(Báo cáo chuyên đề phục vụ tổng kết 10
năm thực hiện Chương trình Mục tiêu Quốc gia Xây dựng Nông thôn mới)
Hà
Hữu Nga
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Mục tiêu xây
dựng NTM và các tiêu chí liên quan đến QLRRTTDVCĐ
Nhằm thực hiện Nghị quyết
số 100/2015/QH13 ngày 12 tháng 11 năm 2015 của Quốc hội Khóa XIII về phê duyệt
chủ trương đầu tư các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016-2020 được
đồng bộ, kịp thời, thống nhất và có hiệu quả, Thủ tướng Chính phủ ban hành
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (NTM) giai đoạn
2016-2020 với các mục
tiêu sau: 1) Mục tiêu tổng quát
là xây dựng nông thôn mới để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người
dân; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phù hợp; cơ cấu kinh tế và các hình
thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn phát triển nông nghiệp với công nghiệp, dịch
vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị; xã hội nông thôn dân chủ, bình đẳng,
ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; quốc
phòng và an ninh, trật tự được giữ vững; 2) Mục tiêu cụ thể: i) Đến năm 2020 số xã
đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50% (trong đó, mục tiêu phấn đấu của từng
vùng, miền là: Miền núi phía Bắc: 28,0%; Đồng bằng sông Hồng: 80%; Bắc Trung
Bộ: 59%; Duyên hải Nam Trung Bộ: 60%; Tây Nguyên 43%; Đông Nam Bộ: 80%; Đồng
bằng sông Cửu Long: 51%); Khuyến khích mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phấn đấu có ít nhất 01
huyện đạt chuẩn nông thôn mới;
ii) Bình quân cả nước đạt 15 tiêu chí/xã (trong đó, mục tiêu phấn đấu của từng
vùng, miền là: Miền núi phía Bắc: 13,8; Đồng bằng sông Hồng: 18,0; Bắc Trung Bộ:
16,5; Duyên hải Nam Trung Bộ: 16,5; Tây Nguyên: 15,2; Đông Nam Bộ: 17,5; Đồng bằng sông Cửu Long:
16,6); cả nước không còn xã dưới 5 tiêu chí; iii) Cơ bản hoàn thành các
công trình thiết yếu đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất và đời sống của cư dân
nông thôn: giao thông, điện, nước sinh hoạt, trường học, trạm y tế xã; iv) Nâng cao chất
lượng cuộc sống của cư dân nông thôn; tạo nhiều mô hình sản xuất gắn với việc
làm ổn định cho nhân dân, thu nhập tăng ít nhất 1,8 lần so với năm 2015 (Thủ tướng Chính phủ 2016a).
Đáng chú ý là trong số 19 tiêu chí NTM thì có
đến 3 tiêu chí với 6 nội dung liên quan trực tiếp đến việc nâng cao năng lực
QLRRTTDVCĐ (quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng) trong xây dựng NTM nói
chung cũng như việc xây dựng NTM ở vùng Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) nói
riêng. Đó là các tiêu chí và các nội dung cụ thể sau: i). Tiêu chí 2, Giao thông, Nội dung 2.3: Đường ngõ, xóm sạch và không lầy lội vào mùa mưa; ii) Tiêu chí 3, Thủy lợi, Nội dung 3.2: Đảm bảo đủ điều
kiện đáp ứng yêu cầu dân sinh và theo quy định về phòng chống thiên tai tại chỗ; iii) Tiêu chí 17, Môi trường, Nội dung 17.1: Tỷ lệ hộ được sử dụng nước hợp vệ sinh và nước sạch
theo quy định; Nội dung 17.2: Tỷ
lệ cơ sở sản xuất - kinh doanh, nuôi trồng thủy sản, làng nghề đảm bảo quy định
về bảo vệ môi trường;
Nội dung 17.3: Xây dựng cảnh quan, môi trường xanh - sạch - đẹp, an toàn; Nội dung 17.6: Tỷ lệ hộ có nhà
tiêu, nhà tắm, bể chứa nước hợp vệ sinh và đảm bảo 3 sạch gồm: Sạch nhà, Sạch bếp, Sạch ngõ, theo nội dung
cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” do Trung ương Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam phát động
(Đoàn Chủ tịch TW Hội LHPN Việt Nam, 2014).
1.2. Tính bức
thiết và tầm quan trọng của việc QLRRTTDVCĐ trong xây dựng NTM
Cần phải khẳng định rằng xây dựng NTM là sự
nghiệp của dân, do dân và vì dân, mà trước hết và trực tiếp là toàn thể các
cộng đồng dân cư nông thôn. Trong bối cảnh rủi ro thiên tai ngày càng tăng và
ngày càng tác động trực tiếp và mạnh mẽ vào công cuộc xây dựng NTM, thì việc
QLRRTTDVCĐ đã trở nên vô cùng bức thiết. Muốn thực hiện được các tiêu chí liên
quan trực tiếp kể trên trong xây dựng NTM, thì hệ thống Đảng, Chính quyền và
người dân không còn cách nào tốt hơn là phải thực hiện việc QLRRTTDVCĐ. Sáng
kiến QLRRTTDVCĐ đã được thực hiện ở nhiều nơi trên thế giới và đã đem lại kết
quả rõ ràng. Tuy nhiên, thực hiện QLRRTTDVCĐ thường được xây dựng trên cơ sở
các dự án, và các dự án đó vẫn phải dựa vào nguồn hỗ trợ tài chính từ bên
ngoài, và thông thường kết thúc dự án đồng nghĩa với kết thúc tài trợ, dẫn đến
mọi hoạt động quản lý rủi ro thiên tai cũng kết thúc theo. Điều đó có nghĩa là,
khi nào cộng đồng chưa thực sự là những người chủ của mọi hoạt động quản lý rủi
ro thiên tai, thì việc quản lý rủi ro thiên tai không thể thực hiện được một
cách bền vững. Cơ sở của việc thực hiện QLRRTTDVCĐ được xây dựng trên các trụ
cột bền vững sau: i) Người dân địa phương chịu tác động trực tiếp và hàng ngày
với rủi ro thiên tai nên họ có yêu cầu sống còn về việc quản lý rủi ro thiên
tai; ii) Liên quan đến hiểu biết về rủi ro thiên tai ở địa phương, không ai
bằng các cộng đồng dân cư ở chính địa phương đó, nhất là khi cuộc sống và lợi
ích của họ bị thiên tai đe dọa hàng ngày, hàng giờ; iii) Các cộng đồng dân cư
địa phương chính là nguồn lực vô tận cần được khai thác và phát triển trong
việc quản lý rủi ro thiên tai. Vì vậy, trong quản lý rủi ro thiên tai và thích
ứng với biến đổi khí hậu (BĐKH), cộng đồng không chỉ là đối tượng hưởng lợi mà
còn đóng vai trò chính trong tất cả các quá trình quản lý liên quan.
2.1.1. Những đặc điểm chung về vùng
ĐBSCL
ĐBSCL nằm ở cuối dòng chảy của sông Mê
Kông trước khi đổ ra Biển Đông và một phần nhỏ ra Vịnh Thái Lan. Đây là một
vùng đất thấp và bằng phẳng, cao độ trung bình phổ biến từ 1 đến 2 m so với mực
nước biển, được bồi tụ bởi phù sa của sông Mekong. ĐBSCL có diện tích 39.734
km2, trong đó có trên 2,4 triệu ha đất canh tác nông nghiệp và gần 700 ngàn ha
đất nuôi trồng thủy sản, là nơi sinh sống của hơn 18 triệu dân và được xem là
vựa lúa lớn nhất của cả nước, cung cấp 55% sản lượng gạo, đóng góp 90% lượng
gạo xuất khẩu của Việt Nam, hơn 60% lượng thủy sản và hơn 70% lượng trái cây
cho cả nước. ĐBSCL trải dài từ Mỹ Tho ở phía Đông đến Châu Đốc và Hà Tiên ở
phía Tây Bắc, xuống Cà Mau ở cực Nam của Việt Nam. Thượng lưu ĐBSCL nằm dọc
theo hai nhánh sông Bassac (sông Hậu) và sông Mê Công (sông Tiền) gần Phnom
Penh. Về phương diện hành chính, ĐBSCL được chia thành 13 tỉnh, bao gồm thành phố Cần Thơ ở trung tâm, trực
thuộc trung ương và 12 tỉnh là: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà
Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu và Cà Mau.
Dòng sông Mê Công chảy qua hệ thống kênh rạch trước khi đổ ra biển Đông và Vịnh
Thái Lan. Thành phố Hồ Chí Minh (HCM) là cửa ngõ quan trọng nhất nằm ngay bên
ngoài ĐBSCL, nên lũ từ sông Mê Công một phần chảy qua sông Vàm Cỏ và đi vào
thành phố HCM. ĐBSCL khá bằng phẳng, cao độ tại Châu Đốc là khoảng 3 đến 4 m và
cao độ trung bình của ĐBSCL là khoảng 0,8 m so với mực nước biển trung bình.
Vào mùa mưa, dòng chảy đổ vào hai nhánh sông chính là Bassac/ sông Hậu và Mê
Công/ sôngTiền (80-85%). Một phần lưu lượng chảy tràn vào nội đồng (10-15%).
Phần lớn (khoảng 50%) diện tích của ĐBSCL bị ngập lũ theo mùa lên đến 3 m, chủ
yếu là vùng Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên. Dòng chảy kiệt trong mùa khô
gây xâm nhập mặn ở các vùng ven biển của ĐBSCL, gây ảnh hưởng đến hơn 1,4 triệu
ha đất. Bờ biển có chiều dài khoảng 600 km với hệ thống đê biển có cao trình
tương đối thấp và rừng ngập mặn (Bộ TN&MT, Bộ NN&PTNT, Bộ HTCS&MT Hà Lan
2013). Về mặt địa lý, ĐBSCL
tiếp giáp vùng Đông Nam Bộ, Biển Đông, Campuchia, vịnh Thái Lan, bao gồm cả các
đảo Đảo Phú Quốc, quần đảo Thổ Chu, Hòn Khoai. ĐBSCL được giới hạn bởi sông
Châu Đốc và kênh Vĩnh Tế dọc theo biên giới Việt Nam – Campuchia ở phía Tây.
Phía đông bắc và đông của ĐBSCL là các dòng sông Vàm Cỏ Tây, Vàm Cỏ, Soài Rạp
thuộc hệ thống sông ngòi Đông Nam Bộ.
2.1.2. Phân vùng địa lý ĐBSCL
Các nhà địa lý học chia ĐBSCL thành ba
vùng: 1) Vùng Thượng châu thổ ĐBSCL:
giới hạn rìa phía bắc và đông chạy dọc theo hữu ngạn sông Vàn Cỏ Tây cho đến
Tân An, quặt xuống đông nam qua Mỹ Tho, Cần Thơ, đến gần Đức Long, rồi quay
ngược lên Rạch Giá. Đây là vùng thường bị ngập vào mùa mưa bởi nước sông Cửu
Long dâng lên. Vùng này có hai tiểu vùng điển hình là: i) Tiểu vùng trũng Đồng
Tháp Mười, dài 130 km, rộng 60 – 70 km, có tổng diện tích hơn 8000 km2, lớn hơn
½ diện tích châu thổ Bắc Bộ; ii) Dải đất trũng Tây Sông Hậu nằm ở phía tây nam
Đồng Tháp Mười, là vùng chuyển tiếp giữa phần cực tây (An Giang – Kiên Giang)
và phần duyên hải phía đông (Sóc Trăng, Bạc Liêu), nên môi trường tiểu vùng này
mang đặc tính sông – biển (Lê Bá Thảo 1990, tr. 294 - 297). 2) Vùng Hạ châu thổ ĐBSCL: là vùng giàu có
nhất của Nam Bộ. Vùng này có các tiểu vùng sau: i) Tiểu vùng cửa sông Đồng Nai
– Vàm Cỏ, rìa phía đông từ Long Thành đến Bà Rịa; rìa phía tây tiếp giáp với
Đồng Tháp Mười, rìa phía nam là dải đất hữu ngạn sông Vàm Cỏ Tây; ii) Tiểu vùng
Hạ Châu thổ: các đô thị trù phú hầu như đều tập trung ở tiểu vùng này, điển
hình như: Sa Đéc, Bến Tre, Mỹ Tho, Gò Công, Trà Vinh, v.v…Ngay cả Cần Thơ cũng
nằm trong ranh giới của vùng đất phì nhiêu này (Lê Bá Thảo 1990, tr. 298 -
302). 3) Vùng đất mới Tây Nam Bộ: bắt
đầu từ ranh giới phía nam của Tây Hậu Giang và từ tỉnh Sóc Trăng ở phía đông,
Hà Tiên, Rạch Giá ở phía tây, xuống đến Mũi Cà Mau ở phía nam. Vùng này gồm các
tiểu vùng sau: i) Dải đất thấp trung bình Sóc Trăng – Bạc Liêu – Cà Mau; ii)
Dải đất thấp Rạch Giá – Hà Tiên: nằm ở tây nam Châu Đốc và Long Xuyên; Phần đất
còn lại ra đến biển là vùng đầm lầy ngập nước, riêng vùng Rạch Giá – Hà Tiên đã
được khai thác từ lâu đời và khá phát triển; iii) Tiểu vùng rừng U Minh với
vùng rừng rộng đến 190.000ha chia làm hai nửa gần bằng nhau là U Minh Thượng ở
phía bắc và U Minh Hạ ở phía nam; iv) Đảo Phú Quốc: là hòn đảo lớn nhất nước
ta, với diện tích 66.000 ha, dài 50km, rộng 15 - 30km; v) Mũi Cà Mau trước đây
bao phủ chủ yếu là cây đước, khu vực rộng nhất đến 30km, chiều ngang kéo dài 45
– 50km (Lê Bá Thảo 1990, tr. 311 - 314). Về phương diện địa lý nhân văn, việc
phân ĐBSCL thành các tiểu vùng có ý nghĩa to lớn đối với các hoạt động nâng cao
năng lực quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng trong xây dựng NTM. Việc
làm rõ các tiểu vùng sẽ giúp là rõ các đặc trưng rủi ro thiên tai khác nhau, để
từ đó có thể có được những hoạt động nâng cao năng lực quản lý rủi ro thiên tai
dựa vào cộng đồng trong xây dựng NTM thích hợp với từng tiểu vùng và cho toàn
bộ vùng ĐBSCL.
2.2.
Khái quát tình hình nông thôn vùng ĐBSCL
2.2.1. Một số đặc điểm nổi bật của
nông thôn vùng ĐBSCL
Kết quả Tổng điều tra nông thôn, nông
nghiệp, thủy sản năm 2016 của TCTK cho thấy một số đặc điểm nổi bật của khu vực
nông thôn vùng ĐBSCL như sau: i) Về đơn
vị hành chính và nhân khẩu: có 1.293 xã, 8.610 thôn, ấp, 3.349.111 hộ với
trên 12 triệu nhân khẩu. Trong số các xã có 17 xã thuộc khu vực miền núi (đều
tập trung tại tỉnh An Giang), 21 xã hải đảo (gồm 15 xã tại Kiên Giang, 4 xã tại
Trà Vinh và 2 xã tại Cà Mau); ii) Về phân
loại hộ nông thôn theo ba khu vực kinh tế: hộ nông, lâm, thủy sản chiếm
57,88% (giảm 7,7 điểm phần trăm so với năm 2011); hộ công nghiệp và xây dựng
chiếm 17,31% (tăng 4,83 điểm phần trăm so với năm 2011); hộ dịch vụ chiếm
20,78% (tăng 0,89 điểm phần trăm so với năm 2011); còn lại 4,03% là kiểu hộ
khác (tăng 1,98 điểm phần trăm so với năm 2011); iii) Về phân loại hộ nông, lâm, thủy sản: hộ nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn
trong các hộ nông, lâm, thủy sản nhưng có xu hướng giảm. Năm 2011, hộ nông
nghiệp chiếm 84%, năm 2016 giảm còn 81,2%. Trong khi đó, hộ thủy sản tăng từ
15,8% năm 2011 lên 18,6% năm 2016; iv) Về
số hộ nông thôn phân theo nguồn thu nhập lớn nhất của hộ: 57,1% số hộ nông
thôn ở ĐBSCL có thu nhập chính từ nông, lâm, thủy sản. Tỷ lệ này giảm so với
năm 2011 (65,3%); v) Về trình độ chuyên
môn kỹ thuật của lao động nông thôn: kết quả điều tra cho thấy chất lượng,
trình độ của lao động nông thôn vùng ĐBSCL rất thấp. Năm 2016 còn tới 76,5% lao
động chưa qua đào tạo và 13,8% lao động đã qua đào tạo những không có bằng,
chứng chỉ. Lao động có trình độ cao hơn chỉ chiếm khoảng 10% còn lại (Tổng hợp
của VPĐP NTM Trung ương 2018).
2.2.2.
Kết cấu hạ tầng nông thôn
Về cơ bản, kết cấu hạ tầng nông thôn
của khu vực ĐBSCL tương đối hoàn chỉnh về điện, giao thông, trường học, y tế,
thông tin, môi trường: 100% số xã có điện; 97,93% số xã có đường ô tô từ UBND
đến UBND huyện; 98,45% số xã có trường mầm non; 99,3% số xã có trường tiểu học;
98,92% số xã có trạm y tế xã; 97,37% số xã có hệ thống loa truyền thanh xã;
81,98% số xã có công trình cấp nước sinh hoạt tập trung; 72,85% số xã có thu
gom rác thải sinh hoạt. Tuy nhiên, ở phạm vi thôn, ấp (sau đây gọi chung là
ấp), tỷ lệ ấp có đầy đủ các hạng mục cơ sở hạ tầng thiết yếu còn tương đối hạn
chế, đặc biệt với các ấp thuộc xã miền núi và xã hải đảo: 74,51% số ấp có đường
xe ô tô đến UBND xã; 46,9% số ấp có nhà văn hóa ấp; 3,88% số ấp có thư
viện;18,25% số ấp có sân thể thao; 32,37% số ấp có công trình cấp nước sinh hoạt
tập trung; 15,84% số ấp có hệ thống thoát nước thải sinh hoạt tập trung; 41,27%
số ấp có thu gom rác thải sinh hoạt (Tổng hợp của VPĐP NTM Trung ương 2018).
2.2.3. Kinh tế
nông thôn
Kinh tế nông thôn ĐBSCL thể hiện khá
rõ qua các đặc trưng sau: i) Hệ thống
chợ, cửa hàng dịch vụ phục vụ sản xuất nông lâm thủy sản: 74,63% số xã có
chợ, tuy nhiên chỉ có 31,56% số xã có chợ nằm trong quy hoạch chợ của huyện; tỷ
lệ ấp có chợ chỉ chiếm 16,79%, cho thấy phần lớn hoạt động mua bán phục vụ sinh
hoạt hàng ngày của các hộ phải di chuyển từ ấp đến xã; ii) Mạng lưới khuyến nông, lâm, ngư và thú y: 89,79% số xã có cán bộ
khuyến nông, lâm, ngư; 92,96% số xã có cán bộ thú y; 76,72% số xã có người hành
nghề thú y tư nhân. Ở phạm vi ấp, 16,66% số ấp có cộng tác viên khuyến nông,
lâm, ngư; 38,27% số ấp có cộng tác viên thú y. Tỷ lệ ấp có cộng tác viên khuyến
nông, lâm, ngư có sự chênh lệch khá lớn giữa các tỉnh trong khu vực. An Giang
và Đồng Tháp là hai tỉnh có 44,73% và 32,94% số ấp có cộng tác viên khuyến
nông, lâm, ngư, trong khi đó các tỉnh có tỷ lệ số ấp có cộng tác viên khuyến
nông, lâm, ngư thấp là Vĩnh Long, Cà Mau, Trà Vinh (lần lượt là: 0,39%; 0,75%;
7,77%). An Giang cũng là tỉnh có tới 98,93% số ấp có cộng tác viên thú y; iii) Tổ hợp tác: ĐBSCL là khu vực có tỷ lệ
THT lớn nhất cả nước. Tỷ lệ xã có THT ở ĐBSCL là 84,84% (bình quân cả nước là
28,49%); tỷ lệ xã có THT nông nghiệp, lâm nghiệp ở ĐBSCL là 75,1% (bình quân cả
nước là 25,44%); tỷ lệ xã có có THT thủy sản ở ĐBSCL là 18,64% (bình quân cả
nước là 4,99%). Số THT nông nghiệp bình quân 1 xã của cả nước là 1,71 THT/xã, ở
ĐBSCL là 7,4 THT/xã. Các tỉnh có số lượng THT bình quân 1 xã cao là: Cần Thơ
(25.83 THT/xã; Trà Vinh (17,88 THT/xã); Vĩnh Long (15,1 THT/xã); iv) Doanh nghiệp chế biến nông lâm thủy sản:
ĐBSCL có 25,21% số xã có doanh nghiệp/chi nhánh doanh nghiệp chế biến nông,
lâm, thủy sản (chỉ thấp hơn khu vực ĐNB với 50,54%); v) Làng nghề: làng nghề không phải là điểm nổi bật ở ĐBSCL khi chỉ có 7,97%
số xã có làng nghề và 2,58% số ấp có làng nghề. Xã, ấp có làng nghề tập trung ở
một số tỉnh như Bến Tre, An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long (Tổng hợp của VPĐP NTM Trung ương 2018).
2.2.4.
Đời sống dân cư nông thôn
Đời sống nông thôn ĐBSCL thể hiện nổi
bật ở một số lĩnh vực sau: i) Điều kiện
sống của hộ gia đình: 99,42% số hộ sử dụng điện; 33,83% số hộ sử dụng nước
máy; 33,2% số hộ sử dụng nước giếng khoan; 27,81% số hộ sử dụng nước mưa, sông hồ;
41,75% số hộ sử dụng củi; 56,24% số hộ sử dụng gas, biogas; 65,5% số hộ sử dụng
nhà tắm xây; 60,72% số hộ sử dụng hố xí tự hoại, bán tự hoại; 82,5% số hộ có xe
máy; 94,22% số hộ có tivi; 91,48% số hộ có điện thoại di động; 9,52% số hộ có
máy vi tính; ii) Bảo hiểm y tế, khám chữa
bệnh: 69,57% số người tham gia bảo hiểm y tế (cả nước 76,43%); 27,39% số
người được cấp miễn phí thẻ bảo hiểm y tế (cả nước 32,52%); tần suất khám chữa
bệnh tại trạm y tế xã của 1 người dân là 1,01 lượt/năm (cả nước 0,79 lượt/năm);
iii) Hoạt động văn hóa: 34,25% số hộ
nông thôn có thành viên đọc sách báo năm 2015 (cả nước 38,49%); địa điểm đọc
sách báo tại bưu điện văn hóa xã hoặc tủ sách của thôn chiếm tỷ lệ rất thấp,
lần lượt là 2,34% và 1,7% (cả nước là 2,32% và 1,1%); tỷ lệ hộ tham gia hoạt
động của nhà văn hóa ấp/xã năm 2015 là 15,96%, trong đó tỷ lệ hộ tham gia
thường xuyên là 26,26% (thấp hơn nhiều so với cả nước ở cả hai chỉ tiêu này:
53,64% và 49,88%) (Tổng hợp của VPĐP NTM
Trung ương 2018).
2.3.1.
Kết quả chung so với cả nước
Đến hết tháng 11/2018, khu vực ĐBSCL
có 7 đơn vị cấp huyện và 436 xã được công nhận đạt chuẩn NTM (chiếm 33,85% tổng
số xã trong khu vực). ĐBSCL có số đơn vị cấp huyện đạt chuẩn thấp hơn so với
ĐBSH và ĐNB. Các đơn vị cấp huyện đạt chuẩn tại ĐBSCL gồm: thị xã Bình Minh
(Vĩnh Long); huyện Phong Điền (Cần Thơ); thị xã Ngã Bảy (Hậu Giang); thành phố
Sa Đéc (Đồng Tháp); huyện Tân Hiệp (Kiên Giang); huyện Phước Long (Bạc Liêu);
thành phố Châu Đốc (An Giang). Kết quả tỷ lệ xã đạt chuẩn NTM của ĐBSCL còn
tương đối thấp (33,85%). Số tiêu chí bình quân/xã tại ĐBSCL là 14,24%, xấp xỉ bằng
bình quân chung của cả nước (14,33%), trong khi đó tỷ lệ xã đạt chuẩn của cả
nước là 41,32%, cao hơn 7,47% so với ĐBSCL. Tại ĐBSCL, các tiêu chí đạt chuẩn
chiếm tỷ lệ thấp gồm: môi trường, giao thông, cơ sở vật chất văn hóa, trường
học, hộ nghèo... (Tổng hợp của VPĐP NTM
Trung ương 2018).
2.3.2.
Kết quả xây dựng NTM ở các tỉnh trong khu vực ĐBSCL
Trong nội bộ khu
vực ĐBSCL, kết quả xây dựng NTM của từng tỉnh, thành đến hết 30/9/2018 như sau:
Kết quả thống kê ở Bảng 2 cho thấy thành phố Cần Thơ là đơn vị dẫn đầu về tỷ lệ
xã đạt chuẩn NTM với 75% số xã đã đạt chuẩn và có số tiêu chí bình quân/xã đạt
17,94 tiêu chí. Tuy nhiên, do Cần Thơ chỉ có 36 xã tham gia xây dựng NTM, đồng
thời là địa phương có điều kiện kinh tế phát triển mạnh hơn các tỉnh còn lại
trong khu vực nên kết quả này không phải là điều đáng ngạc nhiên. Đối với 12
tỉnh còn lại, Vĩnh Long, Hậu Giang và Long An có tỷ lệ xã đạt chuẩn NTM khá cao
so với bình quân chung của khu vực; kết quả thấp nhất là Bến Tre với chỉ 14,97%
số xã đạt chuẩn. Xét về số tiêu chí bình quân/xã thì các tỉnh đạt kết quả cao
lại gồm Kiên Giang, Bạc Liêu, Đồng Tháp (đều trên 15 tiêu chí), duy chỉ có
trường hợp Bến Tre do có tỷ lệ xã đạt 19 tiêu chí thấp nên kéo theo số tiêu chí
bình quân/xã cũng thấp nhất so với các tỉnh trong khu vực (11,66 tiêu chí)
(Tổng hợp của VPĐP NTM Trung ương 2018).
3. THỰC TRẠNG RỦI RO THIÊN TAI TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC TRIỂN
KHAI CHƯƠNG TRÌNH MTQG XÂY DỰNG NTM Ở ĐBSCL
3.1. Các loại rủi ro thiên tai ở vùng
ĐBSCL
1) Bão: là một trong những loại hình
thiên tai chủ yếu và nguy hiểm ở Việt Nam, trong vòng hơn 50 năm (1954- 2006)
đã có 380 trận bão và áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng đến Việt Nam, trong đó 33% đổ
bộ vào Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Bão vào thường gặp lúc triều cường nước biển
dâng cao, kèm theo mưa lớn kéo dài, gây lũ lụt. Có tới 80 - 90% dân số Việt
Nam chịu ảnh hưởng của bão. 2) Lũ lụt: Lũ các sông vùng ĐBSCL chủ
yếu từ thượng nguồn sông Mê Kông đổ về và chịu ảnh hưởng trực tiếp của thủy
triều kết hợp với khả năng điều tiết của Biển Hồ. Lũ diễn biến chậm, kéo dài
trong suốt khoảng thời gian từ 4 đến 5 tháng trong năm, làm ngập hầu hết toàn
bộ vùng đồng bằng sông Cửu Long. 3) Ngập úng: Ngập úng thường do mưa lớn
gây ra, ở một số vùng thời gian ngập úng kéo dài. Ngập úng tuy ít gây tổn thất
về người nhưng ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp và môi trường sinh thái.
4) Hạn
hán: Trong những năm gần đây, hạn hán liên tiếp xảy ra ở khắp các vùng
trong cả nước, kể cả ở vùng ĐBSCL. Hạn hán có năm làm giảm từ 20 - 30% năng
suất cây trồng, giảm sản lượng lương thực, ảnh hưởng nghiêm trọng tới chăn nuôi
và sinh hoạt của người dân. Việc chống hạn thường gặp nhiều khó khăn do thiếu
nguồn nước, các hồ chứa nước thượng nguồn cũng bị cạn kiệt. 5) Xâm
nhập mặn: Các tỉnh ven biển Tây Nam Bộ là khu vực chịu ảnh hưởng xâm
nhập mặn nghiêm trọng nhất với 1,77 triệu ha đất bị nhiễm mặn, chiếm 45% diện
tích. Chi phí xây dựng các công trình ngăn mặn, giữ ngọt rất tốn kém. 6) Tố,
lốc: Tố là hiện tượng gió
mạnh đột ngột, phạm vi hẹp, do đám mây dông phát triển đặc biệt mạnh tạo ra.
Tố có hướng gió thay đổi đột ngột, tốc độ gió từ cấp 8 trở lên. Kèm theo tố
thường là mưa rào, cá biệt còn có cả mưa đá. Lốc là vùng gió xoáy phạm
vi rất hẹp nhưng cường độ gió lại rất mạnh, do đám mây dông mạnh và có cấu trúc
đặc biệt tạo nên. Tố thường kèm theo gió mạnh gây đổ cây cối, nhà cửa, phá huỷ
đường dây thông tin, đường dây tải điện, làm đắm tàu thuyền cỡ nhỏ. 7) Sạt
lở: bao gồm: sạt lở bờ sông, bờ biển, các sườn núi dốc và lún, nứt
đất. Sạt lở bờ sông là hiện tượng phổ biến xảy ra hàng năm tại các sông thuộc
vùng ĐBSCL làm mất đi số lượng đáng kể diện tích đất ở, đất canh tác; phá huỷ
nhiều làng mạc ven sông. Sạt lở bờ biển do sóng, thuỷ triều, nước biển dâng và
dòng hải lưu gây ra, dẫn đến biển xâm thực, mất nhà ở, phá huỷ môi trường. 8) Động
đất và sóng thần: Động đất là
sự rung động mặt đất, được tạo ra bởi các dịch chuyển đột ngột của các khối
địa chất trong lòng đất, các vụ nổ núi lửa, các vụ trượt lở đất. Sóng thần là sóng biển có chu kỳ dài,
lan truyền với tốc độ lớn. Khi tới gần bờ, tùy theo độ sâu của biển và địa
hình vùng bờ, sóng thần có thể đạt độ cao lớn tới hàng chục mét, tràn sâu vào
đất liền, gây ra thảm họa lớn. 9) Nước biển dâng: là hiện tượng mực
nước biển trung bình hàng năm cao hơn mức mực nước biển trung bình nhiều năm
trước do ảnh hưởng của biến đối khí hậu toàn cầu, là một nguy cơ thiên tai to
lớn đối với vùng ĐBSCL. (Phụ lục II: Thiên
tai và công tác phòng, chống giảm nhẹ thiên tai ở Việt Nam, Ban hành kèm
theo Quyết định số 172/2007/QĐ-TTg., ngày 16 tháng 11 năm 2007 của Thủ tướng
Chính phủ).
3.2. Khung cấp độ rủi ro thiên tai ở
vùng ĐBSCL
Theo quy định chi tiết của Chính phủ, rủi ro
thiên tai gồm có: 1) Cấp độ rủi ro thiên tai do áp
thấp nhiệt đới, bão có 3 cấp, thấp nhất là cấp 3 và cao nhất là
cấp 5. 2) Cấp độ rủi ro thiên tai do lốc, sét, mưa đá
có 2 cấp: i) Rủi ro thiên tai cấp độ 1: Lốc, sét, mưa đá mức độ trung bình,
trên phạm vi nhỏ. ii) Rủi ro thiên tai cấp độ 2: Lốc, sét, mưa đá mức độ mạnh,
trên phạm vi rộng. 3) Cấp độ rủi ro thiên tai do mưa lớn
có 3 cấp: i) Rủi ro thiên tai cấp độ 1; ii) Rủi ro thiên tai cấp độ 2; iii) Rủi
ro thiên tai cấp độ 3. 4) Cấp độ rủi ro thiên tai do
nắng nóng có 3 cấp: i) Rủi ro thiên tai cấp độ 1; ii)
Rủi ro thiên tai cấp độ 2; iii) Rủi ro thiên tai cấp độ 3. 5). Cấp độ rủi ro thiên tai do
hạn hán có 4 cấp: 1). Rủi ro thiên tai cấp độ 1;
ii) Rủi ro thiên tai cấp độ 2; iii) Rủi ro thiên tai cấp độ 3; iv) Rủi ro thiên
tai cấp độ 4 khi xảy ra tình trạng thiếu hụt lượng mưa tháng tới trên 50%, kéo
dài trên 6 tháng và nguồn nước trong khu vực hạn hán thiếu hụt tới trên 70% so
với trung bình nhiều năm. 6). Cấp độ rủi ro thiên tai do lũ, ngập lụt
có 5 cấp: i) Rủi ro thiên tai cấp độ 1; ii) Rủi ro thiên tai cấp độ 2; iii) Rủi
ro thiên tai cấp độ 3; iv) Rủi ro thiên tai cấp độ 4; v) Rủi ro thiên tai cấp
độ 5 là cấp độ rủi ro thiên tai do lũ, ngập lụt khi có tác động tổ hợp với các
thiên tai khác. 7) Cấp độ rủi ro thiên tai do sạt lở đất, sụt lún đất do
mưa lũ hoặc dòng chảy có 2 cấp: i). Rủi ro thiên tai cấp độ 1;
ii) Rủi ro thiên tai cấp độ 2 khi có khả năng xảy ra mưa với lượng mưa trên 300
mm trong 24 giờ, mưa đã xảy ra trước đó trên 2 ngày, trên các sườn dốc có độ
dốc cao hơn 25 độ, với các nền đất yếu, đất bở rời; hoặc đất sườn tàn tích. 8) Cấp độ rủi ro thiên tai do xâm nhập mặn
có 2 cấp: i) Rủi ro thiên tai cấp độ 1; ii) Rủi ro thiên tai cấp độ 2 khi xảy
ra trường hợp nhiều cửa sông vùng ven biển bị nhiễm mặn với ranh giới độ mặn 4‰
xâm nhập vào sâu tới hơn 50 km tính từ cửa sông. 9) Cấp độ rủi ro thiên tai do
nước dâng có 3 cấp: i) Rủi ro thiên tai cấp độ 1;
ii) Rủi ro thiên tai cấp độ 2; iii) Rủi ro thiên tai cấp độ 3 khi độ cao nước
dâng từ trên 4 m đến 6 m ở dải ven biển Nam Bộ. 10). Cấp độ rủi ro thiên tai do
gió mạnh trên biển có 3 cấp: i) Rủi ro thiên tai cấp độ 1;
ii) Rủi ro thiên tai cấp độ 2; iii) Rủi ro thiên tai cấp độ 3 khi có gió mạnh
từ cấp 9 trở lên, xảy ra trên vùng biển ven bờ. 11). Cấp độ rủi ro thiên tai do
động đất có 5 cấp: 1). Rủi ro thiên tai cấp độ 1;
ii) Rủi ro thiên tai cấp độ 2; iii) Rủi ro thiên tai cấp độ 3; iv) Rủi ro thiên
tai cấp độ 4; v) Rủi ro thiên tai cấp độ 5 khi cường độ chấn động trên mặt đất
quan trắc được lớn hơn cấp VIII, xảy ra ở bất kỳ khu vực nào thuộc lãnh thổ
Việt Nam. 12). Cấp độ rủi ro thiên tai do sóng thần
có 2 cấp là cấp 3 và cấp 5: i) Rủi ro thiên tai cấp độ 3 khi phát hiện sóng
thần không có sức hủy diệt, nhưng có thể gây ra sóng lớn, bất ngờ ở các dải ven
biển; ii) Rủi ro thiên tai cấp độ 5 có sức hủy diệt, ảnh hưởng trực tiếp đến
Việt Nam (Thủ tướng Chính phủ 2014).
3.3. Rủi ro thiên tai tác động đến
công cuộc xây dựng NTM ở vùng ĐBSCL
Ủy ban Liên chính phủ về biến đổi khí hậu đã
công nhận 3 vùng châu thổ được xếp trong nhóm cực kỳ nguy cấp do biến đổi khí
hậu là: vùng hạ lưu sông Mê Kông (Việt Nam), sông Ganges - Brahmaputra
(Bangladesh) và sông Nile (Ai Cập) (IPCC, 2007). Việt Nam nằm trong nhóm 5 quốc
gia chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất do mực nước biển dâng. Hầu hết các tác
động này là ở vùng
ĐBSCL (Dasgupta, S.,
Laplante, B., Meisner, C. M., Wheeler, D., & Jianping Yan, D., 2007). Các nghiên cứu
dựa trên mô hình khí hậu vùng PRECIS với kịch bản A2 và B2, dựa vào chuỗi số
liệu khí hậu giai đoạn 1980-2000 cho thấy, vùng ĐBSCL sẽ bị tác động sau: i)
Nhiệt độ cao nhất trung bình trong mùa khô sẽ gia tăng từ 33-350C
lên 35-370C; ii) Lượng mưa đầu vụ hè thu (15/4-15/5) sẽ giảm chừng
10-20%; iii) Sự phân bố mưa tháng sẽ có khuynh hướng giảm vào đầu và giữa vụ hè
thu nhưng gia tăng một chút vào cuối mùa mưa; iv) Tổng lượng mưa năm tại An Giang,
Cần Thơ và Sóc Trăng sẽ giảm chừng 20%, thời kỳ bắt đầu mùa mưa sẽ trễ hơn
khoảng 2 tuần lễ. Kết quả nghiên
cứu từ mô hình khí hậu, mô phỏng thủy văn, và mô hình lưu thông đại
dương sau đó được đưa vào mô hình thủy động lực, mô hình EIA 3D, để phân tích
thủy văn chi tiết hơn về hệ thống vùng lũ sông Mê Kông. Mô hình này có thể mô
tả các đặc điểm ba chiều của lũ lụt, dòng chảy, chất lượng nước, và xói mòn và
bồi lắng trong các hồ, hồ chứa, kênh sông và vùng ngập lũ của khu vực nghiên
cứu (Koponen J, Kummu
M, Sarkkula J., 2004; Water and Development Research Group, Helsinki University
of Technology, Finland and Southeast Asia START Regional Center [SEA START RC],
Chulalongkorn University, Thailand 2009). Nhìn chung, diễn biến khí hậu hiện
nay và tương lai đang ngày càng trở thành những yếu tố bất lợi cho sản xuất,
sinh kế và đời sống của người dân ĐBSCL (Le Anh Tuan and Suppakorn Chinvanno, 2011, p. 210).
Tác động của BĐKH có thể chia thành các mức độ
như sau: i) Mức độ cao (cao và rất
cao): BĐKH có thể gây ra những tổn thất đáng kể về kinh tế,
sinh thái - môi trường và xã hội; ii) Mức độ trung bình: BĐKH gây một số khó khăn nhất định về
sinh kế, nếu có sự hỗ trợ của chính quyền, các nhà khoa học và các tổ chức xã hội
có thể hạn chế các tác động; iii) Mức
độ thấp (thấp và rất thấp): BĐKH có một số tác động làm hạn
chế hoạt động sinh kế người dân, có nguy cơ bị tổn thương và có thể tự chống đỡ
và phục hồi (Lê Anh Tuấn, Hoàng Thị Thủy và Võ Văn Ngoan, 2014).
3.3.1. Tác động của biến đổi khí hậu đến sản
xuất nông nghiệp ở ĐBSCL
Nhiều công trình nghiên cứu khẳng định vùng
ĐBSCL là khu vực dễ bị tổn thương của biến đổi khí hậu và nước biển dâng (Peter and Ruysschaert 2008;
Dasgupta et al. 2007; IPCC 2007; UNDP 2007; ADB 1994). Biến đổi khí hậu sẽ có tác
động phức tạp và đáng kể đến sản xuất nông nghiệp và chất lượng cuộc sống
nói chung trong khu vực. Các khu vực dành cho sản xuất nông nghiệp, như các cánh đồng lúa, vườn cây ăn
quả và nuôi trồng thủy sản sẽ thu hẹp; sản lượng và năng lực sẽ
giảm. Thực tế cho thấy,
mùa khô năm 2016, mặn đã xâm nhập sâu đến 90 km vào các tỉnh/thành ven biển ở
ĐBSCL, với diện tích khoảng 300.000 ha. (Entzinger, Han và Peter Scholten,
2016). Tại vùng Hạ châu thổ ĐBSCL thuộc Bến Tre cho thấy: từ năm 1982 đến 1993
nồng độ mặn cao nhất thường diễn ra vào các đỉnh điểm mùa khô vào các tháng 2,
3, 4. Ranh mặn 6‰ vào tháng 12 xuất hiện cách huyện Ba Tri 6 km, qua các xã
Bình Thới (huyện Bình Đại), Mỹ Nhơn (huyện Ba Tri). Năm 2010, ranh mặn 4‰ xâm
nhập các sông chính lên tới 60km, ranh mặn 1‰ gần như bao phủ toàn tỉnh. Năm
2013, ranh mặn 1‰ trên 3 sông lớn là Hàm Luông, Cửa Đại và Cổ Chiên vào sâu
trong đất liền từ 57 - 68km, gần như toàn bộ diện tích tỉnh Bến Tre chìm trong
nước mặn. Năm 2016, cả tỉnh có 155/164 xã, phường, thị trấn bị nhiễm mặn với độ
mặn 1g/lít. Đây cũng là tỉnh đầu tiên ở ĐBSCL công bố thiên tai hạn mặn và phải
đề nghị Trung ương hỗ trợ khẩn cấp 80 tỷ đồng để đắp hàng loạt đập tạm ngăn
mặn. Khí hậu thay đổi thất thường, nắng nóng kéo dài, nhiệt độ thay đổi đột ngột
giữa ngày và đêm làm tôm, nghêu và sò huyết bị sốc nhiệt và chết hàng loạt.
Triều cường diễn ra từ tháng 9 đến tháng 1 năm sau làm ngập úng cục bộ một số
nơi. Tình trạng sạt lở đất diễn ra thường xuyên, nhất là vùng cửa sông và ven
biển từ tháng 8 đến tháng 12 hàng năm. Lốc xoáy xảy ra vào khoảng từ tháng 8
đến tháng 11 hàng năm. Bão, áp thấp nhiệt đới không chỉ gây tổn thất ngay thời
điểm xảy ra mà nó còn làm ảnh hưởng đến các vụ trồng trọt và nuôi thuỷ sản ở
các mùa vụ vào những năm tiếp theo. (Nguyễn Thị Thu Thủy, 2018, tr. 468-470).
3.3.2. Tác động của biến đổi khí hậu đến đời
sống người dân ở ĐBSCL
Theo
các kịch bản BĐKH của IPCC (2007) và Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam (VN)
(2009), ba huyện Ba Tri, Bình Đại và Thạnh Phú của Bến Tre nằm trong khu vực
chịu ảnh hưởng nặng nề của BĐKH. Theo kịch bản mới nhất (năm 2016) của Bộ Tài
nguyên và môi trường, nếu mực nước biển dâng 50cm thì 6,21% diện tích tỉnh Bến
Tre có nguy cơ ngập, nước biển dâng 80cm là 12,8% và khi nước biển dâng 100 cm
thì ngập 22,2%. Trong đó, các huyện có diện tích ngập lớn nhất tỉnh là Ba Tri
(45,91% diện tích), Bình Đại (34,16%), Thạnh Phú (47%) (Bộ TN&MT 2016). Từ năm 1996 đến
2010, Bến Tre có khoảng 9 đợt lũ và nước dâng do triều cường. Các đợt lũ ở Bến
Tre là “lũ mặn”, hàng năm vào mùa mưa khi gió chướng xuất hiện kết hợp với
triều cường đẩy nước mặn vào sâu trong nội đồng gây tình trạng ngập lụt cục bộ
và xói lở bờ biển. Các cơn bão ảnh hưởng trực tiếp đến tỉnh Bến Tre bao gồm:
bão số 5 Linda (năm 1997), bão số 7 Dawn (1998) và siêu bão số 9 Durian (2006).
Bão Durian với sức gió mạnh 150 km/ giờ giật trên 185 km/ giờ, gió, lốc xoáy,
“lũ mặn” đã gây thiệt hại nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất của các nông hộ,
đã làm 989 ha hoa màu hư hại nặng, các hộ nuôi tôm bị tràn bờ, các hoạt động
diêm nghiệp, đánh bắt đình trệ. Thiệt hại nặng nề nhất là tại 3 huyện vùng ven
biển: Tại huyện Thạnh Phú, tất cả hệ thống điện của huyện bị mất hoàn toàn. Có
1.096 ngôi nhà bị tốc mái, 285 ngôi nhà bị sập. Tại huyện Ba Tri, sập hoàn toàn
4.338 căn nhà, tốc mái hư hỏng 16.403 căn, làm 2 người chết, 99 người bị
thương, chìm 10 chiếc tàu. Định mức thiệt hại toàn huyện trên 282,67 tỷ đồng.
Tại huyện Bình Đại, có 7 người chết do nhà sập, cây đè. 60 người bị thương, sập
hoàn toàn 2.753 căn nhà và tốc mái 24.534 căn. (Nguyễn Thị Thu Thủy, 2018, tr.
465-467). Thêm vào đó, nước tràn vào nhà gây ô nhiễm môi trường, phát sinh bệnh
tật; ngoài ra, mưa bão còn làm hệ thống đê biển dễ bị phá vỡ, đe dọa các công
trình ven biển, tàn phá rừng ngập mặn, sạt lở, xói mòn đất (Nguyễn Thị Thu
Thủy, 2018 tr. 467).
3.3.3.
Tác động của biến đổi khí hậu và di cư ở ĐBSCL
Áp
lực môi trường lên vùng đồng bằng sông Cửu Long vốn dễ bị tổn thương đã góp
phần tạo nên các luồng di cư lớn trong thập kỷ qua. Luồng di cư này bao gồm di
cư nội vùng, cũng như sự hình thành hành lang di cư giữa vùng đồng bằng sông
Cửu Long và khu vực Thành phố Hồ Chí Minh (Entzinger, Han và Peter Scholten,
2016). Di cư có thể dẫn đến sự gia tăng dân số đáng kể, ảnh
hưởng đến quy hoạch đô thị và tạo ra các vấn đề xã hội mới, từ đó sẽ có tác
động môi trường đối với các khu vực đô thị (Water and Development Research Group,
Helsinki University of Technology, Finland and Southeast Asia START Regional
Center [SEA START RC], Chulalongkorn University, Thailand 2009). Trong giai
đoạn từ năm 2004-2009, di cư thuần từ vùng đồng bằng sông Cửu Long vào khu vực
Đông Nam Bộ (bao gồm Thành phố Hồ Chí Minh) đã đạt đến 714.000 người. Tính đến
nay, đây là hành lang di cư lớn nhất ở Việt Nam (Tổng cục Thống kê Việt Nam,
2009). Người di cư tự phát từ vùng đồng bằng sông Cửu Long gặp phải một số trở
ngại do hệ thống đăng ký lưu trú của Việt Nam, hay còn gọi là hệ thống hộ khẩu
(Entzinger, Han và Peter Scholten, 2016). Để được hưởng đầy đủ các dịch vụ địa
phương, người di cư phải đăng ký lưu trú tại xã/phường nơi họ muốn sinh sống
gồm đăng ký thường trú hoặc tạm trú. (Đặng Nguyên Anh 2009) Nếu không đăng ký,
người di cư sẽ không được hưởng các dịch vụ này hoặc phải quay trở về địa phương
cũ. Tuy đã có luật để đăng ký lưu trú của người di cư giữa các tỉnh hiệu quả
hơn, nhưng nghiên cứu cho thấy rằng luật này vẫn chưa có tác động đáng kể (Chun
và Sang, 2012; Demombynes và Vũ, 2016). Người di cư, kể cả từ vùng ĐBSCL đến,
hiện chiếm 21% dân số Thành phố Hồ Chí Minh (Đặng Nguyên Anh, Leonardelli và
Dipierri, 2016). Sau trận lụt nghiêm trọng năm 2000, ý thức về sự cần thiết của
việc tái định cư để thích ứng với biến đổi môi trường đã được nêu rõ trong một
chương trình toàn diện của chính phủ với tên gọi “Sống chung với lũ” (Võ và
Mushtaq, 2011). Chương trình đã thực hiện tái định cư cho hơn 90.000 hộ gia
đình trong vùng đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn 2009-2013 (Ban chỉ đạo
phòng chống lụt bão Trung ương, 2009; Liên Hợp Quốc tại Việt Nam, 2014: 3).
Nghiên cứu trường hợp tại xã Vĩnh Lộc, huyện An Phú,
An Giang cho thấy biến đổi khí hậu, áp lực môi trường chính là động lực thúc đẩy một cách mạnh mẽ dòng di dư rời khỏi địa phương. Theo
số liệu di cư từ năm 2009-2014, An Giang đã là một tỉnh có tỷ lệ xuất cư trên 1000 dân lớn thứ ba, chiếm đến 52,2% trong ba tỉnh thuộc ĐBSCL, chỉ đứng sau Hậu Giang (56,4%) và Cà Mau (54,3%) (Tổng cục thống kê, 2015). Bên cạnh đó, qua kết quả nghiên cứu của đề tài tại 7 tỉnh điển hình thuộc ĐBSCL cũng cho thấy thêm rằng An Giang đang là tỉnh đứng đầu trong 7 tỉnh về số hộ gia đình có người đã và đang di cư khỏi địa phương cư trú chiếm đến 73,8%, tiếp đến là Hậu Giang (68%), Trà Vinh (67,3%), Tiền Giang (64%), Cà Mau (58,7%), Long An (43%)
và Cần Thơ (36,5%). Chính vì vậy, việc quan tâm đến các động thái di cư ở An Giang là một trong những nhiệm vụ rất cấp thiết trong bối cảnh đương đại. Riêng trường hợp tại xã Vĩnh Lộc, tỷ lệ gia đình có người đã và đang rời khỏi địa phương đã lên đến 72% (Nguyễn Văn Bình 2018, tr. 265). Biểu đồ trên đã cho thấy lịch sử động thái di cư tại xã Vĩnh Lộc có xu
hướng tăng qua từng năm và có thể nói 2009 là điểm xuất phát đáng lưu ý khi tỷ lệ di cư tăng đột biến lên ở mức 2,7% khi con số này luôn được ổn định chưa từng vượt qua khỏi mức 2% trong suốt hơn 4 thập niên kể từ thời điểm đó. Đặc biệt dòng di cư xuất hiện ngày càng phổ biến trong những năm gần đây, điển hình nhất là trong những năm 2012, 2013 và 2015, đây 3 năm có tỷ lệ người rời khỏi địa phương cao nhất và đột biến, lần lượt chiếm 4,2%; 4,5% và cuối cùng là 4%, tăng gấp đôi so với những năm trước đó như 2011 chỉ chiếm 2,7%, 2010 chiếm 2,2%. Trong khi đó, giai đoạn 2012-2015 người dân Vĩnh Lộc phải đối mặt với nhiều khó khăn do sự thay đổi nhanh chóng quy luật của mùa lũ, mực nước trở nên thấp hơn mức bình thường và đỉnh điểm vào năm
2015 nước lũ hoàn toàn không về trên đồng xã
Vĩnh Lộc (dẫn theo Nguyễn Văn Bình 2018, tr. 259).
4. NÂNG
CAO NĂNG LỰC QUẢN LÝ RỦI RO THIÊN TAI DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG TRONG XÂY DỰNG NTM Ở
VÙNG ĐBSCL
4.1. Tầm quan
trọng, khái niệm cơ bản, nguyên tắc và các bước thực hiện QLRRTTDVCĐ
4.1.1. Tầm quan trọng của việc nâng cao năng
lực QLRRTTDVCĐ
Sáng kiến nâng cao năng lực quản lý rủi ro
thiên tai dựa vào cộng đồng (QLRRTTDVCĐ) đã được thực hiện ở nhiều nơi trên thế
giới và đã đem lại kết quả rõ ràng. Tuy nhiên, nhiều dự án vẫn phải dựa vào
nguồn hỗ trợ tài chính từ bên ngoài và thường khi kết thúc tài trợ cũng có
nghĩa kết thúc các hoạt động này. Do đó, khi nào cộng đồng còn chưa đủ năng lực
trở thành những người chủ dự án, thì dự án không thể thực hiện được một cách
bền vững. Để áp dụng bài học này một cách hiệu quả, cần phải có cơ chế thực
hiện việc nâng cao năng lực QLRRTTDVCĐ cho mọi người dân và các bên liên quan
(Bộ NN& PTNT – HCTĐ Việt Nam – CTIC, 2017, tr. 25-26). Việc nâng cao năng
lực QLRRTTDVCĐ là rất quan trọng vì: i) Người dân địa phương cần có đủ năng lực
hiểu rõ về các cơ hội cũng như hạn chế của mình; ii) Người dân hiểu rõ về các
vấn đề địa phương khi cuộc sống và lợi ích của họ bị đe dọa; ii) Chính cộng
đồng là nguồn lực phát triển dồi dào và quý giá nhất của địa phương. Vì vậy,
trong QLRRTTDVCĐ và thích ứng với BĐKH, năng lực của cộng đồng có vai trò chính
yếu trong tất cả các quá trình quản lý rủi ro thảm họa một cách hiệu quả. Nâng
cao năng lực QLRRTTDVCĐ cho chính cộng đồng còn đặc biệt quan trọng ở các khía
cạnh sau: i) Nâng cao năng lực thông tin tốt hơn cho cộng đồng:
Các cộng đồng địa phương là nguồn thông tin tốt nhất về môi trường sống của
họ; vì vậy cần nâng cao năng lực thu thập thông tin đầy đủ và chính xác hơn,
phản ánh được tâm tư, nguyện vọng và tình trạng thực tế của họ; ii) Nâng
cao năng lực tham gia cho cộng đồng: Quá trình tham gia của
người dân làm tăng niềm tin, phát triển kỹ năng, năng lực và hợp tác của người
dân địa phương; iii) Nâng cao năng lực ứng phó thích hợp hơn để
cộng đồng có đủ năng lực đưa ra được các giải pháp ứng phó thích hợp hơn đối
với nhu cầu và mong muốn của người dân; iv) Nâng
cao năng lực học hỏi chuyên môn cho
cộng đồng giúp cho các
chuyên gia bên ngoài sẽ có hiểu biết toàn diện hơn về cộng đồng khi họ giúp đỡ
cộng đồng; v) Nâng cao năng lực hướng tới phát triển của cộng đồng giúp các thành viên hiểu biết rõ ràng
về các giải pháp thực tế đối với cộng đồng và họ sẽ có thái độ tích cực đối với
phát triển; vi) Nâng cao năng lực giảm thiểu chi phí QLRRTTDVCĐ ở mức thấp hơn giúp người dân có đủ năng lực quản lý
và bảo vệ môi trường tốt hơn; vii) Nâng
cao năng lực của cộng đồng nhằm đưa ra các giải pháp mang tính nhân văn
và bền vững hơn góp phần làm cho cuộc sống của cộng đồng địa phương
ổn định và bền vững hơn (Bộ NN& PTNT – HCTĐ Việt Nam – CTIC, 2017, tr.
27-28).
4.1.2. Giải thích các khái niệm cơ bản
Cộng đồng: Một cộng đồng có thể được xem là một
nhóm người cùng có một hoặc nhiều điểm chung, như cùng môi trường sống, nơi
sống, cùng chịu rủi ro thảm họa hoặc cùng chịu ảnh hưởng do rủi ro thảm họa gây
ra. Họ có thể cùng chia sẻ những vấn đề, mối quan tâm, hy vọng hoặc cách ứng
xử. Tuy nhiên, cộng đồng không phải lúc nào cũng đồng nhất do các thành viên
trong cộng đồng có thể có các mối quan tâm khác nhau. Trong báo cáo này, thuật
ngữ cộng đồng được sử dụng để mô tả những người cùng sống trong thôn, xã thuộc
địa phương cụ thể (Bộ NN& PTNT – HCTĐ Việt Nam – CTIC, 2017, tr.27).
Quản lý rủi ro thiên
tai: là quá trình sử dụng các quyết định hành chính, tổ chức, kỹ năng và năng lực
quản trị một cách hệ thống để thực hiện các chính sách, chiến lược và các năng
lực ứng phó của cộng đồng và xã hội để làm giảm tác động của rủi ro thiên tai. Quản lý rủi ro
thiên tai bao gồm tất cả các hình thức hoạt động, các biện pháp cấu trúc và phi cấu
trúc để tránh (phòng ngừa) hoặc hạn chế (giảm thiểu, chuẩn bị và ứng phó) với
các tác động tiêu cực của các nguy cơ. Quản lý rủi ro thiên tai thường được chia
thành ba lĩnh vực hoạt động chính: i) Giảm thiểu rủi ro thiên tai (phòng ngừa,
giảm nhẹ, và chuẩn bị); ii) Ứng phó rủi ro thiên tai (cứu hộ và cứu
trợ), và iii) Phục hồi rủi
ro thiên tai: trong khi các lĩnh vực hoạt động này thường được gọi là các “giai đoạn”
riêng biệt hoặc các hợp phần của quản lý rủi ro thiên tai cho việc tài trợ
hành chính và các mục đích xây dựng chương trình, thì trong thực tế chúng đan
xen và ảnh hưởng lẫn nhau (United Nations Office for Disaster Risk
Reduction 2013).
Giảm nhẹ thiên
tai: Bao gồm các biện
pháp được tiến hành nhằm mục tiêu giảm bớt những tác động tiêu cực của thiên
tai tới cộng đồng, xã hội và môi trường. Giảm nhẹ đề cập đến các biện pháp có
thể tiến hành để giảm thiểu tác động phá huỷ và gây ngừng trệ của thiên tai và
nhờ đó, giảm bớt mức độ nghiêm trọng của thiên tai. Các biện pháp giảm nhẹ
thiên tai, được chia thành hai lọai biện pháp chính: 1) Biện pháp công trình: bao gồm việc đầu tư xây dựng các công
trình để kiểm soát và hạn chế những thiệt hại trực tiếp do thiên tai gây ra,
như: hệ thống đê, kè, đập, hồ chứa nước để ngăn lũ, hệ thống kênh mương để tiêu
thoát nước lũ trong mùa mưa, dẫn ngọt trong mùa khô, hệ thống cầu, đường, bến
cảng, khu neo đậu tàu thuyền, các điểm/ nhà tránh, trú lũ, bão, vv,.... 2) Biện pháp phi công trình: bao gồm các
biện pháp mang tính chất pháp lý như: ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
phục vụ cho công tác quản lý thiên tai (nghiêm cấm người dân xây dựng nhà ở phía
ngoài đê, cấm tàu, thuyền ra khơi khi có bão, áp thấp nhiệt đới...), hay các
biện pháp để triển khai các hoạt động cụ thể nhằm giảm thiểu các ảnh hưởng tiêu
cực của thiên tai mà không cần phải đầu tư nhiều kinh phí, vật tư, thiết bị và
nhân công để xây dựng những công trình có quy mô lớn, như: các hoạt động đào
tạo, lập kế hoạch, nâng cao nhận thức cộng đồng, tăng cường tăng lực, thay đổi
cơ cấu mùa vụ, giống vật nuôi, cây trồng... (Cục Quản lý đê điều và Phòng chống
lụt bão, 2010, tr. 2-3)
Ứng phó với rủi ro thiên tai: là việc cung cấp trợ giúp hoặc can
thiệp trong hoặc ngay sau khi rủi
ro xảy ra để đáp ứng được nhu cầu của những người bị ảnh hưởng, thhông thường
là trung hạn và ngắn hạn. Ứng phó rủi ro thiên tai bao gồm các hoạt
động cứu trợ khẩn cấp, như cung cấp thực phẩm, nước và vệ sinh, nhà ở, dịch vụ
y tế và các trợ giúp khác cho người bị ảnh hưởng; bảo vệ những người dễ bị tổn
thương - ví dụ như những người không tự nguyện di chuyển khỏi nhà của họ do một
sự cố nguy hại hoặc có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như khuyết tật (The
Sphere Project, 2011). Vì những lý do này, cần phải thực hiện giảm nhẹ nhằm hỗ
trợ và củng cố việc phục hồi sớm và giảm nguy cơ đối với những người bị ảnh
hưởng rủi ro thiên tai (De Silva, Samantha; Burton Cynthia 2008).
Phục hồi rủi ro thiên
tai: là các quyết định và hành động được thực hiện sau rủi ro thiên tai nhằm phục hồi
hoặc cải thiện cuộc sống của cộng đồng bị ảnh hưởng, đồng thời khuyến khích và
tạo điều kiện cho việc điều chỉnh cần thiết để giảm nguy cơ rủi ro thiên tai. Phục hồi là cơ
hội để phát triển và áp dụng các biện pháp giảm nguy cơ rủi ro thiên tai (United
Nations, 2004). Đặc biệt là trường hợp các thành viên là lao động chính
trong gia đình bị chết hoặc bị khuyết tật vĩnh viễn. Đối với nhiều hộ gia đình,
tình trạng dễ bị tổn thương về kinh tế và xã hội của họ sẽ không chỉ tăng lên,
mà khả năng đối phó với những cú sốc tương lai cũng có thể bị xói mòn. Do đó,
để có hiệu quả và bền vững, các sáng kiến phục hồi phải gắn với bối cảnh và quy
trình phát triển của quốc gia và địa phương, cũng như sự hiểu biết về các điều
kiện kinh tế, xã hội và chính trị đã tồn tại trước rủi ro thiên tai (De Silva,
Samantha; Burton Cynthia 2008).
Nâng cao năng lực QLRRTTDVCĐ: là quá trình nâng cao năng lực giảm thiểu tình trạng dễ bị tổn thương của người dân và tăng cường năng lực của họ trong việc phòng ngừa, giảm nhẹ và chuẩn bị ứng phó với thảm họa thiên tai. Trước hết là nâng cao năng lực đánh giá toàn diện về mức độ rủi ro của người dân đối với thiên tai và phân tích tình trạng dễ bị tổn thương cũng như năng lực của họ là cơ sở của chương trình giảm nhẹ rủi ro thiên tai. Tiếp đó là việc nâng cao năng lực tham gia trực tiếp của người dân trong cộng đồng vào quá trình thực hiện các hoạt động giảm nhẹ rủi ro thiên tai (GNRRTT) ở cấp địa phương. Mục tiêu của nâng cao năng lực QLRRTTDVCĐ là tạo ra một cộng đồng có đủ năng lực đảm bảo cho mình an toàn hơn, có năng lực thích ứng cao hơn. Phương pháp nâng cao năng lực QLRRTTDVCĐ trước hết là làm cho người dân có đủ năng lực chịu rủi ro, chủ động tham gia vào việc xác định, phân tích, xử lý, giám sát và đánh giá rủi ro thảm họa nhằm giảm tình trạng dễ bị tổn thương và không ngừng nâng cao năng lực của họ (Bộ NN& PTNT – HCTĐ Việt Nam – CTIC, 2017, tr.28).
4.1.3. Nguyên tắc nâng cao năng lực QLRRTTDVCĐ
1) Nâng cao năng lực để cộng đồng có thể đóng vai trò trung tâm và tham
gia tích cực vào các hoạt động QLRRTTDVCĐ: Nâng cao năng lực của cộng đồng trước hết là làm cho cộng đồng không
chỉ là đối tượng hưởng lợi trực tiếp mà còn đóng vai trò chính trong QLRRTT và
thích ứng với BĐKH (bao gồm năng lực lập kế hoạch, thực hiện, quản lý, theo dõi
và đánh giá các hoạt động dựa trên nhu cầu của cộng đồng); làm cho cộng đồng có
đủ năng lực thực sự tham gia vào toàn bộ quy trình QLRRTT và thích ứng với
BĐKH: có đủ năng lực đánh giá rủi ro, xây dựng kế hoạch, lựa chọn và thực hiện
các biện pháp giảm nhẹ rủi ro thảm họa, có đủ năng lực theo dõi và đánh giá các
hoạt động QLRRTT và thích ứng với BĐKH. 2) Nâng cao năng lực của cộng đồng trong việc
sắp xếp ưu tiên cho nhóm người dễ bị tổn thương nhất: Bất cứ một
hoạt động hay giai đoạn QLRRTTDVCĐ nào cũng cần được xây dựng dựa trên lợi ích
của những nhóm người dễ bị tổn thương nhất trong cộng đồng, bao gồm phụ nữ,
người già, người khuyết tật, người nghèo; người bị bệnh hiểm nghèo, các nhóm
DTTS, hộ gia đình đơn thân và trẻ em. Nâng cao năng lực QLRRTTDVCĐ còn bao gồm
cả các vấn đề giới và đảm bảo cho phụ nữ của cộng đồng có đủ năng lực và cơ hội
tham gia vào tất cả các giai đoạn thực hiện nhằm đảm bảo vai trò, nhu cầu và
bình đẳng giới giữa nam và nữ. 3) Nâng
cao năng lực nhận thức về rủi ro, tình
trạng dễ bị tổn thương và khả năng của cộng đồng: i) Nâng cao năng lực nhận thức rủi ro là: Tất cả mọi người đều có đủ
năng lực thấy được rủi ro trong cộng đồng mình, cộng đồng cần có đủ năng lực
nhận thức, tôn trọng và ghi nhận sự đa dạng đó; ii) Nâng cao năng lực nhận thức về tình trạng dễ bị tổn thương và
khả năng của các thành viên cộng đồng: Các cá nhân, gia đình và các
nhóm khác nhau trong cộng đồng cần được nâng cao năng lực nhận thức để hiểu rõ
tình trạng dễ bị tổn thương và khả năng khác nhau của từng cá nhân, hộ gia
đình, và các nhóm người khác nhau. Sự khác nhau đó là do: lứa tuổi, giới tính,
tầng lớp xã hội, nghề nghiệp, sinh kế, tộc người, ngôn ngữ, tôn giáo, văn hóa,
môi trường sống của họ. 4) Nâng cao năng
lực áp dụng các phương pháp tiếp cận đa
ngành, đa lĩnh vực: i) Nâng cao năng lực của cộng đồng trong việc
huy động các tổ chức, cá nhân bên ngoài cộng đồng tham gia hỗ trợ và hướng dẫn
người dân địa phương trong quá trình quản lý rủi ro thiên tai khi cần thiết;
ii) Nâng cao năng lực của cộng đồng trong việc sử dụng hàng loạt phương pháp,
bao gồm cả các biện pháp công trình và phi công trình. Đặc biệt nâng cao năng
lực của cộng đồng trong việc sử dụng các biện pháp phi công trình, như các hoạt
động về giáo dục, y tế, nước sạch, nông – lâm nghiệp, bảo vệ môi trường, công
nghệ, kỹ thuật hiện đại và kiến thức bản địa, kinh nghiệm của người dân địa phương.
5) Nâng cao năng lực lồng ghép các hoạt động giảm thiểu rủi ro
thảm họa vào các chương trình phát triển kinh tế xã hội địa phương: i) Thảm
họa được coi là các vấn đề và rủi ro của quá trình phát triển. Việc nâng cao
năng lực QLRRTTDVCĐ cần hướng tới năng lực cải thiện đời sống, đặc biệt của
người nghèo và nâng cao chất lượng môi trường; ii) Việc nâng cao năng lực
QLRRTTDVCĐ phải được coi là một phần không thể tách rời của quá trình phát
triển dài hạn, để hướng tới mục đích xóa đói giảm nghèo, giảm sự bất công xã
hội và giảm suy thoái môi trường; iii) Đồng thời nâng cao năng lực QLRRTTDVCĐ
còn cần phải đảm bảo rằng cộng đồng có đủ năng lực tham gia vào thiết kế, thực
hiện các hoạt động phát triển KT-XH không làm gia tăng các rủi ro thảm họa. 6) Nâng
cao năng lực QLRRTTDVCĐ còn là việc nâng cao khả năng của cộng đồng trong việc
ứng dụng các phương pháp tiếp cận linh hoạt và thường xuyên cập nhật: i) Đó là nâng cao năng lực của cộng
đồng và các cán bộ trong việc chia sẻ các kinh nghiệm, phương pháp và công cụ
được liên tục cập nhật dựa trên tình hình thực tế và làm phong phú thêm quá
trình thực hiện QLRRTTDVCĐ; ii) Nâng cao năng lực của cộng đồng trong việc thực
hiện QLRRTTDVCĐ cần có sự linh hoạt tùy thuộc vào từng loại thiên tai, thảm
họa, vào từng cộng đồng cụ thể; iii) Nâng cao năng lực của cộng đồng trong việc
đánh giá các RRTT, đặc biệt là cộng đồng có đủ năng lực đánh giá RRTT theo chu
kỳ (ví dụ: 6 tháng hay hàng năm) hoặc theo yêu cầu phát sinh (ví dụ: khi bắt
đầu bất kỳ một chương trình/dự án phát triển KT-XH nào). 7) Nâng
cao năng lực cộng đồng chính là biến các hoạt động giảm thiểu rủi ro thảm họa
trở thành mục đích cao nhất của QLRRTTDVCĐ: Đó chính là việc thực
hiện chiến lược chính trong QLRRTTDVCĐ là tăng cường năng lực, khả năng, nguồn
lực của những nhóm dễ bị tổn thương nhất trong xã hội và giảm nhẹ tình trạng dễ
bị tổn thương nhằm mục đích tránh xảy ra các thảm họa trong tương lai. 8) Nâng
cao năng lực QLRRTTDVCĐ là cách tiếp cận hiệu quả và trực tiếp nhất để giảm
thiểu tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu: i) QLRRTTDVCĐ là cách
tiếp cận liên tục hoàn thiện và hướng tới cả những vấn đề có thể xảy ra trong
tương lai (ví dụ biến đổi khí hậu, bệnh dịch…); ii) Làm cho các cộng đồng ở
vùng ĐBSCL có đủ năng lực ứng phó với những biến đổi của nhiệt độ trung bình
năm tăng khoảng 0,5-0,70C, mực nước biển đã dâng khoảng 20cm, với đủ loại thiên
tai, đặc biệt là bão, lũ, hạn hán ngày càng ác liệt (Bộ NN& PTNT – HCTĐ
Việt Nam – CTIC, 2017, tr.28).
4.1.4. Các bước thực hiện nâng cao năng lực
QLRRTTDVCĐ
Bước 1: Nâng cao
năng lực giới thiệu về QLRRTTDVCĐ cho nhóm thực hiện và các bên liên quan ở địa
phương. 1) Mục đích: i) Giới thiệu tốt nhất về chương trình
và nội dung thực hiện QLRRTTDVCĐ tại địa phương cho chính quyền, các tổ chức
kinh tế xã hội và cộng đồng; ii) Định hướng rõ ràng các nội dung thực hiện
chương trình tại địa phương. 2) Đảm bảo tốt nhất nguyên tắc thực hiện: i) Có sự tham gia tích cực của cộng
đồng bao gồm cả nam giới, nữ giới và các bên liên quan; ii) Thông tin được chia
sẻ kịp thời, đầy đủ cho các bên liên quan và người dân trong cộng đồng; iii) Ưu
tiên truyền tải, chia sẻ thông tin cho nhóm đối tượng dễ bị tổn thương: người
già yếu, neo đơn, bệnh tật, trẻ em, phụ nữ, các cộng đồng DTTS (Bộ NN&PTNT,
2014; Bộ NN& PTNT – HCTĐ Việt Nam – CTIC, 2017). Bước 2: Nâng cao
năng lực chuẩn bị thực hiện QLRRTTDVCĐ: 1) Mục đích: i) Chuẩn bị và lên kế
hoạch một cách đầy đủ và chi tiết để huy động nguồn lực nhằm triển khai thực
hiện tốt nhất các hoạt động tại địa phương; ii) Thống nhất cách thức và cơ chế
thực hiện chương trình tại địa phương; 2) Đảm bảo tốt nhất nguyên tắc: i) Cộng đồng cùng các bên
liên quan được tham gia đầy đủ vào quá trình lập kế hoạch thực hiện; ii) Thành
viên trong nhóm thực hiện có đại diện cả nam giới và phụ nữ; iii) Ưu tiên tới
nhu cầu và vai trò của nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong cộng đồng; iv) Kế
hoạch đã phê duyệt phải được chia sẻ với cộng đồng và các bên liên quan. 3) Đảm
bảo tốt nhất nội dung thực hiện: i) UBND
cấp xã/ huyện ra quyết định thành lập nhóm thực hiện bao gồm Nhóm hỗ trợ kỹ
thuật và Nhóm cộng đồng; ii) Nhóm thực hiện tổ chức tập huấn về QLRRTTDVCĐ;
iii) Đào tạo nâng cao năng lực và kỹ năng cho nhóm thực hiện QLRRTHDVCĐ; iv)
Thu thập các thông tin cơ bản về cộng đồng; v) Nhóm thực hiện lên kế hoạch chi
tiết bao gồm cả nhân sự và nguồn lực tài chính (Bộ NN&PTNT, 2014; Bộ
NN& PTNT – HCTĐ Việt Nam – CTIC, 2017). Bước 3: Nâng cao
năng lực đánh giá rủi ro thảm hoạ dựa vào cộng đồng và xác định các biện pháp
giảm nhẹ rủi ro thảm họa: 1) Mục đích là đảm bảo tốt việc: i) Xác
định, đánh giá và xếp hạng các rủi ro thảm họa, tình trạng dễ bị tổn thương và
khả năng của cộng đồng. 2) Thực hiện đầy đủ nguyên tắc: i) Thông tin được thu thập và phân tích có sự tham gia
tích cực của cộng đồng bao gồm cả nam giới và phụ nữ, trong đó ưu tiên sự tham
gia của các đối tượng dễ bị tổn thương; ii) Nâng cao năng lực cho cộng đồng
ngay trong quá trình đánh giá rủi ro; iii) Đánh giá rủi ro thảm họa trong bối
cảnh thích ứng với biến đổi khí hậu. 3) Đảm bảo đúng qui trình đánh giá: i) Xác
định các thông tin cần thu thập trong quá trình đánh giá hiểm họa, tình trạng
dễ bị tổn thương, khả năng và nhận thức của cộng đồng về rủi ro thảm họa; ii)
Thu thập thông tin: Thông qua các buổi họp dân, phỏng vấn, thảo luận nhóm có
trọng tâm; iii) Tổng hợp kết quả đánh giá, chia sẻ và xác minh thông tin với
cộng đồng (Bộ NN&PTNT, 2014; Bộ NN& PTNT – HCTĐ Việt Nam – CTIC, 2017).
Bước 4: Nâng cao năng lực lập kế hoạch QLRRTTDVCĐ: 1) Mục đích là
đảm bảo thực hiện tốt nhất các hoạt động sau: i) Xây dựng được kế hoạch
giảm thiểu rủi ro thảm họa và thích ứng với BĐKH có sự tham gia của cộng đồng;
ii) Lồng ghép kế hoạch giảm thiểu rủi ro thảm họa vào kế hoạch phát triển kinh
tế, xã hội của địa phương. 2) Thực hiện đầy đủ nguyên tắc: i) Đảm bảo kế hoạch phải được lập dựa trên kết quả
đánh giá rủi ro đã có tính đến các yếu tố giới, thực tế và phù hợp với bối cảnh
của địa phương; ii) Bảo đảm phát huy dân chủ cấp cơ sở với sự tham gia của cộng
đồng, ưu tiên các nhóm dễ bị tổn thương; iii) Kế hoạch phải cụ thể và thường
xuyên được rà soát và cập nhật; iv) Lồng ghép kế hoạch giảm thiểu rủi ro thảm
họa vào các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và đầu tư của địa phương (Bộ
NN&PTNT, 2014; Bộ NN& PTNT – HCTĐ Việt Nam – CTIC, 2017). Bước 5: Nâng cao năng lực thực hiện kế hoạch QLRRTTDVCĐ: 1) Mục đích là
thực hiện tốt nhất các bước sau: i) Tạo cơ hội cho cộng đồng quản lý
việc thực hiện các hoạt động giảm nhẹ rủi ro thảm họa; ii) Cộng đồng tham gia
thực hiện và theo dõi các hoạt động với sự ủng hộ và hỗ trợ hiệu quả của nhóm
thực hiện cũng như các bên liên quan khác. 2) Thực hiện đầy đủ nguyên tắc: i) Đảm bảo sự phối hợp và
tham gia của cộng đồng và các bên liên quan thông qua chia sẻ thông tin và thực
hiện kế hoạch; ii) Đảm bảo các thủ tục và quy trình thực hiện công khai, minh
bạch; iii) Kế hoạch này được xem xét và điều chỉnh thường xuyên đề phù hợp với
tình hình thực tế; iv) Sử dụng các phương pháp và công cụ thích hợp với văn hóa
và truyền thống của cộng đồng và ưu tiên nhóm đối tượng dễ bị tổn thương (Bộ
NN&PTNT, 2014; Bộ NN& PTNT – HCTĐ Việt Nam – CTIC, 2017). Bước 6: Nâng cao năng lực theo dõi và đánh giá có sự tham gia:1) Mục đích là thực hiện tốt nhất các hoạt động sau: i) Để cộng đồng
biết rõ các hoạt động trong kế hoạch; ii) Đánh giá đúng quá trình hoàn thành
các mục tiêu, tính hiệu quả, tác động và tính bền vững; iii) Tạo ra một hệ
thống thông tin phản hồi thường xuyên. 2) Thực hiện đầy đủ nguyên tắc: i) Có sự tham gia của cộng đồng, chính quyền và các bên liên quan;
ii) Cần bảo đảm việc nâng cao năng lực và tính làm chủ của cộng đồng địa
phương; iii) Theo dõi và đánh giá cần có sự linh hoạt và vận dụng thích hợp tùy
theo đặc thù của từng dự án và nhu cầu cụ thể (Bộ NN&PTNT, 2014; Bộ NN&
PTNT – HCTĐ Việt Nam – CTIC, 2017).
4.2. Thực trạng
năng lực QLRRTTDVCĐ ở vùng ĐBSCL
4.2.1. Bài học về năng lực QLRRTTDVCĐ từ kinh
nghiệm bão Linda
Chỉ trong 1 đêm (từ 19 giờ ngày 2.11 đến sáng
sớm 3.11.1997), bão Linda đổ bộ vào đất liền các tỉnh phía Nam với tốc độ và
sức gió kinh hoàng, đã cướp đi sinh mạng trên 3.000 người dân vùng đất Nam Bộ
vốn “ngàn năm không có bão”, gây thiệt hại tại 21 tỉnh, thành phố khu vực Nam
Bộ, kết quả là 778 người chết, 2.123 người mất tích, 1.232 người bị thương; làm
sập 107.892 ngôi nhà, 204.564 ngôi nhà bị hư hại; đánh chìm 2.897 tàu thuyền,
làm hư hỏng 1.856 tàu thuyền, 316 tàu bị mất tích; 136.334ha nuôi trồng thủy
sản bị vỡ, ngập…Thiệt hại về vật chất ước tính 7.200 tỉ đồng. Trong đó, riêng
tỉnh Cà Mau đã có 128 người chết, 1.164 người mất tích và 601 người bị thương
(Báo Lao động, 2017). Tại hội thảo đánh giá và đúc rút bài học kinh nghiệm từ
cơn bão Linda cách đây 20 năm, nguyên Bộ trưởng Bộ NN&PTNT - nguyên Trưởng
ban Chỉ đạo phòng chống lụt bão Trung ương Lê Huy Ngọ nhớ lại: Ban chỉ đạo
Trung ương Phòng chống Thiên tai gọi điện đến tất cả các lãnh đạo địa phương
khu vực bị ảnh hưởng của bão để cảnh báo, nhưng họ đều nói “trong đây làm gì có
bão mà ngoài đó cứ hốt hoảng với bão”. Thậm chí, khi Ban chỉ đạo Trung ương yêu
cầu các địa phương trong vùng ảnh hưởng của bão triển khai ứng phó, họ vẫn hết
sức chủ quan. Đến trưa 2 tháng 11, khi những đợt mưa lớn, những vùng gió xoáy
vào đến đất liền, nhiều người dân còn tò mò chạy ra “xem bão như thế nào”!
Không ai chằng buộc nhà cửa, chỉ một số ít mua mì tôm về tích trữ trong nhà,
trong bụng vẫn không tin là bão sẽ xảy ra trên vùng đất “trăm năm không có
bão”. Đến 7 giờ tối, khi bão chính thức đổ bộ vào Cà Mau, những người dân ở đây
mới thực sự kinh hoàng. Hàng nghìn tàu thuyền không kịp vào bờ; nhà cửa không
được gia cố; tài sản và con người không được sơ tán, thảm họa đã xảy ra ngay
trước mắt. Chỉ trong vòng 1 đêm, gần 3.000 người đã thiệt mạng hoặc bị vùi chôn
đâu đó dưới đáy biển với hai từ “mất tích” (Báo Lao động, 2017). Thiệt hại nặng
nề của cơn bão Linda đến các tỉnh phía Nam đã thật sự làm thay đổi nhận thức
của người dân ven biển phía Nam rằng miền Tây không có bão. Ông Lương Ngọc Lân
- Giám đốc Sở NN&PTNT Bạc Liêu - cho biết: “…khi kêu gọi người dân vào
tránh bão họ lại không tin; chính điều này gây nên thiệt hại lớn”. Tại Cà Mau,
ông Tô Quốc Nam - Phó GĐ Sở NN&PTNT - cho biết: “Thiệt hại do cơn bão Linda
đã được tổng kết, đánh giá; hằng năm chúng tôi đều tổ chức diễn tập phòng chống
lụt bão, nhưng 3 năm gần đây chúng tôi chuyển từ diễn tập sang tập huấn. Những
người được tập huấn là những người trực tiếp phòng tránh bão nên hiệu quả cao
hơn.” Theo ông Trần Quang Hoài, Tổng cục trưởng Tổng cục Phòng, chống thiên
tai: “Năng lực phòng chống thiên tai hiện nay còn hạn chế, chúng ta chưa có cơ
quan chuyên trách, cán bộ chuyên nghiệp thực hiện công tác phòng, chống thiên
tai; sự vào cuộc của cộng đồng trong các hoạt động này còn hạn chế”. Vì vậy
việc nâng cao nhận thức cho cộng đồng được cho là yếu tố cốt lõi giúp giảm
thiểu rủi ro thiên tai. Quan trọng nhất là làm tốt công tác thông tin tuyên
truyền, dự báo tình hình mưa lũ, để người dân nắm được và biết cách phòng
tránh; đồng thời các cơ quan, đơn vị và địa phương chủ động chuẩn bị tốt phương
án phòng, chống lụt, bão và tìm kiếm cứu nạn của đơn vị mình, địa phương mình,
đặc biệt là phương châm “bốn tại chỗ” (chỉ huy - lực lượng - hậu cần - phương
tiện tại chỗ) (Báo Lao động, 2017).
4.2.2. Từng bước hoàn thiện các văn bản quy
phạm pháp luật, và thể chế QLRRTTDVCĐ trong xây dựng NTM
Kể từ khi thực hiện CTMTQG xây dựng NTM, việc
nâng cao năng lực QLRRTTDVCĐ vùng ĐBSCL đã có những bước tiến đáng kể so với
trước đó. Trước hết là sự quan tâm của Chính phủ, nỗ lực của Bộ NN&PTNT, và
các ban ngành có liên quan ở Trung ương và các địa phương, vì vậy cho đến nay
chúng ta đã có một bộ công cụ pháp lý và thể chế làm chỗ dựa vững chắc cho việc
triển khai thực hiện các hoạt động QLRRTTDVCĐ trong xây dựng NTM vùng ĐBSCL.
Ngay từ năm 2007, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 172/2007/QĐ-TTg Phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020 (Thủ tướng Chính phủ 2007); tiếp đó,
năm 2009 Thủ tướng Chính phủ ban hành
Quyết định số 1002/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề án Nâng cao nhận thức cộng đồng
và quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng. (Thủ tướng Chính phủ, 2009).
Ngay sau đó, Bộ NN&PTNT ban hành Công văn số 4270/BNN-ĐĐ về việc xây dựng
kế hoạch quốc gia thực hiện đề án Nâng cao nhận thức cộng đồng và quản lý rủi
ro thiên tai dựa vào cộng đồng. (Bộ NN&PTNT 2009). Năm 2014 là Quyết định Số 44/2014/QĐ-TTg Quy định chi
tiết về cấp độ rủi ro thiên tai (Thủ tướng Chính phủ, 2014); năm 2017 có Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền
vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu (Chính phủ
2017); và mới đây nhất Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 417/QĐ-TTg Chương trình hành động tổng thể thực hiện Nghị
quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL) thích ứng với biến đổi khí hậu (Thủ tướng Chính phủ 2019). Đặc biệt ngay từ rất sớm, trong Quyết định phê duyệt chiến lược quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020, Chính phủ đã xác định quan điểm: “Công
tác phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai thực hiện theo phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, sử dụng
hiệu quả nguồn lực của nhà nước, đồng thời huy
động mọi nguồn lực của cộng đồng” (Thủ tướng Chính phủ 2007). Với quan điểm
nhà nước và nhân dân cùng làm…đồng
thời huy động mọi nguồn lực của cộng đồng”,
Nhà nước đã thực sự coi cộng đồng và người dân là trung tâm của công tác phòng
chống và giảm nhẹ thiên tai. Hơn nữa, trong Quyết
định phê duyệt chiến lược quốc gia
phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020, ở Mục “IV. Nhiệm vụ
và Giải pháp, Chính phủ xác định rõ Tiểu mục c) Xã hội hoá và phát triển nguồn
nhân lực: i) Tạo điều kiện cho người dân tham gia vào quá trình xây dựng văn
bản pháp luật, lập quy hoạch, kế hoạch giảm nhẹ thiên tai tại địa phương; ii)
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng; iii) Xây dựng
năng lực tự phòng ngừa thiên tai, phát huy truyền thống tương thân tương ái
trong cứu trợ thiên tai; iv) Tổ chức lực lượng tự ứng phó tự nguyện của cộng
đồng; v) Phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể xã hội trong các ứng phó,
khắc phục hậu quả; vi) Phát triển lực lượng tình nguyện viên trong công tác
tuyên truyền, vận động, khắc phục hậu quả, phục hồi sản xuất; vii) Tăng cường
đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai. Ở
Mục “V. Kế hoạch hành động”, Chính phủ đã đề ra các kế hoạch cụ thể liên quan
đến cộng đồng như sau: “Tập trung chỉ đạo thực hiện các chương trình mục tiêu
từ nay đến năm 2020 như sau: 1). Đối với
biện pháp phi công trình:
đ) Chương trình nâng cao nhận thức cộng đồng: i) Đưa kiến thức về thiên tai vào
chương trình cho học sinh phổ thông; ii) Đào tạo và tập huấn phổ biến kiến
thức, kinh nghiệm về phòng, chống thiên tai cho cộng đồng; iii) Tổ chức thông
tin và tuyên truyền rộng rãi về các hình thái thiên tai và biện pháp phòng,
chống” (Thủ tướng Chính phủ 2007).
4.2.3. Tập huấn, trang bị bộ công cụ nâng cao
năng lực QLRRTTDVCĐ trong xây dựng NTM
Trong những năm gần đây, việc nâng cao năng
lực QLRRTTDVCĐ vùng ĐBSCL đã được cải thiện đáng kể nhờ nỗ lực của Bộ
NN&PTNT, và hàng loạt chương trình, dự án có liên quan. Ngay từ năm 2010,
Tổng Cục Thủy lợi đã xây dựng bộ công cụ và sử dụng để tập huấn “Tài liệu hướng dẫn lập kế hoạch phòng, chống
lụt, bão cấp tỉnh và huyện khu vực các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long” (Cục
Quản lý đê điều và Phòng chống lụt bão 2010). Cũng trong năm 2010, đã có Dự án “Tổng hợp
các bài học về phòng ngừa và giảm nhẹ thiên tai tại Đồng Tháp và Tiền Giang: một
mô hình có sự tham gia, đóng góp cho chương trinh QLRRTT dựa vào cộng đồng cấp
quốc gia tại Việt Nam” được
Oxfam thực hiện với sự hợp tác của Trung tâm Phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai,
Ban chỉ huy phòng, chống lụt, bão và tìm kiếm cứu nạn tỉnh Đồng Tháp, Tiền
Giang từ tháng 10 năm 2009 đến tháng 6 năm 2011. Dự án đã xây dựng và triển
khai nhiều mô hình quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng rất hữu ích và
thiết thực như: 1) Các mô hình của tổ
chức Oxfam, bao gồm: i) Mô hình câu lạc bộ truyền thông “Sống chung
với lũ”; ii) Mô hình diễn tập cảnh báo bão - lũ khẩn cấp tại cấp xã; iii)
Mô hình lồng ghép giới trong quản lý thiên tai; iv) Mô hình dạy bơi cho phụ nữ
và trẻ em; 2) Các mô hình của tổ chức
CARE: i) Mô hình lập kế hoạch có sự tham gia của cộng đồng; ii) Mô hình
trồng nấm bào ngư nhằm cải thiện sinh kế cho người nghèo; 3) Các mô hình của tổ chức World Vision: i) Mô
hình lập kế hoạch giảm nhẹ rủi ro thiên tai có sự tham gia của cấp hộ gia đình;
ii) Mô hình lồng ghép phổ biến kiến thức phòng ngừa thiên tai vào các hoạt động
ngoại khóa cho học sinh (CARE, Oxfam và World Vision 2010). Cùng năm, Trung tâm
Phòng chống Thiên tai Châu Á (Asian Disaster Preparedness Center) đã cử chuyên
gia giúp An Giang xây dựng Tài liệu kỹ thuật và tổ chức tập huấn với “Sổ tay hướng dẫn lồng ghép giảm nhẹ rủi ro
thiên tai vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội cấp tỉnh, các ngành tại tỉnh
An Giang”, nhằm tăng thêm năng lực đối phó với thiên tai, giảm nhẹ tình
trạng dễ bị tổn thương. Sau đó tỉnh đã xây dựng và tiến hành tập huấn “Chương
trình hành động thực hiện Chiến lược quốc gia phòng chống và giảm nhẹ rủi ro
thiên tai đến năm 2020 của tỉnh An Giang” và “Kế hoạch thực hiện Đề án nâng cao
nhận thức cộng đồng và quản lý rủi ro thiên tai đến năm 2020 của tỉnh An Giang”
(Lê Thị Mộng Phượng 2010, tr.6-9). Năm 2012 với sự hỗ trợp của tổ chức World
Vision Vietnam, tỉnh Cà Mau cũng đã xây dựng dự án Thích ứng với Biến đổi Khí hậu dựa vào cộng đồng và đề xuất kế
hoạch thực hiện từ tháng 10 năm 2012 đến tháng 3 năm 2015. (Lê Anh Tuấn &
Nguyễn Ngọc Huy, 2012). Tiếp đó, năm 2014, Trung tâm Phòng tránh và Giảm nhẹ
thiên tai của Bộ NN&PTNT và Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP)
tại Việt Nam đã phát hành Tài liệu hướng
dẫn đánh giá rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng (Bộ NN&PTNT, 2014) dành
riêng cho cấp xã, đã góp phần nâng cao đáng kể năng lực QLRRTTDVCĐ cho cán bộ
cơ sở và các cộng đồng dân cư vùng ĐBSCL. Mới đây, cán bộ cấp huyện thuộc tỉnh
Vĩnh Long cũng như toàn bộ các tỉnh ĐBSCL đã có thêm bộ công cụ mới với chất
lượng rất cao, đó là tài liệu tập huấn dành cho tập huấn viên cấp huyện Quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng
trong bối cảnh thích ứng với biến đổi khí hậu tại Việt Nam do Bộ Nông
nghiệp & Phát triển Nông thôn – Hội Chữ Thập đỏ Việt Nam – Trung tâm Đào
tạo và Hợp tác Quốc tế CTIC xây dựng và tiến hành tập huấn (Bộ NN& PTNT –
HCTĐ Việt Nam – CTIC 2017). Ngoài ra trong năm 2017, công cuộc QLRRTTDVCĐ ở cấp
xã còn được trang bị và tập huấn bằng một công cụ cực kỳ quan trọng nữa, đó là Sổ tay hướng dẫn lồng ghép giới trong công
tác quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng (Tài liệu dành cho cấp xã)
(Tổng cục Phòng, chống thiên tai & Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam, 2017). Tuy nhiên nâng cao năng lực QLRRTTDVCĐ đối với vùng ĐBSCL để có thể
đáp ứng được các tiêu chí xây dựng NTM thực sự là một công việc cam kho, phức
tạp và cần rất nhiều nỗ lực và thời gian của cộng đồng và các bên liên quan.
4.2.4. Nghiên cứu trường hợp thích ứng với
BĐKH và nâng cao năng lực QLRRTTDVCĐ trong xây dựng NTM ở Vĩnh Châu, Sóc Trăng
Theo ông Lê Minh Trường, Trưởng phòng Kinh tế
thị xã Vĩnh Châu, Sóc Trăng: Liên quan đến việc thích ứng với BĐKH trong xây
dựng NTM ở thị xã Vĩnh Châu (tỉnh Sóc Trăng) do ở đây không có kênh dẫn nước
ngọt, mà phải chờ nước mưa, cho nên lúa chỉ làm được một vụ, và cũng chỉ phục
vụ được cho nhu cầu lương thực của địa phương mà thôi. Còn lại để thích ứng với
BĐKH thì cộng đồng phải chuyển đổi canh tác dựa vào các mô hình nuôi tôm và
trồng hành, hẹ. Đất nuôi tôm và trồng hành hẹ chủ yếu là vì lý do hạn hán nên
chuyển từ đất lúa sang (Hà Hữu Nga, 2019). Trước những khó khăn kinh tế của địa
phương, nhiều người dân đã di cư ra thành phố và khu công nghiệp tìm việc làm,
tỷ lệ di dân Vĩnh Hải đi làm ở Bình Dương khá cao. Ông Trần Văn Thanh, Chủ tịch
UBND xã Vĩnh Hải, Thị xã Vĩnh Châu cho rằng: Về các khó khăn đối với việc thực
hiện các tiêu chí NTM: Do mưa bão, nhiều kênh rạch, người dân thường cư trú
phân tán tại các chòm xóm thưa thớt và khá biệt lập nên Vĩnh Hải gặp khó khăn
nhất là tiêu chí giao thông. Tác động của BĐKH ngày càng trở nên rõ ràng hơn:
trước đây dường như rất hiếm gặp bão, áp thấp, nhưng bây giờ thì thường xuyên;
tỷ suất triều cường xâm nhập mặn ngày càng tăng, vì vậy người dân ứng phó bằng
cách phát triển đầm tôm một cách ồ ạt. Để thích ứng với BĐKH, việc chuyển sang
trồng hành hẹ cũng không đơn giản, vì mưa trái mùa, xâm nhập mặn cũng làm cho
hành chết nhiều; nắng nóng bất thường cũng tàn phá cây trồng, vật nuôi, làm ảnh
hưởng đến thức ăn cho tôm, cụ thể là khó phát triển loại trùng artermia làm
thức ăn nuôi tôm (Hà Hữu Nga, 2019).
Ở Vĩnh Châu, tác động của BĐKH đối với công
cuộc xây dựng NTM đã thấy khá rõ, thông thường, theo quy luật, mùa nắng từ
tháng 5 đến tháng 11, nhưng gần đây, mưa nắng đã trở nên thất thường. Đầu tháng
9 người dân thường canh tác hành để thu hoạch bán vào dịp Tết, nhưng có những
năm bất ngờ nước mưa ngập mênh mông, không thể trồng hành bán vào dịp Tết được.
Ngày xưa có các con nước nhỏ và con nước lớn vận hành theo ngày rằm âm lịch,
nhưng nay quy luật ấy đã biến đổi, nên việc làm mùa vụ cũng không thể theo quy
luật nữa. Hiện nay cộng đồng đang nỗ lực thích ứng với những BĐKH bất thường đó
mà canh tác, điều chỉnh thời vụ, chẳng hạn chuyển canh tác hành sang tháp chạp,
phương thức này có ảnh hưởng nhất định đến giá cả, mức độ tiêu thụ, và thu
nhập, vì không đúng dịp Tết. Ngoài thay đổi mùa vụ, đội ngũ cán bộ KHKT cũng
thực hiện nhiều khóa tập huấn nâng cao năng lực QLRRTTDVCĐ trong xây dựng NTM
để người dân có thể can thiệp nhằm điều hòa ôxy trong nước, ngăn tình trạng tôm
bệnh chết hàng loạt; bên cạnh đó người dân tự thích nghi bằng cách quay trở lại
canh tác truyền thống, dùng phân hữu cơ, làm bờ bao thu nước, làm tăng chuỗi
giá trị của cây hành tím Vĩnh Châu, là đặc sản địa phương đã có bảo hộ thương
hiệu. Địa phương chủ trương không bán nguyên liệu thô nữa mà xây dựng đề tài
nghiên cứu chế biến. Tuy nhiên việc canh tác cây hành tím không giống với các
loại hoa màu khác; đặc biệt là tình trạng khai thác nước ngầm quá mức khiến cho
nguồn tài nguyên này đang ngày càng cạn kiệt, nên vấn đề đặt ra cho người dân
là phải có phương án QLRRTTDVCĐ để dự trữ nước tưới, tưới tiết kiệm theo mô
hình tưới nhỏ giọt của Israel, kết hợp với việc cộng đồng thử nghiệm trồng hành
trong mùa mưa (Hà Hữu Nga, 2019a).
Theo ông Trần Văn Thanh, Chủ tịch UBND xã Vĩnh
Hải thì cho đến nay xã mới đạt được 12/19 tiêu chí NTM, còn lại 7/ 19 tiêu chí
chưa đạt là: i) Tiêu chí số 2 (Giao thông); ii) Tiêu chí số 5 (Trường học);
iii) Tiêu chí số 11 (Hộ nghèo); iv) Tiêu
chí số 13 (Hình thức tổ chức sản xuất); v) Tiêu chí số 16 (Văn hóa); vi) Tiêu
chí số 17 (Môi trường); vii) Tiêu chí số 18 (Hệ thống tổ chức chính trị xã hội
vững mạnh). Trong 7 tiêu chí chưa đạt kể trên có 5 tiêu chí liên quan trực tiếp
đến BĐKH và quản lý thiên tai, đó là: i) Tiêu chí số 2 (Giao thông); ii) Tiêu
chí số 11 (Hộ nghèo); iii) Tiêu chí số
13 (Hình thức tổ chức sản xuất); iv) Tiêu chí số 16 (Văn hóa); v) Tiêu chí số
17 (Môi trường). Hai tiêu chí còn lại (Tiêu chí số 16: Văn hóa và Tiêu chí số
18: Hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh) liên quan gián tiếp đến BĐKH
và quản lý thiên tai vì: do ảnh hưởng của cơn bão Linda nên nhiều cộng đồng cư
dân trong xã bị xáo trộn do phải tái định cư, đã hơn 20 năm nay nhưng các cộng
đồng này vẫn chưa hoàn toàn ổn định kể cả về văn hóa và an ninh – trật tự xã
hội, nên có thể nói năng lực thích nghi với BĐKH và năng lực QLRRTTDVCĐ vẫn
chưa đủ đáp ứng được các tiêu chí NTM đã nói ở trên (Hà Hữu Nga, 2019b).
Đối với trường hợp 7/19 tiêu chí NTM của xã
Vĩnh Hải chưa đạt được đều có liên quan đến năng lực thích nghi với BĐKH và
năng lực QLTTDVCĐ, trong đó ấp Trà Sết là điển hình. Ấp có 820 hộ, với 3235
khẩu, người Kinh 55 hộ (6,70%) với 245 khẩu (7.57%); Hoa 125 hộ (15,24%), 544
khẩu (16,81%); Khmer 640 hộ (78,04%), 1754 khẩu (54,29%). Khó khăn trong phát
triển NTM của ấp là: i) Là ấp tái định cư sau cơn bão Số 5 Linda khủng khiếp
năm 1997; ii) Dân cư không thuần nhất, ngoài những hộ bị ảnh hưởng bão còn là
những hộ lang thang, nghèo khổ, không đất đai nhà cửa cùng tái định cư sau bão
Số 5; iii) Dân cư hầu hết không nhà cửa, không đất sản xuất và rất nghèo khó,
nếu có thì hầu hết cũng là nhà cửa lụp xụp còn lại sau bão dọn về đây; iv) Cư
dân hầu hết là người DTTS (74.68%); v) Nghề nghiệp kiếm sống qua ngày chủ yếu
là bắt nghêu, sò ngoài bãi biển; vi) Một số hộ khá giả hơn thì nuôi tôm thẻ và
trồng hoa màu (hành tím, cấy lúa); vii) Dân trí trong ấp nhìn chung thấp, ít
chịu hợp tác, đặc biệt là trong việc làm vệ sinh môi trường, kênh mương giữa ấp
chứa đầy rác thải rất bẩn thỉu, dân luôn vứt rác bừa bãi bất kể chỗ nào. Sau
cơn bão, chính quyền gom dân gặp nạn của 8 ấp lại, gồm dân các ấp sau: i) Âu
Thọ A, ii) Âu Thọ B; iii) Trà Sết; iv) Giồng Nổi; v) Huỳnh Kỳ; vi) Mỹ Thanh;
vii) Vĩnh Thạnh A; và viii) Vĩnh Thạnh B. Lúc đầu chuyển về đây có 250 hộ có
các hoàn cảnh sau: i) Bị bão tàn phá nhà cửa; ii) Sống lang thang ngoài đê
biển; iii) Dân không có đất thổ cư ở 8 ấp trên. Chi hội phụ nữ luôn tích cực
vận động chị em thu gom rác thải, nhưng do tập quán lâu đời của người DTTS nên
thực tế chưa chuyển biến sâu rộng. Ấp Trà Sết có trên 417 ha đất để canh tác:
i) Trồng hành, ớt, củ cải, dưa hấu, cấy lúa (chủ yếu để lấy rơm phủ mát hành)
chiếm khoảng 50% nguồn thu; ii) Nuôi tôm chiếm khoảng 10%; iii) Khai thác biển
ven bờ, chiếm khoảng 20%; iv) Làm thuê chiếm khoảng 20% thu nhập. Vì vậy trẻ em
bỏ học khoảng 30 cháu theo cha mẹ đi làm thuê. Hiện nay cả ấp có đến 31 hộ bỏ
đi làm thuê cả nhà, nếu kể cả những người đi lẻ thì cả ấp có khoảng trên 200
người. Đầu tiên, người Khmer do không có đất, không việc làm nên đi nhiều, nay
cả người Kinh, dù có đất trồng hành cũng bỏ đi, vì thu nhập từ làm thuê vẫn cao
hơn. Trong ấp có khoảng 36 hộ buôn bán nhỏ, chủ yếu là người Kinh và người Hoa,
chiếm hơn 80% số hộ buôn bán. Về nội dung “Nghĩa trang được xây dựng theo quy
hoạch” trong Tiêu chí 17 vẫn là khó khăn lớn của các cộng đồng trong xã và ấp
Trà Sết. Người Kinh có tập quán làm mộ nhỏ hơn, vành đai bao quanh mộ có diện
tích vài chục mét vuông, nhưng người Tiều (người Hoa gốc Triều Châu) thì làm
vành đai với diện tích lên đến hàng nghìn mét vuông, rất tốn kém, vì họ thường
giàu có và có nhiều đất đai; còn người Khmer thì hợp với tiêu chí văn minh vì
hoả táng và đưa lên chùa (Hà Hữu Nga, 2019b).
Đề xuất kiến nghị của cán bộ và người dân xã
Vĩnh Hải trong việc nâng cao năng lực QLTTDVCĐ nhằm thực hiện đủ 19 tiêu chí
NTM: i) Ưu tiên nguồn lực phát triển sản xuất, đảm bảo sinh kế cho người dân,
tạo điều kiện cho người dân tiếp cận được với các kỹ năng, công cụ nâng cao
năng lực QLTTDVCĐ; ii) Ưu tiên phân bổ vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thiết
yếu, có chương trình, kế hoạch đầu tư vào các công trình nhằm giảm thiểu tác
động của rủi ro thiên tai đối với cộng đồng; iii) Đề nghị Phòng Kinh tế Thị xã
sửa chữa nâng cấp mạng lưới điện; hỗ trợ thực hiện các mô hình ứng dụng tiến bộ
KHKT và công nghệ cao vào thích ứng với BĐKH trong sản xuất; hỗ trợ HTX đăng ký
bảo hộ nhãn hiệu sản phẩm OCOP (hành, hẹ) thích nghi với BĐKH chủ lực của xã;
iv) Để có thể trợ giúp thiết thực cho việc nâng cao năng lực QLTTDVCĐ, dựa trên
một cơ sở hạ tầng môi trường vững chắc, đề nghị Chi nhánh Nước sạch Vệ sinh Môi
trường Nông thôn Thị xã mở mạng thêm 3 tuyến ống gồm: Tuyến cặp lộ bê tông sau
chùa Pà Len, Tuyến lộ Giồng Sao; và Tuyến lộ Nam Sông Hậu thuộc ấp Châu Thọ B;
v) Đề nghị lồng ghép các chương trình, dự án liên quan đến việc nâng cao năng
lực QLTTDVCĐ vào mục tiêu xây dựng NTM; tăng thêm nguồn vốn cho việc thực hiện
các chương trình, kế hoạch, dự án nâng cao năng lực QLTTDVCĐ.
KẾT LUẬN
Liên quan đến những khó khăn trong việc đạt
được các tiêu chí xây dựng NTM ở vùng ĐBSCL, đã có những khái quát được gọi là
các “nút thắt” như sau: i) “Nút thắt” lớn nhất là thiếu vốn; ii) “Nút thắt” thứ
hai là nguồn nhân lực xây dựng NTM còn nhiều hạn chế; iii) “Nút thắt”
thứ ba là một số tiêu chí còn chưa phù hợp với thực tiễn của khu vực đồng
bằng sông Cửu Long; iv) “Nút thắt” thứ tư là kết cấu hạ tầng của khu vực
yếu kém; v) “Nút thắt” thứ năm là vấn đề nâng cao thu nhập cho nông dân còn
nhiều khó khăn. Và để cởi các “Nút thắt” trên, các giải pháp được đưa ra là: i)
Nâng cao nhận thức của người dân về chương trình xây dựng NTM; ii) Tiếp tục
nghiên cứu, điều chỉnh các tiêu chí cho phù hợp với từng địa phương, khu vực;
iii) Tập trung huy động mọi nguồn lực cho xây dựng NTM; iv) Phát triển sản xuất,
nâng cao thu nhập cho người dân; v) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý
của Nhà nước, vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân trong xây
dựng NTM; vi) Thường xuyên sơ kết, tổng kết chương trình, qua đó rút ra những
bài học từ thực tiễn, phát hiện những mô hình triển khai có hiệu quả từ đó tổ
chức nhân rộng (Phan Việt Châu, 2015).
Có
thể thấy các khái quát trên được nhìn từ một góc độ hoàn toàn khác với góc độ
mà báo cáo này đề cập, đó là việc nâng
cao năng lực QLRRTTDVCĐ nhằm giảm thiểu tình trạng dễ bị tổn thương của
các thành viên cộng đồng và tăng cường năng lực của họ trong việc phòng ngừa,
giảm nhẹ và chuẩn bị ứng phó với thảm họa thiên tai. Mục đích của việc nâng cao năng lực QLRRTTDVCĐ là cộng
đồng phải có đủ năng lực đánh giá được toàn diện về mức độ rủi ro, tình trạng
dễ bị tổn thương cũng như năng lực giảm nhẹ và phục hồi sau rủi ro thiên tai
của mình. Trung tâm của hoạt động nâng cao năng lực QLRRTTDVCĐ chính là sự tham gia trực tiếp của người dân vào mọi
quá trình thực hiện các hoạt động phòng ngừa, ứng phó, giảm nhẹ và phục hồi
trong và sau rủi ro thiên tai ở cấp địa phương. Toàn bộ dữ liệu và các phân
tích được trình bày trong báo cáo này đều cho thấy những mối liên quan trực
tiếp hoặc gián tiếp giữa năng lực QLRRTTDVCĐ và thực trạng đạt hoặc chưa đạt
được các tiêu chí và nội dung cụ thể của các tiêu chí NTM ở các địa phương vùng
ĐBSCL. Và để giải quyết cái “nút thắt” trung tâm này thì còn cần phải có thêm
những khảo sát chuyên sâu trên thực địa về các vấn đề có liên quan.
_________________________________________
* Lưu ý: Báo cáo này mới chỉ ở dạng bản thảo,
chưa được Văn phòng Điều phối Nông thôn
mới Trung ương thông qua, vì vậy mọi hình thức sử dụng, trích dẫn, sao chép
đều không hợp lệ.
DANH MỤC CÁC TỪ
VIẾT TẮT
BCH PCLB&TKCN: Ban chỉ huy Phòng chống lụt
bào & Tìm kiếm Cứu nạn
BĐKH:
Biến đổi khí hậu
CTIC:
Trung tâm Đào tạo và Hợp tác Quốc tế
CTMTQG: Chương trình Mục tiêu Quốc gia
DTTS:
Dân tộc thiểu số
ĐBSCL: Đồng bằng Sông Cửu Long
ĐBSH:
Đồng bằng Sông Hồng
ĐNB:
Đông Nam Bộ
HTCS&MT: Bộ Hạ tầng
cơ sở và Môi trường (Hà Lan)
LHPN:
[Hội] Liên hiệp Phụ nữ
NTM:
Nông thôn mới
Nxb.:
Nhà xuất bản
QH: Quốc hội
QLRRTH: Quản lý rủi ro thảm họa
QLRRTT: Quản lý rủi ro thiên tai
QLRRTTDVCĐ: Quản lý rủi ro thiên tai dựa vào
cộng đồng
THT:
Tổ hợp tác
trđ/ng:
Triệu đồng/người
TW:
Trung ương
VPĐP NTM: Văn phòng Điều phối NTM
TÀI LIỆU DẪN
Asian
Development Bank (1994). Climate change
in Asia: Vietnam country report. Asian Development Bank, Manila.
Ban
chỉ đạo phòng chống Lụt bão Trung ương, Chính phủ Việt Nam (2009). Kế hoạch thực hiện Chiến lược quốc gia
phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020. Hà Nội.
Ban
chỉ đạo phòng chống lụt bão Trung ương (2012). Chương trình sống chung với lũ. Hà Nội.
Báo Lao động (2017). Bão Linda 20 năm ám ảnh và lời cảnh báo của thiên nhiên. https://laodong.vn/phong-su/.
Báo Lao động, ngày 01/11/2017.
Bộ KH&CN (2018). Quyết định Số 3235/QĐ-BKHCN Về
việc phê duyệt Danh mục nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặt hàng thuộc Chương
trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp Quốc gia giai đoạn 2016-2020:
“Nghiên cứu khoa học và công nghệ phục vụ bảo vệ môi trường và phòng tránh
thiên tai”, Mã số:
KC.08/16-20, bắt đầu thực hiện từ năm 2019, Hà Nội ngày 24 tháng 10 năm 2018.
Bộ NN&PTNT (2008). Chương trình, Kế hoạch Hành động thực hiện Chiến lược Quốc gia về
phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020. Hà Nội, tháng 11 năm 2008.
Bộ NN&PTNT (2009). Công văn số 4270/BNN-ĐĐ của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn về
việc xây dựng kế hoạch quốc gia thực hiện đề án Nâng cao nhận thức cộng đồng và
quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng. Hà Nội ngày 24 tháng 12 năm
2009.
Bộ NN&PTNT (2014). Tài liệu hướng dẫn đánh giá rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng. Tài liệu quản lý rủi ro thiên tai dựa vào
cộng đồng (Tài liệu dành cho cấp xã). Xây dựng và biên tập bởi: Trung tâm
Phòng tránh và Giảm nhẹ thiên tai; Hỗ trợ bởi: Chương trình Phát triển Liên hợp
quốc (UNDP) tại Việt Nam, Hà Nội.
Bộ NN& PTNT – HCTĐ Việt Nam – CTIC (Bộ
Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn – Hội Chữ Thập đỏ Việt Nam – Trung tâm
Đào tạo và Hợp tác Quốc tế CTIC) (2017). Quản
lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng trong bối cảnh thích ứng với biến đổi khí
hậu tại Việt Nam. Tài liệu Tập huấn dành cho tập huấn viên cấp huyện, Quyển
1: Nội dung về quản lý rủi ro thiên tai
dựa vào cộng đồng. Vĩnh Long, tháng 6, năm 2017.
Bộ TN&MT (2008). Chương
trình Mục tiêu Quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu. (Triển khai
thực hiện Nghị quyết số 60/2007/NQ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2007 của Chính phủ).
Hà Nội tháng 7 năm 2008.
Bộ TN&MT (2016). Kịch
bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam. Nxb. Tài nguyên Môi
trường và Bản đồ Việt Nam, Hà Nội.
Bộ TN&MT (2019). Chương trình
hành động tổng thể phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu. Hà Nội.
Bộ TN&MT, Bộ
NN&PTNT, Bộ HTCS&MT Hà Lan (2013), Kế hoạch Đồng bằng sông Cửu Long
- Tầm nhìn và chiến lược dài hạn nhằm phát triển Đồng bằng sông Cửu Long an
toàn, trù phú và bền vững. Bản tiếng Việt, tháng 12/2013.
CARE,
Oxfam và World Vision (2010). Quản lý rủi
ro thiên tai dựa vào cộng đồng - Một số mô hình quản lý rủi ro thiên tai dựa
vào cộng đồng của các tổ chức CARE, Oxfam và World Vision. Việt Nam 2010.
Chính phủ (2017). Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến
đổi khí hậu. Hà Nội ngày 17 tháng 11 năm 2017.
Chun,
J. và L.T. Sang (2012). Nghiên cứu và đối
thoại chính sách về biến đổi khí hậu, di dân và tái định cư tại Việt Nam.
Báo cáo cuối cùng cho Liên Hợp Quốc tại Việt Nam, Hà Nội.
Cục Quản lý đê điều và Phòng chống lụt bão
(2010). Tài liệu hướng dẫn lập kế hoạch
phòng, chống lụt, bão cấp tỉnh và huyện khu vực các tỉnh Đồng bằng sông Cửu
Long”. Hà Nội, tháng 3 năm 2010.
Dasgupta,
S., Laplante, B., Meisner, C. M., Wheeler, D., & Jianping Yan, D., (2007). The impact of sea level rise on developing
countries: a comparative analysis. World
Bank policy research working paper, (4136) (2007).
Demombynes,
G. và L.H. Vũ (2016). Hệ thống đăng ký hộ
khẩu Việt Nam. Ngân hàng Thế giới và Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Nxb.
Hồng Đức, Hà Nội.
De Silva, Samantha;
Burton Cynthia (2008). Building Resilient Communities - Risk
Management and Response to Natural Disasters through Social Funds and
Community-Driven Development Operations. The World Bank. http://siteresources.
worldbank.org/
Đặng
Nguyên Anh (2009). Hệ thống đăng ký hộ
khẩu và Phúc lợi của người di cư từ nông thôn ra thành thị. Phát triển Kinh
tế-xã hội của Việt Nam, 59:75-80.
Đặng
Nguyên Anh, I. Leonardelli và A.A. Dipierri (2016). Di cư, môi trường và biến đổi khí hậu: Đánh giá quốc gia tại Việt Nam.
Trong Báo cáo Di cư, Môi trường và Biến
đổi khí hậu, Tổ chức Di cư quốc tế, Geneva.
Đoàn Chủ tịch TW Hội LHPN Việt Nam (2014). Hướng dẫn Thực hiện Cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”. Hà Nội ngày 21 tháng 3 năm 2014.
Đoàn Chủ tịch TW Hội LHPN Việt Nam (2014). Hướng dẫn Thực hiện Cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”. Hà Nội ngày 21 tháng 3 năm 2014.
Entzinger, Han và Peter Scholten (2016). Thích nghi với biến đổi khí hậu thông quan
di cư - Một nghiên cứu về trường hợp Đồng bằng sông Cửu Long. Báo cáo cho
Tổ chức Di cư Quốc tế (IOM).
Hà Hữu Nga (2019a). Ghi chú thực địa tại Thị xã Vĩnh Châu, Sóc Trăng. Đề tài Điều tra, đánh giá kết quả xây dựng nông thôn
mới (NTM) tại các vùng để phục vụ tổng kết Chương trình Mục tiêu Quốc gia
(MTQG) xây dựng NTM. Thảo luận với cán bộ xã và Thị xã Vĩnh Châu (UBND Thị
xã Vĩnh Châu, Sóc Trăng sáng 5/4/2019).
Hà Hữu Nga (2019b). Ghi chú thực địa tại Thị xã Vĩnh Châu, Sóc Trăng. Đề tài Điều tra, đánh giá kết quả xây dựng nông
thôn mới (NTM) tại các vùng để phục vụ tổng kết Chương trình Mục tiêu Quốc gia
(MTQG) xây dựng NTM. Thảo luận với Ban Phát triển NTM Ấp Trà Sết, xã Vĩnh
Hải, Thị xã Vĩnh Châu, Sóc Trăng chiều 5/4/2019).
IPCC (2007). The Fourth Assessment Report of the Intergovernmental Panel for Climate
Change. IPCC, Geneva, Switzerland.
Koponen
J, Kummu M, Sarkkula J (2004). Modelling
Tonle Sap Lake environmental change. Paper presented at the SIL XXIX International Congress of
Limnology, Lahti.
Le Anh Tuan and
Suppakorn Chinvanno (2011). Climate
Change in the Mekong River Delta and Key Concerns on Future Climate Threats,
In M.A. Stewart and
P.A. Coclanis (eds.), Environmental Change and Agricultural Sustainability
in the Mekong Delta, Advances in Global Change Research 45, Springer
Science+Business Media B.V. 2011.
Lê
Anh Tuấn, Hoàng Thị Thủy và Võ Văn Ngoan (2014). Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu tới sinh kế người dân Đồng bằng sông Cửu
Long. Diễn đàn Bảo tồn Thiên nhiên và
Văn hoá vì sự Phát triển Bền vững vùng Đồng bằng sông Cửu Long lần thứ 6.
Lê
Anh Tuấn & Nguyễn Ngọc Huy (2012). Dự
án Thích ứng với Biến đổi Khí hậu dựa vào cộng đồng (CBAC) tại tỉnh Cà Mau –
Báo cáo kết quả khảo sát và đề xuất kế hoạch dự án. Cà Mau, tháng 9/2012.
Lê Bá Thảo (1990), Thiên nhiên Việt Nam, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
Lê Thị Mộng Phượng (2010). Tài liệu kỹ thuật “Sổ tay hướng dẫn lồng
ghép giảm nhẹ rủi ro thiên tai vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội cấp tỉnh,
các ngành tại tỉnh An Giang”. An Giang tháng 9 năm 2010.
Liên
Hợp Quốc tại Việt Nam (2014). Tái định
cư, tái định cư và biến đổi khí hậu tại Việt Nam - Giảm thiểu tác động và tính dễ bị tổn thương với khí hậu cực đoan và áp
lực khí hậu thông qua di cư tự phát và di cư có hướng dẫn. Liên Hợp Quốc
tại Việt Nam, Hà Nội.
Nguyễn Thị Thu Thủy (2018). Tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất
nông nghiệp vùng ven biển tỉnh Bến Tre – Thực trạng và các giải pháp nâng cao
năng lực thích ứng cho cộng đồng. Trong Kỷ yếu Hội thảo Phát
triển nông thôn Đồng bằng Sông Cửu Long từ thực tiễn đến chính sách của Đại
học KHXH&NV-ĐHQG TP.HCM, tr. 461 - 479. TP. Hồ Chí Minh,
ngày 05 tháng 10 năm 2018.
Nguyễn
Văn Bình (2018). Di cư do biến đổi khí
hậu, áp lực môi trường: Cậu chuyện phát triển bền vững vùng ĐBSCL nhìn từ cộng
đồng gốc của những người di cư (Nghiên cứu trường hợp vùng thượng
nguồn xã Vĩnh Lộc, huyện An Phú, tỉnh An Giang). Trong Kỷ yếu Hội thảo Phát triển nông thôn Đồng bằng Sông Cửu Long
từ thực tiễn đến chính sách của Đại học KHXH&NV-ĐHQG TP.HCM, tr.
252-270. TP. Hồ Chí Minh, ngày 05 tháng 10 năm 2018.
Peter
C, Ruysschaert G (2008). Climate change
& human development in Vietnam: a case study for the human development
report 2007/2008. Oxfam and UNDP.
Phan Việt
Châu (2015). Thực trạng xây dựng nông
thôn mới ở đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Lý luận Chính trị, số 8-2015.
The Sphere Project (2011). Sphere Handbook, Humanitarian Charter and
Minimum Standards in Humanitarian Response, Hobbs the Printer, Southampton,
United Kingdom.
Thủ tướng Chính phủ (2007). Quyết định số 172/2007/QĐ-TTg Phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng, chống và
giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020, Hà Nội, 16 - 11 - 2007.
Thủ tướng Chính phủ (2009). Quyết định số 1002/QĐ-TTg về việc phê duyệt
đề án Nâng cao nhận thức cộng đồng và quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng
đồng. Hà Nội, ngày 13 tháng 7 năm 2009.
Thủ tướng Chính phủ (2014). Quyết định Số 44/2014/QĐ-TTg Quy định chi
tiết về cấp độ rủi ro thiên tai. Hà Nội ngày 15 tháng 08 năm 2014.
Thủ tướng Chính phủ (2016a). Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông
thôn mới giai đoạn 2016 – 2020. (Ban
hành kèm theo Quyết định số 1600/QĐ-TTg
ngày 16 tháng 8 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ), Hà Nội 2016.
Thủ tướng Chính phủ (2016b). Quyết định số 1980-QĐ-TTG ngày 17/10/2016
của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn
mới giai đoạn 2016 - 2020. Hà Nội 2016.
Thủ tướng Chính phủ (2019). Quyết
định 417/QĐ-TTg Chương trình hành động tổng thể thực hiện Nghị quyết số
120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)
thích ứng với biến đổi khí hậu. Hà Nội ngày 13/4/2019.
Tổng cục Phòng, chống thiên tai & Trung
ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2017). Sổ
tay hướng dẫn lồng ghép giới trong công tác quản lý rủi ro thiên tai dựa vào
cộng đồng (Tài liệu dành cho cấp xã), Hà Nội năm 2017.
Tổng
cục Thống kê Việt Nam (GSO) (2009). Điều tra dân số Việt Nam. Tổng cục Thống kê Việt Nam, Hà Nội.
Tổng cục thống kê (2015). Điều tra dân số
và nhà ở giữa
kỳ thời
điểm 1/4/2014: Các kết
quả chủ
yếu, Nxb: Thống kê, Hà Nội.
United Nations (2004). Living
with Risk - A global review of disaster reduction initiatives. 2004 Version - Volume
I, New York and Geneva.
United
Nations Development Programme (2007). Human
Development Report 2007/8, Fighting climate change: human solidarity in a
divided world. Palgrave MacMillan, New York.
United Nations Office for Disaster Risk
Reduction (2013). Annual Report 2013,
Biennium Work Programme, 9-11 Rue de Varembé, 1202 Geneva, Switzerland.
Võ,
T.D. và S. Mushtaq (2011). Sống chung với
lũ: Đánh giá Chương trình tái định cư tại vùng đồng bằng sông Cửu Long Việt Nam.
Trong: Biến đổi môi trường
và Bền vững nông nghiệp tại vùng đồng bằng sông Cửu Long (M.A. Steward và P.A. Coclanis, chủ
biên), Nxb. Springer, Dordrecht, trang 181.
Water and Development Research Group, Helsinki
University of Technology (TKK), Finland and Southeast Asia START Regional
Center (SEA START RC), Chulalongkorn University, Thailand (2009). Water and climate change in the lower Mekong
basin: diagnosis & recommendations for adaptation. Project Report for
the Finnish Ministry for Foreign Affairs, 28 Apr 2009.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét