Chủ
nghĩa phân biệt chủng tộc và chính sách
phát
triển bản địa hiện đại (II)*
Hà
Hữu Nga
4. Bài học
về chính sách Mỹ hoá người bản địa
Chính sách Mỹ hoá trong giai đoạn 1790 – 1920 là một
chiến lược của chính phủ Mỹ nhằm chuyển hoá văn hoá bản địa Mỹ thành văn hoá Mỹ
của người châu Âu [Hoxie, Frederick 1984; Remini, Robert 1969a]. George
Washington và Henry Knox là những người đầu tiên đề xuất chuyển hoá văn hoá của
người Mỹ bản địa [Perdue, Theda 2003]. Họ đã thiết kế chính sách cổ vũ cho quá
trình “văn minh hoá” [Remini, Robert 1969a]. Với là sóng di cư ngày càng tăng
từ châu Âu tới, chính phủ đã tổ chức hỗ trợ giáo dục để kích thích nâng cao các
chuẩn mực giá trị văn hoá và thực tiễn sống cho công dân Mỹ. Giáo dục được coi
là phương pháp hàng đầu trong quá trình đồng hoá văn hoá các nhóm bản địa và
dân tộc thiểu số. Các chính sách Mỹ hoá được xây dựng dựa trên tư tưởng cho
rằng khi người bản địa học theo phong tục tập quán và các giá trị châu Âu thì
họ mới có thể hoà nhập các truyền thống bộ lạc với nền văn hoá Mỹ theo phong
cách châu Âu và mới có thể gia nhập một cách hoà bình vào xã hội đa số. Sau khi
kết thúc các cuộc chiến tranh với người Da đỏ, vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ
20, chính phủ Mỹ đã đặt ra ngoài vòng pháp luật các lễ thức tôn giáo truyền
thống của người bản địa. Cùng với chính sách đó, chính phủ thành lập các trường
học nội trú cho trẻ em bản địa. Trong các trường học này trẻ em buộc phải nói
tiếng Anh, học các môn học mới xa rời với giáo dục bản địa, đi lễ nhà thờ, và
rời bỏ các truyền thống của tổ tiên mình. Đạo luật “Dawes Act 1887” phân chia
đất đai của các bộ lạc cho các cá nhân, được coi là một cách tạo ra những trang
trại riêng rẽ cho các gia đình cư dân bản địa. Việc chính phủ của người da
trắng phân chia đất công nhằm cướp phần đất còn lại của người bản địa và đánh
đổi cho họ quyền được trở thành công dân Mỹ đã làm cho người da đỏ phải từ bỏ
nhiều thể chế truyền thống và quyền tự trị của họ. Kết quả là 6.100 km2
đất của người bản địa đã bị cướp trắng để bán cho các tư nhân. Đạo luật quyền
công dân của người da đỏ năm 1924 cũng là một phần trong chính sách Mỹ hoá đó
[Hoxie, Frederick 1984].
4.1. Quá trình thực dân hoá Bắc Mỹ
giai đoạn 1513-1600
Những
người châu Âu đã tiếp xúc với các xã hội bản địa tại châu Mỹ đã phát hiện ra
nhiều văn hoá khác biệt nhau luôn tranh đấu để hiểu nhau và để thống trị nhau
nữa. Các cuộc và chạm và hiểu lầm thường xuyên dẫn đến kết cục bạo lực. Người
châu Âu tin tưởng vào sứ mệnh khai hoá văn minh và cai trị bằng bạo lực của họ
dưới sự trợ giúp của các loại vũ khí nguy hiểm là súng đạn, và họ cưỡng bức
người bản địa phải làm lụng, phục dịch họ. Juan Ponce de León được coi là người
châu Âu đầu tiên đặt chân lên vùng đất ngày nay đã trở thành bang Florida nước
Mỹ vào năm 1513 [Ponce de Leon, Juan 2005]. Tiếp theo sau là các cuộc thám hiểm
của Alvar Nunnez Cabeza de Vaca (1528), Hernando de Soto (1538-42) và những
người khác nữa tại Florida và các bang miền Nam nước Mỹ ngày nay. Cuộc thám
hiểm của Francisco Vásquez de Coronado (1540-1542), được bắt đầu tại New Spain
(Mexico), và ngược dần lên phía bắc đến tận Kansas. Các cuộc thám hiểm này đã
dẫn đến các va chạm giữa người châu Âu và người bản địa Mỹ và nhiều nhà thám
hiểm đã bị giết chết. Nhưng các cuộc thám hiểm này đã thu được rất nhiều kết
quả lâu dài. Người châu Âu đã đặt chân lên Florida, sau đó họ đưa theo ngựa đến
đây. Người dân bản địa Mỹ cũng học cưỡi ngựa và sử dụng ngựa để vận chuyển hàng
hoá và làm sức kéo. Cuối cùng tác động dễ thấy nhất là người châu Âu đã đem đến
cho người bản địa bệnh đậu mùa và các loại bệnh truyền nhiễm khác trong quá
trình tiếp xúc. Tỷ lệ cư dân bản địa nhiễm bệnh và chết rất cao vì họ không
quen miễn dịch với các loại bệnh này. Nhiều loại bệnh còn lây truyền sang cả
gia súc nữa. Vào thời gian người châu Âu di cư đến nhiều hơn, vào những năm
1600, càng ngày càng có nhiều nhóm cư dân bản địa bị tiêu diệt.
Lịch
sử thực dân địa Anh bắt đầu tại Bắc Mỹ rất sớm, vào năm 1497 ở vùng
Newfoundland, sau đó vùng này đã chính thức trở thành thực dân địa của Anh năm
1583. Vùng thực dân địa Roanoke bị bỏ rơi (1585/1587) chỉ trở thành thực dân
địa chính thức vào đầu thế kỷ 17, khi một số thực dân địa mới đã được thành
lập, bao gồm Jamestown, Virginia, là những nơi cư trú ổn định lâu dài đầu tiên
của người Anh tại Mỹ. Trong khi đó quá trình thực dân địa của Pháp tại Bắc Mỹ
bắt đầu vào năm 1524, khi vua Francis I cử Giovanni da Verrazzano đi thám hiểm
theo tuyến đường phía bắc đi lên Thái Bình Dương. Sau nhiều thất bại vào các
năm 1564 và 1598, người Pháp đã thành công đầu tiên với thực dân địa Acadia
được thành lập năm 1604. Hầu như tất cả những người châu Âu đều coi vùng đất
châu Mỹ là chưa có người chủ theo đúng nghĩa con người mà họ quan niệm. Vì vậy
có những nhóm ghé qua hoặc đến định cư và những nhóm khác thì đến “chinh phục
và cai trị” [De Vaca, Alvar Nuñez Cabeza, and Fanny Bandelier, trans. 1905].
Bất kể là nhóm nào thì tất cả những người châu Âu đến đây đều đối xử với người
bản địa như là những chiếc bóng vật vờ, chứ không phải là những thực thể đang
tồn tại giống như họ, vì vậy mà họ đã tự cho phép mình đến chinh phục và khai
hoá vùng đất này và dần dần đẩy các nền văn hoá bản địa ra khỏi những vùng đất
mà họ đang chiếm đoạt [Fritz, Henry E. 1963].
4.2. Người
Châu Âu và người bản địa giai đoạn 1601-1776
Đông
Bắc Mỹ theo ranh giới công bố năm 1763 là biên giới giữa các vùng màu đỏ và
hồng. Trong giai đoạn này, các cường quốc châu Âu đã tranh giành nhau để kiểm
soát Bắc Mỹ, hệt như họ cũng đang làm như vậy tại châu Âu. Các bộ lạc bản địa
Mỹ thường được sử dụng như là những đội quân trợ chiến của quân đội Anh, quân
đội Pháp và quân đội Tây Ban Nha. Để đảm bảo có được sự trợ giúp của các bộ
lạc, người châu Âu thường biếu họ quà cáp và ký các thoả ước. Các thoả ước này
thường hứa hẹn rằng cường quốc châu Âu sẽ tôn trọng các vùng đất truyền thống
của bộ lạc và nền độc lập của họ. Nhiều bộ lạc bản địa đã tham gia vào cuộc
chiến tranh của vua William 1689-1697, Dummer 1721-1725, và cuộc chiến giữa
người Pháp với người Anh Điêng 1754-1763. Sau cuộc chiến này, người Anh đã trở
thành cường quốc thống trị và đã chính thức hoá bằng Tuyên bố Hoàng gia năm
1763. Tập tài liệu này đã phân định ranh giới tách riêng đất của người bản địa
khỏi cộng đồng người châu Âu. Một mặt điều đó biện minh cho sự kiểm soát hoàn
toàn đất đai về phía người châu Âu, nhưng nó lại không ngăn chặn được một cách
hiệu quả những cá nhân người châu Âu tiếp tục di cư về phía Tây. Giống như
trước đó, các sức mạnh kinh tế, quân sự và ngoại giao đã được người châu Âu và
các chính phủ của họ áp dụng để kiểm soát thêm nhiều vùng lãnh thổ của người
bản địa Mỹ. Từ quan điểm của người châu Âu, sự kiểm soát của họ đối với một
vùng đất có nghĩa là đi liền với nó sẽ là sự thay đổi tận căn cội về lối sống
của người bản địa, làm cho nhiều cộng đồng bản địa đã không thể tiếp tục tồn tại
được nữa.
4.3. Nước Mỹ
và người bản địa giai đoạn 1776-1860
Các
cuộc đấu tranh để xây dựng đế quốc Bắc Mỹ đã làm ra đời nước Mỹ ngay từ những
năm đâu ftiên áp dụng chính sách về người Anh Điêng tương tự với chính sách mà
nước Anh đã sử dụng trong thời thực dân [Fritz, Henry E. 1963]. Họ đã nhận ra
rằng các mối quan hệ tốt đẹp với các bộ lạc ở vùng gianh giới có ý nghĩa rất
quan trọng cho các hoạt động chính trị và thương mại, nhưng giống như người Anh
đã làm, họ vẫn giành sẵn quyền từ bỏ các mối quan hệ tốt đẹp đó để lấn chiếm
đất đai của cả kẻ thù lẫn của các đồng minh giống hệt như ranh giới đất nông
nghiệp dịch chuyển về phía tây vậy. Nước Mỹ tiếp tục dùng người bản địa làm các
đồng minh kể cả trong cuộc chiến tranh cách mạng và cuộc chiến tranh năm 1812.
Khi các mối quan hệ với nước Anh và Tây Ban Nha đã được bình thường hoá vào đầu
những năm 1800, nhu cầu có các quan hệ hữu nghị như vậy đã kết thúc. Nước Mỹ đã
không còn cần phải “ve vãn” các bộ lạc để ngăn chặn các cường quốc khác sử dụng
họ chống lại nước Mỹ nữa. Giờ đây thay cho một vùng đệm chống lại các kẻ thù đã
“văn minh hoá”, các bộ lạc thường được coi là một trở ngại cho chính sách bành
trướng của Mỹ. Chính vì vậy mà George Washington và Henry Knox đã tin rằng
những người bản địa Mỹ là bình đẳng nhưng xã hội của họ thì thấp kém hơn. Họ đã
xây dựng chính sách để khuyến khích quá trình “văn minh hoá” [Remini, Robert
1969 a], và Washington đã đưa ra kế hoạch 6 điểm cho quá trình văn minh hoá đó
như sau: i) luật pháp công bằng cho người bản địa Mỹ; ii) mua đất của người bản
địa có điều tiết; iii) thúc đẩy thương mại; iv) khuyến khích thực hành nhằm văn
minh hoá và cải thiện xã hội bản địa Mỹ; v) thẩm quyền tổng thống trong việc
trao tặng quà cho người bản địa; vi) trừng phạt những ai vi phạm các quyền của
người bản địa [Miller, Eric 1994a]. Sử gia Robert Remini đã viết rằng “một khi
những người Anh Điêng đã chấp nhận thực tiễn tư hữu tài sản, xây dựng nhà cửa,
làm trang trại, giáo dục con cái và theo đạo Thiên chúa thì những người Mỹ bản
địa này sẽ được người Mỹ da trắng chấp nhận” [Remini, Robert 1969 b].
Nước
Mỹ đã bổ nhiệm các đặc vụ như Benjamin Hawkins vào sống cùng với người bản địa
và dạy họ lối sống của người da trắng [Perdue, Theda 2003]. “Thật là khác lạ,
cái cảm giác về một tư duy triết học thay vì phản ánh sự huỷ diệt một phần
chủng tộc con người theo các phương thức phổ biến của chúng ta, thì nó lại phản
ánh những phương thức mà chúng ta đã kiên trì qua bao khó khăn, và cuối cùng
chúng ta cũng đã truyền thụ được tri thức về canh tác và các loại hình nghệ
thuật đến những người bản địa của đất nước này để rồi dựa vào đó mà suối nguồn
cuộc sống và hạnh phúc tương lai đã được gìn giữ và lan toả. Nhưng người ta đã
hiểu được rằng không thể thực hiện được quá trình văn minh hoá những người Anh
Điêng Bắc Mỹ - Quan điểm này có thể thực sự thuận lợi hơn nhiều”. (Henry Knox
(Bộ trưởng Chiến tranh) gửi cho Tổng thống George Washington, những năm 1790)
[Miller E. 1994b].
4.4. Mỹ hoá
và đồng hoá (1880-1920)
Phong
trào cải cách hành chính Anh Điêng và đồng hoá người Anh Điêng thành công dân
bắt đầu từ những tiếng kêu cứu của những người sống gần gũi với những người bản
địa và bị chấn động bởi cách thức quản lý lừa gạt và thờ ơ trong lĩnh vực các
vấn đề bản địa. Họ tự coi mình là “những người bạn của người Anh Điêng” và vận
động hành lang các quan chức nhân danh người Anh Điêng. Dần dần các nhà cải
cách miền đông đã chấp nhận lời kêu gọi thay đổi trong cách thức ứng xử với
người Anh Điêng [Fritz, Henry E. 1963]. Nhiều nhà cải cách là những người Tin
lành coi việc đồng hoá là cần thiết để Thiên chúa giáo oá người Anh Điêng. Thế
kỷ 19 là thời gian đã chứng kiến những nỗ lực chủ yếu trong việc xây dựng các
cơ sở Tin lành thông qua các cuộc thám hiểm đến các vùng người không phải Thiên
chúa giáo. Năm 1865, chính phủ Mỹ bắt đầu ký các hợp đồng với các hội truyền
giáo để vận hành các trường học cho học sinh Anh Điêng và dạy về quyền công
dân, tiếng Anh, và các nghề nông nghiệp, cơ khí.
4.5. Vai trò
của Toà án trong chính sách
Các tư tưởng chính trị trong thời
gian thực thi chính sách đồng hoá được nhiều người Anh Điêng coi là kỷ nguyên
tiến bộ, nhưng hầu hết đều cho rằng đó là kỷ nguyên đồng hoá từ 1890 đến 1928
[Hoxie, Frederick E. 2001]. Kỷ nguyên tiến bộ được đặc trưng bởi cách giải
quyết nhấn mạnh đến tầm quan trọng của phẩm giá và độc lập trong thế giới công
nghiệp hoá hiện đại [Tomlins, Christopher L. 2005]. Tư tưởng này được áp dụng
vào người bản địa trong một đoạn trích từ ghichép của Uỷ viên John Oberly:
“Người Mỹ bản địa phải được nhuộm đẫm bằng tính ích kỷ của nền văn minh Mỹ đến
mức họ luôn nói “Tôi” thay vì “Chúng tôi”, và “Đây là của tôi” thay vì “Đây là
của chúng ta” [Wilkins, David E. 1997]. Đó sẽ là một tư tưởng nguy hiểm khi
xuất hiện loại khoa học liên quan đến việc xếp hạng các chủng tộc dựa trên các
năng lực đoạ đức và trí tuệ [Tomlins, Christopher L. 2005]. Thay vào đó là ý
tưởng về một chủng tộc Anh Điêng thấp kém đã làm cho người ta phải ra toà. Các
nhà tư tưởng của Kỷ nguyên tiến bộ muốn có một cái nhìn vượt khỏi các định
nghĩa pháp luật về bình đẳng để tạo ra một khái niệm hiện thực về tính công
bằng. Một khái niệm như vậy đã bảo hàm cả một lợi ích hợp lý, các điều kiện làm
việc tươm tất, cũng như một sức khoẻ và niềm vui sống cho mỗi người Mỹ
[Tomlins, Christopher L. 2005].
Các tư tưởng này thể hiện rất rõ
trong các quyết định của Toà án Tối cao trong kỷ nguyên đồng hoá. Thông qua các
trường hợp như Leon Wolf kiện Hitchcock, Talton kiện Mayes, Winters kiện Nhà
nước Mỹ, Nhà nước Mỹ kiện Winans, Nhà nước Mỹ kiện Nice, Nhà nước Mỹ kiện
Sandoval, Toà án Tối cao đã đưa ra nhiều tiền lệ và giúp đỡ rất nhiều cho các khuôn khổ lập pháp liên quan đến
những người bản địa Mỹ. Một trong những quyết định cơ bản đã được thực hiện
trong hầu hết các vụ án là làm thế nào để xác định được các dân tộc bản địa và
họ có những quyền gì. Vụ Lone Wolf kiện Hitchcock đã cho thấy một ví dụ điển
hình về việc thực hiện quan điểm phụ quyền của người bản địa vì nó đã quy chiếu
ngược vào tư tưởng của người Anh Điêng là “các phân khu vực của quốc gia”
[Duthu, Bruce 2008]. Một số vấn đề khác liên quan đến quyền săn bắt và đánh cá
của người bản địa, đặc biệt là khi vùng đất vượt khỏi các hoạt động của riêng
họ, dù có hay không có các quyền Hiến pháp cần thiết được áp dụng cho người Anh
Điêng, và cho dù các chính quyền bộ lạc có quyền lực để xây dựng luật pháp của
riêng họ. Khi bộ luật mới cố ép buộc người bản địa trở thanh công dân Mỹ, thì
Toà án Tôi cao đã đưa ra các quyết định cuối cùng này. Các dân tộc bản địa Mỹ
được Marshall trong vụ kiện giữa dân tộc Cherokee với bang Georgia dán nhãn là
“các dân tộc phụ thuộc quốc nội”, đây là một trong những vụ kiện có ý nghĩa
đánh dấu các vấn đề liên quan đến người Anh Điêng [Tomlins, Christopher L.
2005]. Một số quyết định tập trung chủ yếu vàotính chất phụ thuộc của các bộ
lạc trong khi các quyết định khác lại bảo vệ chủ quyền của bộ lạc, và các quyết
định khác nữa thì cố gắng thực hiện cả hai vấn đề trên.
4.6.
Đàn áp tôn giáo bản địa
Vì
các quan chức chính phủ tin vào đức hạnh của Thiên chúa giáo nên Chính phủ Mỹ
đã thực hiện việc cải đạo cho nhiều người Anh Điêng thành người Thiên chúa giáo
và đàn áp việc thực hành các lễ thức tôn giáo truyền thống của bản địa, các thù
lĩnh tinh thần của họ phải đi với các cuộc nổi loạn chống lại chính quyền. Mục
đích của Chính phủ Mỹ là đồng hoá dân bản địa vào nền văn hoá châu Âu của họ.
Một số người gọi chính sách này là “biến thành những quả táo”, vì người Anh
Điêng vẫn thể hiện mình là “người da đỏ” ở vẻ ngoài, nhưng lại bị “tẩy trắng”
từ bên trong [LexisNexis 2009d]. Thậm chí cho đến thế kỷ 20 mà “các thủ lĩnh
tinh thần vẫn phải lẩn trốn các án tù tới 30 năm chỉ đơn giản là vì họ thực
hành các lễ thức tôn giáo truyền thống” [37]. Mãi cho đến tận năm 1973 khi luật
pháp đã có những thay đổi, thì Đạo luật Tự do Tôn giáo mới được thông qua, mặc
dù chính phủ đã ngừng truy tố các thủ lĩnh tinh thần của người bản địa [36].
Trên thực tế, các truyền thống tôn giáo khác nhau vẫn tiếp tục tạo ra các vấn
đề, chẳng hạn chính phủ đã đưa cây xương rồng Mexico vào danh sách các loại
thuốc gây nghiện nặng và trở thành bất hợp pháp trên thị trường tự do vì các
đặc tính gây ảo giác của loại cây này và các vấn đề chúng khác đối với việc lạm
dụng thuốc có chất gây nghiện. Nhưng người Anh Điêng Peyote theo thói quen vẫn
dùng loại xương rồng peyote (xương rồng Mexico) này làm một yếu tố trung tâm
trong các lễ thức tôn giáo của họ. Mãi cho đến năm 1993 thì Đạo luật Tự do Thực
hành Tôn giáo Bản địa Mỹ mới được thông qua và người Anh Điêng Peyote lại có
thể sử dụng cây xương rồng peyote để hành lễ một cách hợp pháp.
_________________________________________
Còn
nữa...
* Ghi chú: Bài viết năm 2008, tham gia Đề án: Luận cứ và
giải pháp phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số nước ta đáp ứng yêu cầu
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, do PGS. Nguyễn Đăng Thành, PGĐ Học
viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh làm Chủ nhiệm, Hà Nội 2008 –
2010.
Tài liệu tham khảo
Armitage,
A. 1995. Comparing the Policy of Aboriginal
Assimilation: Australia, Canada, and New Zealand. UBC Press, Vancouver,
p.14.
Asch,
M., & Zlotkin, N. 1997. Affirming
Aboriginal title: A new basis for comprehensive claims negotiation. In
Michael Asch, ed., Aboriginal and Treaty Rights in Canada: Essays on Law,
Equality, and Respect for Difference, UBC, Vancouver, pp.208, 270.
Barman,
J., Herbert, Y., and McCaskill, D. 1986. The
Legacy of the Past: An Overview. In Jean Barman, Y. Herbert, and D.
McCaskill, eds, Indian Education in Canada: Volume 1: The Legacy,
University of British Columbia Press, Vancouver, p.4.
Beresford,
Q., & Omaji, P. 1998. Our State of Mind: Racial Planing and the Stolen
Generations, Fremantle Arts Centre Press, Fremantle, p.32; Harris, J. 1994.
One Blood. 200 Years of Aboriginal Encounter with Christianity: A Story of
Hope, 2nd Ed., Albatross, Sydney, p. 25.
Brock,
P. 1995. Aboriginal families and the law
in the era of segregation and assimilation, 1890s-1950s. In Diane Kirkby,
ed., Sex, Power and Justice: historical perspectives of law in Australia,
Oxford University Press, Melbourne, p.136.
Buti, Tony 2002. The Systematic Removal of Indigenous Children from their Families in
Australia and Canada: the History – Similarities and Differences. Lecture in Law, Law
School, Murdoch University; JLV/ Louis St. John Johnson Memorial Trust
Fellowship in Aboriginal Legal Issues and Public Policy.
Cazenave, Noël A.; Darlene Alvarez
1999. “Defending the White Race:White Male Faculty Opposition to a White
Racism Course”. In Race and Society 2. pp. 25–50.
Chesterman,
J., and Galligan, B. 1997. Citizens Without Rights: Aborigines and
Australian Citizenship, Cambridge University Press, p. 60.
Churchill, Ward 1997. A Little Matter of Genocide (San Francisco: City Lights).
Culleen,
C., & Libesman, T. 1995. Indigenous People and the Law in Australia,
Butterworths, Sydney, p. 36.
Deloria,
Vine Jr. 1988. “Indian Humor.” Custer
Died For Your Sins: An Indian Manifesto. NY: Scribner, 1969. Rpt. U of OK
Press.
Dickason,
O. 1997. Canada’s First Nations: A History of Founding Peoples from Earliest
Times, 2nd Ed., Oxford University Press, p. 248.
Eduardo,
Bonilla-Silva 2006. Racism Without Racists:
Color-Blind Racism and the Persistence of Racial Inequality in the United
States. Rowman & Littlefield. pp. 53–54.
Feagin, Joe R. 2000. Racist
America: Roots, Current Realities, and Future Reparations. New York, NY:
Routledge. p. 6.
Feagin,
Joe R. 2006. Systemic Racism: A Theory of Oppression Published by Routledge.
Grinde Donald A. and Bruce E. Johansen 1998. Ecocide Of Native America: Environmental Destruction Of Indian Lands And Peoples. Clear Light Publishers.
Jaimes M.
Annette, ed., 1992. The State of Native America: Genocide, Colonization, and
Resistance. Boston: South End Press, Pp.175-177.
Lippmann,
L. 1992. Generations of Resistance: Aborigines Demand Justice, 2nd Ed.,
Longman Cheshire, Melbourne, p. 18.
McGrath,
A. 1995. A national story. In Anne
McGrath, ed., Contested Ground: Australian Aborigines under the British
Crown, Allen & Unwin, Sydney, p. 14.
Miller,
J. 1994. Skyscrapers Hide the Heavens: A History of Indian-White Relations
in Canada, Revised Ed., University of Toronto Press, Toronto, pp. 269-70.
Sellers,
R.M., & Shelton, J.N. 2003. The role
of racial identity in perceived racial discrimination. Journal of Personality and Social
Psychology, 84, 1079-1092.
Stiffarm, Lenore A. with Phil Lane, Jr. 1992. The Demography of Native North America: A Question of American Indian Survival. In The State
of Native America: Genocide, Colonization, and Resistance. Boston: South
End Press, 1992. 23-54.
Trepagnier, Barbara 2006. Silent
Racism: How Well-Meaning White People Perpetuate the Racial Divide.
Boulder, CO: Paradigm Publishers, 2006.
United
Nations 1996. International Covenant on Civil
and Political Rights. Adopted and
opened for signature, ratification and accession by General Assembly resolution
2200A (XXI) of 16 December 1966, Entry into force 23 March 1976, in accordance
with Article 49.
Waters,
Anne 2003. Indigenous Genocide: The
United States of North America. Presentation at the American Academy of
Religion Conference, Atlanta, Georgia, USA.
Wellman, David T. 1993. Portraits
of White Racism. New York, NY: Cambridge University Press. pp. x.