Powered By Blogger

Thứ Tư, 26 tháng 7, 2023

Bản thể luận Thay đổi của Aristotle (I)

Mark Sentesy

Người dịch: Hà Hữu Nga

Giới thiệu

Cuốn sách này xem xét thay đổi là gì và nó đóng góp gì cho bản thể luận trong tác phẩm của Aristotle. Trước khi chuyển sang các phần nội dung, tôi sẽ mô tả một cách tổng quát nhiệm vụ của cuốn sách này. Bản thể luận là logos - việc diễn giải về ὄν on tồn tại hoặc bản thể.1 Trong phần lớn lịch sử triết học, nó được gọi là Μετὰ τὰ Φυσικά “siêu hình học”, một từ bắt nguồn từ tiêu đề mà các nhà biên tập đã đặt cho cuốn sách của Aristotle về tồn tại, xuất hiện cùng hoặc Μετὰ meta sau nghiên cứu về Φυσικά phusis Tự nhiên. Bản thể luận khảo sát câu hỏi triết học cơ bản: tồn tại là gì? Việc đưa ra một bản thể luận là trình bày bằng lời nói cái gì là và cái gì không phải là. Nhưng một bản thể luận không chỉ đơn thuần là một bản kiểm kê về cái gì: nó phải trình bày rõ ràng các nguyên tắc và mô thức mà nhờ đó các bộ phận hoặc khía cạnh khác nhau của cái gìkhác nhau, đồng nhất với nhau và tổ chức trong các mối quan hệ. Sau đó, bản thể luận nghiên cứu cơ sở cho mọi thứ khác: đó là việc khảo sát về các cấu trúc cơ bản của suy nghĩ, tri thức và hành động. Về khía cạnh này, bản thể luận có thể có cả vai trò hỗ trợ và hạn chế: nó có thể vừa mở rộng lại vừa hạn chế những gì chúng ta cho là thực, khả thể và cần thiết, cũng như cách thức mà các hiện hữu và các mối quan hệ của chúng phù hợp với nhau hoặc tách biệt với nhau.   

Nhưng những điều cơ bản về tồn tại là cái gì và như thế nào lại không nhất thiết phải rõ ràng ngay từ đầu, và ngay cả khi các nguyên tắc của nó theo một nghĩa nào đó là không thể tránh khỏi, chúng ta vẫn có thể không biết hoặc không thể nói rõ về chúng. Đây là lý do tại sao bản thể luận lại cần thiết: đó là ngành học mà nhờ đó chúng ta biết và nói rõ về tồn tại, và một phần của nó được dành cho việc khám phá các nguyên tắc của tồn tại.2 Bản thể luận nghiên cứu vạn vật trong chừng mực chúng , đó là lý do tại sao nó đặt lập trường trên cơ sở tồn tại hoặc không tồn tại của thay đổi. Cuốn sách này nghiên cứu hai phần của bản thể luận: phần bản thể luận nghiên cứu bản thể thay đổi cùng các khái niệm của nó, còn phần tiếp theo khám phá và phát triển các nguyên tắc của bản thể. Nó xem xét bản thể luận của sự thay đổi với mục tiêu phụ là nhận ra điều đó dẫn chúng ta đến phát hiện những gì thuộc về các nguyên tắc bản thể luận.

Nói rộng ra, câu hỏi thứ hai là: sự thay đổi cho chúng ta biết điều gì về tồn tại? Hay chính xác hơn, hệ quả bản thể luận của thay đổi là gì? Rõ ràng, các hệ quả của thay đổi đối với tồn tại phụ thuộc vào bản thể của sự thay đổi là gì. Nhưng bất kể chúng ta nói nó là gì, nếu thay đổi là hiện tồn, thì một số điều phải đúng với tồn tại. Chẳng hạn, hoặc chúng ta phải nói thay đổi có một loại tồn tại khác với các đối tượng có, trong trường hợp đó nó làm cho tồn tại đa dạng hơn về loại, hoặc chúng ta phải nói rằng bản thể của thay đổi cũng giống như mọi thứ khác, trong trường hợp nào mà sự thay đổi sẽ hạn chế những gì chúng ta nghĩ phải là tồn tại, vì khi đó tồn tại không thể được định nghĩa là một cái gì đó không thay đổi. Có lẽ là xứng đáng để đưa ra một câu trả lời độc lập cho các câu hỏi về bản thể của thay đổi và các hệ quả của nó đối với bản thể luận, nhưng ít nhất là lúc đầu, sẽ giá trị hơn nhiều nếu hiểu được các nhà tư tưởng vĩ đại đã vật lộn với chúng ra sao.

Aristotle có thể là nhà tư tưởng duy nhất đã đưa ra một định nghĩa không vòng tròn về sự thay đổi.3 Tác phẩm của ông đại diện cho một trong những phân tích nghiêm túc và bền vững nhất về sự thay đổi trong truyền thống phương Tây. Nó cũng là một kiểu mẫu về những gì chúng ta có thể khám phá về bản thể thông qua nghiên cứu về sự thay đổi. Điều này một phần là do ảnh hưởng của nó đối với bản thể luận của ông là khá rõ ràng do sự tương phản giữa cách giải thích của ông và của những người tiền nhiệm về sự thay đổi và tồn tại: Parmenides và những người kế vị của ông bác bỏ sự hiện hữu của thay đổi, và Aristotle đã phải thiết lập sự hiện hữu của nó trên cơ sở triết học và thiết lập nó như một đối tượng nghiên cứu triết học thực chứng. Nhưng việc phân tích sự thay đổi đã khiến ông phát triển hoặc biến đổi các khái niệm theo những cách đã trở thành nền tảng cho bản thể luận nói chung trong hai thiên niên kỷ. Như tôi sẽ lập luận, các khái niệm này bao gồm vật chất, hình thức, hiệu năng, hoạt động, sự hoàn thành và nguồn gốc. Vậy thì, Aristotle dường như là ứng cử viên sáng giá nhất để trả lời hai câu hỏi cốt lõi của chúng ta: Sự thay đổi có loại tồn tại nào? Và, để cho thay đổi hiện hữu, thì tồn tại phải như thế nào?

Cuốn sách này tiếp cận Aristotle với tư cách là một người đã vật lộn với các vấn đề được quan tâm chung đối với bản thể luận, cụ thể là bản thể của sự thay đổi và ý nghĩa của sự thay đổi đối với tồn tại. Điều này có một lợi thế quan trọng: nó trình bày lập luận của Aristotle như là đối mặt với những vấn đề thường trực mà bản thể luận vẫn phải đối mặt. Do đó, đóng góp của ông có thể trở thành to lớn hơn với việc chỉ là một hạng mục gợi tò mò lịch sử. Đây là những cách thức mà bản thân Aristotle tiếp cận với những người đi trước, mời gọi chúng ta tham gia diễn giải các tác phẩm của ông với tư cách là quá trình đổi mới bên trong một di sản trí tuệ chung. Phương pháp chính của tôi để theo đuổi nhiệm vụ này là xem xét hình thức và nội dung của các lập luận của Aristotle, đặc biệt chú ý đến cách thức và lý do tại sao ông bố cục chúng theo các cách thức ông đã làm, đồng thời xem xét những gì chúng ta có thể học được về các khái niệm cốt lõi của ông thông qua những kết quả mà chúng mang lại trong quá trình lập luận. Phương pháp này giúp chống lại xu hướng coi Aristotle là một người giáo điều. Để truyền đạt tính mạch lạc và phức tạp trong tác phẩm của Aristotle, sẽ dễ dàng hơn khi trình bày nó như một học thuyết đề cập đến tự thân nó, một tập hợp các niềm tin có ý nghĩa theo cách riêng của nó. Tôi nghĩ cách tiếp cận này giống như chơi sỏ Aristotle, trong khi chiến lược triết học chính của ông là bắt đầu từ, và luôn cảnh giác với, những vấn đề chưa được giải quyết (Μετὰ τὰ Φυσικά Met. III.1 995a24−b4). Vì vậy, mục tiêu của tôi là phân tích các lập luận tiêu biểu nhất của ông liên quan đến bản thể luận của sự thay đổi để làm nổi bật tầm quan trọng, hiệu quả, tính đáng ngờ và táo bạo của chúng. Do đó, tôi mong muốn trình bày những lập luận này chặt chẽ hết mức để thể hiện cấu trúc và các các bước ngoặt của chúng, và còn ở cả quy mô thể hiện được các nguyên tắc và ý nghĩa của chúng nữa.4    

Có nhiều vấn đề tôi đã phải kiềm chế không chi tiết hóa để làm rõ cảnh huống. Mục đích của cuốn sách này không phải là tìm hiểu chi tiết mối quan hệ của Aristotle với những người tiền nhiệm của ông, hoặc theo dõi việc tiếp nhận các lập luận của ông trong lịch sử triết học, hay liên hệ giải thích của ông với bản thể luận đương đại. Mặc dù cuốn sách này cố gắng giải thích một cách rộng lượng về lý do tại sao Aristotle đưa ra những lập luận của mình, nhưng mục đích của nó không phải là để bảo vệ các lập luận đó trước mọi lựa chọn khác. Nó tập trung vào cuộc thảo luận của Aristotle về thay đổi trong chừng mực thay đổi, nghĩa là, về bản thể luận của nó, hơn là về các khía cạnh vật lý, tâm lý, sinh học hoặc đạo đức của nó. Do đó, cuốn sách này không phải là trình bày về lý thuyết khoa học của ông. Nó không giới hạn ở việc xem xét các loại thay đổi, hoặc các thuộc tính của các hiện hữu trong chừng mực chúng thay đổi. Mục đích ở đây không phải là đưa ra một giải thích có hệ thống về cách thay đổi phù hợp với các cam kết bản thể luận đặc biệt khác của Aristotle; ví dụ, lý thuyết về định nghĩa và hình thức cá thể, liệu có những hoạt động không có hiệu năng, bản chất của động lực bất động, hay vật chất của các thiên thể. Tất nhiên, việc theo đuổi từng mục tiêu đều đáng giá, và tất cả các nhiệm vụ này đã được các học giả thực hiện nghiêm túc và sáng tạo đặc biệt.5 Ở đây tôi không đặt mục đích ấy, trừ khi bản thể luận về sự thay đổi của Aristotle đòi hỏi.

Toát yếu

Công trình của Aristotle gợi ý rằng hai điều phải đúng về một bản thể luận bao gồm thay đổi: thứ nhất, tồn tại đó có nhiều khía cạnh. Để sự thay đổi hiện hữu, phải có một số cách để trở thành cùng một sự vật: một mặt, nó phải khác với việc là một vật chất hoặc hình thức cơ bản, và mặt khác, các chủ ngữ và vị ngữ phải tạo thành một loại tồn tại khác với các hiệu năng và các hoạt động. Thứ hai, bản thể luận phải phân biệt giữa việc tồn tại của một vật là nguồn thay đổi (ví dụ: hiệu năng) và τέλος telos mục đích tối hậu mà sự vật đó hướng tới (ví dụ: hoạt động), và do đó cung cấp một mục đích luận. Hai lần trong Φυσικὴ Vật lý, Aristotle lập luận rằng, để hiểu được sự thay đổi, cần phải phân biệt giữa các cách tồn tại. Trong cả hai trường hợp, ông làm như vậy để xác nhận rằng sự thay đổi được thừa nhận là tồn tại - tức là nó hiện hữu hoặc là có thật. Hai chương đầu tiên của cuốn sách này xem xét cách cấu trúc của sự thay đổi thúc đẩy và định hình lời khẳng định rằng tồn tại là đa dạng.

Chương 1 xem xét Φυσικὴ Vật lý I. Trong đó Aristotle lập luận rằng các nguồn là đa dạng về mặt bản thể luận, nhưng để chứng minh cho khẳng định này, ông đưa ra một phân tích về γένεσις genesis tạo sinh tồn tại, tuyên bố rằng lập luận của những người tiền nhiệm của ông về thuyết nhất nguyên dựa trên một phân tích sai lầm về sự thay đổi. Lập luận của họ chống lại sự hiện hữu của thay đổi là ở chỗ nó tự mâu thuẫn về mặt bản thể luận: thay đổi là sự trở thành-tồn-tại của một thứ gì đó đã không tồn tại [là] (ví dụ: con thỏ này, hoặc màu trắng của nó), nhưng vì không có gì có thể sinh ra từ không-tồn tại, và những gì đã tồn tại thì không thể trở thành những gì nó đã là, nên thay đổi chắc chắn là không thể; nó trộn lẫn tồn tại và không-tồn tại. Khi lập luận chống lại sự hiện hữu của thay đổi, Aristotle nói, họ đã khái quát hóa tất cả sự khác biệt bằng cách đồng nhất nó với không-tồn tại: do đó, họ nói, toàn bộ điều đó phải giống nhau. Để bác bỏ quan điểm này, Aristotle tách tồn tại khỏi không-tồn tại bằng cách đưa ra các phân biệt giữa các khía cạnh cụ thể của thay đổi. Việc phân biệt ba yếu tố của mọi thay đổi (hình thức, vật chất, sự thiếu hụt) cho phép Aristotle chứng minh rằng sự thay đổi không mâu thuẫn, bởi vì giờ đây chúng ta có thể nói rằng một hình thức cụ thể (ví dụ: một con thỏ) trên thực tế sinh ra từ cái đang (ví dụ: chất dinh dưỡng) và tiền thân của nó chỉ tình cờ không phải là hình thức đó. Vậy là, việc Aristotle phục hồi bản thể của thay đổi phụ thuộc vào việc làm cho tồn tại xác thực trở nên đa bội trong ba khía cạnh này; tồn tại phải là đa bội vì hiện hữu của thay đổi đòi hỏi điều đó. Nhưng điều quan trọng là lập luận này không định nghĩa thay đổi là gì cũng như không chỉ ra thay đổi đó là: việc phân biệt giữa “con thỏ” “trắng” và “không trắng” mang lại các yếu tố liên quan đến thay đổi chứ không phải bản thân sự thay đổi. Một nghĩa khác của tồn tại là cần thiết cho điều đó. Vậy là, lập luận này chỉ đơn giản dọn đường cho định nghĩa và lập luận của Aristotle về sự thay đổi, mà tôi sẽ chuyển sang phần tiếp theo.

Chương 2 xem xét Φυσικὴ Vật lý III.1–2. Các lập luận nổi bật của chương này, trước tiên, là để xác định sự thay đổi, cần có sự phân biệt rõ ràng giữa cái mà tôi gọi là các ý nghĩa xác thực và mạnh mẽ của tồn tại; thứ hai, là τo δῠ́νᾰμῐς ὤν to dunamei on bản thể đầy hiệu năng là một tồn tại độc lập vẫn là chính nó ngay cả khi nó đang hoạt động tích cực; và thứ ba, định nghĩa về sự thay đổi tăng gấp đôi như một minh chứng cho sự hiện hữu của nó. Phần chứng minh vận hành như sau: cùng một tồn tại có thể vừa là một đối tượng xác thực trong chừng mực nó mang các thuộc tính (ví dụ: một con thỏ có màu) vừa là một tồn tại mạnh mẽ trong chừng mực nó có năng lực hành động (ví dụ: một con thỏ tồn tại hữu hình). Nhưng một khi sự khác biệt giữa những cách tồn tại này được thiết lập, thì rõ ràng là có những chủ thể của sự thay đổi thực sự, cụ thể, dễ nhận biết và năng động (ví dụ: vật liệu xây dựng, vận động viên chạy marathon, thỏ). Trở thành chủ thể của sự thay đổi (những tồn tại có hiệu năng) có nghĩa là những gì chúng đều liên quan đến sự thay đổi, cái làm cho chúng chính là sự thay đổi, cái làm thay đổi bản thể hoàn chỉnh của chúng (ἐντελέχειᾰ entelecheia, thường được dịch là “thực tại”). Bằng chứng của cái này làm bộc lộ cái kia.   

Sau đó, các Chương 1–2 đưa ra trường hợp phân tích sự thay đổi bao gồm một lập luận cho rằng tồn tại là đa bội. Tồn tại được phân biệt thành các ý nghĩa ngẫu nhiên, xác thực và mạnh mẽ, và hai ý nghĩa sau, mỗi ý nghĩa bao gồm ba cách tồn tại phụ thuộc. Ngoài ra, bản thể luận về sự thay đổi đòi hỏi Aristotle phải phát triển ba trong số các khái niệm bản thể luận cốt lõi của ông: thứ nhất, δῠ́νᾰμῐς dunamis hiệu năng, gọi tên những tồn tại nhất định là chủ thể của sự thay đổi; thứ hai, ἐντελέχειᾰ entelecheia, tồn tại trọn vẹn, để đặt tên cho cái mà các hiện hữu tùy thuộc vào nó có thể thay đổi, cụ thể là thay đổi và thứ ba, ἐνέργειᾰ energeia hoạt động. Vì lý do đó, các Chương 3–6 được dành để phân tích các thuật ngữ này. Chương 3 và 4 xem xét riêng từng thuật ngữ xuất hiện trong định nghĩa về thay đổi, vì đây là một trong những đóng góp lớn nhất mà thay đổi tạo ra cho bản thể luận. Chúng là các khái niệm δῠ́νᾰμῐς dunamis hiệu năng, ἐντελέχειᾰ entelecheia hoàn thành của tính toàn vẹn hay tồn tại trọn vẹn (entelecheia, thường được diễn đạt là “thực tại”), và tồn tại-trong-hoạt động hoặc ἐνέργειᾰ energeia hoạt động (energeia, thường được diễn đạt là “thực tại”).6 Một lần nữa, đây là những thuật ngữ mà Aristotle đã tạo ra hoặc sửa đổi triệt để nhằm phù hợp với sự hiện hữu của thay đổi trong bản thể luận. Theo lập luận của tôi, hoạt động và tồn tại trọn vẹn có những ý nghĩa khác nhau, trong khi hiệu năng là khía cạnh của một tồn tại bắt nguồn và xác định con đường hoạt động. Chương 3 xem xét tồn tại-trong-hoạt động và tồn tại-trọn vẹn. Tôi tiến hành phân tích ngữ văn và sau đó là phân tích ngữ nghĩa của cả hai thuật ngữ này, đặc biệt chú ý đến ý nghĩa của chúng trong việc chứng minh sự tồn tại của chuyển động. Trong Chương 3, nghiên cứu về ἐντελέχειᾰ entelecheia, đặc biệt, cấu thành phần lớn hơn trong nỗ lực trí tuệ. Điều này là do ý nghĩa của nó trong định nghĩa về sự thay đổi đòi hỏi chúng ta phải trực tiếp phản đối quan điểm học thuật phổ biến về khái niệm này, cụ thể là ἐντελέχειᾰ entelecheia, được hiểu là thực tại, theo một nghĩa nào đó không tương thích với sự thay đổi. Tuy nhiên, Aristotle nhấn mạnh rằng thay đổi là một loại ἐντελέχειᾰ entelecheia nhất định. Do đó, mối quan tâm chính trong phần sau của chương này là khôi phục mối quan hệ của ἐντελέχειᾰ entelecheia với thay đổi. Tôi phân biệt cách thức mà thay đổi và hiệu năng không trọn vẹn với cách thức có thể trọn vẹn: một hiệu năng và hoạt động không trọn vẹn chừng nào chúng đòi hỏi những sự vật khác, nhưng thay đổi là hoạt động cụ thể của những sự vật đó khi chúng kết hợp với nhau, nghĩa là, sự hoàn thành đơn lẻ của một số năng lực của chúng.

Chương 4 xem xét δῠ́νᾰμῐς dunamis hiệu năng, tồn tại của nó, khẳng định của nó là một ý nghĩa của tồn tại và cách nó giúp mô tả quá trình hoàn thiện. Các nguồn như hiệu năng được thiết lập để hoạt động khi điều kiện phù hợp. Điều làm nên sự khác biệt của hiệu năng là nó đòi hỏi những thứ khác để bắt đầu thiết lập hoạt động và nó có thể hoàn thành những thứ trái ngược nhau, nhưng chỉ một thứ tại một thời điểm: toàn bộ phạm vi các hiệu quả của nó không bao giờ có thể hoạt động đồng thời. Nhưng đó là khi hiệu năng của một cá nhân đã hoàn thiện, nghĩa là khi nó sẵn sàng hành động ngay lập tức khi có mặt của nó, thì đó rõ ràng nhất là ý nghĩa tồn tại: khi năng lực chơi vĩ cầm của một kẻ nào đó đã hoàn thiện, thì chúng ta gọi kẻ đó là nghệ sĩ vĩ cầm. Có hai cách mô tả quá trình hoàn thành như vậy: cách thứ nhất là việc hoàn thành một khả năng sẽ loại bỏ khả năng thất bại, nghĩa là ngược lại với mục tiêu của nó, trong khi cách thứ hai là việc hoàn thành một khả năng sẽ bảo tồn và trên thực tế, là bộc lộ cái khả năng đã có sẵn đó. Thay đổi góp phần vào bản thể luận cái ý tưởng cho rằng tồn tại là hoặc có ἀρχή archē nguồn gốc, cũng được dịch là “nguyên tắc”. Nhưng phân tích này cho thấy rằng trở thành một nguồn cũng là một τέλος telos thành tựu. Bản thể luận của Aristotle về các nguồn gốc và thành quả của chúng phát triển trực tiếp nhất thông qua các phân tích về γένεσις genesis tạo sinh tự nhiên (Chương 5), tính thời gian và bản chất của các nguồn (chương 6).  

Trong Chương 4 đã chỉ ra là những tồn tại-trong-hiệu năng theo một cách nào đó, là những tồn tại độc lập, thì chương 5 đưa ra cơ sở cho tuyên bố này, cụ thể là, hiện hữu một οὐσία ousia tồn tại cá thể là hiện hữu một nguồn. Mô tả của Aristotle về cách thức mà các hiệu năng và các bản chất trở nên hiện hữu cho thấy rằng cái bản thể mà một ἀρχή archē nguồn là cơ sở cho tuyên bố của ông chính là cái có các hiệu năng và các bản chất ấy. Aristotle phân biệt rõ ràng giữa quá trình tạo ra và kết quả của nó: sự vật đang hình thành không có bản chất của nó, ông nói, cho đến khi nó τελεία teleia hoàn thành. Ông đưa ra sự phân biệt này nhằm cố gắng thực hiện nghiêm túc ý tưởng cho rằng trên thực tế thay đổi xảy ra, những hiện hữu thực sự xuất hiện không thể bị quy giản thành các bộ phận của chúng. Các hiện hữu được tạo sinh theo nghĩa mạnh mẽ, một khi chính chúng bắt đầu trở thành nguồn của thay đổi. Tuy nhiên, trong khi có những yêu cầu nghiêm ngặt đối với những gì được coi là một tồn tại, Aristotle đặt ra một số yêu cầu bản thể luận đối với quá trình dẫn đến sự xuất hiện của chúng: chúng có thể được tự nhiên tạo sinh, do nhân tạo hoặc tình cờ. Đây là một các giải thích mạnh mẽ nhưng tối thiểu về phương diện siêu hình của επιγένεση epigenesis thuyết biểu sinh.

Chương 6 xem xét Μετὰ τὰ Φυσικά Siêu hình học IX.8, trong đó Aristotle lập luận rằng hoạt động là chủ yếu trong tồn tại bởi vì nó là nguồn gốc của tạo sinh theo một cách thậm chí còn quyết định hơn là hiệu năng. Để đưa ra lập luận này, Aristotle phân tích cách thức mới để trở thành một nguồn mà tôi đã xem xét trong Chương 5, cụ thể là, sự hoàn thành hoặc τέλος telos thành tựu. Nguồn gốc của khái niệm hoàn thành trong lập luận này là khái niệm γένεσις genesis tạo sinh. Điều khác biệt về sự thay đổi không phải là nó không đầy đủ, mà nó là một cách của tồn tại-trọn vẹn, một ἐντελέχειᾰ entelecheia thành tựu tích cực, như nó được định nghĩa. Việc hiểu đầy đủ ý nghĩa về hiệu năng và hoạt động liên quan-đến-thay đổi đương nhiên dẫn đến việc Aristotle tái diễn giải vật chất và hình thức bằng cách thuật ngữ đầy mạnh mẽ, như nguồn gốc và thành quả. Do đó, thông qua phân tích tạo sinh mà Aristotle đặt tư cách nguồn gốc: Để một tác nhân tự do thực hiện một hành động cụ thể A, theo nghĩa cần thiết cho trách nhiệm đạo đức, thì quyết định về A phải tùy thuộc vào tác nhân, tức là tác nhân phải là nguồn quyết định đối với A. - HHN] và thành tựu ở trung tâm của bản thể luận.

Tồn tại trong Nhiều cách

Việc khẳng định rằng tồn tại mang tính đa bội là đặc điểm nổi bật của bản thể luận Aristotle. Tôi cho rằng vấn đề thay đổi cung cấp một lập luận quan trọng cho lập trường này và là cơ sở để phân biệt giữa các cách tồn tại. Đối với Aristotle, sẽ rất hữu ích nếu đưa ra một cái nhìn tổng quan về việc tồn tại đa bội như thế nào, vì tôi sẽ đề cập đến các thành phần của quan điểm này trong suốt cuốn sách. Aristotle tuyên bố, tồn tại thẳng tắp theo một trong bốn cách khác nhau: ngẫu nhiên-bản chất, phân loại, năng động-năng lượng và ᾰ̓ληθής/ἀληθείας alethes/aletheias có tính chân lý. (1) Các tồn tại hoặc σῠμβεβηκός sumbebēkos tình cờ xuất hiện cùng với những tồn tại khác, hoặc có quan hệ với chúng thông qua καθ’αυτό kath’auto tồn tại-tự thân của chính chúng: thấp bé là điều ngẫu nhiên để trở thành bác sĩ, trong khi ngược lại, một kẻ nào đó thực sự là bác sĩ thông qua việc trở thành một thầy lang. Do đó, tồn tại theo nghĩa này bao gồm cả tồn tại ngẫu nhiên và tồn tại bản chất. (2) Tồn tại có một cấu trúc phạm trù qua đó các đặc điểm thuộc về sự vật. Nó khác với việc trở thành một thuộc tính, chẳng hạn như 1 kg, màu xanh biếc, hoặc cách xa 10 m, hơn là trở thành một tồn tại cơ bản có các thuộc tính đó, chẳng hạn như con vẹt kia. Tuy nhiên, hình thức này (vị ngữ) và vật chất của nó (chủ ngữ) theo một cách nào đó là một sự vật. Khái niệm cơ bản về tồn tại phạm trù [categorical being] là οὐσία ousia tồn tại cá nhân. 3) Tồn tại là một thành tựu tích cực, ví dụ, chạy, suy nghĩ hoặc duy trì một hình dạng cụ thể; và năng lực hay tiềm năng là khuynh hướng của hiện hữu để làm điều này, ví dụ, một kẻ có năng lực làm hình học là một nhà hình học. Tôi sẽ gọi hiện hữu năng động hoặc tràn đầy năng lượng này, theo các khái niệm của nó, ἐνέργεια energeia hoạt động và δῠ́νᾰμῐς dunamis hiệu năng. Aristotle không bao giờ đặt tên riêng cho loại tồn tại này và luôn liệt kê cả hai thuật ngữ. Điều này rất quan trọng, và phần trọng tâm trong lập luận của tôi là hiệu năng và hoạt động không thể quy giản cho nhau mà khác nhau về chủng loại. (4) Tồn tại là tồn tại thật, không tồn tại là tồn tại giả; ví dụ, đối với một kẻ nào đó trở thành một nhà hình học thì điều này đúng với hắn, trong khi việc không trở thành một nhà hình học thì điều này không đúng với hắn. Đây là ἀληθείας aletheic cấu tạo từ ἀληθεία aletheia chân lý, sự thật.

Có một số điều cần lưu ý về bốn ý nghĩa lớn nhất này của hiện hữu. Trước hết, mỗi tồn tại là một cách tồn tại riêng biệt như vậy.8 Mỗi tồn tại đều không có định tính, vì “tồn tại, nói một cách đơn giản, có nghĩa theo nhiều cách” (Μετὰ τὰ Φυσικά Met. VI.2 1026a33).9 Hơn nữa, khi đề cập đến một tồn tại riêng lẻ, thì mỗi ý nghĩa tồn tại giải thích cho tồn tại của nó như một tổng thể theo một khía cạnh cụ thể: tồn tại 1 kg giải thích cho toàn bộ tồn tại, trong chừng mực nó có trọng lượng; một vận động viên chạy maraton (tức là một tồn tại-trong-hiệu năng) là một tồn tại được xem là một tổng thể, xét về cấu trúc cơ thể, quá trình trao đổi chất, quá trình tập luyện, lập kế hoạch, các mối quan hệ xã hội (ví dụ: mạng lưới hỗ trợ, tư cách thành viên trong sự kiện thi chạy), sự kiên trì và mục tiêu khiến ả sẵn sàng chạy maraton. Thứ hai, Aristotle mô tả bốn cách tồn tại khác nhau là khác nhau về chủng loại [kind]: chúng không chia sẻ một tồn tại hoặc một lớp cơ bản, và chúng không thể quy giản lẫn nhau (Μετὰ τὰ Φυσικά Met. V.28 1024b10–17).10 Như Wieland lập luận, “Aristotle nhận ra tính đa nguyên hệ thống nguyên tắc, không liên kết với nhau cạnh nhau và không thể quy giản chúng thành một nguyên tắc chung cao hơn.”11 Chúng là bốn trụ cột riêng biệt của bản thể luận. Điều này có nghĩa là mỗi chủng loại đều đủ để mô tả một cách tồn tại một cách toàn diện: chỉ tồn tại của hoạt động mới giải thích được cho một tồn tại trong chừng mực nó hoạt động; không có cách thức nào khác để mô tả hoặc giải thích mọi thứ là đúng như thế nào.

Đây là điều quan trọng cần lưu ý vì người ta thường cho rằng bản thể luận của Aristotle rốt cuộc quy giản về khái niệm οὐσία ousia. Aristotle dường như đã nói điều này tại Μετὰ τὰ Φυσικά Metaphysics VII.1 1028b3–8, nhưng trong ngữ cảnh của đoạn văn đó, οὐσία ousia là cách thức chủ yếu trong số các cách quy chiếu hoặc khẳng định tồn tại, nghĩa là, trong số các phạm trù (Μετὰ τὰ Φυσικά Met. VII.1 1028a33−b3).12 Oὐσία ousia chỉ được gọi là nghĩa chính của tồn tại liên quan đến nghĩa phân loại của tồn tại (Μετὰ τὰ Φυσικά Met. V.7, V.8, VI.2 1026a) 33−b2, VII.1 1028a10–20, VII.3 1028b22–1029a35).13 Oὐσία ousia không bao giờ được gọi là chính khi quy chiếu đến ba nghĩa cơ bản khác của tồn tại. Đáng chú ý hơn, Aristotle phân biệt rõ ràng việc thảo luận về οὐσία ousia và tính ưu việt của nó với việc thảo luận về tồn tại đầy năng lượng: Điều gì liên quan đến tồn tại thuộc loại đầu tiên, mà tất cả các cách khác quy gán tồn tại cho nó [αἱ ἄλλαι κατηγορίαι τοῦ ὄντος hai allai katēgoriai tou ontos] [HHN Chen ngang: Nếu ai đã đọc Aristotle trong nguyên bản thì toàn bộ đoạn này  là: [1045b27] Περὶ μὲν οὖν τοῦ πρώτως ὄντος καὶ πρὸς ὃ πᾶσαι αἱ ἄλλαι κατηγορίαι τοῦ ὄντος ἀναφέρονται εἴρηται, περὶ τῆς οὐσίας (κατὰ γὰρ τὸν τῆς οὐσίας λόγον λέγεται τἆλλα ὄντα, [1045b30] τό τε ποσὸν καὶ τὸ ποιὸν καὶ τἆλλα τὰ οὕτω λεγόμενα· πάντα γὰρ ἕξει τὸν τῆς οὐσίας λόγον, ὥσπερ εἴπομεν ἐν τοῖς πρώτοις λόγοις)· ἐπεὶ δὲ λέγεται τὸ ὂν τὸ μὲν τὸ τὶ ἢ ποιὸν ἢ ποσόν, τὸ δὲ κατὰ δύναμιν καὶ ἐντελέχειαν καὶ κατὰ τὸ ἔργον, [1045b35] διορίσωμεν καὶ περὶ δυνάμεως καὶ ἐντελεχείας, καὶ πρῶτον περὶ δυνάμεως ἣ λέγεται μὲν μάλιστα κυρίως, οὐ μὴν χρησιμωτάτη γέ ἐστι [1046a1] πρὸς ὃ βουλόμεθα νῦν· ἐπὶ πλέον γάρ ἐστιν ἡ δύναμις καὶ ἡ ἐνέργεια τῶν μόνον λεγομένων κατὰ κίνησιν. ἀλλ’ εἰπόντες περὶ ταύτης, ἐν τοῖς περὶ τῆς ἐνεργείας διορισμοῖς δηλώσομεν καὶ περὶ τῶν ἄλλων. (Μετὰ τὰ Φυσικά Metaphysics 9.1) - HHN]  

Dịch [bừa]: “Chúng tôi đã đề cập đến cái chủ yếu và là cái mà tất cả các phạm trù khác của tồn tại được quy chiếu đến - tức là phạm trù bản chất. Vì nhờ vào công thức của chất mà những thứ khác được gọi là số lượng, chất lượng và những thứ tương tự; vì tất cả sẽ được thấy có chứa công thức của chất, như chúng tôi đã nói trong phần đầu tiên của công trình này. Và vì ‘tồn tại’ theo một cách nào đó được chia thành ‘cái gì’, chất lượng và số lượng, và bằng cách khác được phân biệt theo hiệu năng và sự trọn vẹn, và theo chức năng, chúng ta sẽ thảo luận về hiệu năng và sự trọn vẹn. Trước tiên, chúng ta hãy giải thích hiệu năng theo nghĩa chặt chẽ nhất, tuy nhiên, đó không phải là điều hữu ích nhất cho mục đích hiện tại của chúng ta. Vì hiệu năng và thực tính mở rộng vượt ra ngoài lĩnh vực chuyển động đơn thuần. Nhưng khi chúng ta đã nói về loại đầu tiên này, thì trong các thảo luận về thực tính, chúng ta sẽ giải thích các loại hiệu năng khác.” (Μετὰ τὰ Φυσικά Metaphysics 9.1) - HHN] đều được truy ngược trở lại, đã được thảo luận, cụ thể là những gì liên quan đến οὐσία ousia chính yếu…nhưng vì tồn tại được nói theo một cách nào đó về cái gì hay thuộc loại nào hoặc bao nhiêu thứ [các phạm trù], nhưng theo cách khác dựa vào δῠ́νᾰμῐς dunamis hiệu năng ἐντελέχειᾰ entelecheia trọng vẹn, và dựa vào một ἔργον từ đôi điều gì đó-đang-hành động, chúng ta cũng cần phân biệt về hiệu năng và tính toàn vẹn. (Μετὰ τὰ Φυσικά Met. IX.1 1045b27–35)14

Ở đây, sau khi hoàn thành thảo luận về tồn tại phân loại và tính ưu việt của οὐσία ousia tồn tại cá nhân, Aristotle từ bỏ vị thế ưu tiên ở οὐσία ousia, và quay lưng lại với nó để chuyển sang một chủ đề mới, đó là tồn tại năng động và tràn đầy năng lượng. Ý tưởng sai lầm cho rằng tồn tại phạm trù οὐσία ousia là nghĩa chủ chốt của toàn bộ tồn tại bắt nguồn từ thực tế là mỗi loại trong bốn loại tồn tại chính được chia nhỏ thành các cách tồn tại khác: Công trình Κατηγορίες Categories Các phạm trù phân chia nghĩa phạm trù của tồn tại thành chất lượng, số lượng, quan hệ, vị trí, tồn tại chính và phụ, v.v., chúng có liên quan với nhau thông qua các khái niệm cốt lõi về chủ thể vật chất cơ bản và hình thức hoặc thuộc tính được xác định. Khái niệm chính trong tồn tại thể phạm trù là οὐσία ousia tồn tại chính, vì tất cả các thuộc tính được cho là của οὐσία ousia, trong khi nó là một thứ gì đó xác định không được nói về bất kỳ thứ gì khác (Μετὰ τὰ Φυσικά Met. V.8 1017b23–26). Về phần mình, tồn tại năng động và năng lượng được chia thành hiệu năng, hoạt động và ἐντελέχειᾰ entelecheia trọn vẹn. Có một số đồ vật đa tạp trên bàn có nghĩa là khi Aristotle nói điều gì đó về nhiều ý nghĩa của tồn tại, chúng ta có xu hướng hiểu sai ý của ông về tập hợp các ý nghĩa mà ông muốn nói. Bản thân vị thế ưu tiên có nhiều nghĩa (Μετὰ τὰ Φυσικά Met. V.11), do đó các cách tồn tại khác nhau có các khái niệm và cấu trúc ưu tiên then chốt của riêng chúng: khái niệm chính trong tồn tại năng lượng là vị thế ἀρχή archē nguồn gốc.15 Thứ ba, khi Aristotle nói rằng tồn tại theo nghĩa đen là nhiều, thì ông muốn nói rằng tồn tại có nhiều khía cạnh của tồn tại chứ không phải là có nhiều tồn tại riêng lẻ (mặc dù điều đó cũng đúng). Mỗi thứ đều nằm trong bốn cách chính; mọi tồn tại cụ thể đều có thể được nắm bắt bằng bốn ý nghĩa. Sự tồn tại của nó được xác định theo nhiều cách: một hiện hữu hoặc hiện tượng đơn lẻ thừa nhận nhiều cách tồn tại xác định.

Heidegger tóm tắt lập trường của Aristotle theo cách này: Câu này, on legetai pollachōs [được nói theo nhiều cách] [HHN chen ngang nguyên văn đoạn này là: Τὸ ὂν λέγεται πολλαχῶς, καθάπερ διειλόμεθα πρότερον ἐν τοῖς περὶ τοῦ ποσαχῶς· σημαίνει γὰρ τὸ μὲν τί ἐστι καὶ τόδε τι, τὸ δὲ ποιὸν ἢ ποσὸν ἢ τῶν ἄλλων ἕκαστον τῶν οὕτω κατηγορουμένων. τοσαυταχῶς δὲ λεγομένου τοῦ ὄντος φανερὸν ὅτι τούτων πρῶτον ὂν τὸ τί ἐστιν, ὅπερ σημαίνει τὴν οὐσίαν (ὅταν μὲν γὰρ εἴπωμεν ποῖόν τι τόδε, ἢ ἀγαθὸν λέγομεν ἢ κακόν, ἀλλ’ οὐ τρίπηχυ ἢ ἄνθρωπον· ὅταν δὲ τί ἐστιν, οὐ λευκὸν οὐδὲ θερμὸν οὐδὲ τρίπηχυ, ἀλλὰ ἄνθρωπον ἢ θεόν), τὰ δ’ ἄλλα λέγεται ὄντα τῷ τοῦ οὕτως ὄντος τὰ μὲν ποσότητες εἶναι, τὰ δὲ ποιότητες, τὰ δὲ πάθη, τὰ δὲ ἄλλο τι. (Μετὰ τὰ Φυσικά Met. 7.1: 1028a9 - 1028a15) Dịch [phứa]: Có một số nghĩa trong đó một sự vật có thể được cho là tồn tại, như chúng tôi đã chỉ ra trước đây trong công trình của mình về các nghĩa khác nhau của từ; vì theo một nghĩa, thì nó muốn nói đến một sự vật hoặc ‘cái này’, và theo một nghĩa khác, nó muốn nói đến một sự vật có chất lượng hay số lượng nhất định, hoặc có một vị từ nào đó như vậy khẳng định về nó. Trong khi ‘tồn tại’ có tất cả các ý nghĩa này, thì rõ ràng cái chủ yếu là cái ‘gì’, chỉ ra chất của sự vật. Vì khi chúng ta nói về chất lượng của một vật, chúng ta nói rằng nó tốt hoặc đẹp, nhưng không nói rằng nó dài ba cubits [1 cubit = 45,72cm] hay nó là một con người; nhưng khi nói nó là gì, chúng ta không nói ‘trắng’, ‘nóng’ hay ‘dài ba cubits’, mà nói là ‘con người’ hay ‘Thượng đế’. Và tất cả những thứ khác được cho là tồn tại bởi vì một số trong đó, là số lượng, còn những thứ khác là phẩm chất của nó, những thứ khác nữa là tình cảm về nó, và những thứ khác nữa là một số xác định khác về nó. Μετὰ τὰ Φυσικά Met. 7.1: 1028a9 - 1028a15 - HHN], là một điệp khúc thường xuyên của Aristotle. Nhưng nó không chỉ là một công thức. Thay vào đó, trong câu ngắn này, Aristotle đã hình thành lập trường hoàn toàn cơ bản và mới mà ông đã vạch ra trong triết học liên quan đến tất cả những người đi trước ông, kể cả Plato; không phải theo nghĩa của một hệ thống mà theo nghĩa của một nhiệm vụ.16 Heidegger cho rằng Aristotle chưa bao giờ hoàn thành nhiệm vụ vạch ra một quan điểm toàn diện về tính đa bội của tồn tại. Thật vậy, Aristotle không diễn dịch các ý nghĩa của tồn tại, và không nơi nào trình bày các ý nghĩa cơ bản của tồn tại như một hệ thống tích hợp duy nhất.17 Ngay cả trong trường hợp ông thiết lập mối quan hệ giữa bốn ý nghĩa của tồn tại, thì các mối quan hệ này là những lời hứa (Μετὰ τὰ Φυσικά Met. VIII.6 1045b18–24), các tương tự (ví dụ: Μετὰ τὰ Φυσικά Met. IX.6 1048b8–9), hoặc các kết luận (Μετὰ τὰ Φυσικά Met. IX.8 1050b2), chứ không phải là khởi điểm cho một khái niệm bao quát duy nhất hệ thống của tồn tại. Chúng vẫn còn, như ông nói, bốn cách không thể quy giản mà đó chính là tồn tại.

______________________________________

(Còn nữa…)

Nguồn: Sentesy, Mark (2020). Aristotle Ontology of Change, Book· April 2020. Northwestern University Press. Evanston, Illinois, Northwestern University Press.

Tác giả: Mark Sentesy là Trợ lý Giáo sư Triết học thỉnh giảng tại Đại học Loyola Maryland. Nghiên cứu của ông tập trung vào triết học tự nhiên, bản thể luận, nhân học và công nghệ. Ông đã công bố các công trình về khái niệm thời gian, vật lý, siêu hình học, nhận thức luận, bản thể học chính trị, công nghệ và ngôn ngữ, và cuốn sách của ông Bản thể luận về sự thay đổi của Aristotle đã được Nhà xuất bản Northwestern University Press xuất bản vào năm 2020.

Notes

1. All Greek will be transliterated, including in quotations.

2. The method of discovery is conspicuous in Aristotle. See Wieland (1975), 135, who writes “The principles stand at the end, not at the beginning of the investigation.” See also Halper (1989), xxxiii.

3. Brague (1980), 1–2, argues that since Descartes, it has become commonplace to “define” change as a transition (i.e., a change) in time and space.

4. This book concentrates on single, contiguous arguments in chapters 1, 2, and 6, while chapters 3–5 draw on closely related passages to reconstruct Aristotle’s position. Chapter 3 begins with philology, and ends by bringing together passages on the incompleteness of change and potency, while chapter 4 draws out the account of potency across Metaphysics IX, and chapter 5 follows Aristotle’s engagements with Empedocles.

5. Among those who do such work are Aquinas (1961, 1962, 1963), Brentano (1975), Ross (1924, 1936, 1995), Owens (1978), Charles (1984), M. Frede (1987), Waterlow (Broadie) (1982a), Gill (1989), Witt (1989), Burnyeat (2001), Yu (2003), Lang (2007), Gotthelf (2012), and Kosman (2013).

6. Aristotle describes these terms as related to change most of all (Met. IX.1 1045b33–1046a11, 1047a30−b1). For the debate over whether they have a wholly independent ontological sense - which I argue they do not - see “Potency and Activity, Change and Being” in chapter 4.

7. Being in an unqualified sense is many (Met. VI.2 1026a33). See especially Met. V.7. Other notable uses of the concept: Phys. I.2 185a20–32, 185b32–186a3, I.3 186a24−b35, I.9 192a37 - 38, III.1 200b26–28; Met. IV.2 1003a33; Met. VII.1 1028a10. Aristotle often simply lists the ways being is said, as at Met. IX.1 1045b32.

8. For discussion of the ontological or linguistic meaning of this multiplicity, see Brentano (1975) and Ross in Aristotle (1924), lxxix−xc. Heidegger (1995) and Brogan (2005) address its ontological aspect. Recent discussion of the multiplicity of being has mostly addressed it from the point of view of speech: see Irwin (1981), Shields (1999), Ward (2009), and Brakas (2011).

9. Sachs trans., Aristotle (1999), emphasis added. Each is a sense of its being, simply. This is the case even though each sense of being can itself be divided, with each of these terms depending on a focal sense.

10. In Met. V.28 1024b10–18, form, material, and the senses of categorical being exemplify difference in kind; for example, place is not derived from quality, quantity, or ousia. It is important to my argument that potency and activity should be added to the list. The four greatest senses of being should be added as well; for example, although the incidental sense of being depends on the essential, categorical sense of being, it can neither be reduced to nor deduced from it.

11. Wieland (1975), 135–36: these systems of principles, he argues, are unitfied only by analogy. Compare Aubenque (2012), 24–28, who claims that Aristotle decides to prioritize ousia, but that his decision is unjustifiable.

12. Ross asserts that the distinction between activity and potency is found within each category, based on Met. V.7 1017b2 and IX.10 1051b1. Witt (2003) and Beere (2009) hold this position as well. While it is certainly the case that something can be capable of, or actively be a certain quantity, it does not follow that potency and activity themselves are subdivisions within the categories—a claim that, I contend, would violate Aristotle’s assertion that the different senses of being are meant simply or wholly (haplos). See “Potency and Activity, Change and Being” in chapter 4.

13. At Met. VI.4 1027b35–1028a3, Aristotle argues that incidental being and alethic being concern categorical beings. But this does not indicate that they are reduced to it. By omitting energetic being, Aristotle appears to suggest that through it some nature does come to light apart from categorical being.

14. Sachs trans., Aristotle (1999), translation modified: “thinghood” replaced with “primary being,” “complete being-at-work” replaced with “being-complete.” Greek added.

15. Chapter 6 argues that the sense of priority governing energetic being consists in being a source. See, for example, the section on the Argument of Met. IX.8. The pivotal concept in incidental and essential being is essential being, while truth - particularly the truth of simple beings - is pivotal in alethic being.

16. Heidegger (1995), 10.

17. Ross, in Aristotle (1924), lxxxv. The schemata of the categories are widely regarded as a complete description of the sorts of predication, but also, as Kant (2003), A81/B107 argued, are not systematic. Ross, in Aristotle (1924), says, “Aristotle has no ‘deduction of the categories,’ no argument to show that the real must fall into just these divisions. He seems to have arrived at the ten categories by simple inspection of reality, aided by a study of verbal distinctions” (lxxxv). It is unclear what “simple inspection of reality” might mean, however. Though several have attempted to deduce the system of the categories, notably Brentano (1975), no one has deduced the four primary senses of being.

 

 

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét