Vai trò của văn hóa dân gian với
Hình thức luận Nga
và Cấu trúc luận Czech (I)
Merrill,
Jessica Evans
Người dịch: Hà Hữu Nga
Người dịch: Hà Hữu Nga
Giới thiệu
Trào lưu
trí
thức mang tên hình thức luận Nga được coi
là đã đặt nền móng cho lý thuyết văn học hiện đại thế kỷ XX. Các nhà
hình thức luận này đã thành lập một bộ
quy tắc lý thuyết và phương pháp tiếp cận nhằm mục đích xác định
văn học là một lĩnh vực nghiên
cứu độc lập. [1] Họ đã tìm cách sáng tạo ra một khoa
học về văn học bằng cách tiếp cận đề tài như là một lĩnh vực sản xuất ngôn ngữ đặc biệt tìm kiếm các tương đồng, các
mô thức, và các
quy luật phát triển. Theo tinh thần phát triển phương
pháp luận của ngôn ngữ học và xã hội học, các nhà hình thức luận đã
cố gắng xử lý văn học như một sự kiện xã hội theo cách tiếp cận ngôn ngữ của Ferdinand de
Saussure, hoặc tiếp cận ý thức tập thể của Émile Durkheim. Trước hết và trên hết,
điều đó có nghĩa là từ bỏ cách nhận thức văn bản văn học như là một biểu hiện của thiên tài hay tâm lý học của một cá nhân và thay vào đó bằng một quan niệm về văn học như là một hiện tượng duy nhất được xác định bởi các nguyên tắc chung có thể phát hiện ra.
Trong
các công trình lý thuyết, các
nhà hình thức luận đã khớp nối một loạt các định đề có ảnh
hưởng lớn mà tôi lấy làm điểm xuất phát cho nghiên cứu của
mình. Một
luận điểm có tầm quan trọng trung tâm của Viktor Shklovsky cho
rằng để nghiên cứu nghệ thuật, người ta phải tập trung
vào "các cơ
cấu" [приемы] của nó, chứ không phải là mối quan hệ giữa đối tượng nghệ thuật và chỉ thị đời thực của nó. Trong các phân tích của họ về những gì làm cho văn xuôi hư cấu khác
với các phương
thức viết khác, Shklovsky và các nhà hình thức luận
đã khớp nối sự khác biệt giữa "chủ đề" [сюжет] và một chuỗi sự kiện phi nghệ thuật [фабула]. Roman Jakobson cho rằng "ngôn ngữ thơ" khác
với "ngôn ngữ thực tế" bởi một thực tế là nó
gọi sự chú ý của người đọc tới chính cái cấu trúc của cách nói bằng thơ.
Ông và các
nhà hình thức luận khác cũng đề xuất một số lý thuyết có ảnh hưởng về những nguyên tắc làm nền tảng cho lịch sử văn học. Trong suốt những năm 1920, việc tập trung vào các thuộc tính hình thức của văn bản
văn học đã nhường chỗ cho một cái nhìn về các tác phẩm văn học và
các lĩnh vực văn học như là một hệ thống tổ chức-nội tại. Chiều
hướng này đã được tiếp nhận như một nguyên lý cơ bản của cấu trúc luận Czech, một trào
lưu đã được kế tục bởi chủ nghĩa hình thức
Nga vào cuối
những năm 1920. Các nhà cấu trúc luận Czech đã áp dụng mô hình hệ thống này không chỉ vào các tác phẩm văn học,
mà còn
vào các môi trường nghệ thuật khác như sân khấu và điện
ảnh. Nó đã trở
thành nền tảng cho việc nghiên cứu ký hiệu học của thế kỷ XX
bằng cách áp dụng khái niệm ký hiệu ngôn ngữ vào lĩnh vực văn hóa.
Sự hưng
thịnh của hình thức luận cũng như bước tiếp tục phát triển các tiền đề của nó ở Prague đã trở thành đối tượng của nhiều công
trình học thuật xuất sắc. Các chuyên khảo
cơ bản về trào lưu
này đã xuất hiện từ năm 1955 đến năm 1989. [2] Trong những
thập kỷ tiếp theo các
công trình nghiên cứu về các trào lưu hình thức luận
và
cấu trúc luận Czech đã ngày càng chuyển theo hướng lịch sử vấn đề. Một số cuốn sách và bài báo đã xem xét vai trò chính trị,
lịch sử trí thức và tiểu sử trong quá trình phát triển của từng
công trình của các nhà hình thức luận và cấu
trúc luận. [3] Tiếp tục hướng tiếp cận này, luận văn của tôi tìm cách giải thích sự xuất hiện của các khái niệm chủ
chốt về lý thuyết văn học của hình thức
luận và
cấu trúc luận Czech, được mô tả ở trên, với tư cách là các sản phẩm của các thể chế học thuật và các truyền thống trí thức
cụ thể.
Người
ta thường cho rằng hình thức luận Nga và cấu trúc luận
Czech có liên quan chặt chẽ với ba trường phái học thuật. Hai
trường phái đầu là các trường phái hình thức luận, đã được hình thành ở St. Petersburg và Moscow vào đêm trước của các cuộc cách mạng năm 1917. Nguồn gốc của hai trường phái được nghiên cứu kỹ lưỡng hơn, đó
là Hội Nghiên cứu Ngôn ngữ thơ [Общество изучения поэтического языка] (OPOIaZ), được
biết
là hình thành trong một cuộc họp mặt giữa Victor
Shklovsky và các
nhà ngữ văn học L.P Jakubinsky và E.D Polivanov vào
năm 1914. [4] Năm 1915 nhóm này đã bắt
đầu hội
họp tại căn hộ của Osip và Lili Brik, nó còn là nơi gặp gỡ của
các Nghệ sỹ Tiền phong. [5] Trường phái thứ hai, Hội
Ngôn ngữ học Moscow [Московский
лингвистический кружок] (MLC), bắt đầu với tư cách
là một nhóm nghiên cứu thuộc Ban nghiên
cứu Phương ngữ [Московская
диалектологическая комиссия] tại Đại học Moscow vào
tháng Ba năm 1915. Nhà lãnh đạo của nhóm này là Roman Jakobson. Thành viên cốt lõi của nó trong những năm 1915-1919 đã được hình thành bởi các
nhà nghiên cứu phương ngữ và văn hóa dân gian. [6] Các liên lạc cá nhân giữa các thành viên của hai nhóm đã dẫn tới sự hợp tác
trong những năm sau cách mạng. Năm 1919, nhiều học giả OPOIaZ gia nhập MLC và người ta đã soạn thảo các
kế hoạch cho một ấn phẩm chung của OPOIaZ-MLC. [7]
Các công trình
của cá nhân các nhà hình thức luận phản ánh thực tế là trào lưu này đã được thúc đẩy bởi những cuộc luận chiến tập thể. Các
thuật ngữ được sáng tạo bởi một học giả sớm xuất hiện trong các ấn phẩm của người
khác. Tuy nhiên, như Peter Steiner nhấn mạnh, không có nền tảng lí thuyết hình thức luận nguyên khối. Ông kết luận rằng chủ nghĩa hình thức Nga là
"một polemos [Πόλεμος] - một cuộc chiến giữa các quan điểm trái ngược nhau mà không có quan điểm nào có thể trở thành nền tảng tuyệt đối của một ngành khoa học văn học mới" (Steiner 1984: 259). "Khuynh hướng ly tâm" này của hình thức luận trái ngược với lập trường thống nhất
hơn, được Trường phái Ngôn ngữ học Prague
do Roman Jakobson
và Vilém Mathesius thành lập năm 1926,
chấp nhận (Steiner 1984:
260). Cấu trúc luận
Czech, nền tảng của trường phái này, xuất
hiện với một tập chương trình gồm những "Luận đề", và các nội quy của Trường phái làm cho
cấu trúc luận chức năng trở
thành phương pháp nghiên
cứu bắt buộc đối với tất cả các thành viên của Trường
phái. [8] Luận văn của tôi tìm cách đặt những ý tưởng được sản sinh ra trong các
trường phái này vào một bối cảnh của một hệ mẫu rộng lớn hơn để suy nghĩ về ngôn ngữ
và nghệ thuật ngôn từ được các nhà ngữ văn học có ảnh
hưởng của Nga vào cuối thế kỷ XIX trao truyền cho các nhà
hình thức luận.
Việc đặt xuất
phát điểm sáng tạo của các nhà hình thức luận
Nga và cấu trúc luận Czech vào bối cảnh này, tôi tin rằng, sẽ cho phép chúng ta hiểu rõ hơn về quá trình đã
giúp họ sản sinh ra các khái niệm có ảnh hưởng như vậy. Trong
đó, có ảnh hưởng sâu rộng nhất chính là khái niệm tái khái niệm hóa văn học như
là đối tượng
của một phương pháp luận khoa học –
với tư cách là một lĩnh vực
sản xuất văn hóa độc lập được xác định bởi các thuộc tính hình thức nhất
quán và các nguyên tắc tiến hóa thông thường. Động thái này được hiểu một cách đúng đắn là phần lớn do
các nhà hình thức luận sản sinh ra và các
nhà cấu trúc luận ứng dụng các khái niệm ngôn ngữ học vào
việc nghiên cứu
văn học. Hệ mẫu cho lý thuyết văn học mà các nhà hình thức luận
khởi động vào những năm
1910, và được coi là đã bắt đầu tan rã vào đầu những năm 1990, chủ yếu được xây dựng trên cơ sở hệ mẫu ngôn ngữ
học. [9] Như Fredric Jameson đã khẳng định, mô hình khái niệm mà hình thức luận và cấu trúc luận
đề xướng không có gì khác hơn là để "một
lần nữa tái tư duy tất cả mọi thứ bằng các thuật ngữ ngôn ngữ học!" (vii). [10] Luận văn của tôi mong muốn đóng góp vào sự hiểu
biết của chúng ta về cách thức mà bước
ngoặt ngôn ngữ học này trong lý thuyết văn học hiện đại đã diễn
ra thông qua việc phân tích chi tiết về phương
cách mà ba nhà tư tưởng hàng đầu của các
trào lưu hình thức luận và cấu trúc luận
- Victor Shklovsky (1893-1984), Roman Jakobson (1896-1982) và Jan Mukařovský
(1891-1975) – đã biến đổi các khái niệm ngôn ngữ học thành công cụ của lý thuyết văn học qua văn hóa dân gian.
Mỗi học giả này đều đi đầu trong việc sáng
tạo ra một
phương pháp luận cho một tiểu lĩnh vực trong lý thuyết văn học. Shklovsky chuyên về cấu trúc tự sự, Jakobson về ngôn ngữ thơ, còn Mukařovský về ký hiệu học. Mỗi học giả đều đã sử dụng nghiên cứu văn hóa dân gian để thu hẹp khoảng cách giữa ngôn
ngữ học và việc phân tích văn học hay nghệ thuật “cao cấp”. Qua phân tích của mình về xu hướng này, tôi thấy rằng nó đã bị điều
kiện hóa về phương diện lịch sử bởi truyền thống nghiên cứu văn
học Nga đã được các nhà hình thức luận kế thừa với tư cách là các
nhà nghiên cứu. Các chương
tiếp theo sẽ phân tích chi tiết các cách thức mà các học giả đã
sử dụng lý thuyết văn
hóa dân gian để xây dựng lý thuyết văn học hiện đại. Khoa học văn chương Nga ở ngưỡng cửa của thế kỷ XX đã nghiên cứu văn hóa
dân gian truyền khẩu kết hợp với văn học viết cao cấp - theo cùng một phương pháp, và là những hiện tượng được
quan niệm là thuộc về
cùng một phạm trù. Kết quả là,
các nhà nghiên cứu văn học đã quen thuộc với lý thuyết
văn hóa dân gian và sẵn sàng mở rộng các
kết luận dựa
trên nghiên cứu văn hóa dân gian đối
với các lĩnh vực
văn học và nghệ thuật nói chung. Tôi
cho rằng xu hướng này
tạo điều kiện cho sự phát triển của hình thức luận
Nga và cấu trúc
luận Czech bằng cách cho phép các nhà lý thuyết hàng đầu hình dung nghệ thuật cao cấp như một đối tượng nghiên
cứu "khoa
học" tuân thủ quy luật tương tự như ngôn ngữ, nghĩa là,
nghệ thuật cao cấp cũng vận hành hệt như cách
hiểu về cách vận hành của văn hóa dân gian vậy.
Văn hóa dân gian cũng
luôn sẵn sàng được sử dụng làm chiếc cầu nối giữa lý thuyết ngôn ngữ học và
nghiên cứu văn học bởi vì các thuộc
tính nội tại
của nó với tư cách
là một hình
thức sáng tạo truyền khẩu. Tính
phục tùng của văn hóa
dân gian đối với phân tích ngôn ngữ được minh họa một cách phong phú bằng một cái nhìn tóm
lược về lịch sử của
bộ môn văn hóa dân gian. Thực
ra, trong thế kỷ
XIX và hầu hết thế kỷ XX, rất khó tách bạch lịch sử của hai lĩnh vực này. Các nghiên cứu hiện đại của
hai ngành này về cơ bản đã được biến đổi nhờ nền học thuật của chủ
nghĩa lãng mạn Đức
vào giữa thế kỷ XIX. Dựa trên các công
trình của Johann
Gottfried Herder (1744-1803) về thơ ca và ngôn ngữ dân gian, các nhà ngôn ngữ học Đức chính là các nhà sưu tầm và học giả nghiên cứu văn học dân gian
– mà công trình
của Jacob Grimm
(1785-1863) đã trở thành hình
ảnh thu nhỏ của mối bận tâm kép này. Ở Nga, xu hướng này được minh họa bằng các công trình của nhà ngữ văn lãng mạn F.I. Buslaev (1818-1898), nhà từ điển học và văn học dân gian V.I. Dal
'(1801-1872), và nhà ngôn ngữ học A.A. Potebnia (1835-1891).
Potebnia đã khớp nối chính xác nhận thức lãng mạn về mối quan hệ giữa văn hóa dân gian và
ngôn ngữ trong công trình "Thi
ca truyền khẩu và viết " của mình, bằng cách cho rằng "язык, вероятно, навсегда
останется первообразом и подобием такого гуртового характера
народно-поэтического творчества "( Потебня А.А. 1905, 144) ("ngôn ngữ có lẽ mãi mãi vẫn là nguyên mẫu và tương tự cho đặc tính bầy đàn của sự sáng tạo thi ca đại chúng"). Tính
tương tự ấy giữa văn hóa dân gian và ngôn ngữ được biểu lộ rõ ràng trong những đặc trưng
được quy cho văn hóa dân gian trong thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. (1) Văn hóa dân gian, giống như ngôn ngữ, là một
sản phẩm của sự sáng tạo tập thể. Văn hóa dân gian được lưu giữ trong ý thức tập thể và được truyền miệng từ người này sang người khác và từ thế hệ
này sang thế hệ khác bằng chính cách
trao truyền của ngôn ngữ vậy. (2) Kết quả là, văn hóa dân gian tồn
tại trong trạng thái biến đổi đa dạng; nó không "cố định" trong một
phiên bản của tác giả, mà tồn tại trong trạng thái thay đổi, tiến hóa chậm qua việc sử dụng lặp đi lặp lại. [11] (3) Bước tiến hóa này là bảo thủ, với các diễn viên dân gian thường tránh sự đổi mới triệt để thiên về nội dung và phong cách quy phạm
được chấp nhận theo thông lệ. (4) Bằng cách thức tương tự với
việc sản xuất diễn ngôn, bố cục truyền khẩu của một câu chuyện [сказка] được nhận
thức để đưa đến một "quỹ" [склад] chung của tập thể gồm các yếu tố truyền
khẩu (quỹ đoản ngữ, tình huống, nhân vật) tạo điều kiện sản xuất của những
câu chuyện phù hợp với các nguyên tắc bố cục chung. [12]
Áp lực để kể một câu chuyện có thể được
chấp nhận bởi các chuẩn mực dân gian bảo thủ được xem là hạn chế truyền thống
truyền miệng, làm cho nó tuân theo các
mô thức thông thuộc theo cách thức
là áp lực để sản
xuất diễn ngôn toàn diện đòi hỏi phải gắn liền
với các quy tắc hình thành cú pháp và từ trong
ngôn ngữ nói. [13] (5) Việc nhận thức rằng truyền thống truyền khẩu tạo thành một thể vật liệu được tổ chức đậm
đặc giống như một
ngôn ngữ dẫn đến giả định rằng nó sẽ tiến hóa cùng thời gian theo các quy luật thường xuyên bằng
cách là âm thanh thay đổi tuân theo các
quy luật trong quá
trình tiến hóa của ngôn ngữ. [14 ]
Việc tách sáng tạo dân gian khỏi các sáng
tạo phi dân gian
(dù được xác định là "đô thị", "nghệ
thuật" cao cấp, sáng tạo "cá nhân", hoặc văn học "viết") là một đề xuất phức tạp và rắc rối. Tôi không có
ý cho rằng các nhà hình thức luận Nga đã
lấy các thuộc tính thực sự thuộc về "văn hóa dân gian" và sau đó
áp đặt chúng cho nghệ thuật cao cấp. Thay vào đó, cơ sở lập luận của tôi được xác lập dựa trên một quan niệm chung
về văn hóa dân
gian và văn học mà tự thân các nhà hình thức
luận Nga đều ngầm ẩn hay công
khai gắn bó. Đó là quan điểm coi văn hóa dân gian và nghệ thuật cao cấp
như các hình
thức của sự sáng tạo tồn tại ở
cả hai đầu của một
sự liên tục. Các thuật
ngữ được chấp nhận rộng rãi đã được sử dụng để mô tả hai điểm đầu nút này là "phi cá nhân" [безличный], trái ngược với sự sáng tạo "cá nhân" [личный]. Người
ta cũng cho rằng cái phi cá nhân nói chung là "truyền khẩu" trong khi cái
cá nhân thì "được viết ra." Hiện tượng ngôn ngữ "hàng ngày"
được giả định nằm ở mãi phía cực phi cá nhân của phổ này. Trong lĩnh vực nghệ thuật truyền
khẩu thì sáng tạo "phi cá nhân" được xác định bởi sự gắn bó chặt
chẽ với các hình thức và cấu trúc (cliché) đã được biết rõ, trong khi sự sáng tạo "cá nhân" trong những
biểu hiện cực đoan nhất của nó lại được hiểu là cố gắng để thể hiện một cảm giác độc đáo bằng sự bứt phá với những ước
vọng quy phạm, hoặc đưa ra các công trình sáng tạo.
Tính liên tục tạo
hình quan niệm về văn học (truyền khẩu và cao
cấp) mà các nhà hình thức luận vận
hành, còn có thể được áp dụng cho các thể loại văn học khác nhau. Các tiểu thể loại truyền khẩu
như tục ngữ,
câu đố, và truyện dân gian bị hút về phía đầu nút "phi cá nhân" của phổ. Tiểu thuyết (kể cả truyền khẩu hoặc văn bản viết) đại chúng,
mang tính công thức có thể nói là rơi hướng về phía trung điểm. Văn học viết cao cấp, đặc biệt là loại tìm cách bứt
phá bằng các quy ước đã thành, sẽ được đặt về phía cực "cá nhân" của liên tục
tính này. [15] Quy mô tự nghiệm về các thể loại di chuyển ra khỏi các hiện
tượng của ngôn ngữ "hàng ngày" lại
rất hữu ích cho việc nhận thức về vai trò của văn hóa dân gian trong các tác phẩm hình
thức luận sớm của Shklovsky và Jakobson. Nó làm nổi bật vai trò của văn hóa dân
gian hoặc các thể loại "hạ cấp" có thể đóng vai trò tạo ra một lý thuyết dựa vào việc mở rộng các khái niệm ngôn ngữ học thành văn học viết
(cao cấp). Khi một ý
tưởng ngôn ngữ học được áp dụng vào
các câu chuyện
dân gian, thì nó có thể, từ đó, được mở rộng thành thể loại truyện ngắn, nếu các
truyện ngắn
chọn lọc được diễn giải bằng cách mang chúng
lại gần hơn với
các thuộc tính của văn hóa dân gian mô tả ở trên. Giản đồ này
cũng phản ánh một thực tế là những tương đồng giữa việc nghiên cứu ngôn ngữ hàng ngày (ngôn
ngữ học) và các hình thức nhất định của sự sáng tạo, ví dụ các câu đố hoặc truyện dân gian - có thể tự
thể hiện một
cách tự nhiên hơn các hình thức giữa ngôn ngữ học và văn học viết cao cấp.
Tôi sẽ cố gắng minh họa cho quan sát mới này trên cơ sở một ví dụ nổi tiếng. Việc so sánh các nghiên cứu hình thức luận về cấu trúc tự
sự của Victor Shklovsky và Vladimir Propp (1895-1970) thực sự là bài học mang
tính chỉ dẫn. Như tôi sẽ nói rõ trong Chương Một, các
tác phẩm sớm
nhất của Shklovsky về cấu trúc tự sự đã được lấy cảm hứng từ các công trình
nghiên cứu về chuyện dân gian
truyền khẩu [сказка], và đặc biệt là những gợi ý cho rằng truyện dân gian được bố cục theo cách tương tự với hành vi nói. Trong một bài viết vào năm 1919, Shklovsky phân tích cấu trúc của truyện dân gian, ông cho rằng các câu chuyện được hình thành theo "các quy luật đặc biệt của sự hình thành cốt truyện" (
"особые законы сюжетосложения") chưa được biết đến (1929: 27). Trong
một nghiên cứu được công bố gần một thập kỷ sau đó, "Hình thái học truyện dân gian" [Морфология сказки] (1928), Propp, trích dẫn tiểu luận năm
1919 của Shklovsky, nói rằng hình thái học
của ông cuối
cùng đã "xác định được" các "quy luật" mà Shklovsky đã trực giác (116). Như vậy, Shklovsky đã bắt đầu được thuyết phục về sự tồn tại của các quy luật này bằng cách nghiên cứu lý thuyết văn hóa dân gian cũng như truyện dân gian, và Propp đắc thắng tuyên bố đã khải lộ các quy luật đó trên cơ sở của cùng loại chất liệu đó. Tuy
nhiên, điều mà tôi đặc biệt quan tâm trong câu chuyện này, lại là một tiểu luận về thể loại truyện
trinh thám mà Shklovsky công bố giữa hai sự kiện này,
vào năm 1925, đã tiên đoán minh
nhiên hình thái học của Propp. Phân tích của
Shklovsky đã kết luận bằng một lược đồ chung cho những câu chuyện
của Conan Doyle trong đó bao gồm trình tự thời gian của chín "khoảnh
khắc" quan trọng mà ông đã chọn lọc từ một phân tích về những câu chuyện
Sherlock Homes. Sau đó ông so sánh trình tự này với một phác thảo tương tự trong một câu chuyện của Edgar Allan Poe. Tiểu luận của
Shklovsky rất sâu sắc; ông gợi ý rằng thể loại truyện trinh thám được xác định bởi một
chuỗi các sự kiện chuẩn kết hợp với việc
sử dụng quan
điểm tự sự một cách điển hình. Tuy nhiên, công trình này đã không được chú
ý đúng mức. [16] Ngược lại, "Hình thái học truyện dân gian", một tác phẩm được viết bởi một nhà nghiên cứu văn hóa dân gian,
một người chưa bao giờ thực sự viết về "văn học", và lại không phải là thành viên của các trường phái hình thức luận, đã tiên
báo là một trong những công trình nổi tiếng nhất và có ảnh
hưởng nhất của phép phân tích "hình thức luận". [17] Victor Erlich xác định nó như là một trong
những "nghiên cứu Hình thức
luận" "ít mong manh nhất", và nhiều thập kỷ sau đó, trong ánh sáng của
ảnh hưởng Propp đối với cấu trúc luận Pháp, Jameson đã có thể gọi nó là "một trong những cuộc khảo sát Hình thức luận tráng
lệ nhất" (49; 64). [18]
Tại sao một cuốn sách về những câu
chuyện dân gian lại chứng tỏ
sẽ thành công hơn nhiều trong việc xây dựng
một lý thuyết về cấu trúc tự sự cho lĩnh vực lý thuyết
văn học, khi bước
chuyển đầu tiên theo hướng này đã được thực hiện bởi
Shklovsky, một học giả đặc biệt quan tâm đến việc tạo ra một
lý thuyết văn học? Lý
do chính, theo
tôi, đó là truyện dân gian, hoặc các thể loại truyền
khẩu, đại chúng đều được bẩm sinh trang bị tốt hơn để mang lại các kết quả ấn tượng khi được
tiếp cận thông qua một lý thuyết lấy cảm hứng từ ngôn ngữ
học. Đó là
vì các hình
thức đại chúng của tính sáng tạo truyền khẩu, như tôi đã nêu ở trên, đã được định hình bởi chính các sức
mạnh tương tự đã tạo thành hình nên
ngôn ngữ. Việc
sử dụng rộng rãi và sự lặp lại của thể loại truyền khẩu tạo ra một tập ví dụ đồ sộ tuân thủ
rõ ràng hơn với
các mô thức (chẳng
hạn như việc sử dụng ba tình huống vốn đoản ngữ) so với tập truyện
cao cấp được viết có thể tạo ra. Thực tế
này đã phản ánh rõ
cách tiếp cận của Shklovsky. Tiêu đề
tiểu luận của ông là " "Роман Тайн"
- Những câu truyện bí ẩn; nhưng
để đem đến một lược đồ thuyết phục và đầy đủ chi tiết cho thể loại này, ông tập trung vào một loạt tác phẩm cụ thể của một nhà văn duy nhất (loạt truyện Sherlock Homes của Conan Doyle). Điều
này cung cấp cho ông một tập
diễn ngôn được mô thức hóa đủ đậm
đặc để tạo ra một cái gì đó giống như một hình thái học. Tuy
nhiên, bằng cách giới hạn mình theo cách này, Shklovsky buộc phải
khẳng định
những kết quả khiêm tốn hơn – chứ không phải là khải lộ các quy
luật của thể loại
này, ông đã chứng minh phần lớn cái mô thức làm việc của chỉ
một tác giả. (Ông
đưa Poe vào
để cố gắng mở rộng khẳng định của mình, nhưng ông lại
chỉ đề cập đến một trong những câu chuyện của Poe). Vì
vậy, thật
nghịch lý, một kết luận dựa trên văn hóa dân gian lại có thể được
coi là có sức hấp dẫn lớn hơn đối với một lý thuyết văn học định hướng ngôn ngữ học chỉ dựa vào văn học, so
với một lý thuyết dựa vào văn học, và dường như đó
lại là một phát hiện tổng
quát hơn. [19]
________________________________
Nguồn: Merrill, Jessica Evans 2012. The Role of Folklore Study in the Rise of Russian
Formalist and Czech Structuralist Literary Theory. A dissertation submitted
in partial satisfaction of the requirements for the degree of Doctor of
Philosophy in Slavic Languages and Literatures in the Graduate Division of the University
of California, Berkeley.
Chú
thích
1. Terry Eagleton’s widely-read Literary Theory: An Introduction (University of Minnesota Press, 1983), for example, identifies the publication of Viktor Shklovsky’s essay “Art as Device” (1917) as modern literary theory’s point of departure.
1. Terry Eagleton’s widely-read Literary Theory: An Introduction (University of Minnesota Press, 1983), for example, identifies the publication of Viktor Shklovsky’s essay “Art as Device” (1917) as modern literary theory’s point of departure.
2. These include:
Victor Erlich’s Russian Formalism, History, Doctrine (Mouton, 1955),
Peter Steiner’s Russian Formalism: A Metapoetics (Cornell University
Press, 1984), František Galan’s Historic Structures: The Prague School
Project, 1928-1946 (University of Texas Press, 1985), Jurij Striedter’s Literary
Structure, Evolution, and Value: Russian Formalism and Czech Structuralism
Reconsidered (Harvard University Press, 1989).
3. Monographs that
focus on the intellectual biography of Russian formalists and Czech
structuralists include: Jindřich Toman’s The Magic of a Common Language:
Jakobson, Mathesius, Trubetzkoy, and the Prague Linguistic Circle,
(MIT Press, 1995), and Carol Any’s Boris Eikhenbaum: Voices of a Russian
Formalist (Stanford University Press, 1994). Many articles and archival
sources relating to the formalist movement have been published in the Tynianovskie
sborniki (Riga: 1984- ) Ed. M. Chudakova. Extensive historical
documentation of the formalist movement can be found in the commentary to Iu.
N. Tynianov’s Poetika, istoriia literatury, kino. Ed. V. Kaverin, A.
Miasnikov (Nauka: 1977). Insightful studies have appeared on the subject of the
relationship between the evolution of formalist theory and the political
circumstances in the USSR. See, for example, Aleksandr Galushkin’s
“Neudavshiisia dialog: Iz istorii vzaimootnoshenii formal’noi shkloly i
vlasti,” Shestye Tynianovskie chteniia: Tezisydokladov i materialy dlia
obsuzhdeniia (Riga: 1992), Samuel Eisen’s “Whose Lenin Is It Anyway? Viktor
Shklovsky, Boris Eikhenbaum and the Formalist-Marxist Debate in Soviet
Cultural Politics (A View from the Twenties),” Russian Review, 55
(1996), 65-79, Svetlana Boym’s “Poetics and Politics of Estrangement: Victor
Shklovsky and Hannah Arendt,” Poetics Today 26 (2005), 581-611,
Galin Tihanov’s “Marxism And Formalism Revisited: Notes on the 1927 Leningrad
Dispute,” Literary Research/Recherche littéraire, 19 (2002), 69-78,
Tihanov’s “The Politics of Estrangement: The Case of the Early Shklovsky,” Poetics
Today, 26 (2005), 665-696, Tihanov’s “Why did Modern Literary Theory
Originate in Central and Eastern Europe? (and why is it now dead?),” Common
Knowledge, 10 (2004), 61-81, and Cristina Vatulescu’s “The Politics of
Estrangement: Tracking Shklovsky’s Device through Literary and Policing
Practices,” Poetics Today, 27 (2006), 34-66. Shklovsky’s concept of
“defamiliarization” [ostranenie] and his recantation of his theories in January
1930 have been the subjects of much scholarly debate. See in particular Richard
Sheldon “Viktor Shklovsky and The Device of Ostensible Surrender,” Slavic
Review, 34 (1975), 86-108, Victor Erlich “On Being Fair to Viktor Shklovsky
or the Act of Hedged Surrender,” Slavic Review, 35 (1976), 111-118, and
Aleksandr Galushkin “V. B. Shklovskii. Pamiatnik nauchnoi oshibke (vtoraia
redaktsiia),” Novoe literaturnoe obozrenie, 4 (2000), 154-158.
4. Shklovsky recalls
that he was introduced to Polivanov and Jakubinsky by their teacher, the linguist
Jan Baudouin de Courtenay (Shklovskii 1964: 95). OPOIaZ, unlike the MLC, was
never an officially registered society. Two other well-known OPOIaZ formalists,
Boris Eikhenbaum and Iury Tynianov, joined the group in 1918 and 1919. On the
history of OPOIaZ see A. P. Chudakov’s commentary to Iu. N. Tynianov. Poetika,
istoriia literatury, kino. (Nauka, 1977), 504-505. The commentary points
out that dates given in various sources for the “foundation” of OPOIaZ range
between 1914 and 1917.
5. On the Briks’ salon
see Bengt Jangfeldt’s preface to Love is at the Heart of Everything:
Correspondence between Vladimir Mayakovsky and Lili Brik. (Polygon, 1986).
6. Jakobson lists the
founding members of the MLC as, other than himself: F. N. Afremov, P. G.
Bogatyrev, A. A. Buslaev, S. I. Ragozin, P. P. Sveshnikov, N. F. Jakovlev. For
an overview of the history of the Circle see M. I. Shapir’s publication of R.
O. Jakobson. “Moskovskii lingvisticheskii kruzhok.” Philologica 3
(1996), 361-379.
7. The Briks moved to
Moscow in March of 1919 and the MLC protocols reveal that Osip Brik played a
large role in discussions beginning in April 1919. The protocol from the
meeting of the MLC on September 1, 1919 (where Shklovsky presented his work and
was elected a member) mentions the “affirmation of a plan for a joint
[MLCOPOIaZ] publication” (Barankova: 1999, 365). Shklovsky’s personal archive
contains a table of contents for a Sbornik which would include
contributions from both OPOIaZ and MLK members. Sections were to include: “Материалы
по фольклору, этнографии и диалектологии,” and “Работы по поэтике” under which
are listed the following subheadings “Ритм и эвфоника,” “Поэтика сюжета,”
“Старые ученые в области поэтики” and “Сборник работ по истории поэзии.” Of the
Petersburg scholars the following were to contribute: “O. M. Брик, B. V.
Томашевский, B. M. Эйхенбаум . В. Б. Шкловский, Л. П. Якубинский, Е. Д.
Поливанов,” from Moscow: “Б. И. Ярхо, Б. O. Кушнер, Р. O. Якобсон П. Г.
Богатырев_ÿ__#, A. A. Буслаев, Н. Ф. Яковлев, Г. О. Винокур, В. И. Нейштадт, С.
М. Бoнди, С. И. Бернштейн.” Shklovskii, V. B. RGALI Fond 562, opis’ 1, ed. khr.
378.
8. These were first
published as the “Theses Presented to the First Congress of Slavic Philologists
in Prague, 1929.” On the group dynamics and emphasis of collective work in the
PLC see (Toman 1995: 153-165).
9. Modern literary
theory can be seen as a dimension of the “linguistic turn,” which occurred in
philosophy at the beginning of the twentieth century, and which subsequently
affected, often via structuralist literary theory, an array of academic
disciplines in the 1960-1980s. Gustav Bergmann’s argument that Ludwig
Wittgenstein's Tractatus (1921) initiated “a linguistic turn” in
philosophy is seen as the first articulation of this idea. See Gustav
Bergmann’s “Logical Positivism, Language, and the Reconstruction of
Metaphysics” (1953).
10. Fredric Jameson's
The Prison-House of Language: A Critical Account of Structuralism and
Russian Formalism. (Princeton University Press: 1972) argues against the
viability of a structuralist linguistic model for the study of literature as a
temporal phenomenon.
11. A. A. Potebnia
provides an excellent description of this understanding of folklore: “Слушающий
замечает изапоминает только то, что создано в общем стиле, к усвоению чего он
приготовлен; но этот стиль есть общий и в том смысле, что он не исчерпывается
мыслью отдельного лица. Услышанное другим при повторении почти неизбежно
изменяется не только по форме, но и по содержанию, ибо сам первый певец, при жизненности
народной поэзии, не может повторить песни именно так, как спел первый раз.
Таким образом песня на протяжении своей жизни является не одним
произведением, а рядом вариантов, коего концы могут быть до неузнаваемости
далеки друг от друга, а промежуточные ступени незаметно между собою сливаются.
[… ] Народная поэзия, как язык, по выражению В. Гумбольдта, не произведение (Еrgon),
а деятельность (Energia) (143-144 italics in original). There are many
points of similarity between Potebnia’s description of folklore here and that
articulated in Jakobson and Bogatyrev’s 1929 “Folklore as a Special Form of Creation.”
12. This concept is
discussed in detail in Chapter One in the context of Shklovsky’s references to
P. N. Rybnikov’s description of the “general fund” [obshchii sklad] of poetic
devices that is available to all storytellers.
13. Roman Jakobson
and Petr Bogatyrev describe this pressure as a type of “prophylactic
censorship” in their “Folklore as a Special Form of Creation.”
14. This proposition
was explored in great detail in the functional-structural ethnography of P. G.
Bogatyrev. His best known work in this vein is his Functions of Folk Costume
in Moravian Slovakia (1937).
15. In his article
“Ot A. N. Veselovskogo do nashikh dnei” (1996) N. I. Tolstoi provides an
excellent overview of the relationship between folklore and "high"
literature as understood by Veselovsky and Propp and other Russian folklorists.
He also discusses the place of "popular" literature in a three-stage
scheme between folklore and written literature as proposed by Iu. M. Lotman.
For reasons I discuss in Chapter Two, the experimental poetry of the Russian
avant-garde, which according to the logic of this scheme should fall towards
the far “personal” end of this spectrum, lent itself to interpretation in
relation to “everyday” language as the common denominator for all verbal art.
16. In fact, one of
the only scholarly discussions of this essay treats Shklovsky as a “precursor
of Propp.” See Heda Jason’s “Precursors of Propp: Formalist Theories of
Narrative in Early Russian Ethnopoetics,” PTL: A Journal for Descriptive
Poetics and Theory of Literature 3 (1977), 471-516.
17. Propp’s
classification as a formalist depends on one’s definition of formalism. From a
theoretical perspective his work has been taken as the paradigmatic example of
Russian formalism. If one approaches formalism from a historical perspective,
however, I. Shaitanov is right in pointing out that “Propp could be classified
as a formalist only in a very loose sense” (Shaitanov 2001: 429). Peter Steiner
discusses both Propp’s Morphology along with the folklorist A.
Skaftymov’s The Poetics and Genesis of the Byliny (1924) in detail in
his Russian Formalism: A Metapoetics, 68-98.
18. Galin Tihanov
writes, for instance: “narratology—notwithstanding the differences discernible
in its later versions (those of Claude Lévi-Strauss, Algirdas J. Greimas,
Claude Bremond, Gérard Genette, Eberhard Lämmert, Dorrit Cohn, Mieke Bal)—never
quite severed itself from the legacy of Vladimir Propp” (2004: 64).
19. This appeal rests
on the assumption that folklore is relevant for understanding literature more
generally as an early, or simple instance of a modern, more complex phenomenon.
This view is evident in the tendency to cite folktales as evidence of the
universality of fictional narrative, a move which suggests that the principles
these tales adhere to will thus be those that could be said to provide a basic
foundation for understanding what is common to all fictional narrative.