Powered By Blogger

Chủ Nhật, 14 tháng 12, 2025

Bộ Nhân và Con người trong Thuyết văn Giải tự (I)

Tần Uyển Thuần

Người dịch: Hà Hữu Nga

Tóm tắt

[Tr.1417] Chữ Hán, về cấu trúc và ý nghĩa, thể hiện và phản ánh tư tưởng và văn hóa của người xưa. Nghiên cứu các chữ Hán thuộc bộ ‘Nhân’ trong ‘Thuyết văn Giải tự’ rất có lợi cho việc khám phá sự hiểu biết của người xưa về ‘Con người’. Do đó, bài viết này tìm hiểu bốn khía cạnh: ‘Sự hiểu biết cơ bản về nhân loại và tư tưởng nhân văn’, ‘Mối quan hệ giữa Người với Người’, ‘Mối quan hệ giữa Trời và Người’, và ‘Mối quan hệ giữa Người và Ma quỷ’, nỗ lực khám phá sự hiểu biết của người Trung Quốc cổ đại về ‘Con người’ từ góc độ chữ Hán.

1. Giới thiệu

[Tr.1418] Tư duy không thể tách rời khỏi ngôn ngữ. Ngôn ngữ là công cụ của tư duy và cũng ghi lại quá trình và thành tựu của nhân loại trong việc hiểu biết thế giới. Chữ viết giúp nhân loại thoát khỏi những hạn chế về thời gian và không gian của ngôn ngữ. Cho dù từ góc độ hình thành chữ, ngữ nghĩa hay ngữ âm, nó đều ghi lại, ở một mức độ nhất định, quá trình hiểu biết của nhân loại về sự vật, giá trị và thành tựu văn hóa. Là một đại diện cho chữ viết tượng hình, chữ Hán cho phép chúng ta khám phá sự hiểu biết ban đầu của người xưa về nhiều sự vật khác nhau và nền văn hóa bắt nguồn từ đó thông qua các hình thức nguyên thủy của chúng.

Mọi nền văn minh đều bắt nguồn từ tư duy và sự khám phá ban đầu của nhân loại về bản thân và những thứ xung quanh. Bộ thủ ‘Nhân’ trong Thuyết văn Giải tự  chứa 245 chữ, với 14 dạng biến thể, khiến nó trở thành một trong những bộ thủ có phạm vi rộng nhất trong từ điển. Những chữ này bao hàm một loạt các nghĩa liên quan đến một người, bao gồm đặc điểm tính cách, nhân cách, hành động, hành vi, thể chất, ngoại hình, họ, chủng tộc và nghề nghiệp. Nghiên cứu bộ thủ ‘Nhân’ cho phép chúng ta khám phá tinh thần và tư tưởng nhân văn thời kỳ đầu của Trung Quốc. Người xưa tập trung sự hiểu biết của họ vào nhân loại, tiến hành các cuộc khám phá sâu rộng từ bên trong ra ngoài, và ghi lại bằng văn bản những khác biệt và mối liên hệ giữa con người với con người, giữa con người và trời đất, và giữa con người và ma quỷ, từ hành vi và ngoại hình của con người đến các mối quan hệ khác của con người.

2. Hiểu biết cơ bản về ‘Con người’ và tư tưởng nhân văn

Ý nghĩa ban đầu của chữ  'nhân' 'người' và việc tạo ra các chữ xung quanh chữ phản ánh tinh thần và tư tưởng nhân văn của người xưa.

2.1. Con người – sự tự thức tỉnh và là trung tâm của vạn vật

Con người là vạn vật quý giá nhất trên trời đất. Đây là chữ Hán cổ chỉ  ‘Nhân’, có hình dạng giống tay chân. Tất cả các chữ liên quan đến con người đều theo sau chữ [1]. Chữ đầu tiên trong Thuyết văn Giải tự 'nhân' là một chữ tượng hình. Hứa Thận trong Thuyết văn Giải tự đã chỉ ra rằng là hình dạng của tay chân, cho thấy khi con người tạo ra các chữ, sự hiểu biết của họ về con người bắt đầu từ hình dáng và hình dạng của sự vật. Tuy nhiên, Hứa Thận trong Thuyết văn Giải tự cũng chỉ ra rằng con người là “vĩnh vật quý giá nhất trên trời đất”. Đoàn Ngọc Tài trong ‘Thuyết văn Giải tự chú’ giải thích rằng con người là: 禮運曰。人者、其天地之德。陰陽之交。鬼神之會。五行之秀氣也。又曰。人者、天地之心也。五行之端也。食味別聲被色而生者也。按禽獸草木皆天地所生。而不得為天地之心。惟人為天地之心。故天地之生此為極貴 “Lễ vận viết. Nhân giả, kì thiên địa chi đức. Âm dương chi giao. Quỷ thần chi hội. Ngũ hành chi tú khí dã. Hựu viết. Nhân giả, thiên địa chi tâm dã. Ngũ hành chi đoan dã. Thực vị biệt thanh bị sắc nhi sinh giả dã. Án cầm thú thảo mộc giai thiên địa sở sinh. Nhi bất đắc vi thiên địa chi tâm. Duy nhân vi thiên địa chi tâm. Cố thiên địa chi sinh thử vi cực quý”[2] “Sách Lễ Vận viết: Con người là cái Đức của Trời Đất vậy. Là sự giao hòa Âm Dương, Tụ hội của Quỷ Thần, Tú khí của Ngũ hành vậy. Lại nói Con người là Tâm của Trời Đất, Đầu mối của Ngũ hành; Lọc mùi, Thưởng vị, Thính âm, Hưởng sắc mà sinh ra vậy. Kìa cầm thú thảo mộc đều do Trời đất sinh ra, nhưng chúng không thể là Tâm của Trời Đất vậy. Duy chỉ con người mới thực là Thiên Đại chi Tâm. Há chẳng phải việc Trời Đất sinh ra Con người là vô cùng quý giá đó sao.”[2] Có thể thấy rằng sự hiểu biết của người xưa về bản thân không chỉ giới hạn ở vẻ bề ngoài, mà họ còn nhận ra tính độc nhất của con người và ý thức phân biệt con người với Cầm thú, Thảo mộc, phản ánh một ý thức chủ quan nhất định. Quan niệm cho rằng con người là 天地之性最貴者 ‘Thiên Địa chi tính tối quý giả’ ‘Thứ quý giá nhất trên Trời dưới Đất’ thực chất là sự khởi đầu của khái niệm 人是歷史活動的主體 ‘nhân thị lịch sử hoạt động đích chủ thể’ con người là chủ thể của các hoạt động lịch sử, 人是自然的改造者 ‘nhân thị tự nhiên đích cải tạo giả’ ‘con người biến đổi tự nhiên’ và 人是社會的創造者nhân thị xã hội đích sáng tạo giả’ ‘con người kiến ​​tạo xã hội’.

2.2. Tư tưởng Nhân văn trong cấu trúc chữ Hán của ‘Con người’

Số lượng lớn các chữ Hán trong bộ ‘Nhân’ của Thuyết văn Giải tự là kết quả của việc người xưa “quan sát sự vật và ghi lại hình ảnh”. Khương Lượng Phu Tiên sinh trong ‘Cổ Văn Tự Học’ của mình cho rằng 整個漢字的精神,是從人 (更確切一點,是從人的身體全部)出發的。一切物質的存在,是從人的眼所見、耳所聞、手所觸、鼻所嗅、舌所嘗出發的 (而尤以『見』為重要)。…總之,它是從人看實物;以人的官能看事物」[3] “Chỉnh cá Hán tự đích tinh thần, thị tòng nhân (canh xác thiết nhất điểm thuyết, thị tòng nhân đích thân thể toàn bộ) xuất phát đích. Nhất thiết vật chất đích tồn tại, thị tòng nhân đích nhãn sở kiến, nhĩ sở văn, thủ sở xúc, tị sở khứu, thiệt sở thường xuất phát đích (nhi vưu dĩ ‘kiến’ vi trọng yếu).… Tổng chi, tha thị tòng nhân khán thật vật; dĩ nhân đích quan năng khán sự vật”. [3]. “Tinh thần của toàn bộ chữ Hán bắt nguồn từ con người (chính xác hơn là từ toàn bộ cơ thể con người). Sự tồn tại của mọi vật chất bắt nguồn từ những gì con người nhìn thấy bằng mắt, nghe bằng tai, chạm bằng tay, ngửi bằng mũi và nếm bằng lưỡi (và nhìn thấy đặc biệt quan trọng)...Tóm lại, đó là việc con người nhìn nhận những thứ thực tế; các giác quan của con người nhìn nhận mọi thứ”[3].

Khi tạo ra các chữ Hán, người xưa rất coi trọng kinh nghiệm trực giác của chính họ, chẳng hạn như thị giác, xúc giác, vị giác, thính giác, v.v., và sau đó tạo ra các chữ Hán dựa trên kinh nghiệm chủ quan của chính họ. Do đó, hầu hết các chữ Hán thời kỳ đầu đều bắt nguồn từ con người và có liên quan mật thiết đến cảm nhận chủ quan của con người. Về cấu trúc chữ Hán, chúng có liên quan mật thiết đến ‘nhân’ Con người [4]. Ví dụ: 併, 并也. Tính, tịnh dã. Tính [gộp lại] là tịnh [hợp lại] vậy. Từ âm thanh ‘nhân’ và ‘tịnh’[1]. Đoàn Ngọc Tài đã chỉ ra trong ‘Thuyết văn Giải tự chú’ 竝者,併也 ‘tịnh giả, tính dã’ Tịnh/ngang bằng, đều là tính/gộp lại vậy [2]. Chữ giáp cốt văn ‘tịnh’ trông giống như hai người đứng cạnh nhau, vì vậy nó có nghĩa là hợp nhất. Đây là cách người xưa bắt đầu từ cảm nhận chủ quan về thị giác và trừu tượng hóa ý nghĩa của ‘hợp nhất’ từ hình ảnh cụ thể. Từ góc độ thính giác, có 3 chữ Hán trong ‘Thuyết văn•Nhân bộ’ mô tả giọng nói của con người, đó là ‘tiết/tất’ tiếng rên, ‘hào’ gào lên đau đớn; ‘khoa’ khoa trương. Thông qua từ tượng thanh ‘tất’ hết cả, biết hết; ‘hào’ đồ nhắm, thức nhắm; ‘khoa’ khoác lác, chúng mô tả âm thanh của con người 小聲呻吟 ‘tiểu thanh thân ngâm’ ‘khe khẽ rên rỉ’, 大聲痛呼 ‘đại thanh thống hô’ ‘to tiếng gào thét’, và 疲憊哀嘆 ‘bì bại ai thán’ ‘kiệt lả than van’. Ngoài ra, các đơn vị đo chiều dài cổ đại cũng liên quan đến con người. ‘nhận’ 8 thước/ 6.48m, duỗi một tay ra là một tìm kiếm, tám bước chân. Từ âm thanh của ‘nhận’ lưỡi dao/mũi nhọn[1].

Một ‘nhận’ là chiều dài của hai cánh tay dang rộng của một người. Đồng thời, có rất nhiều đơn vị đo lường khác không được đề cập trong ‘Thuyết văn• Nhân bộ’ cũng liên quan đến con người. ‘Thuyết văn•Xích bộ’ ghi rằng: 週制,寸、尺、咫、尋、常、仞諸度量,皆以人之體為法[1] ‘Chu chế, thốn, xích, chỉ, tầm, thường, nhận chư độ lượng, giai dĩ nhân chi thể vi pháp’[1] Từ điển  ‘Thuyết văn•Xích bộ’ ghi rằng: “Vào thời nhà Chu, các đơn vị đo lường như ‘thốn’, ‘xích’, ‘chỉ’, ‘tầm’, ‘thường’ và ‘nhận’ đều dựa trên cơ thể người.”[1] Điều này cho thấy vào thời kỳ đầu, khi con người chưa có công cụ đo lường, họ đã sử dụng 身為度 ‘thân vi độ’ – lấy thân thể làm thước đo, phản ánh sự khám phá của người xưa từ chủ quan đến khách quan. Ngoài ra, nhiều chữ Hán phản ánh các hành động khác nhau của con người từ góc độ các khí quan: xí’ kiễng ngóng, phó’ giao cho, mạn’ làm trái, xưng’ kêu lên, cất lên, ‘hiện’ rình xem. Năm chữ Hán ‘chỉ’ dừng lại, ‘thốn’ tấc/đốt ngón tay, ‘diện’ mặt, gặp, thấy, ‘trảo’ móng, vuốt, ‘mục’ mắt phản ánh các cơ quan thực hiện các chuyển động, và trực tiếp thể hiện diện mạo của những người này khi họ thực hiện các chuyển động đó. Khi mô tả những thứ tương đối trừu tượng như cảm xúc, ngoại hình và tính cách của con người, thường không thể có được chúng từ kinh nghiệm trực tiếp, mà phải có được bằng cách mượn những thứ khác làm ẩn dụ hoặc bằng cách kết hợp các ký tự khác với bộ thủ ‘nhân’. có nghĩa là bất an. Nó được cấu tạo từ bộ thủ ‘nhân’ và thành phần ngữ âm ‘dung’.[1] Diễn giải của ‘Đoàn chú’ viết: 不安也.與水波溶溶意義略同.皆動湯兒也. ‘Bất an dã. Dữ thủy ba dung dung ý nghĩa lược đồng. Giai động thang nhân dã’. “Đấy là bất an vậy. Nghĩa tương tự như gợn sóng nước. Đều đề cập đến chuyển động của nước vậy.” Sự bất an của một ai đó là vô hình, vì vậy người xưa đã sử dụng gợn sóng nước để mô tả những cảm xúc hỗn loạn trong lòng người ta. Họ đã sử dụng một hình ảnh cụ thể để diễn đạt một ý nghĩa trừu tượng, điều này phản ánh trí tuệ của người xưa trong việc tạo ra các ký tự. Nó cũng phản ánh sự khám phá và hiểu biết của người xưa về môi trường khách quan bằng ý thức chủ quan của họ. 僔,聚也.从人尊聲.《詩》曰:僔沓背僧.Tổn, tụ dã. Tòng nhân tôn thanh. ‘Thi’ viết: ‘Tổn đạp bối tăng’[1]. ‘Tổn’ có nghĩa là tụ họp vậy. Nó được cấu tạo từ bộ thủ ‘Nhân’, ngữ âm ‘tôn’. Kinh Thi viết: Tụ bạ trước mặt, thù hận sau lưng. [1].

‘Tổn’ là một ký tự hình thanh, và thành phần ngữ âm ‘tôn’ có nghĩa là ‘tập hợp’. ‘Thuyết văn Giải tự chú’ của Đoàn Ngọc Tài chép: ‘Tiểu nhã Thập nguyệt Chi giao’ viết: 噂沓背憎 ‘Tổn đạp bối tăng’. Truyện nói: ‘tổn’ giống như 噂噂 ‘tổn tổn’, ‘đạp’ giống như 沓沓 ‘đạp đạp’. Chú thích ghi: 蹲蹲沓沓 ‘Tỗn tỗn đạp đạp’ Tụ bạ chuyện trò [2]. Trong ‘Thuyết văn • Khẩu bộ’ Hứa Thận nói: 噂,聚語也 tổn, tụ ngữ dã’ ‘tổn’ có nghĩa là tụ họp lời nói vậy’ [2], bắt nguồn từ âm thanh ồn ào và mang nghĩa tụ họp. Do đó, chữ ‘tôn’ được kết hợp với bộ ‘nhân’ để biểu nghĩa là 聚人 ‘tụ nhân’ ‘tụ họp mọi người’. ‘điêu’ có nghĩa là ‘du’ vui vẻ. Nó được cấu tạo từ bộ ‘nhân’ và thành phần ngữ âm ‘triệu’ . Sách ‘Thi’ có nói: 視民不佻 thị dân bất điêu’ Hãy nhìn mọi người mà không phù phiếm [1]. ‘điêu’ ám chỉ một người xảo, cạn. Thành phần ngữ âm ‘triệu’ hàm ý khinh khi, bạc mỏng. Trong ‘Thuyết văn• Tẩu bộ’, ‘điêu’ có nghĩa là nhảy chân sáo [1], có nghĩa là nhảy nhót như chim sáo với cả hai chân cùng rời khỏi mặt đất. Do đó, cảm giác cụ thể được gợi lên bởi chữ ‘triệu’ được dùng để biểu thị hành vi và tính cách trừu tượng của những người xảo cạn. Có nhiều chữ Hán khác cũng có bộ thủ ‘Nhân’ theo cách này, chẳng hạn như ‘thục’ tốt đẹp, chỉnh tề, ‘diệp’ đẹp õng ẹo, ‘liệp’ cao lớn, và ‘kính’ mạnh, cứng.

[Ghi chú Chữ hình thanh là một loại chữ Hán được cấu tạo từ một thành phần ngữ nghĩa và một thành phần âm vị. Thành phần ngữ nghĩa biểu hiện nghĩa của chữ, còn thành phần âm vị là cách phát âm. Ví dụ, chữ ‘chỉ’ sử dụng 扌/手 ‘thủ’ bộ thủ để biểu nghĩa và ‘chỉ’ ngon/chỉ dụ để chỉ cách phát âm. Phương pháp kết hợp bao gồm sáu loại: i) Nghĩa bên trái, âm bên phải; ii) Nghĩa bên phải, âm bên trái; iii) Trên hình dưới thanh; iv) Dưới hình trên thanh; v) Ngoài hình trong thanh; và vi) Trong hình ngoài thanh. Vị trí của thành phần âm vị sẽ ảnh hưởng đến kết quả hình thành chữ. Khoảng 1/4 thành phần âm vị của Chữ hình thanh có cùng cách phát âm với toàn bộ chữ, trong khi 3/4 chỉ đóng vai trò gợi ý. Chữ hình thanh chiếm rất ít trong Giáp cốt văn, dần dần phát triển trong Kim văn và đến Nhà Hán trở thành dòng chính. Các ký tự ngữ âm chiếm 82% số ký tự có trong ‘Thuyết văn Giải tự’, và Trịnh Tiều thời Nam Tống thống kê chiếm 90%. Trong thời hiện đại Chữ hình thanh vẫn chiếm hơn 80% số ký tự tiếng Trung thông dụng. HHN]

2.3. Tư tưởng nhân văn thể hiện bởi các chữ bộ ‘Nhân’

Nội dung được đề cập bởi các chữ Hán có bộ thủ ‘Nhân’ mang đậm tính xã hội, bao trùm hầu hết mọi khía cạnh của đời sống con người trong xã hội, thể hiện đời sống văn hóa và xã hội phong phú của người xưa. Đây cũng là một biểu hiện quan trọng của tư tưởng nhân văn. Mô tả về con người rất đa chiều và phong phú, bao gồm cả nội tại và ngoại tại. Có các đặc điểm và cảm xúc bên trong như ‘đàm’ yên tĩnh, 便 ‘tiện’ thuận tiện, ‘oa’ lùn, ‘đôi’ lớn, thanh nhã, 伿 ‘nọa’ lười biếng, ‘tỷ’ suy nghĩ sâu xa, ‘câu’ gù lưng v.v.); các hành vi, hành động, diện mạo và thể chất bên ngoài: ‘kiều’ ở nhờ; ‘sĩ’ chờ đợi; ‘hồng’ bụng to; , ‘ú’ lưng gù v.v.; ‘lâu’ lưng gù; , ‘phẫn’ đổ ngã, hỏng việc; ‘cương’ cứng; ‘bộc’ đầy tớ; ‘yển’ thôi, nghỉ, nằm v.v.). Hơn nữa, ý nghĩa của chúng cũng rất đa dạng, từ tốt đến xấu, đức hạnh đến tà ác, thậm chí là trung lập. Các chữ Hán khác nhau được sử dụng để phân biệt các nhóm tuổi khác nhau ( ‘tráng’ đứa nhỏ, nô bộc; ‘nghê’ trẻ con, hài đồng. Cả số lượng và phạm vi của các chữ Hán đều phản ánh đầy đủ mối quan tâm và suy ngẫm của người xưa về chính bản thân họ. Điều này phản ánh một đời sống xã hội phong phú, phong tục tập quán đa dạng và một hệ thống phân cấp xã hội tương đối hoàn chỉnh. Trong bộ ‘Nhân’ của ‘Thuyết văn Giải tự’ cũng bao gồm nhiều chữ Hán liên quan đến đời sống xã hội của con người, chẳng hạn như địa vị xã hội ‘ưu’ xuất sắc; ‘nho’ Nho sinh, Nho nhã, đạo Nho , ‘tỷ’ khiến, noi theo; ‘dư’ tiệp dư; ‘dật’ nhàn, ẩn dật; v.v.), các dân tộc khác nhau ‘bặc’ người Bặc; ‘kiểu’ người Kiểu; và quan hệ họ hàng ‘sài’ lũ, chúng, bọn; ‘mâu’ ngang hàng; ‘thiệu’ tiếp nối; v.v.). [Tr.1420] Ngoài ra, các chữ Hán như ‘ước’ (tên một vì sao), ‘tiên’ (thần tiên) và ‘ngẫu’ (木偶 mộc ngẫu - tượng gỗ) phản ánh hiểu biết, khám phá của người xưa về vũ trụ và những điều vượt ngoài phạm vi nhân loại. Việc sử dụng  làm từ gốc thể hiện triết lý lấy con người làm trung tâm, lấy nhân bản làm trọng tâm.

3. Quan hệ giữa người với người

Phần trước đã khám phá tư tưởng nhân văn chứa đựng trong chữ ‘nhân’ từ ba khía cạnh: nghĩa gốc của chữ ‘nhân’, cấu trúc chữ và ý nghĩa của chữ. Phần đó đề cập đến sự hiểu biết của người xưa về ‘nhân’ xoay quanh con người và lấy con người làm trung tâm. Do đó, từ trong ra ngoài, chúng ta có thể phân tích cơ bản sự hiểu biết của người xưa về ‘nhân’ từ ba khía cạnh: quan hệ giữa người với người, mối quan hệ giữa trời và người, và mối quan hệ giữa người và ma quỷ.

3.1. Quan hệ Vai trò - Địa vị cao thấp và Đạo đức Nho giáo

Người xưa phân biệt giữa con người và sự vật, đồng thời tạo ra những sự phân biệt khác nhau trong nhóm người, hình thành nên một hệ thống xã hội nghiêm ngặt. Điều này không chỉ là sản phẩm của thể chế văn hóa hệ thống xã hội cổ đại mà còn là sản phẩm của sự khám phá con người của con người. Chữ ‘luân’ đại diện cho quan hệ giữa người với người có nghĩa là ‘bối dã’ lũ, bọn, thế hệ vậy. Lời bình luận của Đoàn Ngọc Tài nói rằng: 凡人之思必依其理,倫、論字皆以崙會意Phàm nhân chi tư tất y kì lí, luân, luận tự giai dĩ luân hội ý’ [2] ‘Mọi suy nghĩ của con người đều phải tuân theo lý trí, các chữ ‘luân’, ‘luận’ đều là chữ hội ý của ‘luân’ núi Côn Lôn, vậy.[2]

[Ghi chú về會意 Hội ý tự: là chữ ghép kết hợp hai hoặc nhiều ký hiệu cấu trúc để biểu thị một nghĩa khác với nghĩa của chính các chữ này. Từ góc độ cách thức sử dụng các ký hiệu cấu trúc để tạo ra ý nghĩa, Hội ý tự có thể được chia thành hai loại. Loại thứ nhất là tạo ra ý nghĩa, tức là biểu thị ý nghĩa thông qua hình ảnh của chính ký hiệu cấu trúc; loại thứ hai là tạo ra ý nghĩa, tức là biểu thị ý nghĩa thông qua ý nghĩa của ký hiệu cấu trúc sau khi nó trở thành một chữ độc lập. Loại chữ này ít phổ biến hơn trong số các chữ Hội ý. Theo thời đại mà chữ Hán được tạo ra. Các chữ lấy hình để tạo ra ý nghĩa chủ yếu được sản sinh trước thời Xuân Thu, trong khi các chữ lấy nghĩa tạo ra ý nghĩa chủ yếu được sinh ra sau thời Chiến Quốc và thời Tần Hán. Điều này phù hợp với xu hướng chữ Hán chuyển từ tượng hình sang biểu tượng, tượng trưng [phù hiệu]. [Biểu tượng/Tính ký hiệu là một thuật ngữ đa nghĩa với nhiều ý nghĩa khác nhau trong các lĩnh vực khác nhau. Về bản chất, nó đề cập đến đặc điểm của một sự vật đại diện cho một sự vật khác thông qua quy ước hoặc sự tương đồng. Trong văn hóa, ngôn ngữ học và tâm lý học, nó đề cập đến cách thức truyền tải ý nghĩa và cấu thành thế giới của các biểu tượng, chẳng hạn như các quy ước của ngôn ngữ và ý nghĩa biểu tượng của các biểu tượng văn hóa, vốn là nền tảng cho nhận thức và giao tiếp của con người.] Nói chung, thời đại càng sớm thì khả năng tạo ra ý nghĩa càng lớn. Theo ý nghĩa của chữ: Ý nghĩa ban đầu của các chữ tạo ra ý nghĩa chủ yếu liên quan đến hình ảnh ban đầu của ký hiệu cấu trúc. Ví dụ, nghĩa gốc của ‘san’ là xóa các ký tự khỏi thẻ tre bằng dao. Do đó, nó được cấu tạo từ ‘sách’ và ’đao’ trong đó ‘sách’ là chữ tượng hình của thẻ tre. Nghĩa gốc của một ký tự thường liên quan đến nghĩa của ký tự mà nó tạo thành. Ví dụ, nghĩa gốc của ‘táng’ là chôn cất ai đó. Nó được cấu tạo từ ‘mãng’ cỏ rậm và ‘tử’ chết. Ở đây, ‘tử’ đề cập đến người chết, nhưng hình dạng của ký tự không thể hiện hình ảnh của một người chết. HHN]

Chữ ‘luân/lôn’ giống như những chiếc lá tre được sắp xếp gọn gàng, hàm ý ‘ngăn nắp’. Điều này cho thấy xã hội cổ đại được đặc trưng bởi hệ thống phân cấp rõ ràng, cấu trúc có trật tự và vai trò riêng biệt cho mỗi cá nhân, phản ánh các nguyên tắc đạo đức Nho giáo. Trong gia đình, các danh xưng khác nhau được sử dụng dựa trên thâm niên và thứ tự sinh ra, trong đó việc duy trì hệ thống phân cấp thâm niên là rất nghiêm ngặt, với người lớn tuổi được kính trọng. Ví dụ, con trai cả được gọi là ‘bá’, nghĩa là trưởng lão, với bộ thủ là ‘Nhân’ và thành phần ngữ âm là ‘bạch’ bạc, sáng tỏ; con trai thứ hai được gọi là ‘trọng’, nghĩa là ‘trung’, với bộ thủ là ‘Nhân’ và thành phần ngữ âm là ‘trung’, và những người ngang hàng được gọi là ‘sài’ nghĩa là một bọn ngang bằng về địa vị, với bộ thủ là ‘Nhân’ và thành phần ngữ âm là ‘tề’ nghĩa là ngay ngắn, tề chỉnh, ngăn nắp như hạt lúa mì, cho thấy những người cùng đẳng cấp có địa vị ngang nhau.

Có thể thấy rằng trong một gia đình, địa vị và quyền lực của một người thường liên quan mật thiết đến thứ tự sinh. Ngay cả giữa những người cùng tuổi và có khả năng hơn, thứ tự sinh thấp hơn sẽ dẫn đến địa vị thấp hơn. Hơn nữa, các nghề nghiệp trong xã hội cũng được phân biệt bằng danh xưng và sự phân cấp thứ bậc. Bộ ‘Nhân’ trong ‘Thuyết văn Giải tự’ bao gồm các chữ Hán đề cập đến các nghề nghiệp như nhạc sĩ: ‘ưu’ hơn, xuất sắc; ‘linh’ linh lợi, cô độc, đào kép; ‘xướng’ hát, kỹ nữ; ‘bài’ hát chèo, hý kịch; ‘kỹ’ thợ, kỹ thuật, tài nghệ; ‘binh’ hiệp khách; ‘dư’ nữ quan; và ‘dật’ ẩn sĩ. Theo thứ tự trong phần (xem Bảng 1), có thể thấy rằng ‘ưu’, ‘linh’, ‘xướng’, ‘bài’, ‘kỹ’ đề cập đến ca/nhạc sĩ đều được đặt ở bộ ‘Nhân’, gần với ‘tỷ’ đề cập đến người hầu. Điều này phản ánh hiện tượng văn hóa của người xưa không mấy coi trọng nghề ca kỹ, và cũng phản ánh sự phân biệt quý tiện giữa các nghề nghiệp khác nhau trong suy nghĩ của người xưa [5].

Bảng 1. Xếp hạng các loại nghề nghiệp

  

Ký tự

Thứ tự

1

23

110

141

148

153

182

190

191

194

Hơn nữa, các ký tự liên quan đến nghi thức trong ‘Thuyết văn Giải tự’ cũng phản ánh các cấp bậc khác nhau của con người: ‘tân’ có nghĩa là người hướng dẫn. Nó bao gồm ‘nhân’ và ‘tân’ khách[1]. Đoàn chú viết: 導者、導引也。週禮與儀注曰。出接賓曰擯。聘禮為上擯。大夫為承擯。士為紹擯. ‘Đạo giả, đạo dẫn dã. Chu Lễ dữ nghi chú viết. Xuất tiếp tân viết tấn. Sính lễ. Hương vi thượng tấn. Đại phu vi thừa tấn. Sĩ vi thiệu tấn’[2] ‘Đạo có nghĩa là hướng dẫn vậy. Sách Chu Lễ cùng chú dẫn nghi lễ nói: Việc tiếp khách được gọi là ‘tấn’ [tiếp đãi, nghênh đón]. Việc sính lễ [Đám hỏi] trước đây gọi là 上擯 ‘thượng tấn’. Tiếp đại phu là承擯 thừa tấn [承: Kính vâng]. Tiếp kẻ sĩ là 紹擯 thiệu tấn [: tiếp nối].

[Ghi chú: (1) Thuật ngữ上擯 ‘thượng tấn’ dùng để chỉ một vị quan đại diện cho nhà vua tiếp đón các vị khách quý. Vai trò này do một quan chức cấp cao phụ trách công việc quốc sự đảm nhiệm. Sách ‘Nghi lễ•Sính lễ’ chép: 卿爲上擯,大夫爲承擯,士爲紹賓。擯者出請事. ‘Khanh vi Thượng tấn, Đại phu vi Thừa tấn, Sĩ vi Thiệu tấn. Tấn giả xuất thỉnh sự.’ ‘Khanh [Thượng thư] phụ trách Nghi lễ Thượng tấn, Đại phu phụ trách Nghi lễ Thừa tấn, Học giả phụ trách Nghi lễ Thiệu tấn.  Trịnh Huyền giải thích thêm: 擯謂主國之君所使,出接賓者也. ‘Tấn vị chủ quốc chi quân sở sử, xuất tiếp tân giả dã.’ ‘Tấn là quan chức được Quốc chủ cắt cử tiếp khách vậy’. Khổng Dĩnh Đạt thêm: 主國之卿爲上擯 ‘Chủ quốc chi khanh vi thượng tấn.’ ‘Khanh tướng do Quốc chủ sai phụ trách việc tiếp khách gọi là Thượng tấn vậy.’ (2) Thuật ngữ 承擯 ‘Thừa tấn’ dùng để chỉ một chức vụ chính thức trong nghi thức triều đình nhà Chu, do một quan chức cấp cao (Đại phu) nắm giữ, có nhiệm vụ hỗ trợ tiếp khách. Thuật ngữ này bắt nguồn từ các văn bản như ‘Chu lễ•Thu quan•Tiểu hành nhân’, trong đó chữ ‘thừa’ vâng theo, nhận lấy có thể dùng thay thế cho ‘thừa’ phụ tá, giúp đỡ, mang nghĩa hỗ trợ. ‘Thừa tấn’ đứng giữa Thượng tấn [Khanh] và Thiệu tấn [Sĩ], tạo thành một hệ thống tiếp hợp hoàn chỉnh. (3) Thuật ngữ 紹擯 Thiệu tấn có nguồn gốc từ sách ‘Nghi lễ • Sính lễ’, dùng để chỉ vai trò của một quan chức cấp ‘Sĩ’ phụ trách nghi lễ tiếp khách. Thiệu có nghĩa là ‘tiếp tục hướng dẫn và giới thiệu khách’. Đó là một vị trí và hành động trong chuỗi nghi thức tiếp tân được Quốc chủ sai khiến, vì ‘thiệu’ nghĩa là kế thừa hoặc tiếp tục tiếp đón khách. HHN]

Nghi thức xã giao khác nhau được trao cho những người có địa vị khác nhau. ‘Lễ’ là một biểu hiện quan trọng bên ngoài của tư tưởng đạo đức Nho giáo. Vai trò và các mối quan hệ không thể tách rời. Các vai trò khác nhau mang lại những quyền và nghĩa vụ khác nhau trong các mối quan hệ xã hội. Do đó, những văn bản này thể hiện đầy đủ các mối quan hệ gia đình, chính trị và xã hội thời cổ đại, phản ánh tư tưởng đạo đức Nho giáo của xã hội cổ đại, vốn dựa trên huyết thống, tập trung vào các mối quan hệ thứ bậc giữa người với người, và coi ‘Lễ’ là một biểu hiện ngoại tại quan trọng. Chúng trình bày một xã hội cổ đại đa tầng và có trật tự cho các thế hệ tương lai thông qua văn bản.

3.2. Đối xử với người khác - Quan điểm thẩm mỹ cổ đại

Tôn trọng những người cao lớn và có thể chất cường tráng. Từ điển ‘Thuyết văn•Nhân bộ’ có 31 chữ liên quan đến vẻ ngoài đẹp của con người, và 19 trong số đó mô tả người cao lớn và cường tráng: Cao lớn: ‘kiều’ ở nhờ; ‘sĩ’ to lớn, chờ đợi; ‘thông’ to lớn; ‘vũ’ cao lớn; ‘hồng’ bụng phệ; ‘trác’ lớn lao; ‘bạn’ bạn bè, đồng sự; yêm’ ta đây, to lớn; ‘nga’ nước Nga.

[Tr.1421] Cường tráng: ‘kiện’ khỏe mạnh; ‘kính’ mạnh, cứng; ‘giản’ cứng cỏi, vạm vỡ; ‘ngật’ dũng mãnh; ‘cát’ tráng kiện; ‘tất’ oai; ‘phi’ mạnh mẽ; ‘phiêu’ ào ào; ‘phiến’ bùng lên; ‘sân’ lao đi. Điều này cho thấy người xưa ca ngợi những người cao lớn và khỏe mạnh, điều này tất yếu liên quan đến quy luật tự nhiên của sự tiến hóa xã hội và văn minh. Trong quá trình chinh phục tự nhiên, những người có thể chất mạnh mẽ đương nhiên đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi từ xã hội nguyên thủy sang xã hội văn minh, được tôn trọng, ngưỡng mộ. Do đó, dù quá khứ hay hiện tại, khi nghĩ về anh hùng, họ luôn nghĩ đến những người mạnh mẽ và cao lớn. Quan điểm thẩm mỹ về chủ nghĩa anh hùng này vẫn tiếp tục cho đến ngày nay.

Tôn trọng những người tốt bụng, khôn ngoan và thân thiện. Trong xã hội cổ đại, người ta nhấn mạnh rằng con người nên ‘nhân’ ái, nhân từ. ‘Nhân’ ái/ từ là một từ có ý nghĩa đạo đức rất rộng và trọng lượng lớn. Trong ‘Thuyết văn• Nhân bộ’, nó được đặt ở vị trí hàng đầu trong việc mô tả các đặc điểm bên trong của con người. 「仁,親也。從人從二」[1],《段註》:「孟子曰。仁也者、人也。謂能行仁恩者人也。又曰。仁、人心也。謂仁乃是人之所以爲心也」[2] ‘Nhân, thân dã. Tòng nhân tòng nhị’[1], ‘Đoàn chú’: ‘Mạnh Tử viết. Nhân dã giả, nhân dã. Vị năng hành nhân ân giả nhân dã. Hựu viết. Nhân, nhân tâm dã. Vị nhân nãi thị nhân chi sở dĩ vi tâm dã’[2] “Nhân là ruột thịt vậy. Nó gồm có ‘hai’ ‘người’ [1] Lời bình của Đoàn Ngọc Tài: “Mạnh Tử nói, ‘Nhân là Con người vậy. Là kẻ làm được ơn đức vậy.’ Ông cũng nói, 'Nhân là Nhân tâm đấy. Ẩn ý Nhân đức đích thị do Nhân tâm làm nên vậy.’[2]

Điều này phản ánh ý tưởng 仁者, ‘Nhân giả, ái nhân’ ‘Nhân ái là yêu thương con người vậy’. Con người nên tử tế và yêu thương, đối xử với người khác bằng lòng tốt và nhân ái. Ngoài chữ ‘Nhân’, Từ điển ‘Thuyết văn•Nhân bộ’ còn có cả chữ ‘thục’ tốt đẹp; và ‘giới’ thiện lành. Sách ‘Lục thư Sơ chứng’ giải thích ‘thục’ là 清湛 ‘thanh trạm’ ‘xanh thẳm’ và mở rộng nó thành 善義 ‘thiện nghĩa’ nghĩa cử thiện lành. Một số người tin rằng ‘thục’ bắt nguồn từ ý nghĩa của sự tĩnh lặng được ngụ ý bởi ‘thúc’. Bất kể cách giải thích nào thì ý nghĩa tốt lành của ‘thục’ đều đề cập đến một trái tim trong sáng, bình yên và hành vi đúng mực của một con người.

Sách ‘Thuyết văn•Nhân bộ’ có năm chữ Hán đề cập đến trí tuệ: ‘tuấn’, ‘kiệt’, ‘huyên’, ‘phần’ và ‘ti’. Trong đó, ‘ti’ có nghĩa là ‘mạnh mẽ quyết đoán vậy’. Luận ngữ nói rằng 朋友切切偲偲 ‘bằng hữu thiết thiết ti ti’ ‘bạn bè phải tha thiết chân thành’. Có trí tuệ thôi chưa đủ. Để đạt đến trình độ cao hơn, người ta cũng cần phải 以友輔 ‘dĩ hữu phụ nhân’ nhờ có bạn bè mà thêm đức nhân. Bạn bè giúp đỡ và khuyến khích lẫn nhau để đạt được mục tiêu. ‘phụ’ có nghĩa là “trợ giúp”. ‘Đoàn chú’ viết: 謂人之俌猶車之輔也 ‘vị nhân chi phụ do xa chi phụ dã’ “Nó có nghĩa là sự giúp đỡ của một người giống như cái đòn nâng hai bên thành xe ngựa vậy” [2]. Do đó, người xưa nhấn mạnh con người không chỉ nên ‘tu thân’ mà còn ‘tề gia’, giúp đỡ, và đối xử tốt với người khác.

[Ghi chú 清湛 Thanh trạm có nghĩa là trong và sâu, thường được dùng để miêu tả màu nước trong hoặc tính khí trong sáng của một con người. Nó mang hai hàm nghĩa: phong cảnh thiên nhiên và đặc điểm con người: có thể đề cập đến trạng thái trong suốt của các vật thể như nước hồ ao sông biển, và cũng có thể mô tả các khái niệm trừu tượng thuần khiết và sâu sắc như thị lực. Từ này lần đầu tiên xuất hiện vào thời nhà Đường trong câu 清湛幽凝 ‘Thanh trạm u ngưng’ Xanh trong thăm thẳm của Trứ tác 梓潼南江泛舟序 ‘Tử Đồng Nam Giang phiếm chu tự’ ‘Lời tựa cho tác phẩm Bồng bềnh Sông nước Tử Đồng Nam Giang’ của thi sĩ Vương Bột, được dùng để ca ngợi phong cách cai quản của Quan Huyện lệnh họ Vi ở huyện Tử Đồng. Vào thời nhà Thanh, Hoàng Quân Tể tiếp tục sử dụng từ này để miêu tả phong cảnh Viên lâm trong金壺七墨•鹽Kim Hồ Thất Mặc· Diêm Thương’, và nhà văn hiện đại Hiệp Thánh Đào đã sử dụng 清湛的眼睛 ‘thanh trạm đích nhãn tình’ để miêu tả biểu cảm của nhân vật trong tiểu thuyết ‘Nghê Hoán Chi’, cho thấy sự mở rộng ý nghĩa của từ từ thiên nhiên cụ thể sang bản chất trừu tượng của con người.

[Ghi chú ‘Tử Đồng Nam Giang phiếm chu tự’: 梓潼縣令韋君,以清湛幽凝,鎮流靖俗,境無事,艤舟於江潭。縱觀於邱壑,渺然有山林陂澤之思,遂長懷悠想,周覽極睇。思其人,則呂望藉茅於磻溪之陰,屈平制芰於涔陽之浦。覺瀛洲方丈,森然在目。於是間以投壺,酬以妙論,亦有嘉肴旨酒,鳴弦朗笛,以補尋幽之致焉。預於斯者,若干人爾。Phiên âm: Tử Đồng Huyện lệnh Vi quân, dĩ thanh trạm u ngưng, trấn lưu tĩnh tục, cảnh nội vô sự, nghĩ chu ư giang đàm. Túng quan ư khâu hác, miểu nhiên hữu sơn lâm bi trạch chi tư, toại trường hoài du tưởng, chu lãm cực thê. Tư kì nhân, tắc Lã Vọng tạ mao ư Bàn Khê chi âm, Khuất Bình chế kị ư Sầm Dương chi phổ. Giác Doanh Châu Phương Trượng, sâm nhiên tại mục. Ư thị gian dĩ đầu hồ, thù dĩ diệu luận, diệc hữu gia hào chỉ tửu, minh huyền lãng địch, dĩ bổ tầm u chi trí yên. Dự ư tư giả, nhược can nhân nhĩ. Dịch nghĩa: Lời tựa cho tác phẩm Chèo thuyền trên sông Tử Đồng Giang Nam’. Tác giả: Vương Bột, thời nhà Đường; năm 671 sau Công nguyên. “Nhằm Quý Tị nhật, Lục nguyệt, Hàm Hanh Nhị niên, Vi quân Huyện lệnh Tử Đồng, cập duyềnh xanh thăm thẳm, dân tục thanh bình, cảnh vật mang mang, neo thuyền bên bến. Phóng mắt cùng sông sâu non thẳm, vời vợi thâm sơn bạc thủy quê nhà, hun hút dõi vật trưởng nhân sinh. Đâu những kỳ nhân Lã Vọng thả câu dưới bóng Bàn Khê biền biệt, Khuất Bình khâu áo lá bên bờ Sầm Dương miên miết. Bừng nhận Doanh Châu Phương Trượng sum suê hiển hiện. Bai bải đua tranh Đầu hồ, cao đàm diệu luận, mỹ tửu gia hào, đàn ngọt sáo vang, tháng ngày thanh thản, bao kẻ bên mình.” HHN]

[Ghi chú Doanh Châu Phương Trượng: Doanh Châu là một trong những hòn đảo ở Biển Hoa Đông trong thần thoại Trung Quốc cổ đại. Nó thường được nhắc đến cùng với các đảo Bồng Lai và Phương Trượng, là xứ sở thần tiên hư cấu. Khái niệm Doanh Châu bắt nguồn từ tư tưởng bất tử trong thời kỳ Chiến Quốc. Trong ‘Liệt Tử•Thang Vấn’ năm hòn đảo thần tiên Đông Hải Ngũ Thần Sơn gồm: Đại Tự, Viên Kiệu, Phương Hồ, Doanh Châu, Bồng Lai. Theo truyền thuyết, Doanh Châu nằm cách Hội Kê 700.000 lý về phía biển, với chu vi 4.000 lý. Người ta nói rằng nơi đây có rất nhiều nấm thần và thảo dược bất tử. Trên núi có dòng Ngọc Lễ Tuyền Thủy nước ngọt dịu, có thể ban tặng sự bất tử. Địa hình tương tự như vùng Trung Nguyên, và phong tục của các vị tiên cũng tương tự như vùng Ngô. ‘Sử kí•Hiếu Vũ Bản kỉ’ của Tư Mã Thiên’ ghi rằng Hán Vũ Đế từng xây dựng một bản sao cảnh trí Doanh Châu tại Thái Dịch Trì ở Trường An. ‘Thập Châu Ký’ cũng liệt Doanh Châu vào hệ thống mười châu của Biển Hoa Đông. Truyền thuyết về Doanh Châu lần đầu tiên xuất hiện vào thời nhà Chu và phát triển mạnh mẽ trong thời Chiến Quốc. Trong các tài liệu thời Hán các mô tả về Doanh Châu dần chi tiết hơn. Trong thơ ca nhà Đường, bài ‘Hải khách đàm Doanh Châu’ của Lý Bạch miêu tả nó như một xứ sở thần tiên huyền ảo. Xuyên suốt lịch sử, các văn bản cổ đã mô tả chi tiết về các địa điểm như suối Ngọc Lễ, quán Kim Loan, tạo thành những biểu tượng văn hóa bền vững. HHN]

_______________________________

Nguồn: 秦婉纯 (2021). 从《文解字》部字看古代的理解.言学,2021,9(6):1417-1423. Tần Uyển Thuần (2021). Tòng Thuyết văn Giải tự Nhân bộ tự khán cổ đại đối Nhân đích lí giải. Hiện đại Ngữ ngôn học. 2021, 9 (6): 1417-1423.

Tài liệu Tham khảo

[1] .文解字[M].北京:中华书局,1963.

[2] 段玉裁.文解字注[M].上海:上海古籍出版社, 1981.

[3] 姜亮夫.古文字学[M].杭州:浙江人民出版社, 1984:69-70.

[4].字构形的人本精神[J].中国青年政治学院学报,2011(4):130-134.

[5]常馨.文解字》人部字考究[J].文教料, 2012(24):26-27.

[6]吴迪.中国传统文化中的人学思想——以儒家人学[J].哲学基研究,2010:135-142.

[7] 老子.道德[M].北京:北京合出版公司,2015: 24.

[8]程邦雄.“字形浅探[J].中理工大学学(社会科学版),1997(3):103-105.

[9].字形体看孔子之内涵[J]. 东师范大学学(人文社会科学版),2013,58(1): 127-134.