chung và các mục tiêu cụ thể của mỗi chiến lược phổ biến thông
tin, và việc phổ biến thông tin trước hết phải tập trung vào các đối tượng ưu
tiên, các vấn đề ưu tiên, các phương tiện, phương thức ưu tiên nhằm đạt được hiệu
quả cao nhất để rồi nhân rộng ra các bên liên quan và các đối tượng khác, ở cấp
độ ưu tiên thấp hơn [Carson
L. and Katharine Gelber 2001; Kathlene L. & Martin, J. 1991; Morrell, M.
E. 1999].
Xác định nhóm đối tượng mục tiêu chủ yếu
Khi đã xác định được mục
tiêu phổ biến thông tin rồi thì cần phải xác định các nhóm đối tượng mục tiêu
quan trọng nhất. Cần phải xem xét vấn đề này một cách thận trọng. Cách xác định
nhóm đối tượng mục tiêu tốt nhất là sử dụng phương pháp phân tích các bên liên
quan. [Morrell, M.
E. 1999; Renn, O., Webler,T., Rakel, H., Dienel, P. & Johnson, B. 1993].
Phát triển chiến lược phổ biến thông tin - Các chiến lược
phổ biến thông tin
Các bước thiết kế: Về cơ bản việc thiết kế chiến lược phổ biến thông tin
dự án sẽ được thực hiện theo các bước sau: i) Xác định các mục tiêu ưu tiên của
cộng đồng trong các vấn đề liên quan đến dự án; ii) Phân tích số liệu và tiến
hành điều tra, khảo sát để xác định vấn đề về thói quen của cộng đồng chịu tác
động của dự án; cuộc khảo sát xây dựng chiến lược truyền thông đầu tiên của dự án thể hiện theo sơ đồ dưới đây:
iii) Kết quả khảo sát sẽ là một trong những yếu tố
quan trọng để xây dựng chiến dịch truyền thông cũng như làm cơ sở cho việc giám
sát và đánh giá sau này; iv) Phân tích các
bên liên quan: đối tượng nào cần tác động tới để thay đổi hành vi, thói quen
nào cần thay đổi, thay đổi như thế nào, làm thế nào để có thể thúc đẩy sự thay
đổi các hành vi đó... [Carson
L. and Katharine Gelber 2001; Kathlene L. & Martin, J. 1991; Morrell, M.
E. 1999].
Các yếu tố quyết định chiến lược: Việc xây dựng chiến lược truyền thông phải đảm bảo 5 yếu
tố quyết định dưới đây: i) Nguồn thông tin: Nguồn nào? Có
những thông tin gì?; ii) Thông điệp:
Thông điệp gì sẽ phù hợp?; iii) Kênh truyền
thông: Kênh truyền thông nào sẽ có hiệu quả nhất để đến với đối tượng?
iv) Đối tượng: Truyền thông phải đến được với ai?;
v) Phản hồi: Cần thay đổi gì về hành vi?
vi) Đánh giá: Thành công /thất bại của chiến lược
truyền thông sẽ được đo lường bằng cách nào? [Carson L. and
Katharine Gelber 2001; Kathlene
L. & Martin, J. 1991; Morrell, M. E. 1999].
Các phương tiện được sử dụng để phổ biến thông tin
i) Báo chí; ii) Tài liệu dự án; iii) Tổ thông tin lưu
động; iv) Hình thức biểu diễn; v) Quảng cáo; vi) Họp cộng đồng; vii) Các hình
thức khác
Nếu như cách thực tiễn
nhất là sử dụng cả phương tiện thông tin truyền thông đại chúng kết hợp với các
phương tiện thông tin truyền thống thì chúng ta cần phải xác định rõ ai nghe
và/hoặc nhìn, nghe và/hoặc nhìn cái gì, khi nào, ở đâu. Chúng ta cũng cần phải
biết về sở thích của các đối tượng phổ biến thông tin để xây dựng và sử lý
chương trình phổ biến thông tin một cách thích hợp. Cần phải nhận thức rõ ràng
về sở thích khác nhau giữa các nhóm phụ nữ, nam giới, thanh niên, người lớn tuổi,
người già; khác nhau về trình độ học vấn, về ngôn ngữ, về thị lực, về thói quen
sinh hoạt, sử dụng giờ giấc, v.v…để lựa chọn các phương tiện, phương thức, ngôn
ngữ, kênh phổ biến thông tin thích hợp [Morrell, M. E. 1999; Renn, O., Webler,T.,
Rakel, H., Dienel, P. & Johnson, B. 1993].
Lấy trường hợp dùng Radio làm phương tiện phổ biến
thông tin thì cần lưu ý đến các câu hỏi sau: i) Những ai có radio?; ii) Họ
nghe ai, nghe cái gì, nghe lúc nào, nghe bằng ngôn ngữ nào, nghe vì mục đích
gì?; iii) Thông tin được truyền đi như thế nào? có những
đài phát nào? tần số nào? truyền vào thời điểm nào? truyền bằng thức tiếng gì?
phủ sóng được đến đâu?
Các
phương pháp được sử dụng để thu thập thông tin
Không có các quy tắc cố định cho việc nghiên cứu, khảo
sát, thu thập thông tin cho mọi trường hợp. Công việc thu thập thông tin cần được
thực hiện một cách linh hoạt và thích ứng với các kỹ thuật và các cách tiếp cận
do nhiều yếu tố có liên quan quy định. Dưới đây là một số phương pháp và kỹ thuật
thông dụng nhất được sử dụng để thu thập thông tin:
Chiến lược thu thập thông tin
Cần phải thực hiện hai hoạt động
thực địa chủ yếu để có đầy đủ điều kiện chuẩn bị kế hoạch xác định tác động của
dự án và vấn đề tái định cư: i) tiến hành một cuộc điều tra dân số, chủ yếu nhằm
xác định những người phải chịu tác động của dự án (PAP - Project Affected
Persons) sống trong khu vực chịu tác động của dự án và những
loại tài sản nào mà người dân làm chủ hoặc sử dụng mà không thể di dời được;
ii) tiến hành khảo sát kinh tế - xã hội chủ yếu nhằm tìm hiểu các yếu tố kinh tế
- xã hội và các hạn chế cần được xem xét khi đưa ra các chi tiết đề xuất các
gói tái định cư [Carson
L. and Katharine Gelber 2001; Kathlene L. & Martin, J. 1991; Morrell, M.
E. 1999].
Điều quan trọng là cần phải có
quan điểm rõ ràng về chiến lược nhằm thực hiện việc thu thập đầy đủ dữ liệu,
bao gồm cả việc điều tra kinh tế - xã hội và dân số. Trong quá trình thiết kế
và thực hiện dự án, cần trả lời một số vấn đề chủ chốt càng sớm càng tốt. Cần xây dựng bảng thể hiện các vấn đề và các yếu tố chủ chốt quyết định các phản ứng đối
với các vấn đề này.
Phương
pháp định lượng bằng bảng hỏi
Việc thu thập thông tin định lượng
bằng bảng hỏi có tác dụng to lớn trong tham vấn cộng đồng. Tuy nhiên đây là một
công việc đòi hỏi có kỹ năng cao của các nhà chuyên môn, hoặc những người có
nhiều kinh nghiệm trong tham vấn cộng đồng bằng bảng hỏi. Điều đó thể hiện trước
hết ở việc xây dựng bảng hỏi.
Viết câu hỏi
- Khi sử dụng từ và ngữ pháp cần
phải định hướng vào đối tượng khảo sát: i) đối với các nghiên cứu trong một tổ
chức cụ thể, có thể sử dụng các ngôn ngữ riêng của tổ chức đó; ii) cần cẩn thận
để tránh loại ngôn từ quen thuộc của người viết, nhưng lại xa lạ đối với người
trả lời. Tránh dùng các từ viết tắt không cần thiết.
- Tránh mập mờ, lẫn lộn và phỏng
chừng: cần phải đảm bảo rằng những gì bạn muốn hỏi và bạn muốn được trả lời như
thế nào cần phải tuyệt đối rõ ràng. Chẳng hạn nếu bạn chỉ hỏi “Thu nhập của
ông/bà là bao nhiêu?” Thì người trả lời sẽ không biết bạn muốn hỏi thu nhập
theo tuần, tháng, hay năm, trước thuế hoay sau thuế, thu nhập của hộ gia đình
hay của cá nhân, năm nay hay năm trước, chỉ có thu nhập từ lương hay bao gồm cả
tiền lãi cổ phần, lợi tức, v.v... [Carson L. and Katharine Gelber 2001; Kathlene L.
& Martin, J. 1991; Morrell, M. E. 1999].
- Tránh dùng các từ bất định hoặc
các loại từ dễ gây phản ứng. Chẳng hạn “Ông vẫn tiến hành đều đặc chứ?” thì “đều
đặn” nghĩa là gì?
- Tránh các ngôn từ thiên về tình
cảm, uy tín hoặc các câu hỏi hướng dẫn: i) cần thận trọng với các từ có một lịch
sử gắn liền với các tình huống cực đoan. Chẳng hạn cần tránh các câu hỏi chẳng
hạn “Nên làm gì đối với những kẻ tham nhũng trong xã, những lũ ăn cướp
của người dân lành?”; ii) cần cẩn thận với những cái mác uy tín gợi cho người trả lời
nên sử dụng câu trả lời “đúng”, “phải”, “vâng”. Chẳng hạn câu hỏi “Các
bí thư chi bộ đều nói rằng hầu hết người dân trong xã là người tốt. Ông bà có đồng
ý như vậy không?” loại câu hỏi như vậy thường có khuynh hướng gợi cho người ta
trả lời “Có”, vì mọi người thường tin tưởng vào các bí thư chi bộ. Tương tự như
vậy, “Ông bà có ủng hộ chính sách của Nhà nước
không?” thường gợi cho người ta đáp “Có” vì với những câu hỏi loại này mọi
người không bao giờ nói theo cách khác.
- Tránh các câu hỏi dẫn dắt như
“Ông không đòi bồi thường, phải không?” hoặc “Chắc chắn là các đảng viên sẽ
gương mẫu trong việc di dời đến khu tái định cư”.
- Tránh các câu hỏi có các đoạn giải
thích bổ sung chẳng hạn như “Chủ tịch huyện có nên quyết định tăng ngân sách để
tăng thêm việc làm cho người dân tại các khu vực tái định cư không?”
- Tránh các câu hỏi có hai phần nối
nhau: Mỗi câu hỏi đưa ra theo một chủ đề và chỉ một chủ đề mà thôi. Chẳng hạn
không nên hỏi “Công ty của ông bà có các khoản phúc lợi hưu trí và y tế không?”
vì nếu Công ty chỉ có một trong hai khoản phúc lợi đó thì người trả lời không
biết nên nói “có” hay “không”.
- Tránh những câu hỏi vượt quá khả
năng của người trả lời: mọi người đều có những hạn chế nhận thức, nhất là khi
nó gợi lên các ký ức trong quá khứ. Vì vậy việc đặt câu hỏi “Ông bà suy nghĩ gì
về chủ tịch xã lúc ông ấy còn thanh niên” là một câu hỏi vô dụng.
- Cũng sẽ là vô vị khi đặt câu hỏi
về những thứ mà người ta không để ý gì đến. Chẳng hạn, không nên bận tâm để hỏi
“Năm ngoái ông đã mua bao nhiêu lít xăng để chạy xe?”
- Tránh các tiền đề giả như câu hỏi
“Điều gì là quan trọng nhất mà chúng ta cần làm để chấm dứt tình trạng suy
thoái hơn nữa nền kinh tế của huyện nhà?”. Giả định rằng nền kinh tế đang suy
thoái, có thể người trả lời không đồng ý với nhận định đó. Điều đó đặt người trả
lời vào một tình huống khó xử. Trong trường hợp này nên sắp xếp lại câu hỏi
thành “Theo ông bà điều gì là quan trọng nhất mà lãnh đạo huyện có thể thực hiện
để tăng cường nền kinh tế của huyện nhà?” [Carson L. and Katharine Gelber 2001; Kathlene L.
& Martin, J. 1991; Morrell, M. E. 1999].
- Tránh hỏi về các dự định tương
lai (nếu có thể): Các câu hỏi có tính giả thuyết như “Nếu có một cái chợ ngay tại
khu tái định cư thì ông bà có đến đó buôn bán không?” là một câu hỏi không liên
quan gì đến hành vi tương lai thực.
- Tránh các câu phủ định và đặc biệt
là phủ định kép: Các câu phủ định như “Những người không nhận tiền đề bù thì
không ghi tên vào danh sách được tham vấn” đối với nhiều người trả lời thường
khó xử lý, đặc biệt là khi họ đồng ý với điều khẳng định, vì như vậy thì họ lại
không đồng ý với không làm một điều
gì đó, như vậy là lẫn lộn! [Morrell, M. E. 1999; Renn, O., Webler,T.,
Rakel, H., Dienel, P. & Johnson, B. 1993].
Xắp sếp câu hỏi
- Cần phải xếp những câu hỏi khó,
dễ lẫn hoặc có vẻ hăm doạ xuống cuối bảng hỏi khi người được hỏi thấy dễ chịu
hơn. Điều đó có hai lợi ích. Trước hết nó làm cho họ muốn trả lời thêm, và thứ
hai, nếu học bực tức và bỏ cuộc thì tối thiểu bạn cũng đã đưa ra được hầu hết
các câu hỏi của mình! [Morrell,
M. E. 1999; Renn, O., Webler,T., Rakel, H., Dienel, P. & Johnson, B. 1993].
- Đặt các câu hỏi có liên quan với
nhau để tránh gây ra ấn tượng là thiếu tỷ mỷ
- Xem xét cẩn thận các câu hỏi làm
cho việc trả lời ảnh hưởng đến các câu hỏi khác. Ví dụ: i) Ông bà có nghĩ rằng
chính quyền địa phương nên để cho các phóng viên đến khai thác tin tức về dự án
không?; ii) Ông bà có nghĩ rằng một địa phương trong vùng dự án có nên để cho
các nhà báo đến lấy tin tức ở địa phương mình không? [Carson L. and
Katharine Gelber 2001; Kathlene
L. & Martin, J. 1991; Morrell, M. E. 1999].
Số lẻ hoặc số chẵn của các bước
trong thang trả lời
Nhìn chung người ta gợi ý rằng bạn
sử dụng một số lẻ trong các bước để cho phép người trả lời thể hiện độ mạnh của
một quan điểm ở mức trung bình. Điều đó gây ra vấn đề đối với một số người trả
lời khi họ từ chối không bộc lộ ý kiến và đưa ra những câu trả lời ở mức trung
bình cho tất cả các câu hỏi. Tuy nhiên phương án khác có thể còn tồi tệ hơn: những
người trả lời không có hoặc chỉ có ý kiến trung gian bị ép phải lựa chọn ý kiến
phủ định hoặc khẳng định và thực hiện điều đó một cách ngẫu nhiên [Morrell, M.
E. 1999; Renn, O., Webler,T., Rakel, H., Dienel, P. & Johnson, B. 1993].
Phân cấp trong thang trả lời
Mức độ đáng tin cây về phương diện
thống kê các dữ liệu tăng lên rõ ràng với một số bước trong thang trả lời, lên
đến khoảng 7 bước, sau đó tăng chậm hơn, và chững lại ở khoảng 11 cấp. Sau 20 cấp
thì suy giảm rõ ràng. Tuy nhiên bạn có càng nhiều cấp hơn thì càng khó cho người
trả lời, và câu trả lời sẽ trở nên ít có giá trị. Nếu các biến được kết hợp với
nhau theo cách cộng thêm vào giống như khi chúng ta tạo ra một thang đo hoặc một
chỉ số so sánh thì số cấp sẽ không phải là một vấn đề về mức độ đáng tin cậy nữa.
Bạn có thể sử dụng hai cấp (thật/giả) nếu bạn muốn. Có người thích sử dụng thang trả
lời 3 điểm vì chúng nhanh và dễ cho người trả lời [Morrell, M.
E. 1999; Renn, O., Webler,T., Rakel, H., Dienel, P. & Johnson, B. 1993].
Thang đo tầm quan trọng trực tiếp
Thang đo tầm quan trọng là một
phương pháp để đạt được các dữ liệu thang tỷ lệ từ những người cung cấp thông
tin. Ý tưởng cơ bản là đưa ra cho người trả lời một điểm neo (anchor point), và
sau đó yêu cầu họ trả lời các câu hỏi liên quan đến điểm neo đó. Chẳng hạn hãy
giả sử bạn quan tâm đến tính chất nghiêm trọng của các tội ác. Hãy bắt đầu bằng
việc ấn định một con số cho một tội phạm. Chẳng hạn, hãy lấy “trọng tội” và nói
với người trả lời rằng mức độ nghiêm trọng của một trọng tội là 100 đơn vị. Sau
đó nói: “Được rồi, nếu trọng tội là 100 điểm thì tội “giết người” là bao nhiêu?
Nếu bạn cho rằng tội giết người là 10 lần xấu hơn một trọng tội, thì hãy viết
1000. Nếu xấu gấp hai lần thì viết 200. Sau đó bạn đề nghị như vậy cho từng tội
phạm [Renn,
O., Webler,T., Rakel, H., Dienel, P. & Johnson, B. 1993; Sarkissian, Wendy
& Walsh, Kevin (eds) 1994].
Xếp thứ tự phân cấp
Xếp thứ tự phân cấp là một phương
pháp vận hành tốt với một số lượng nhỏ các đối tượng, chẳng hạn 10. Ví dụ thay
cho việc phân loại mỗi tập vấn đề nghiêm trọng đến mức nào bạn có thể yêu cầu
người trả lời phân loại một cách đơn giản các vấn đề đó theo trật tự từ nghiêm
trọng nhất đến ít nghiêm trọng nhất [Renn, O., Webler,T., Rakel, H., Dienel, P.
& Johnson, B. 1993; Sarkissian, Wendy & Walsh, Kevin (eds) 1994].
So sánh theo cặp
Bằng phương pháp này bạn thể hiện
các hạng mục mỗi lần hai hạng mục, và yêu cầu người trả lời nhặt ra cặp nào có
nhiều hơn một thuộc tính nào đó. Chẳng hạn, bạn có thể thể hiện các vấn đề tổ
chức và hỏi xem vấn đề nào nghiêm trọng hơn [Morrell, M. E. 1999; Renn, O., Webler,T.,
Rakel, H., Dienel, P. & Johnson, B. 1993].
Các
phương pháp định tính
Chắc chắn
cần phải tiến hành các cuộc khảo sát về mức độ phủ sóng của các kênh truyền
thông hiện có. Hầu hết các tổ chức truyền thông đại chúng đều có một chỉ báo
nào đó về mức độ nghe, nhìn, đọc và mức độ bao phủ về phương diện địa lý của
các hoạt động thông tin truyền thông địa phương, vùng và quốc gia. Điều đó cần
đến các phương pháp nghiên cứu định tính [Renn, O., Webler,T., Rakel, H., Dienel, P.
& Johnson, B. 1993; Sarkissian, Wendy & Walsh, Kevin (eds) 1994].
Một phần vì những bất
tiện của các phương pháp định lượng, trong các chiến dịch thông tin truyền
thông dự án người ta còn sử dụng nhiều phương pháp thu thập thông tin định tính
khác nhau. Vì công việc khảo sát như vậy thu thập thông tin về các cảm xúc và ấn
tượng từ một số tương đối nhỏ những người trả lời, nên các dữ liệu thường không
thể được định lượng hoá bằng các con số được. Vì vậy việc khái quát hoá từ các
kết quả thu thập thông tin phải được tiến hành một cách thận trọng. Lợi thế chủ
yếu của các phương pháp định tính là ở chỗ chúng tạo ra sự đối thoại với những
người tham gia, cho phép chúng ta biết được các bên liên quan thực sự suy nghĩ
và cảm nhận vấn đề như thế nào. Các phương pháp định tính cũng rất hữu ích cho
việc thiết kế các công cụ khảo sát. Những điều bất tiện là ở chỗ các phương
pháp thu thập thông tin định tính đòi hỏi các kỹ năng tốt, thời gian chuẩn bị
thu thập và phân tích dữ liệu dài và việc lý giải các thông tin định tính không
hề đơn giản [Renn,
O., Webler,T., Rakel, H., Dienel, P. & Johnson, B. 1993; Sarkissian, Wendy
& Walsh, Kevin (eds) 1994].
Phương
pháp thảo luận nhóm tập trung
Thảo luận nhóm tập
trung là một trong những phương pháp thu thập thông tin định tính rất có kết quả.
Trong một cuộc thảo luận nhóm tập trung, người điều khiển thảo luận hướng dẫn một
số nhỏ (thường từ 6 đến 10 người) có các đặc trưng tương đồng về tuổi tác, giới
tính, trình độ học vấn, là người nông thôn hoặc đô thị, v.v… nhằm thảo luận về
một chủ đề được lựa chọn, trong cuộc thảo luận đó mọi người được tự do phát biểu
ý kiến một cách thoải mái. Các câu hỏi chính sử dụng trong cuộc thảo luận cần
phải được quyết định trước khi tiến hành thảo luận, và người điều hành cần phải
ghi lại tất cả các kết quả chủ yếu của cuộc thảo luận ngay sau khi kết thúc thảo
luận nhóm [Kathlene
L. & Martin, J. 1991; Miesen, Rene 1997; White, Stuart 2000].
Quản lý thông tin cơ bản
- Tại sao phải quản lý thông tin
Cần phải xây dựng một hệ thống quản
lý cơ sở dữ liệu nhằm quản lý các thông tin cơ bản, đặc biệt là thông tin dân số
cần phải được tiếp cận, xử lý, thay đổi, và quản lý trong toàn bộ quá trình thực
hiện dự án, nhất là trong giai đoạn căng thẳng nhất của hoạt động tái định cư
và đền bù. Tối thiểu thì hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu này cần được kết hợp với các thông tin về tài sản và các dữ liệu kinh
tế xã hội. Bên cạnh đó các thông tin liên quan đến việc tiếp tục thực hiện
chương trình cũng có thể được quản lý cùng với nhau chẳng hạn như các lựa chọn
tái định cư và đền bù, các khoản đề bù đã nhận và các tài liệu hành chính, luật
pháp, khiếu kiện, các cuộc họp tham vấn và giám sát hậu tái định cư có liên
quan. Việc chuẩn bị các báo cáo tiến độ cũng là một mục tiêu của hệ thống [Kathlene L.
& Martin, J. 1991; Miesen, Rene 1997; White, Stuart 2000].
Các phương pháp thay thế trong việc
quản lý dữ liệu nguồn mở ngày càng cung cấp cho chính quyền các giải pháp tài
khéo, sáng tạo với mức chi phí thấp hơn các giải pháp thương mại truyền thống.
Tất cả các thông tin này cần phải được lập bảng chú dẫn bằng cách sử dụng một
con số duy nhất để xác định một hộ gia đình. An toàn là một trong những bộ phận
quan trọng của hệ thống, vì vậy hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu cần phải hỗ trợ
các vai trò và các đặc quyền kiểm soát tiếp cận và bảo đảm an toàn dữ liệu nhằm
ngăn chặn sự gian lận hoặc lẫn lộn dữ liệu. Cần phải có sự kiểm kê tài liệu một
cách hợp lý thông qua một “kênh kiểm kê”: tất cả mọi can thiệp tác động đến dữ
liệu cần phải được theo dõi thông qua các chức năng theo dõi thay đổi hoặc khoá
dữ liệu để tăng cường tính minh bạch và cho phép kiểm kê cả nội bộ lẫn bên
ngoài [Carson
L. and Katharine Gelber 2001; Kathlene L. & Martin, J. 1991; Morrell, M.
E. 1999].
Các
đặc trưng trong quản lý thông tin dự án
Tối thiểu thì các đặc trưng chức
năng của một hệ thống quản lý dữ liệu định hướng tái định cư cần phải như sau:
i) phát hành các thẻ căn cước của các chủ hộ chịu tác động bao gồm cả ảnh kỹ
thuật số của họ; ii) chuẩn bị các danh sách những người chịu tác động, phân loại
theo những tiêu chuẩn khác nhau chẳng hạn như vị trí, giá trị tài sản, sở thích
đền bù, v.v…; iii) chuẩn bị các tài liệu, chứng từ đền bù (các chứng nhận đền
bù, hoá đơn, séc, nếu có thể thì bao gồm cả chứng thư); iv) chuẩn bị các danh mục
tài sản bị ảnh hưởng được ghi chú toạ độ, các ảnh, chủ sở hữu hoặc người sử dụng;
v) chuẩn bị các báo cáo tóm tắt về các thông tin kinh tế xã hội cơ bản (những
người dễ bị tổn thương, nghề nghiệp, thu nhập, vị trí hoạt động kiếm sống); vi)
củng cố hồ sơ hộ gia đình bằng các thông tin hộ có liên quan và cho phép lưu ý
đến việc giám sát hậu tái định cư về vị trí trong khu vực tái định cư, mức đề
bù, sinh kế trong tình huống hậu tái định cư dựa trên cơ sở hộ gia đình [Carson L. and
Katharine Gelber 2001; Kathlene
L. & Martin, J. 1991; Morrell, M. E. 1999].
____________________________
Tài liệu tham khảo
Becker,
Ted & Slaton, Christa D. 2000. The
Future of Teledemocracy, Westport, Connecticut, Praeger.
Blaug,
Ricardo 1999. Democracy, Real and Ideal
Discourse Ethics and Radical Politics, Albany, State University of New York
Press.
Blomeley,
N 1996. Talking with Indigenous
Australians’, in Menere, R. & Bird, J. (eds) Health and Australian
Indigenous Peoples: Study Guide, Lismore, Southern Cross University.
Carson,
Lyn 1999. Random Selection: Achieving
Representation in Planning’, Alison Burton Memorial Lecture, Royal
Australian Planning Institute, Canberra ACT, 31 August.
Carson,
Lyn & Martin, Brian 1999. Random
Selection in Politics, Westport, CT, Praeger Publishers.
Carson
L. and Katharine Gelber 2001. Ideas for
Community Consultation - A discussion on principles and
procedures for making consultation work.
A report prepared for the NSW Department of Urban
Affairs and Planning. NSW Department of Urban Affairs and Planning
Kathlene
L. & Martin, J. 1991. Enhancing
Citizen Participation: Panel Designs, Perspectives and Policy Formation’,
Journal of Policy Analysis and Management, 10 (1): 46–63.
Miesen,
Rene 1997. The Villawood Charrette from a
Consultation Perspective, from Conference Proceedings: Reaching Common Ground — Open Government, Community Consultation and
Public Participation, 23–24 October 1996, published by the Open Government
Network.
Morrell,
M. E. 1999. Citizens’ Evaluations of
Participatory Democratic Procedures: Normative Theory Meets Empirical Science,
Political Research Quarterly, 52 (2): 293–322.
Renn,
O., Webler,T., Rakel, H., Dienel, P. & Johnson, B. 1993. Public Participation in Decision-Making: A
Three-Step Procedure, Policy Sciences, 26: 189–214.
Sarkissian,
Wendy & Walsh, Kevin (eds) 1994. Community
Participation in Practice: Casebook, Institute for Science and Technology
Policy, Murdoch University.
Seargeant,
John & Steele, Jane, 1998. Consulting
the Public: Guidelines and Good Practice, Policy Studies Institute, London.
UK
Cabinet Office 2000. How to Consult Your
Users: An Introductory Guide, London.
UK
Local Government Association 2000. Let’s
Talk About It… Principles for consultation on local governance, Smith
Square, London, March.
White,
Stuart 2000. information provided by Dr
White regarding a proposed Container Deposit Legislation Televote,
Institute for Sustainable Futures, University of Technology, Sydney.