Powered By Blogger

Thứ Hai, 21 tháng 7, 2025

Lý thuyết Mạng-Tác nhân (I)

Javier Lezaun

Người dịch: Hà Hữu Nga

Bốn chiếc đinh trên Nắp quan tài

Trong một bài giảng năm 1997, Bruno Latour đã xác định “những thứ không phù hợp với Lý thuyết Mạng-Tác nhân” [ANT: Actor-Network Theory]. Đó là bốn thứ sau: từ “tác nhân”, từ “mạng”, từ “lý thuyết”, và cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, là dấu gạch nối tưởng chừng như kín đáo kia. Latour lập luận rằng bốn khiếm khuyết này đại diện cho “bốn chiếc đinh đóng trên nắp quan tài” của Lý thuyết Mạng-Tác nhân (ANT) và phơi bày những sai sót về thiết kế đã được xây dựng trong cuộc “thí nghiệm bất cẩn” này của siêu hình học thực nghiệm (Latour 1999). Chẩn đoán của Latour rất sâu sắc, vì đó nếu không phải là điểm yếu về mặt khái niệm, thì cũng là những khái niệm cố tình được lý thuyết hóa yếu kém trong ANT. Tuy nhiên, chính cái tử thi kia (nếu thực sự có một cơ thể trong chiếc hộp đó) đã chứng tỏ là sống động hơn hình ảnh gợi ra. Trong hai thập kỷ qua, ANT đã lang thang khắp nơi, len lỏi vào nhiều lĩnh vực khác nhau trong khoa học xã hội và hơn thế nữa, trở thành một đối trọng mạnh mẽ với những hiểu biết chính thống về bản chất và mục đích của lý thuyết xã hội.1 Trên thực tế, đây chính là điều Latour hy vọng sẽ xảy ra. Năm 1997, ông đề xuất rằng đã quá muộn để khôi phục ANT và sửa chữa những thiếu sót rõ ràng của nó. “Giải pháp duy nhất”, ông lập luận, “là làm điều mà Victor Frankenstein đã không làm, tức là không bỏ mặc sinh vật này cho số phận của nó mà tiếp tục phát triển tiềm năng kỳ lạ của nó” (Latour 1999, 24).

Tiềm năng kỳ lạ này đã được phát triển đến mức ngày nay ANT không còn xuất hiện với chúng ta như một con quái vật dị dạng cần bị cấm đoán ở bên ngoài phạm vi của các quy tắc xã hội học. Hoàn toàn ngược lại, ANT đã bắt đầu trông giống như một loại bạn đồng hành dễ mến, một dự án trí tuệ dễ nhận biết, chia sẻ nhiều đặc điểm của việc xây dựng lý thuyết xã hội thông thường. Điều này thật nghịch lý, hoặc ít nhất là cũng mang tính mỉa mai, bởi vì ANT bắt đầu như một nỗ lực xóa bỏ bất kỳ quan niệm nào về “cái xã hội” như một phạm vi hoặc chiều kích riêng biệt của hành động con người. Ngay từ khi ra đời, ANT đã tiếp thu, phải thừa nhận là một cách nói đùa, khẩu hiệu của Thatcher, “Xã hội tính không tồn tại”. Tuy nhiên, theo thời gian, [tr.2] nó đã rút ra hàm ý tích cực của tuyên bố tiêu cực này: nếu xã hội tính không tồn tại, thì chúng ta cần trang bị cho mình những phương tiện để tạo ra nó. Lý thuyết xã hội là một trong những phương tiện đó.

Chương này sẽ theo dõi sự xuất hiện của ANT ngày càng rõ ràng với tư cách là một lý thuyết xã hội, mặc dù vẫn kiên quyết không chính thống. Một trong những khía cạnh đáng chú ý nhất của diễn tiến này là ANT không đạt được vị thế và năng lực của một lý thuyết xã hội bằng cách tăng cường trừu tượng hóa các chi tiết cụ thể của vô số nghiên cứu trường hợp thực nghiệm. Thay vào đó, ANT đã tìm thấy con đường đến với lý thuyết xã hội thông qua một loạt các cuộc đắm chìm sâu sắc và mang tính chuyển hóa vào những đặc thù của các “cách thức của chân lý” hay “phương thức tồn tại” khác nhau — bắt đầu từ hành trình ban đầu của nó vào thực chất của đổi mới khoa học và công nghệ. Nói cách khác, việc ANT phát triển thành một lý thuyết xã hội hoàn chỉnh đòi hỏi một nỗ lực đa chiều nhằm lý giải những gì độc đáo, cụ thể và nổi bật về mặt thực nghiệm trong các trật tự hành động khác nhau, mà không hình dung các trật tự đó là những “lĩnh vực” hay “khu vực” riêng biệt của một thực tại tổng thể rộng lớn hơn. Mỗi cam kết thực nghiệm của nó đã biến đổi ANT—hay đã mang đến cho ANT cơ hội để đột biến và tái tạo chính nó, điều này phù hợp với lý thuyết cho rằng mọi hành động dịch, mọi dịch chuyển đều bao gồm sự thay đổi, bóp méo, và cuối cùng là sự phản bội.

Chương này bắt đầu bằng việc thảo luận về nguồn gốc của ANT trong lĩnh vực nghiên cứu xã hội về khoa học (nay thường được gọi là nghiên cứu khoa học), việc sử dụng ký hiệu học để xóa bỏ các phạm trù tác nhân đã tồn tại từ trước, và quan điểm [khét] tiếng của nó về thứ tác tố của các thực thể phi nhân—vấn đề đã phân biệt ANT với xã hội học về tri thức khoa học. Sau đó, chương này sẽ mô tả các cuộc đột nhập của ANT vào lĩnh vực kinh tế và luật pháp. Điều này sẽ giúp chúng ta hiểu cách ANT thoát khỏi các hình thức nghiên cứu xã hội học truyền thống về thị trường và các thể chế pháp lý như những “phạm vi” hay “lĩnh vực” riêng biệt của đời sống xã hội. Quan trọng hơn, nó sẽ mang đến cho chúng ta cơ hội quan sát cách thức mà ANT giải quyết hai câu hỏi kinh điển của lý thuyết xã hội: vấn đề cân nhắc và nền tảng của tính chuẩn mực. Sau đó, tôi sẽ chuyển sang hình thái có chủ đích nhất của ANT với tư cách là lý thuyết xã hội, điều mà Latour mô tả là “xã hội học về các hợp quần” hoàn toàn là phản đề của “xã hội học về cái xã hội” thông lệ. Tôi sẽ kết luận bằng cách thảo luận về tầm quan trọng mang tính định chuẩn ngày càng tăng của ANT và quá trình chuyển đổi nhanh chóng của nó thành một lý thuyết chính trị rõ ràng. Bởi vì thành công và sự mở rộng của ANT đã đưa lý thuyết này vào một vị trí dường như không hợp lý khi sáng tạo quái dị này thực hiện những bước đầu tiên: đó là [tr.3] đưa ra những phán đoán giá trị phân biệt về các đường viền của tính xã hội tốt đẹp. Cách ANT giải quyết và xây dựng sứ mệnh quan trọng của mình sẽ quyết định sự phát triển trong tương lai của cuộc thử nghiệm đang diễn ra này.         

Các bản dịch

Trước khi trở thành ANT, các công trình của Michel Callon, Bruno Latour, John Law và một số ít đồng đạo thuộc về một dòng nghiên cứu rộng lớn, bắt đầu chuyển đổi nghiên cứu cái xã hội của khoa học và công nghệ vào cuối những năm 1970. Việc xem xét gốc gác và nguồn cội của những gì ngày nay được gọi là nghiên cứu khoa học nằm ngoài phạm vi của chương này, nhưng chìa khóa để mở vào sự xuất hiện của lĩnh vực này là một ước lượng hoàn toàn dựa trên kinh nghiệm, thường là dân tộc học hoặc xã hội học vi mô đối với các hoạt động của các nhà khoa học và kỹ sư, đặc biệt là trong các tình huống xung đột hoặc tranh cãi. Cuốn sách Thí nghiệm Sống - Laboratory Life (1979) của Bruno Latour và Steve Woolgar, một nghiên cứu sâu sắc về quá trình tạo dựng sự kiện tại Viện Salk ở La Jolla, California, là một trong những tác phẩm tiêu biểu của truyền thống này và cho thấy các phạm trù giải thích và bối cảnh hóa xã hội học thông thường không sánh được với mức độ phong phú, tính tình huống và kết cấu kỹ thuật mà khoa học thể hiện bằng hành động. Theo mọi tính toán, việc giám sát chặt chẽ các nhà khoa học trong công việc - cho dù họ tham gia vào công việc chuẩn bị thường lệ, viết và viết lại các bài báo khoa học, tranh luận về ý nghĩa của kết quả thực nghiệm hay đấu tranh cho ngân sách của họ - đã khiến cho nhóm các nhà khoa học xã hội này thoát khỏi những hiểu biết nhận thức luận đã được chấp nhận và dẫn họ đến việc tái khái niệm hóa triệt để về bản chất của tính khách quan khoa học. Từ thời điểm này ANT sẽ nổi lên như một trong những cách diễn giải sâu rộng và thành  công nhất về tình trạng vướng víu giữa các thực hành kỹ thuật và việc tạo ra tri thức khoa học - điều mà Latour mô tả là thế giới của khoa học-công nghệ (Latour 1987). Thí nghiệm Sống của Latour và Woolgar ban đầu có phụ đề là The Social Construction of Scientific Facts - Cấu trúc Xã hội của Sự thật Khoa học. Trong lần xuất bản thứ hai của cuốn sách (1986), tính từ “xã hội” đã bị bỏ rơi, một vết rạch sắc cạnh chia cắt khỏi vốn từ vựng và các phạm trù được coi là hiển nhiên của khoa học xã hội. “Bằng cách biểu dương tính ứng dụng rộng rãi của nó,” Latour và Woolgar viết trong bản sửa đổi, “việc nghiên cứu xã hội về khoa học đã làm cho ‘xã hội’ trở nên rỗng nghĩa” (Latour và Woolgar 1986: 281). Việc nhanh chóng bác bỏ cái đặc ngữ “kiến tạo luận xã hội” không chỉ dành riêng cho ANT, mà còn là một động thái kiên quyết chống lại các phương thức giải thích mang tính khoa học-xã hội [tr.4] và một tái diễn giải đặc biệt của từ bổ nghĩa “xã hội” sẽ trở thành thương hiệu của các phương pháp tiếp cận mạng-tác nhân.2

Tính triệt để của thay đổi này được Michel Callon thể hiện rõ nhất trong bài viết nổi tiếng của ông về Domestication of Scallops and the Fishermen of St. Brieuc Bay - Thuần hóa Sò điệp và Ngư dân Vịnh St. Brieuc, công thức kinh điển của chương trình ANT những năm 1980 (Callon 1986; Callon 1975, 1981, và Callon và Latour 1981). Trong bài tường thuật về việc một nhóm nhỏ các nhà sinh vật học biển đã có hoạt động khai thác sò điệp dọc theo bờ biển Brittany như thế nào, Callon đã giới thiệu một từ điển xóa bỏ mọi sự phân biệt tiên nghiệm giữa các thực thể xã hội và tự nhiên. Theo lời kể lại của Callon, thành công của các nhà nghiên cứu phụ thuộc vào khả năng thiết lập liên minh với sò điệp, điều này lại đòi hỏi phải đàm phán với vô số thực thể can thiệp và xen vào - dòng hải lưu, các vị khách ký sinh, ấu trùng sò điệp có hành vi linh hoạt, các đồng nghiệp khoa học bất đồng quan điểm, v.v. Thông qua một loạt các quá trình quan tâm và kết nạp, cuối cùng các nhà khoa học đã thành công trong việc trở thành “người phát ngôn” cho một loạt tác nhân và lợi ích khác - các tác nhân và lợi ích mà, cùng với chính các nhà khoa học, đã hoàn toàn được tái định hình trong quá trình tranh luận. Kết quả là một tường thuật thể hiện “việc sản xuất tri thức đồng thời và việc kiến tạo một mạng các mối quan hệ, trong đó các thực thể xã hội và tự nhiên cùng kiểm soát lẫn nhau để biết rõ nhau và biết rõ mỗi bên muốn gì” (Callon 1986, 59). Callon mô tả những sự dịch chuyển mà các tác nhân khác nhau trải qua trong quá trình tranh luận như là các bản dịch, một thuật ngữ ông mượn từ Michel Serres (1974). Thuật ngữ này được cho là mơ hồ và hết sức chung chung—ở một công trình khác, Callon (1981, 211) định nghĩa bản dịch là quá trình “tạo ra các hội tụ và tương đồng bằng cách liên hệ những thứ trước đây vốn khác biệt”. Nói cách khác, bản dịch là một hành động sáng tạo vốn vận hành bằng cách kết nối các yếu tố trước đó đã khác biệt. Bước sáng tạo được ngụ ý bởi mỗi hành động kết nối là điểm mấu chốt cơ bản trong phân tích ANT, và nó hàm ý chuyển động, bóp méo và biến thái.        

Serres đã dựa vào lý thuyết thông tin để mô tả bản dịch như một hành động giao tiếp vừa truyền tải vừa bóp méo tín hiệu, một sự trung gian chắc chắn sẽ làm thay đổi thông điệp được truyền đạt và do đó tạo ra một mối quan hệ mới, khác biệt giữa kẻ gửi và kẻ nhận (Serres 1980; Brown 2002). Callon diễn giải lại khái niệm này để mô tả việc tái định vị liên tục, qua đó một thực thể nhất định nổi lên như một đại diện hoặc kẻ phát ngôn cho những thực thể khác. Latour và Callon viết: “Bằng bản dịch, chúng ta hiểu tất cả mọi đàm phán, âm mưu, tính toán, hành động [tr.5] thuyết phục và bạo lực, nhờ đó mà một tác nhân hoặc thế lực có được, hoặc khiến được trao cho chính nó cái thẩm quyền để nói hoặc hành động thay mặt cho một tác nhân hoặc thế lực khác” (Latour và Callon 1981, 279).3 Đàm phán, âm mưu, tính toán, thuyết phục, v.v. - những phương thức hành động này phải được hiểu là không hề có bất kỳ hàm ý nhân trung tâm luận nào. Giá trị của một loại xã hội học phiên dịch, cụm từ được Callon và Latour sử dụng để mô tả cách tiếp cận này trước khi nhãn hiệu ANT xuất hiện, nằm ở khả năng nhân rộng phạm vi các thực thể có thể được chứng minh là tác động một lực chủ động, trung gian trong quá trình chuyển đổi một trạng thái sự vật nhất định. Theo cách hiểu cụ thể này, agency tác tố là một thuộc tính của các hợp quần mới nổi - những hợp quần gắn kết các thực thể con người và không phải người vào các tập thể lai ghép và trong những điều kiện nhất định và trong một khoảng thời gian cụ thể, mà có được thuộc tính của các tác nhân (Law 1987).

Để tránh hàm ý nhân trung tâm luận của thuật ngữ actor tác nhân, Latour và Callon thường sử dụng thuật ngữ actant kẻ hành động, mà họ mượn từ lý thuyết ký hiệu học của A. J. Greimas (Greimas 1973). Theo cách hiểu của ANT, actant là “[bất cứ] cái gì hành động hoặc thay đổi hành động, bản thân hành động được định nghĩa bởi một danh sách các lần thực hiện thông qua các thử nghiệm” (Akrich và Latour 1992, 259). Do đó, một actant không phải là một loại agent tác nhân hay một phạm trù tồn tại mà là kết quả của một quá trình tiếp thu và kiểm tra năng lực, sự tập hợp và cô đọng các năng lực xuất phát từ việc tập hợp vô số thực thể và đưa chúng vào một bài kiểm tra hoặc thử thách sức mạnh. Trong tay của ANT, ký hiệu học Greimas sẽ trở thành một công cụ mạnh mẽ để xóa bỏ sự phân đôi tự nhiên/xã hội, và thực sự là bất kỳ sự phân loại tiên nghiệm nào về actors các tác nhân tham gia vào một cuộc tranh luận. Tất cả actors các tác nhân đều tự động được đặt trên cùng một mặt phẳng biểu đạt nghĩa, và đồng nhất tính/bản sắc của chúng/họ có thể được mô tả bằng cách truy vết sự thiết lập các mối quan hệ ngữ nghĩa trong bối cảnh diễn ngôn hoặc tường thuật - điều mà Greimas định nghĩa là một quá trình định nghĩa lẫn nhau. Tiềm năng cũng như những hạn chế của cách tiếp cận này đã trở nên rõ ràng trong nghiên cứu nổi tiếng của Latour về sự trỗi dậy của ngành vi sinh vật học của Pasteur ở Pháp vào thế kỷ 19. Công trình Les Microbes: Guerre et Paix Vi khuẩn: Chiến tranh và Hòa bình xuất bản bằng tiếng Pháp năm 1984, lấy đối tượng thực nghiệm là một tập hợp các văn bản được xuất bản trên ba tạp chí khoa học trong khoảng thời gian năm mươi năm (1870–1919). Sau đó, Latour tiến hành lên danh sách các thực thể được đề cập trong các văn bản này và lần theo các mối liên hệ được đặt ra giữa chúng. Latour (1988a, 10) viết, nhà phân tích “chỉ cần bắt đầu tại bất kỳ thời điểm nào, bằng cách ghi lại những gì mỗi actor tác nhân nói về những tác nhân khác. Anh ta không nên [tr.6] cố gắng tỏ ra hợp lý và áp đặt một loại xã hội học được xác định trước lên những liên-định nghĩa đôi khi kỳ lạ do các tác giả nghiên cứu đưa ra. Nhiệm vụ duy nhất của nhà phân tích là theo dõi những biến đổi mà các tác nhân được tập hợp trong các câu chuyện đang trải qua.”

Kết quả là một bản tường thuật mô tả cách Pasteur và phòng thí nghiệm của ông trở thành trung tâm của một liên minh mới nổi lên giữa các loại vi khuẩn, nông dân, chuyên gia vệ sinh và chính trị gia. Cuối cùng, vô số tác nhân này tập hợp lại xung quanh nhân vật trung tâm là “Pasteur”—không phải là một bộ óc lỗi lạc được tôn sùng trong các câu chuyện thần thánh về khám phá khoa học, mà là một mạng tác nhân phức hợp, liên kết và chuyển hóa lợi ích của một loạt các tác nhân là con người và phi nhân. Tuy nhiên, việc Latour sử dụng phân tích ký hiệu học để mô tả lại một quá trình lịch sử đã gây ra một số sự mơ hồ. Sử dụng ký hiệu học để mô tả lại mối quan hệ giữa các actants kẻ hành động trong một lĩnh vực diễn ngôn nhất định—mục đích mà Greimas triển khai phương pháp định nghĩa lẫn nhau—là một chuyện. Nhưng việc triển khai phân tích ký hiệu học để cung cấp một bản tường thuật về sự trỗi dậy và quyền lực của một tác nhân lịch sử cụ thể—ngay cả khi bản tường thuật được đề cập chỉ đơn giản xuất hiện từ việc truy vết cẩn thận các tài liệu tham khảo văn bản. Latour (1988a, 12) phủ nhận bất kỳ tuyên bố nào về tính chính xác của môn sử ký, nhấn mạnh rằng “việc trình bày các văn kiện tư liệu không đi theo con đường lịch sử mà đúng hơn là network of associations mạng hợp quần đang dần hình thành nên thế giới Pasteur.” Tuy nhiên, đến cuối cuốn sách, chúng ta có được một bản tường thuật vừa tỉ mỉ ghi lại quá trình vật chất hóa của “Pasteur”, semiotic actant kẻ hành động ký hiệu, vừa có vẻ như cung cấp một mô tả đầy đủ về các quá trình mà Pasteur, historical actor tác nhân lịch sử, đã đạt được vị thế khoa học và chính trị nổi bật của mình ở Pháp vào thế kỷ 19 (xem Lynch 1997, 109–10).

Sự kết hợp giữa giải cấu trúc ký hiệu học và tái cấu trúc lịch sử xã hội này nằm ở gốc rễ của một số chỉ trích sâu sắc nhất về ANT thời kỳ đầu (Lee và Brown 1994; Pickering 1995; Schaffer 1991; Shapin 1988). Tuy nhiên, điều mà cách tiếp cận ký hiệu học cho phép ANT làm được, và đây cũng chính là lợi thế cốt lõi của nó so với các lý giải dựa trên các phạm trù xã hội học truyền thống, là nhân lên phạm vi các thực thể có thể được chứng tỏ là hoạt động trong một cuộc tranh luận khoa học cụ thể, mở rộng kho tàng các nhân vật có liên quan trong quá trình bộc lộ và kết thúc của các tranh chấp khoa học công nghệ. Tính rỗng tuếch của các thuật ngữ chính của nó—những gì Latour (1999, 20) thường mô tả là “sự nghèo nàn lố bịch của vốn từ vựng ANT”—đã mang lại cho lý thuyết này quyền tự do để ghi lại vô số các tác tố và các kết nối không phải cái gánh nặng phải chất đống vào các phạm trù có sẵn, và đặc biệt là không tuân theo [tr.7] các phân đôi của chuẩn mực khoa học xã hội: con người so với không phải con người, tự nhiên so với xã hội, ý hướng so với vật chất, thực tế so với hư cấu, biểu nghĩa so với phi biểu nghĩa. Kết quả là một lý giải, khi thành công, có thể đại diện cho sự ổn định của những mặt đối lập này, và cụ thể là sự xuất hiện của “tự nhiên” và “tính xã hội” như là kết quả của các quá trình thanh lọc làm chuyển hóa mọi vướng víu của các thực thể con người và không phải con người thành các lĩnh vực riêng biệt và tách biệt. Tuy nhiên, việc mô tả cách thức mà “tính xã hội” xuất hiện như là kết quả của những tranh cãi và như là tác động của các hành động thanh lọc đòi hỏi rằng lĩnh vực xã hội phải được làm cho “không chắc chắn và có thể tranh cãi” giống như thế giới tự nhiên vậy (Callon 1986). Việc ANT từ chối dựa trên nền tảng vững chắc của “tính xã hội” đã nhanh chóng phân biệt ANT không chỉ với dòng xã hội học chính thống mà còn với loại xã hội học tri thức khoa học có liên quan chặt chẽ, xuất hiện cùng với nó vào những năm 1980.

Tính đối xứng và Tác tố phi nhân

Đối với những người chủ trương phân tích xã hội học về quá trình sản xuất và ổn định tri thức khoa học, thì việc ANT gán tác tố cho các tác nhân “phi nhân” là một bước lùi về chủ nghĩa hiện thực khoa học ngây thơ hay quyết định luận kỹ thuật. Như Harry Collins và Steve Yearly đã lập luận trong phê phán của họ về ANT, vấn đề đối với một bản mô tả trao full agency “tác tố đầy đủ” cho những tạo vật phi nhân liên quan đến một cuộc tranh cãi—những con sò điệp trong truyện ngụ ngôn Brittany của Callon hay những vi khuẩn trong việc Latour tái cấu trúc sự trỗi dậy của “Pasteur”—là “nó phải dựa trên các phương pháp nghiên cứu khoa học thông thường cho phần bằng chứng liên quan đến các actants phi nhân của nó” (Collins và Yearley 1992, 317). Nói cách khác, các phương thức của các tác tố phi nhân loại được bộc lộ trong các lý giải của ANT thường là những phương thức được các nhà khoa học đã thắng trong cuộc tranh luận xác định và mô tả. Kết quả, như Collins và Yearley (1992, 323) đã nói, là “một cái nhìn tẻ nhạt về khoa học và công nghệ”, một cái nhìn thiếu tính phong phú bối cảnh được các nghiên cứu xã hội học về thực hành khoa học khám phá.    

Cuộc tranh luận giữa ANT và xã hội học về tri thức khoa học (SSK - Sociology of Scientific Knowledge) chung qui lại là những hiểu biết khác nhau về nguyên tắc “đối xứng”. Đối với SSK, tính đối xứng thể hiện cam kết đưa các tuyên bố và phản tuyên bố khác nhau của một cuộc tranh cãi vào cùng một loại giải thích nhân quả. Theo công thức kinh điển của David Bloor (1973, 173), tính đối xứng là “sự tinh chỉnh của yêu cầu về tính công bằng” và đòi hỏi nhà khoa học xã hội phải sử dụng cùng một cách diễn giải để giải thích [tr.8] cho cả hai mặt của một cuộc tranh luận. “Không phải chỉ giải thích niềm tin chân và giả, mà cùng một loại nguyên nhân phải tạo ra cả hai loại niềm tin” (Bloor 1973, 173–74). Trong tay các nhà xã hội học (và sử học), nguyên tắc này đã dẫn đến một “Chương trình Mạnh” về giải thích khoa học xã hội, theo đó sự bộc lộ và đặc biệt là kết thúc của một cuộc tranh luận khoa học được chứng minh là do sự vận hành của “những hiểu biết chung”, “tập tục xã hội” hoặc “các hình thức sống” (ví dụ: Collins 1985). Đối với ANT, “tính đối xứng” mô tả một cam kết phương pháp luận khá khác biệt, cụ thể là, sự từ chối triển khai bất kỳ phân biệt tiên nghiệm nào giữa các thực thể con người và phi con người, hoặc giữa các yếu tố thuộc về Xã hội tính và các yếu tố thuộc về Tự nhiên. Thay vào đó, “các loại tự nhiên” [natures] và “các xã hội” [societies] được hiểu là sản phẩm phụ của một hình thức hoạt động cơ bản hơn: việc xây dựng các mạng, sự lưu thông của các quasiobject cận-đối tượng, việc thực hiện các thử nghiệm về sức mạnh. Đây đều là những phạm trù hành động chung chung được thiết kế một cách có chủ đích nhằm ngăn chặn bất kỳ sự xác định trước nào về loại thực thể nào có thể có được tác tố.      

Do đó, trong phản ứng trước thách thức do những người chủ trương Chương trình Mạnh đặt ra, Callon và Latour đã nhấn mạnh việc họ từ chối viện dẫn các nhân tố xã hội để giải quyết các tranh cãi khoa học-công nghệ. “Chúng tôi chưa bao giờ quan tâm đến việc đưa ra lời giải thích xã hội cho bất cứ điều gì,” họ viết, “nhưng chúng tôi muốn giải thích tính xã hội, mà trong đó sự vật, sự kiện và tác vật là những cấu thành chính” (Callon và Latour 1992, 348). Sự bác bỏ “chính trị giải thích” của xã hội học (Latour 1988b) này xuất phát từ một tập hợp các nguồn phức tạp. Về tinh thần, lập trường của ANT có lẽ gần nhất với huấn lệnh phương pháp luận dân tộc học là không bối cảnh hóa hành động mà là khám phá cách thức mà hành động tạo ra tập hợp bối cảnh riêng của nó. Trong môi trường đặc thù của xã hội học Pháp—và điều cần thiết phải nhớ là ANT được nuôi dưỡng trong một trường kỹ nghệ gần về mặt địa lý nhưng lại nằm ngoài các nền tảng thiêng liêng của xã hội học hàn lâm Paris về mặt trí tuệ và thể chế—việc từ chối quay trở lại với một siêu ngôn ngữ về các nguyên nhân xã hội đã mang đến một thách thức trực tiếp đối với các sơ đồ diễn giải thống trị lúc bấy giờ, và đặc biệt là đối với xã hội học phê phán của Pierre Bourdieu.4

Trên thực tế, các phiên bản ANT và SSK về “tính đối xứng” không tương thích, nhưng phải mất một thời gian để tính không tương thích này tự hiện thân đầy đủ. Như Collins và Yearley (1992, 311) đã lập luận trong bài phê bình ANT của họ, “[tính] đối xứng trong cách xử lý giữa chân và giả đòi hỏi một vũ trụ lấy con người làm trung tâm”. Ngược lại, chỉ bằng cách không xử lý các phe phái khác nhau của con người trong một cuộc tranh luận một cách đối xứng thì các lý giải ban đầu về ANT mới có thể làm nổi bật đầy đủ cái tác tố của các tác nhân phi nhân. Đây là một điểm mà Simon Schaffer đã nêu ra trong bài phê bình của ông về cuốn Les Microbes: Guerre et Paix Vi khuẩn: Chiến tranh và Hòa bình (“The Eighteenth Brumaire of Bruno Latour” Ngày Mười tám tháng Sương mù của Bruno Latour). Schaffer lập luận rằng hylozoism vật hoạt luận của Latour – việc quy sự sống và tác tố cho mọi yếu tố của vũ trụ – đã thực sự biến đổi “Pasteur” (actants ký hiệu học) và theo đó là Pasteur (tác nhân lịch sử) thành một loại bậc thầy siêu nhiên. “Mặc dù Latour cho rằng ông đã sử dụng mánh khóe phân tích ‘Pasteur’ thành những cấu phần làm cho ông trở nên khả thể (các nhà vệ sinh, nông dân, bác sĩ quân đội, chế độ Đế quốc, nhà thống kê và vi sinh vật), nhưng trên thực tế, ông đã khôi phục vị thế của nhà vi sinh vật học vĩ đại này thành một người làm-phép lạ” (Schaffer 1991, 182).

Theo quan điểm của Schaffer, một yếu tố then chốt và đáng chú ý trong việc nâng tầm “Pasteur” này là việc Latour đánh giá thấp một cách có hệ thống các công trình thực nghiệm. Trong cuốn Les Microbes: Guerre et Paix Vi khuẩn: Chiến tranh và Hòa bình, các thí nghiệm về cơ bản là những thử thách về sức mạnh mà qua đó nhà khoa học cố gắng thu hút các thực thể phi nhân vào nỗ lực của mình; phòng thí nghiệm trở thành một “điểm Archimedean” cho phép Pasteur thay đổi thang đo và trở thành điểm chuyển tiếp bắt buộc cho một chùm các tác nhân và lợi ích mới (xem Latour 1983a). Trong cuốn sách này và các tài liệu ANT kinh điển khác, người ta ít quan tâm đến tính ngẫu nhiên và chất lượng đa nghĩa của các kết quả thí nghiệm—ví dụ, trong sự mơ hồ cơ bản của việc sao chép thí nghiệm được xác định bằng xã hội học tri thức khoa học (Collins 1985). ANT đã xem nhẹ những tình huống khó xử này để làm sắc nét hơn sức mạnh tạo điều kiện, tạo sinh tác tố của các thí nghiệm. Một phần của vấn đề với cách tiếp cận này là tính thô thiển và hàm ý nhân trung tâm luậntrong sự phân biệt giữa con người và phi người, và việc san phẳng được ngụ ý bởi một khái niệm “tác tố” bao trùm tất cả (Lee và Brown 1994). ANT đã làm nổi bật sự đa dạng hơn nhiều của các tác nhân tích cực tham gia vào quá trình khai mở các tranh cãi khoa học-công nghệ, nhưng nó đã làm như vậy bằng cách đánh đổi việc bộc lộ tất cả các tác nhân này “là giống nhau” (Hennion 2012, 592), tức là thể hiện một phương thức của tác tố khá chung chung, đơn điệu (xem Sayes [2014] để biết phân loại gần đây về các tác tố phi nhân trong ANT).

Có lẽ ví dụ rõ ràng nhất của phép quy giản luận này là cách xử lý các tác tố sinh vật và động vật phi nhân bị cuốn vào công việc khoa học. Hãy nhớ rằng tiêu đề bài báo kinh điển năm 1986 của Callon đề cập đến “sự thuần hóa” sò điệp, và Latour, khi ông mô tả vai trò của sự sống vi khuẩn trong uy thế của Pasteur, thường dùng đến ngôn ngữ của sự làm chủ và thống trị. Tuy nhiên, theo thời gian, ANT [tr.10] đã mở ra những cách diễn giải có sắc thái hơn về khả năng của các sinh vật sống.5 Sự tiến hóa ấy chứng minh rằng lý thuyết này có chỗ cho những hiểu biết sâu sắc hơn về hành động. Trên thực tế, bất kỳ cuộc điều tra thực nghiệm nào dù chỉ chú ý tối thiểu cũng sẽ nhanh chóng cho thấy rằng phương thức hoạt động của bất kỳ actant kẻ hành động nào - loại sức mạnh hoặc sức ép do bất kỳ hợp quần nào tạo ra - thực chất sui generis riêng biệt và một mô tả ANT tốt sẽ cho phép đặc tính riêng biệt này có đủ không gian để hiện thân. Sự đánh giá cao này đối với tính đặc thù của các phương thức tồn tại và hành động cụ thể sẽ xuất hiện mạnh mẽ hơn khi ANT vượt ra ngoài trọng tâm ban đầu của nó là khoa học-công nghệ và bắt đầu khám phá các trật tự hành động khác.6

______________________________________

Nguồn: Javier Lezaun (2017). Actor-Network Theory, Forthcoming in C. Benzecry, M. Krause and I. Reed (eds.) Social Theory Now. The University of Chicago Press, 2017.

Notes

1 Một dấu hiệu giai thoại về sự mở rộng này: ấn bản năm 1987 của Lý thuyết Xã hội Ngày nay chỉ đề cập đến công việc trong truyền thống mạng-tác nhân. Một chú thích trong chương về phương pháp luận dân tộc học của John Heritage (1987, 265) đã đề cập đến cuốn sách Cuộc sống Thí nghiệm của Latour và Woolgar (1979) như một ví dụ về một nghiên cứu “hội tụ về bầu không khí, mặc dù không theo định hướng cụ thể, với chương trình ‘nghiên cứu về công việc’ [phương pháp luận dân tộc học].”

2 Để thảo luận về các biến thể đa dạng và đôi khi loại trừ lẫn nhau của “chủ nghĩa kiến tạo xã hội” đã phát triển mạnh trong các nghiên cứu khoa học, xem Golinski (2008), Hacking (1999) và Sismondo (1993).

3 Định nghĩa này gợi nhớ đến một đoạn trong tác phẩm Nguồn gốc Xã hội của nền Dân chủ và Chế độ Độc tài của Barrington Moore: “Để duy trì và truyền tải một hệ thống giá trị”, Moore (1966, 468) viết, “con người bị đấm đá, bắt nạt, bị bỏ tù, bị ném vào trại tập trung, bị dụ dỗ, bị mua chuộc, bị biến thành anh hùng, bị khuyến khích đọc báo, bị dồn vào chân tường và bị bắn, và đôi khi thậm chí còn bị dạy về xã hội học”. ANT có thể được coi là một nỗ lực nhằm giải quyết tất cả các phương thức hành động đó (bao gồm cả việc giảng dạy xã hội học) thông qua một bộ máy đại diện đầy đủ cho nhiều yếu tố trung gian phi nhân có liên quan đến các hoạt động đó

4 Trung tâm của ANT trong những năm 1980 và 1990, Trung tâm Xã hội học Đổi mới, là một phần của École Nationale Supérieure des Mines de Paris, một Học viện Giáo dục Đại học Kỹ thuật ưu tú. Nhiều người chủ trương hàng đầu của ANT—đặc biệt là Michel Callon, Madeleine Akrich và Antoine Hennion—là cựu sinh viên của Grande École này và đã phát triển phương pháp tiếp cận đặc trưng của họ trong quá trình tương tác với sinh viên kỹ thuật. Như Fabian Muniesa lưu ý, điều này đã ảnh hưởng đến loại “chủ nghĩa kiến tạo” đặc trưng của ANT thời kỳ đầu. “Đối với ANT,” ông viết, “thực tại được kiến tạo, nhưng được kiến tạo theo nghĩa kỹ sư (thực tại vững chắc là kết quả của một quá trình kết nối vật chất có tổ chức, mong manh và tốn công sức) chứ không phải theo nghĩa thường được đưa ra trong khoa học xã hội tiêu chuẩn (kiến tạo xã hội được xem xét dưới góc độ các quy ước xã hội, hệ thống niềm tin, trạng thái tinh thần hoặc biểu đạt tập thể)” (Muniesa 2015, 62; xem thêm Hennion 2016). Trong khi đó, và ngược lại, xã hội học tri thức khoa học xuất hiện ở Vương quốc Anh vào cuối những năm 1970 đã nỗ lực khẳng định mình là một ngành xã hội học hoàn chỉnh, ngang hàng với các nhánh khác của ngành và chỉ khác biệt ở đối tượng nghiên cứu.

5 Sự hợp tác của Latour với nhà nghiên cứu linh trưởng học Shirley Strum đánh dấu một bước chuyển tiếp về mặt này (Strum và Latour 1987). Thậm chí còn quan trọng hơn là ảnh hưởng của một số người đối thoại quan trọng nhất của ANT, đặc biệt là Donna Haraway, Vinciane Despret và Isabelle Stengers.

6 Công trình của Antoine Hennion về những người yêu âm nhạc và các hình thức nghiệp dư khác đã minh họa ngay từ đầu khả năng của ANT trong việc cung cấp một bản tường thuật sắc thái và đa dạng hơn về tác tố (Hennion 2015; xem thêm Gomart và Hennion 1999). Việc Hennion khám phá trình tự hoạt động và thụ động đối với các đối tượng kỹ thuật gợi nhớ đến ý tưởng về “vũ điệu tác tố” được Andrew Pickering (1995) phát triển trong các nghiên cứu của ông về công trình khoa học trong vật lý hạt và toán học. Điều gắn kết Hennion và Pickering, bất chấp các đối tượng thực nghiệm khác biệt của họ, là sự đồng điệu chung với chiều kích thời gian trong sự xuất hiện của tác tố.

References

Akrich, M., and B. Latour. 1992. “A Summary of a Convenient Vocabulary for the Semiotics of Human and Nonhuman Assemblies.” In Shaping Technology/Building Society Studies in Sociotechnical Change, 259–64. Cambridge, MA: MIT Press.

Barry, A. 2013. “The Translation Zone: Between Actor-Network Theory and International Relations.” Millennium-Journal of International Studies 41 (3): 413–29.

Barthe, Y., M. Callon, and P. Lascoumes. 2001. Agir dans un monde incertain. Essai sur la démocratie technique. Paris: Seuil.

Blok, A., and T. E. Jensen. 2011. Bruno Latour: Hybrid Thoughts in a Hybrid World. London: Routledge.

Bloor, D. 1973. “Wittgenstein and Mannheim on the Sociology of Mathematics.” Studies in History and Philosophy of Science Part A 4 (2): 173–91.

Boltanski, L. 2011. On Critique: A Sociology of Emancipation. London: Polity.

Bordeleau, E. 2015. “Bruno Latour and the Miraculous Present of Enunciation.” In Breaking the Spell: Contemporary Realism Under Discussion, edited by A. Longo and S. de Sanctis, 155-167. Milano: Mimesis International.

Brown, S. D. 2002. “Michel Serres.” Theory, Culture and Society 19 (3): 1–27.

Bryan, D., R. Martin, J. Montgomerie, and K. Williams. 2012. “An Important Failure: Knowledge Limits and the Financial Crisis.” Economy and Society 41 (3): 299–315.

Çalişkan, K. 2010. Market Threads: How Cotton Farmers and Traders Create a Global Commodity. Princeton, NJ: Princeton University Press.

Çalışkan, K., and M. Callon. 2009. “Economization, Part 1: Shifting Attention from the Economy towards Processes of Economization.” Economy and Society 38 (3): 369–98.

———. 2010. “Economization, Part 2: A Research Programme for the Study of Markets.” Economy and Society 39 (1): 1–32.

Callon, M. 1975. “L’opération de traduction comme relation symbolique.” Les incidences des rapports sociaux sur la science. Paris: Cordes.

———. 1981. “Struggles and Negotiations to Define What Is Problematic and What Is Not: The Socio-Logic of Translation.” In The Social Process of Scientific Investigation, 197–219. New York: Springer.

———. 1986. “Some Elements of a Sociology of Translation: Domestication of the Scallops and the Fishermen of St. Brieuc Bay.” Power, Action, and Belief: A New Sociology of Knowledge 32: 196–223.

———. 1998a.” Introduction: The Embeddedness of Economic Markets in Economics.” The Sociological Review 46 (1): 1–57.

———. 1998b.” An Essay on Framing and Overflowing: Economic Externalities Revisited by Sociology.” The Sociological Review 46 (1): 244–S69.

———. 1999. “Actor-Network Theory—the Market Test.” The Sociological Review 47 (S1): 181–S95.

———. 2007a. “What Does It Mean to Say That Economics Is Performative?” In Do Economists Make Markets? On the Performativity of Economic, edited by D.

MacKenzie, F. Muniesa, and L. Siu, 311–57. Princeton, NJ: Princeton University Press.

———. 2007b. “An essay on the growing contribution of economic markets to the proliferation of the social.” Theory, Culture & Society 24(7-8): 139-163.

———. 2009. “Civilizing markets: Carbon trading between in vitro and in vivo experiments.” Accounting, Organizations and Society 34(3): 535-548.

———. 2013. “Qu’est-ce qu’un agencement marchand.” In Sociologie des agencements marchands: Textes choisis, edited by M. Callon et al, 325–440. Paris: Presses des Mines.

———. 2016. “Revisiting Marketization: From Interface-Markets to Market- Agencements.” Consumption Markets and Culture 19 (1): 17–37.

Callon, M., and B. Latour. 1981. “Unscrewing the big Leviathan: how actors macro-structure reality and how sociologists help them to do so.” In Advances in Social Theory and Methodology: Toward an Integration of Micro- and

Macro-Sociologies, edited by K. Knorr-Cetina and A.V. Cicourel, 277-303. London: Routledge & Kegan Paul.

———. 1992. “Don’t Throw the Baby Out with the Bath School! A Reply to  Collins and Yearley.” In Science as Practice and Culture, edited by Andrew Pickering, 343–68. Chicago: University of Chicago Press.

Callon, M., Y. Millo, and F. Muniesa. 2007. Market Devices. Special issue of the Sociological Review 55 (1).

Callon, M., and F. Muniesa. 2005. “Peripheral Vision Economic Markets as Calculative Collective Devices.” Organization Studies 26 (8): 1229–50.

Chakrabarty, D. 2000. Provincializing Europe: Postcolonial Thought and Historical Difference. Princeton, NJ: Princeton University Press.

———. 2009. “The Climate of History: Four Theses.” Critical Inquiry 35 (2): 197–222.

Cochoy, F. 2008. “Calculation, Qualculation, Calqulation: Shopping Cart Arithmetic, Equipped Cognition and the Clustered Consumer.” Marketing Theory 8 (1): 15–44.

———. 2014. “A Theory of ‘Agencing’: On Michel Callon’s Contribution to Organizational Knowledge and Practice.” The Oxford Handbook of Sociology, Social Theory, and Organization Studies, 106–24. New York: Oxford University Press.

Collins, H. 1985. Changing Order: Replication and Induction in Scientific Practice. Chicago: University of Chicago Press.

Collins, H. M., and S. Yearley. 1992. “Epistemological Chicken.” In Science as Practice and Culture, edited by Andrew Pickering, Chicago: University of Chicago Press.

Deleuze, Giles. 1989. Qu’est-ce qu’un dispositif? In Michel Foucault philosophe. Rencontre international, Paris, 9, 10, 11 janvier 1988. Paris: Le Seuil., DiSalvo, C. 2012. Adversarial design. The MIT Press.

Fischer, M. M. 2014. “The Lightness of Existence and the Origami of ‘French’ Anthropology: Latour, Descola, Viveiros de Castro, Meillassoux, and Their So-Called Ontological Turn.” HAU: Journal of Ethnographic Theory 4 (1): 331–55.

Fourcade, M. 2011. “Cents and Sensibility: Economic Valuation and the Nature of ‘Nature.”’ American Journal of Sociology 116 (6): 1721–77.

Gad, C., and C. B. Jensen. 2010. “On the Consequences of Post-ANT.” Science, Technology and Human Values 35 (1): 55–80.

Geiger, S., Harrison, D., Kjellberg, H., and Mallard, A. 2014. Concerned Markets: Economic Ordering for Multiple Values. Cheltenham: Edward Elgar Publishing.

Golinski, J. 2008. Making Natural Knowledge: Constructivism and the History of Science. Chicago: University of Chicago Press.

Golinski, J. 2010. “Science and Religion in Postmodern Perspective: The Case of Bruno Latour.” In Science and Religion: New Historical Perspectives, edited by T. Dixon, G. Cantor and S. Pumfrey 50-68. Cambridge: Cambridge University Press.

Gomart, E., and Hennion, A. (1999). “A sociology of attachment: music amateurs, drug users.” The Sociological Review 47(S1): 220-247.

Granovetter, M. 1983. “The Strength of Weak Ties: A Network Theory Revisited.” Sociological Theory 1 (1): 201–33.

———. 1985. “Economic Action and Social Structure: The Problem of Embeddedness.” American Journal of Sociology 91 (3): 481–510.

Greimas, A. J. 1973. “Les actants, les acteurs et les figures.” In Sémiotique narrative et textuelle. Paris: Larousse. Pp. 161–176.

Guggenheim, M., and J. Potthast. 2012. “Symmetrical twins: On the relationship between Actor-Network theory and the sociology of critical capacities.” European Journal of Social Theory 15(2): 157-178.

Hacking, I. 1999. The Social Construction of What? Cambridge, MA: Harvard University Press.

Harman, G. 2014. Bruno Latour: Reassembling the Political. London: Pluto.

Hennion, A. 2007. “Those things that hold us together: Taste and sociology.” Cultural sociology, 1(1), 97-114.

———. 2013. “Review Essay: 2012. Enquête sur les modes d’existence.” Science, Technology & Human Values 38(4): 588-594.

———. 2015. The Passion for Music: A Sociology of Mediation. Farnham: Ashgate.

———. 2016. “From ANT to Pragmatism: A Journey with Bruno Latour at the CSI.” New Literary History 47(2): 289-308.

Heritage, J. 1987. “Ethnomethodology.” In Social Theory Today, edited by Anthony Giddens and Jonathan Turner, 224–72. Stanford, CA: Stanford University Press.

Latour, B. 1983. “Give Me a Laboratory and I Will Raise the World.” In Science Observed: Perspectives on the Social Study of Science, edited by K. D. Knorr-Cetina and M. Mulkay, 141-170. London: Sage.

———. 1987. Science in Action: How to Follow Scientists and Engineers through Society. Cambridge, MA: Harvard University Press.

———. 1988a. The Pasteurization of France. Cambridge, MA: Harvard University Press.

———. 1988b. “The Politics of Explanation: An Alternative.” In Knowledge and Reflexivity: New Frontiers in the Sociology of Knowledge, edited by Steve Woolgar, 155–76. London: Sage.

———. 1993. We Have Never Been Modern. Cambridge, MA: Harvard University Press.

———. 1999. “On Recalling ANT.” The Sociological Review 47 (S1): 15–25.

———. 2002. “Gabriel Tarde and the End of the Social.” In The Social in Question: New Bearings in History and the Social Sciences, edited by Patrick Joyce, 117–32. London: Routledge.

———. 2003. “What If We Talked Politics a Little?” Contemporary Political Theory 2 (2): 143–64.

———. 2004a. “Why Has Critique Run Out of Steam? From Matters of Fact to Matters of Concern.” Critical Inquiry 30 (2): 225–48.

———. 2004b. Politics of Nature: How to Bring the Sciences into Democracy. Cambridge, MA: Harvard University Press.

———. 2005. Reassembling the Social—An Introduction to Actor-Network-Theory. Oxford, UK: Oxford University Press.

———. 2010a. The Making of Law: An Ethnography of the Conseil d’État. London: Polity.

———. 2010b. “An Attempt at a ‘Compositionist Manifesto.’” New Literary History 41 (3): 471–90.

———. 2013a. An Inquiry into Modes of Existence: An Anthropology of the Moderns. Cambridge, MA: Harvard University Press.

———. 2013b. “Facing Gaia: Six Lectures on the Political Theology of Nature.” Gifford Lectures, Edinburgh University.

———. 2013c. “Biography of an inquiry: On a book about modes of existence.” Social Studies of Science 43(2): 287-301.

———. 2014a. “Anthropology at the Time of the Anthropocene—A Personal View of What Is To Be Studied.” Distinguished lecture delivered at the American Anthropological Association annual meeting, Washington, DC, December.

———. 2014b. “Another Way to Compose the Common World.” HAU: Journal of Ethnographic Theory 4 (1): 301–7.

Latour, B., and Woolgar, S. 1979. Laboratory Life: The Social Construction of Scientific Facts. Beverly Hills, CA: Sage.

———. 1986. Laboratory Life: The Construction of Scientific Facts. Princeton, NJ: Princeton University Press.

Law, John. 1987. “Technology and Heterogeneous Engineering: The Case of Portuguese Expansion.” In The Social Construction of Technological Systems: New Directions in the Sociology and History of Technology, edited by Wiebe E. Bijker, Thomas P. Hughes, and Trevor Pinch, 13–34. Cambridge, MA: MIT Press.

———. 1994. Organizing Modernity. Oxford, UK: Blackwell.

———. 2004. After Method: Mess in Social Science Research. London: Routledge.

Law, J., and Lien, M. 2012. “Slippery: Field notes on empirical ontology.” Social Studies of Science 43(3): 363-378.

Lee, N., and S. Brown. 1994. “Otherness and the Actor Network.” American Behavioral Scientist 37 (6): 772–90.

Lépinay, V. A. 2011. Codes of Finance: Engineering Derivatives in a Global Bank. Princeton, NJ: Princeton University Press.

López Gómez, D., and F. J. Tirado. 2012. “Teoría del Actor-Red: Un pragmatism contemporáneo.” In Teoría del Actor-Red: Más allá de los estudios de ciencia y tecnología, edited by D. López Gómez and F. J. Tirado, 1-16. Barcelona, Spain: Armentia Editorial.

Lynch, M. 1997. Scientific Practice and Ordinary Action: Ethnomethodology and Social Studies of Science. Cambridge, UK: Cambridge University Press.

MacKenzie, D. 2004. “The Big, Bad Wolf and the Rational Market: Portfolio Insurance, the 1987 Crash and the Performativity of Economics.” Economy and Society 33 (3): 303–34.

———. 2006. An Engine, Not a Camera: How Financial Models Shape Markets. Cambridge, MA: MIT Press.

———. 2007. “Is Economics Performative? Option Theory and the Construction of Derivative Markets.” In Do Economists Make Markets? On the Performativity of Economics, edited by D. MacKenzie, F. Muniesa, and L. Siu, 54–86. Princeton, NJ: Princeton University Press.

———. 2009. Material Markets: How Economic Agents Are Constructed. Oxford, UK: Oxford University Press.

MacKenzie, D. A., and Y. Millo. 2003. “Constructing a Market, Performing Theory: The Historical Sociology of a Financial Derivatives Exchange.” American Journal of Sociology 109 (1): 107–45.

MacKenzie, D. A., F. Muniesa, and L. Siu, eds. 2007. Do Economists Make Markets? On the Performativity of Economics. Princeton, NJ: Princeton University Press.

Marres, N. 2012. Material Participation: Technology, the Environment and Everyday Publics. New York: Palgrave Macmillan.

McGee, K. 2014. Bruno Latour: The Normativity of Networks. London: Routledge.

Mirowski, P., and E. Nik-Khah. 2007. “Performativity, and a Problem in Science Studies, Augmented with Consideration of the FCC Auctions.” In Do Economists Make Markets? On the Performativity of Economics, edited by D. MacKenzie, F. Muniesa, and L. Siu, Princeton, NJ: Princeton University Press.

Mol, A. 2013. “Mind Your Plate! The Ontonorms of Dutch Dieting.” Social Studies of Science 43 (3): 379–96.

Muniesa, F. 2000. “Un robot walrasien. Cotation électronique et justesse de la découverte des prix.” Politix 13 (52): 121–54.

———. 2007. “Market Technologies and the Pragmatics of Prices.” Economy and Society 36 (3): 377–95.

———. 2014. The Provoked Economy: Economic Reality and the Performative Turn. London: Routledge.

Muniesa, F., and M. Callon. 2007. “Economic Experiments and the Construction of Markets.” In Do Economists Make Markets? On the Performativity of Economics, edited by D. MacKenzie, F. Muniesa, and L. Siu, 163–89. Princeton, NJ: Princeton University Press.

Muniesa, F., Y. Millo, and M. Callon. 2007. “An Introduction to Market Devices.” The Sociological Review 55 (S2): 1–12.

Pellandini-Simányi, L. 206. “Non-marketizing agents in the study of markets: competing legacies of performativity and actor-network-theory in the marketization research program.” Journal of Cultural Economy.

Pickering, A. 1995. The Mangle of Practice: Time, Agency & Science. Chicago: University of Chicago Press.

Pottage, A. 2012. “The Materiality of What?” Journal of Law and Society 39 (1): 167–83.

Preda, A. 2009. Framing Finance: The Boundaries of Markets and Modern Capitalism. Chicago: University of Chicago Press.

Riles, A. 2011. Collateral Knowledge: Legal Reasoning in the Global Financial Markets. Chicago: University of Chicago Press.

Sayes, E. 2014. “Actor-Network Theory and Methodology: Just What Does It Mean To Say That Nonhumans Have Agency?” Social Studies of Science 44 (1): 134–49.

Schaffer, S. 1991. “The Eighteenth Brumaire of Bruno Latour.” Studies in History and Philosophy of Science Part A 22 (1): 174–92.

Schmidgen, H. 2013. “The materiality of things? Bruno Latour, Charles Péguy, and the history of science.” History of the Human Sciences 26(1), 3-28.

Serres, M. 1974. La traduction. Paris: Editions de minuit.

———. 1980. Le parasite. Paris: Grasset.

———. 1995. The Natural Contract. Ann Arbor: University of Michigan Press.

———. 1988. “Following Scientists Around.” Social Studies of Science 18(3): 533–50.

Shapin, S. 1988. “Following scientists around.” Social Studies of Science 18(3): 533-550.

Sismondo, S. 1993. “Some Social Constructions.” Social Studies of Science 23(3):515–53.

Smith, B. H. 2016. “Anthropotheology: Latour Speaking Religiously.” New Literary History 47(2): 331-351.

Strum, S. S., and B. Latour. 1987. “Redefining the Social Link: From Baboons to Humans.” Social Science Information 26 (4): 783–802.

Tresch, J. 2013. “Another Turn after ANT: An Interview with Bruno Latour.” SocialStudies of Science 43 (2): 302–13.

Viveiros de Castro, E. 2016. “Sur les modes d’existence extramodernes.”

Williamson, O. E. 1993. “Calculativeness, Trust, and Economic Organization. Journal of Law and Economics 36 (1): 453–86.

 

 

 

 

 

 

 

 

Thứ Bảy, 19 tháng 7, 2025

Hoạt động, Kẻ hành động, Tác nhân trong Phát triển (I)

Norman Long

Người dịch: Hà Hữu Nga

[Tr.31] Bài viết này gồm hai phần. Phần đầu cung cấp tổng quan lý thuyết về ba quan điểm tác nhân liên quan đến các vấn đề can thiệp phát triển: a) Lý thuyết hoạt động, b) Lý thuyết Mạng-Tác nhân, và c) Phân tích giao diện Định hướng-Tác nhân. Phần thứ hai thảo luận minh họa về tính hữu ích của quan điểm tác nhân trong việc hiểu các cuộc gặp gỡ diễn ra giữa các “chuyên gia phát triển” (địa phương - bên ngoài) và những kẻ được gọi là “người thụ hưởng”. Lập luận này dựa trên dữ liệu dân tộc học liên quan đến các vấn đề về giao diện phát triển, actor identities bản sắc tác nhân, các mạng và diễn ngôn.

1. Tương đồng và Khác biệt Quan điểm

Dưới hình thức cô đọng, các nguyên lý cơ bản của ba phương pháp tiếp cận có thể được tóm tắt như sau. Lý thuyết hoạt động1 được xây dựng dựa trên lý thuyết hoạt động văn hóa-lịch sử, ban đầu được phát triển như một hệ mẫu [paradigm] đa ngành để hiểu mối quan hệ giữa hành động và nhận thức. Lý thuyết này đã được sử dụng để hiểu các chuyển đổi trong công việc, tổ chức và công nghệ. Nó mô hình hóa các hệ thống hoạt động, những mâu thuẫn phát triển của chúng, và bao gồm một lý thuyết về các chu kỳ học tập mở rộng trong các tổ chức và cộng đồng. Lý thuyết này chấp nhận một phương pháp can thiệp ứng dụng dựa trên nghiên cứu trường hợp chi tiết (xem Học tập bằng cách Mở rộng của Yrjo Engelstrom 1987). Phương pháp này đã được sử dụng rộng rãi trong phát triển, trên cơ sở tham gia, những cải tiến trong quản lý các tổ chức công nghiệp cũng như các dịch vụ công ở Phần Lan và các nơi khác. Phương pháp này bắt đầu từ giả định rằng một hoạt động bao gồm một “chủ thể” và “đối tượng” có một “công cụ” trung gian nào đó.

Chủ thể (cá nhân hoặc nhóm) được thúc đẩy bởi một đối tượng hoặc “mục tiêu” để tham gia vào một hoạt động nào đó. Quá trình này bao gồm sự trung gian thông qua một số công cụ nhất định, chẳng hạn như các công nghệ, văn bản, lược đồ nhận thức, biểu tượng văn hóa và các phương thức tổ chức. Sau đó, lý thuyết tiến hành vạch ra cái gọi là “cấu trúc phân cấp của hoạt động” theo khuôn khổ sự khác biệt giữa hoạt động (được định nghĩa là sự tham gia của một [tr.32] chủ thể hướng tới giải pháp cho một vấn đề hoặc nhu cầu), hành động (hướng tới mục tiêu rõ ràng hơn và bao hàm các mối quan hệ ngầm ẩn hoặc rõ ràng với các chủ thể khác và được đóng khung bởi các cam kết xã hội và văn hóa) và các vận hành (phản ứng theo thói quen, được coi là hiển nhiên hoặc tự động được thúc đẩy bởi các điều kiện và công cụ có sẵn). Người ta cũng chú ý đến việc giải thích mối quan hệ giữa “bối cảnh” và “hành vi” theo khuôn khổ thống nhất hơn là sự đối lập của các yếu tố. “Bối cảnh không phải là một vật chứa bên ngoài hay lớp vỏ mà bên trong đó mọi người hành xử theo những cách thức nhất định” (Nardi 1996). Thay vào đó, các hoạt động trở thành bối cảnh trong đó các hành động cá nhân hoặc tập thể có thể xảy ra trong tương lai hình thành về mặt nhận thức và tổ chức, do đó cho phép cả các quá trình trung gian mang tính “nội tại” và “ngoại tại”. Điều này, đến lượt nó, cho phép chúng ta xem xét cách thức các quy tắc điều chỉnh hành động và tương tác trong hệ thống hoạt động, dẫn đến việc phân tích cách thức, ví dụ, sự phân công lao động, hệ thống quyền lực và vị thế có thể củng cố hoạt động và định hình ý thức xã hội (Engestrom 2002).

Trong mô hình do lý thuyết hoạt động đề xuất, “chủ thể” đề cập đến cá nhân hoặc phụ nhóm liên quan đến các hoạt động hoặc hoạt động cụ thể; và “đối tượng” đề cập đến “nguyên liệu thô” hoặc “không gian vấn đề” mà hoạt động hướng đến, được định hình và chuyển hóa thành kết quả với sự trợ giúp của các dụng cụ trung gian vật lý và biểu tượng, bên ngoài và bên trong, bao gồm cả công cụ và dấu hiệu. Cộng đồng bao gồm nhiều cá nhân hoặc phụ nhóm chia sẻ cùng một đối tượng chung và tự kiến tạo mình khác biệt với các cộng đồng khác. Phân công lao động đề cập đến cả sự phân chia nhiệm vụ theo chiều ngang giữa các thành viên trong cộng đồng và sự phân chia quyền lực và vị thế theo chiều dọc. Cuối cùng, các quy tắc đề cập đến các quy định, chuẩn mực và quy ước rõ ràng và ngầm ẩn hạn chế các hành động và tương tác trong hệ thống hoạt động. Một minh họa cụ thể cho những thành phần này là một phòng khám chăm sóc sức khỏe bao gồm nhiều nhân viên chuyên môn y tế và phi y tế, được tổ chức tại các đơn vị hành nghề khác nhau và được phân định rõ ràng với nhau bởi các công nghệ chuyên môn và phong cách hành chính, và tất nhiên là bởi nhiều loại bệnh nhân khác nhau. Một hệ thống hoạt động luôn không đồng nhất và đa thanh. Do sự khác biệt về lịch sử cuộc đời và vị trí trong phân công lao động, các chủ thể khác nhau kiến tạo các “đối tượng” và các thành phần hoạt động khác liên quan đến chúng theo những cách khác nhau, có phần chồng chéo và xung đột. Liên tục có kiến tạo và tái thỏa thuận trong hệ thống hoạt động. Phải có sự phối hợp giữa các phiên bản khác nhau của đối tượng để đảm bảo hoạt động liên tục. Các nhiệm vụ luôn được tái phân công và tái phân chia, các quy tắc được điều chỉnh và tái diễn giải. Cũng có sự chuyển động không ngừng giữa các nút khác nhau của hoạt động, theo đó, những gì ban đầu xuất hiện như một đối tượng có thể sớm được chuyển đổi thành một kết quả, sau đó trở thành một công cụ, và có lẽ rồi trở thành một quy tắc (Engestrom 1996). Ví dụ, một trường hợp y khoa bất thường ban đầu xuất hiện như một vấn đề, được chuyển thành một chẩn đoán và điều trị thành công, được sử dụng như một nguyên mẫu hoặc mô hình cho các trường hợp tương tự, và dần dần được củng cố và hóa thạch thành một quy tắc đòi hỏi các quy trình nhất định trong mọi trường hợp thích ứng với phạm trù đó. Mặt khác, các quy tắc có thể bị chất vấn, tái diễn giải và biến thành các công cụ và đối tượng mới.        

Như vậy, hoạt động về cơ bản là một hình thái tập thể, có hệ thống, có cấu trúc trung gian phức tạp. Một hệ thống hoạt động tạo ra các hành động và được thực hiện thông qua các hành động tiếp theo. Tuy nhiên, hoạt động không thể quy giản về hành động. Các hành động tồn tại tương đối ngắn ngủi và có điểm khởi đầu và kết thúc rõ ràng, trong khi các hệ thống hoạt động phát triển qua những giai đoạn lịch sử dài, thường mang hình thức của các thể chế và tổ chức. Leontiev (1978: 52) chỉ ra thêm rằng khái niệm đối tượng đã nằm sẵn trong chính khái niệm hoạt động; do đó, không có thứ gì là hoạt động “phi đối tượng” cả. Đối tượng vừa là cái được cho sẵn, vừa là cái được dự kiến hay dự đoán. Một sự vật hay hiện tượng trở thành đối tượng của hoạt động khi nó đáp ứng nhu cầu của con người. Chủ thể kiến tạo đối tượng, tức là “chỉ ra những thuộc tính được chứng minh là thiết yếu cho sự phát triển thực tiễn xã hội” (Lektorsky 1984: 137). Trong năng lực được kiến tạo, liên quan đến nhu cầu này, đối tượng có được động lực thúc đẩy, định hình và định hướng cho hoạt động. Chính đối tượng quyết định chân trời của các mục tiêu và hành động khả thể. Một hệ thống hoạt động không tồn tại trong chân không; nó tương tác trong một mạng các hệ thống hoạt động khác và được khớp nối với các hệ thống bên ngoài, vốn - mượn ngôn ngữ của chủ nghĩa duy vật lịch sử - thường tạo ra các mâu thuẫn biện chứng. Những quá trình này chỉ ra tầm quan trọng của việc nghiên cứu cách thức các quá trình học tập chung mở rộng diễn ra trong các mạng tác nhân không đồng nhất và do đó dẫn đến các phương thức hợp tác cụ thể cùng các công cụ, khái niệm và quy tắc liên quan. Điều này cũng đòi hỏi việc nghiên cứu xem ý tưởng cho các dự án (ví dụ: dự án công nghệ hoặc viện trợ phát triển) bắt nguồn từ đâu và cách thức đàm phán nội dung và phương thức của chúng ra sao. Trọng tâm của tất cả những điều này là câu hỏi về việc xác định một “đối tượng chung” của hoạt động và tính đối thoại cơ bản của nhiều tiếng nói và quan điểm. Theo cách này, lý thuyết hoạt động gần như nhận ra tầm quan trọng trong động lực học của các mối quan hệ giao diện, mặc dù, như Inna Kontinen (2004) đã nhấn mạnh một cách chính xác, nó đánh giá thấp các phức tính trong việc các nhóm khác nhau dàn xếp các đối tượng hoạt động chung.

Điều này chủ yếu nảy sinh do thiếu một khái niệm vững chắc về các mối quan hệ quyền lực và questions of agency các vấn đề về tác tố liên quan đến cả cấu phần con người và không phải con người. Phần lớn nó vẫn tiếp tục gắn liền với quan điểm hệ thống, định hướng cấu trúc về trật tự và biến đổi xã hội, vốn bộc lộ nguồn gốc sâu xa của nó trong tư duy duy vật lịch sử. Nó phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp phân tích diễn dịch, coi sự tồn tại của các hệ thống hoạt động với các tham số được phân định rõ ràng là điều hiển nhiên. Một khó khăn cốt lõi liên quan đến việc xác định cái gọi là “các đối tượng chung” đóng vai trò trung gian giữa các actors tác nhân và hệ thống hoạt động. Điều này phát sinh do sự tồn tại của vô số tác nhân với thế giới quan, ý nghĩa và lợi ích đa dạng. Do đó, quan điểm “được chia sẻ” hoặc “chung” về những hoạt động cần thiết để giải quyết vấn đề gặp phải cũng sẽ rất khác nhau. Trên thực tế, cần rất nhiều đàm phán và tái đàm phán để hình thành và đạt được bất cứ điều gì giống như một quan điểm và phương tiện hành động chung. Hơn nữa, những gì trông giống như một lập trường “chung” thường hóa ra chỉ là một liên minh tạm thời và mong manh, thay đổi theo sự phát triển của các sự kiện. Tất cả những điều này gợi nhớ đến mô hình tư duy “hệ thống mềm” của Checkland, cũng dựa trên các phương thức tham gia để xác định một hoặc nhiều vấn đề chung cần giải quyết. Sau khi đạt được sự hiểu biết chung về vấn đề, một kế hoạch hành động (hoặc một loạt các hoạt động) được xác định để đưa ra giải pháp (xem Checkland 1988, Röling 1988). “Ý tưởng là các quy trình tham gia gần như tự động trở thành sự đồng thuận và định hướng-hợp tác (với điều kiện là chú ý đầy đủ đến việc học tập xã hội), và đồng thuận là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển và đổi mới.” (Leeuwis 2004: 163). Cũng cần lưu ý đến vấn đề mà Röling gọi là “nền tảng” trong đó “các bên liên quan khác nhau được tập hợp lại để giám sát tình hình và tìm hiểu cũng như đàm phán hướng tới những kết quả hiệu quả hơn (tức là hành động được phối hợp)” (Leeuwis 2004: 34)

Lý thuyết Mạng-Tác nhân

Trong khi ở một số khía cạnh tương tự như lý thuyết hoạt động là ở chỗ lý thuyết mạng-tác nhân cũng dành tầm quan trọng cốt lõi cho các đối tượng vật chất, tác vật công nghệ, văn bản và diễn ngôn trong quá trình tạo ra “cái xã hội”, thì lý thuyết này lại bác bỏ tư duy hệ thống hoàn toàn, các loại cấu trúc luận khác nhau và kiến tạo luận xã hội, ủng hộ một phương thức hiểu biết lai tạp, kết hợp giữa văn hóa và tự nhiên, không phân biệt và theo cách này, nó thách thức chính nền tảng của khoa học xã hội. Lý thuyết mạng-tác nhân (ANT) có thể bắt nguồn từ công trình đầu tiên của Michel Callon và Bruno Latour tại Ecóle des Mines ở Paris vào đầu những năm 1990. Phân tích của họ tập trung vào cấu thành tiến bộ của các mạng trong đó cả tác nhân là con người và những kẻ hành động phi-con người đều đảm nhận các danh tính phù hợp với các chiến lược tương tác đang thịnh hành. Danh tính và phẩm chất của các tác nhân được xác định trong các cuộc đàm phán giữa các “đại diện” của các loại tác nhân khác nhau. Theo quan điểm này, đại diện được hiểu theo chiều góc chính trị của nó, tức là, như một quá trình ủy quyền. Quan trọng nhất trong các cuộc đàm phán này là cái mà họ gọi là translation “phiên dịch”. Điều này bao gồm các tương tác đa diện trong đó các tác nhân (1) xây dựng các định nghĩa và ý nghĩa chung, (2) xác định các tính đại diện và (3) hợp tác với nhau trong việc theo đuổi các mục tiêu hoặc “dự án” cá nhân và tập thể. Trong lý thuyết mạng-tác nhân, cả các actors tác nhân và actants kẻ hành động đều chia sẻ bối cảnh trong việc tái cấu trúc các tương tác mạng này dẫn đến sự ổn định của hệ thống. Nhưng điểm khác biệt quan trọng giữa chúng là chỉ có các actors tác nhân mới có thể đưa các actants kẻ hành động vào lưu thông.2 [Trong Lý thuyết Mạng-Tác nhân (ANT), actors tác nhân  actants kẻ hành động là những thuật ngữ được sử dụng để mô tả bất kỳ thực thể nào có thể tác động hoặc bị tác động trong một mạng, bất kể đó là con người hay không phải con người; ANT thách thức quan điểm xã hội học truyền thống vốn phân biệt agency tác tố con người với các tác động không phải con người, thay vào đó, nó cho rằng cả hai đều có vai trò trong việc định hình các thực tại xã hội và vật chất; Trong Lý thuyết Mạng-Tác nhân, cả actors tác nhân và actants kẻ hành động đều là những thực thể trong một mạng có thể tác động đến hệ thống, nhưng chúng khác nhau về cấp độ tác động và cách định nghĩa; Actant là một thuật ngữ rộng hơn bao gồm bất kỳ thứ gì có thể được tạo ra agency tác tố và tham gia vào các hành động trong mạng, bao gồm cả thực thể con người và phi con người; mặt khác, actor là một loại actant cụ thể được xác định bởi các hành động và tương tác của nó bên trong mạng, thường được xem là hiện thân cụ thể hơn về tiềm năng của actant. HHN] Các thành phần cốt lõi của mạng không đồng nhất bao gồm một tập hợp các yếu tố con người, xã hội, vật chất, công nghệ và văn bản (Latour 1994, Callon và Law 1995). Quan điểm này cố gắng xóa bỏ sự phân biệt thông thường giữa “sự vật” và “con người” bằng cách lập luận rằng “hành động có mục đích và tính ý hướng không phải là các thuộc tính của vật thể nhưng cũng không phải là các thuộc tính của các tác nhân con người. Thay vào đó, chúng là các thuộc tính của các thể chế, của các tập thể” (Verschoor 1997: 27). Nghĩa là, chúng là những hiệu ứng mới nổi được tạo ra bởi sự tương tác của nhiều thành phần con người và phi con người, chứ không phải bởi một nhóm cá nhân quyết định cùng nhau thực hiện một nỗ lực chung (Long 2001: 57).

Cách tiếp cận này tập trung vào việc xây dựng các mô tả về “cách mà các actants kẻ hành động [con người và phi con người] mà họ xác định chức năng là signifiers những cái biểu đạt trong một lĩnh vực diễn ngôn” (Golinski 1998:  40). Do đó, trọng tâm trong lý thuyết mạng-tác nhân nằm ở các chiều kích ký hiệu học hơn là nghiên cứu cận cảnh về thực tiễn xã hội được đặt định, hay những gì Golinski mô tả là “các sự kiện của sự tham gia thực tiễn vào thế giới vật chất”. Như David Mosse (2005: 34-35) chỉ ra, các quá trình trung tâm của “phiên dịch” và “ghi nhận” ANT có thể được áp dụng hữu ích vào “mối quan hệ tinh tế giữa việc xây dựng khuôn khổ các vấn đề và quá trình ghi nhận xã hội trong việc thiết kế [và, người ta có thể nói thêm, việc thực hiện] một dự án phát triển”. Việc xây dựng khuôn khổ cho phép các tác nhân chủ chốt (tức là “có thẩm quyền”) thu hút sự quan tâm của các nhóm cử tri lớn hơn, những người cung cấp nhiều ý tưởng và cốt truyện khác nhau nhằm hợp pháp hóa nỗ lực “tập thể”. Thiết kế dự án là một nỗ lực giành được sự ủng hộ chính trị và bao gồm việc chuyển đổi một loạt các quan điểm và lợi ích khác nhau thành một tổng thể (rõ ràng) mạch lạc hoặc một vật chứa nhiều khái niệm và văn bản. Để đạt được điều này, cần có một mức độ mơ hồ và thiếu chính xác, nếu không “Dự án” sẽ không bền vững. Vì vậy, Latour (1996) lập luận rằng điều quan trọng là phải biến “Dự án như một thế giới ký hiệu thành một thế giới vật thể”. Còn Mosse (2005: 35) thì cho rằng, “một thiết kế Dự án trở nên phức tạp và chứa đựng những quan điểm không thể dung hòa; nhưng để thuyết phục nó đòi hỏi sự thống nhất, mạch lạc và đơn giản” (hay những gì Latour gọi là “hộp đen”). Điều này đạt được theo nhiều cách khác nhau: thông qua việc định vị lại quan điểm của một ai đó sao cho các giá trị và lợi ích của người đó tương thích hơn với các tác nhân khác, khuất phục trước áp lực hoặc sự thao túng chiến lược, và/hoặc cho phép bản thân bị quyến rũ bởi các phần thưởng đủ loại (hiệu ứng cà rốt). Do đó, ngoài các phương tiện biểu tượng khác nhau (được nhấn mạnh trong cả Lý thuyết Hoạt động và ANT) liên quan đến những cái biểu đạt vật chất, kỹ thuật và văn hóa cụ thể, tất nhiên, cũng cần phải thừa nhận vai trò quan trọng của các loại “kẻ môi giới” và “kẻ gác cổng” khác nhau, là những kẻ chiếm giữ các nút quan trọng trong một mạng hoặc lĩnh vực hoạt động cụ thể.

Những yếu tố sau hoạt động trong không gian (thường là “phi chính thức”) giữa các tổ chức và nhóm lợi ích khác nhau trong các lĩnh vực can thiệp phát triển cụ thể. Tôi xin kết thúc phần tổng quan ngắn gọn về ANT này bằng cách thảo luận về vấn đề mà Latour gọi là “tính đối xứng” của các thành phần con người và phi-người. Quan điểm này xuất phát về mặt phương pháp luận từ nhu cầu chỉ ra cách thức mà công nghệ, diễn ngôn (bằng lời nói và không phải lời nói) và các văn bản khác, nguồn lực vật chất, các yếu tố biểu tượng, chính sách của chính phủ, cũng như các dạng sống của con người và phi-người tham gia vào bối cảnh phát triển. Nhưng những yếu tố phi-người khác nhau này liên quan đến con người như thế nào? Liệu chúng ta có thể gán cho phi-người một mức độ tác tố ngang bằng với con người hay không? Liệu cách tiếp cận này có thúc đẩy sự hiểu biết của chúng ta về các mạng không đồng nhất và các hình thức hành động xã hội tập thể hay không? Và nếu chúng ta quá tin tưởng vào ý tưởng cho rằng các tập thể bằng cách nào đó là những tác nhân tự thân, thì tại sao chúng ta lại cần phân biệt giữa các tác nhân “cá thể” và “tập thể”? Thực ra, làm thế nào để phân biệt giữa tập thể và hành động tập thể? Chắc chắn chúng ta nên chú ý chi tiết hơn đến các “liên minh” của các tác nhân và cách chúng được hình thành và củng cố?

Một vấn đề nan giải khác là tại sao chúng ta lại bị quyến rũ bởi ngôn ngữ của Latour và cộng sự? Thực tế, việc sử dụng từ “ngôn ngữ” trong khía cạnh này rất phù hợp, bởi vì phương pháp nghiên cứu do các nhà lý thuyết ANT phát triển dường như nhấn mạnh vào các chiều góc ký hiệu học mà bỏ qua việc nghiên cứu cận cảnh các thực hành xã hội xác định. Thật vậy, thay vì đặt những phát hiện của mình vào nghiên cứu dân tộc học chuyên sâu và do đó nhấn mạnh vào tính thực dụng của cuộc sống hàng ngày và các quá trình can thiệp, chúng ta lại thấy hứng thú với việc kể chuyện dựa trên những câu chuyện chủ chốt được thiết kế để bộc lộ các quá trình phiên dịch, tiếp nhận và hình thành các tập thể. Hơn nữa, điều này thường được thực hiện từ góc nhìn của những người phiên dịch anh hùng (hoặc những tác nhân có thẩm quyền hoặc thống trị - bao gồm cả chính các nhà nghiên cứu), thay vì nhìn nhận theo khuôn khổ động lực học xung đột và dung hòa giữa tính đa dạng của các tác nhân và các khuôn khổ khác biệt về ý nghĩa và giá trị đi kèm. Thực ra, việc đóng kín hộp đen [Trong nghiên cứu, quá trình xã hội của việc tạo hộp đen dựa trên khái niệm trừu tượng về một hộp đen; trích dẫn Bruno Latour, hộp đen là “cách thức mà công trình khoa học và kỹ thuật trở nên vô hình bởi chính thành công của nó; khi một cỗ máy hoạt động hiệu quả, khi một vấn đề thực tế được giải quyết, người ta chỉ cần tập trung vào đầu vào và đầu ra của nó chứ không phải vào sự phức tạp bên trong của nó; do đó, nghịch lý thay, khoa học và công nghệ càng thành công thì chúng càng trở nên mờ mịt và khó hiểu”.HHN] về các tập thể không giúp ích gì. Điều hữu ích là việc mở chúng ra để khám phá thêm nhiều mối quan hệ xã hội, mạng lưới và nhiều diễn ngôn phức tạp và vướng víu liên quan.

Tiếp cận-Định hướng-Tác nhân đối với Can thiệp Phát triển

Tiếp cận-Định hướng-Tác nhân bắt đầu với ý tưởng đơn giản rằng các hình thái xã hội khác nhau phát triển trong cùng một hoàn cảnh cấu trúc hoặc tương tự. Những khác biệt như vậy phản ánh các biến thể trong cách thức mà các tác nhân cố gắng nắm bắt, về mặt nhận thức và tổ chức, khác với các tình huống mà họ phải đối mặt. Do đó, việc hiểu các mô hình hành vi xã hội khác biệt phải dựa trên “chủ thể biết, chủ động” (Knorr-Cetina 1981: 4), chứ không chỉ đơn thuần được xem là do tác động khác biệt của các lực lượng xã hội rộng lớn [chẳng hạn như thay đổi sinh thái, áp lực nhân khẩu học hoặc hội nhập vào chủ nghĩa tư bản thế giới]. Do đó, nhiệm vụ chính của phân tích là xác định và mô tả các chiến lược và lý lẽ khác nhau của các tác nhân, các điều kiện mà chúng/họ phát sinh, cách chúng/họ liên kết với nhau, khả năng tồn tại hoặc hiệu quả của chúng/họ trong việc giải quyết các vấn đề cụ thể và các hệ quả xã hội rộng hơn của chúng/họ.

Tác tố agency đề cập đến tri thức, năng lực và sự gắn kết xã hội liên quan đến các hành động [và suy ngẫm] tác động hoặc định hình hành động và cách diễn giải của chính mình và của kẻ khác. Tác tố thường được công nhận ex post facto sau khi sự việc đã xảy ra thông qua các tác động được thừa nhận hoặc giả định của nó. Các cá nhân hoặc mạng cá nhân đều có tác tố. Ngoài ra, họ có thể gán tác tố cho nhiều đối tượng và ý tưởng khác nhau, đến lượt nó, có thể định hình nhận thức của các tác nhân về những gì khả thể. Do đó, tác tố bao gồm một hỗn hợp phức tạp các yếu tố xã hội, văn hóa và vật chất. Tác tố chiến lược biểu thị sự tham gia của nhiều tác nhân vào “dự án” của một hoặc nhiều cá nhân khác. Tác nhân xã hội là tất cả những thực thể xã hội có thể được coi là có tác tố ở chỗ họ sở hữu khả tính tri thức và năng lực để đánh giá các tình huống có vấn đề và tổ chức các phản ứng “thích hợp”. Các tác nhân xã hội xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: cá nhân đơn lẻ, nhóm không chính thức hoặc các mạng liên nhân, các tổ chức, các nhóm tập thể và những gì đôi khi được gọi là tác nhân “vĩ mô” [chính phủ, giáo hội, tổ chức quốc tế, vv...]. Nhưng phải luôn cẩn thận để tránh sự vật hóa; nghĩa là, không nên cho rằng các tổ chức hoặc tập thể như các phong trào xã hội hành động đồng thời hoặc đồng thanh. Trên thực tế, các nỗ lực “tập thể” và “tổ chức” được mô tả tốt hơn dưới dạng “liên minh các tác nhân”, “các dự án tác nhân đan xen” và “tương tác diễn ngôn”.

Để thúc đẩy một phân tích như vậy, cần phải tạo ra một số khái niệm có liên quan – một số được mượn từ các tác giả khác và được đúc kết lại theo các câu hỏi nghiên cứu “mới” đang phát triển (ví dụ: “lĩnh vực”, “phạm vi”, “đấu trường” và “mạng lưới” xã hội), một số khác để đáp ứng các phát hiện nghiên cứu cụ thể (ví dụ: “liên minh hộ gia đình”, “nhiều doanh nghiệp”, “các dự án tác nhân đan xen” và “kho tri thức”), và một số khác nữa phát sinh từ quá trình tái tư duy hoặc “giải huyền thoại hóa” các khái niệm và ẩn dụ xã hội học hiện có (ví dụ: “can thiệp có kế hoạch” như một quá trình được xây dựng và thương lượng về mặt xã hội, “hàng hóa hóa” được định hình lại dưới dạng các cuộc tranh giành giá trị xã hội và các “giao diện” được nhìn nhận trong khuôn khổ “tính gián đoạn” hơn là liên kết3). Chúng tôi cho rằng giá trị của một vốn từ vựng định-hướng-tác-nhân nằm ở chỗ nó mở ra những viễn cảnh hữu ích cho nghiên cứu và tư duy lý thuyết trong tương lai. Nó cũng nhằm mục đích thách thức các nhà thực hành cũng như các bên liên quan và các tác nhân khác tham gia vào các đấu trường phát triển, để họ có thể nắm bắt tốt hơn những phức tạp đang diễn ra, các “chiến trường tri thức” và các cơ hội đàm phán trong không gian chính trị xã hội. Chúng tôi tin rằng việc tìm ra một cách thảo luận mới về các lợi ích xung đột và những tình huống khó xử chung là một bước quan trọng hướng tới việc thúc đẩy các phương thức phát triển và phân bổ nguồn lực công bằng hơn.4  

Người ta cũng đưa ra một chương trình nghị sự mở để khám phá những cách khái niệm hóa mới “cấu trúc” như là “các dấu mốc ranh giới trở thành mục tiêu cho đàm phán, xem xét lại, hủy bỏ và/hoặc thay đổi” (Long 2001: 63)5 . Do đó, nó bác bỏ các khuôn khổ hoàn toàn dựa trên các giả định tiên nghiệm và “động lực” hoặc giải thích. Việc tái khái niệm hóa cấu trúc xã hội này dường như là một trong những yếu tố chung của các định hướng “hậu cấu trúc”, nhưng không phải của cái gọi là phân tích “hậu phát triển”. “Đời sống xã hội của phát triển” [và không chỉ là các quá trình phát triển hoặc can thiệp] rất đa dạng và đầy rẫy “vô số thực tế”. Điều này đòi hỏi chúng ta phải vượt ra ngoài ngữ nghĩa của các hiểu biết về phát triển theo định hướng cấu trúc hoặc được chính sách xác định để bao hàm một loạt các phương thức hành động của con người tập trung vào các xung đột và đàm phán về ý nghĩa và các nguồn lực (Arce 2003a, 2003b và Arce & Fisher 2003). Điều này hướng chú ý vào tầm quan trọng của việc xác định các chiến lược tự tổ chức của các tác nhân [so sánh với khái niệm “các lĩnh vực bán-tự trị” của Sally Moore 1973] phần lớn độc lập với các kế hoạch hoặc chương trình phát triển được hình thành từ bên ngoài; mặc dù tất nhiên các chiến lược đó có thể được hưởng lợi trực tiếp hoặc gián tiếp từ sự hiện diện của nhân viên dự án hoặc quan chức chính phủ và các nguồn lực mà họ mang lại. Đồng thời, các nhân viên hoặc quan chức đó có khả năng phát triển không gian hoạt động riêng và xây dựng mạng lưới hỗ trợ và trao đổi của riêng mình.

Tuy nhiên, vẫn còn một sự phân biệt quan trọng giữa các hành động xã hội xuất phát từ các quá trình tự tổ chức tương đối tự chủ và các hành động được chính phủ hoặc một số cơ quan có thẩm quyền khác “ủy quyền”. Nói một cách đơn giản, các hành động xã hội tập trung vào năng lực của các tác nhân /nhóm trong việc xác định mục tiêu và chiến thuật riêng của họ đối với các tác nhân và lợi ích khác, với mục đích áp đặt, bất cứ khi nào có thể, các yêu cầu hoặc quyền hạn của riêng họ. Ngược lại, các hành động của chính phủ hoặc cơ quan có thẩm quyền lại tập trung vào cách thức thuyết phục hoặc kêu gọi người khác chấp nhận hoặc hỗ trợ tích cực hơn cho những nỗ lực của nhân viên dự án hoặc các cơ quan nhằm thực hiện các mục tiêu chính sách do bên ngoài xây dựng. Rõ ràng, các quá trình phát triển nhất thiết đòi hỏi sự kết hợp phức tạp của cả hai loại hành động trên. Thật vậy, có những lập luận mạnh mẽ cho việc đưa vào các nghiên cứu đánh giá dự án không chỉ các quá trình thực thi chính sách do chính phủ hoặc các cơ quan bên ngoài khởi xướng, mà còn cả các mục tiêu và dự án “chính sách” ít chính thức hơn do các nhóm và tổ chức địa phương xây dựng và thực hiện. Hơn nữa, điều tối quan trọng là phải khám phá không chỉ tác động của các can thiệp được lên kế hoạch đối với “các nhóm mục tiêu” và cái gọi là các “bên liên quan” khác mà còn cả các chiến lược và hành động của nhóm mà người ta có thể gọi là các tác nhân “hậu phương”. Đó là những nhóm dường như là “bọn ngoài cuộc” hoặc bọn vẫn ở bên lề của quá trình can thiệp chính thức. Một vấn đề liên quan là cần phải thừa nhận rằng phần lớn những gì xảy ra trong bối cảnh các chương trình phát triển, và đặc biệt là đối với các dự án phát triển cụ thể tại địa phương, đòi hỏi phải hiểu được tầm quan trọng và tác động của một loạt ký ức cá nhân và tập thể về các kịch bản phát triển trước đây. Những ký ức này thường gợi nhớ lại các ví dụ về mối quan hệ nhà nước-xã hội dân sự trước đây, các sáng kiến địa phương và các cuộc đấu tranh liên-thể chế, và qua đó định hình sự hiểu biết và phản ứng của các tác nhân. Những chiều hướng này nhấn mạnh “giá trị gia tăng” của nghiên cứu dân tộc học chi tiết so với các nghiên cứu đánh giá dự án (so sánh Crewe & Harrison 1998 và Mosse 2005). Một lợi thế lớn của phân tích định-hướng-tác-nhân là nó nhằm mục đích khám phá hàng loạt năng lực của tác nhân trong việc định hình thế giới xã hội và vật chất, đặc biệt chú trọng đến các loại xung đột và đàm phán liên quan đến các hình thức giao diện xã hội và sự xuất hiện của các thực hành làm thay đổi sinh kế và bản sắc hiện có, vốn không dễ dàng đồng hóa vào các thói quen hiện tồn hàng ngày. Những mối quan hệ và giao diện xã hội như vậy làm phong phú thêm trải nghiệm sống của các tác nhân thông qua cách chúng/họ tác động đến sự gắn bó và cảm xúc cá nhân6 không thể đơn giản, như Olivier de Sardan (2005) đã lập luận gần đây, được quy giản thành tình trạng “vướng víu của logic xã hội”.7

_________________________________________

Nguồn: Norman Long (2015). Activities, Actants and Actors: Theoretical Perspectives on Development Practice and Practitioners. Research in Rural Sociology and Development, March 2015, N0 22, pp. 31-58.

Notes

1 Ở đây tôi thể hiện Lý thuyết Hoạt động như hiện trạng. Công thức đầu tiên của Vigotsky trong những năm 1920 và 1930 là một mô hình hành động định-hướng-đối-tượng và được tác-vật-trung-gian-hóa (Vigotsky 1978). Sau đó, Leontiev, một học trò của Vigotsky, đã nhấn mạnh bản chất trung gian-xã hội của hoạt động và do đó lập luận rằng ý thức và ý nghĩa luôn được hình thành trong hoạt động chung, mang tính tập thể (Leont’ev 1981).

2 Chuyển thể từ Thierry Bardini, trang web tổng hợp các tuyên bố tóm tắt được đưa ra bởi nhiều nhà nghiên cứu về chủ đề “Lý thuyết-Mạng-Tác nhân là gì?”

3 Việc nhấn mạnh vào mối liên kết và các tập hợp hoạt động được liên kết với nhau thường là đặc trưng của các mô hình hệ thống, ngay cả những mô hình thúc đẩy phân tích hệ thống “mềm”. Xem ví dụ, Checkland (1981), Röling (1988) và Engel (1990: 29-30). Ngược lại, cuốn Encounters at the Interface (Những cuộc gặp gỡ tại Giao diện) của Long (1989) nhấn mạnh sự cần thiết phải vượt ra ngoài các vấn đề về hội nhập và phối hợp để khám phá tầm quan trọng của sự gián đoạn trong các mối quan hệ xã hội và quy trình tri thức.

4 Nghiên cứu gần đây về “Quy trình Chính sách và Tri thức về Nghèo đói” do DFID tài trợ đã xem xét kỹ lưỡng các vấn đề quản trị và sự phức tạp của các chính sách giảm nghèo cả trong và ngoài các thể chế chính phủ ở Uganda và Nigeria. Khung phân tích, chủ yếu dựa trên quan điểm hướng đến viễn cảnh định-hướng-tác-nhân, khám phá mối liên hệ giữa các tác nhân, quy trình tri thức và việc tạo ra các không gian chính trị xã hội. Nó giải quyết một số khía cạnh quan trọng liên quan đến quyền công dân, công bằng, trách nhiệm giải trình của thể chế và sự tham gia (Brock, McGee và Gaventa 2004).

5 Xem Schatzki, Knorr Cetina và Von Savigny (2001) để biết cuộc thảo luận giữa các nhà triết học, nhà xã hội học và học giả khoa học về vai trò trung tâm của các hoạt động của con người trong việc tái khái niệm hóa các khái niệm “cấu trúc” và “trật tự”. Một tiền thân quan trọng của mối quan tâm này đối với thực hành xã hội hàng ngày là công trình của de Certeau (1984).

6 Unni Wikan (1990) đã đưa ra một minh chứng thuyết phục về tầm quan trọng xã hội học của các thành phần cá nhân và cảm xúc trong đời sống xã hội trong nghiên cứu dân tộc học Bali của bà. Bà vạch trần những quy ước và hình thức của các màn trình diễn văn hóa công cộng và nghi lễ (mối bận tâm chính của nhiều công trình nhân học ở Bali) để hé lộ cách các cá nhân và gia đình đối phó với khủng hoảng, khó khăn và đau khổ trong cuộc sống hàng ngày.

7 Ý tưởng về “logic xã hội” mang theo khái niệm về một dòng lập luận rõ ràng hoặc một tập hợp các nguyên tắc chuẩn mực giải thích các thực hành nội tại tạo nên một nhóm xã hội cụ thể so với các nhóm khác. Do đó, nó bị vấy bẩn bởi một mức độ “chủ nghĩa bản chất”, coi nhẹ các yếu tố ngẫu nhiên, mơ hồ, không đồng nhất và mang tính khám phá của hành động xã hội, đặc biệt là khi đối mặt với những bất định của sự phát triển xã hội. Do đó, từ viễn cảnh định-hướng-tác-nhân, nó tạo ra một hình ảnh sai lệch.

8 Theo quan điểm của Gluckman, việc hiểu các sự kiện ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của con người, chẳng hạn như ảnh hưởng của lượng mưa, loại đất, sách vở và sự khác biệt ngôn ngữ, có nghĩa là các nhà khoa học xã hội không nên phân biệt giữa các lĩnh vực thực hành độc quyền liên quan đến khoa học xã hội hoặc khoa học sự sống. Ông cho rằng “bất kỳ sự kiện nào ảnh hưởng đến các cách thức mà con người chung sống với nhau đều có thể là một phần của lĩnh vực mà một nhà nhân học nghiên cứu” (Gluckman 1964: 159). Mặc dù Gluckman nhấn mạnh vào tác động của các sự kiện ngẫu nhiên lên cá nhân và cách thức các sự kiện này phản ứng và tạo ra ý nghĩa cho những tình huống này, cuối cùng ông lại viện đến một lý thuyết cân bằng cấu trúc-chức năng về biến đổi xã hội, vốn không hoặc ít có không gian cho sự đổi mới cá nhân và không gian cho sự vận động (xem Gluckman 1968). Cần chú ý thêm là Bourdieu nhận ra ảnh hưởng của Trường phái Manchester đối với tư duy của chính mình khi ông lần đầu tiên xây dựng khái niệm “habitus-thói quen” (Bourdieu 1977).