Khảo cổ học giới đã trở thành một trào lưu
cùng với sự phát triển của việc nghiên cứu giới trong xã hội học, đặc biệt là dưới
ảnh hưởng của phong trào nữ quyền ngày một lan rộng tại phương Tây, cho dù về
phương diện khảo cổ học, người ta đã có rất nhiều cố gắng để tách khảo cổ học
giới ra khỏi khảo cổ học nữ quyền. Việt Nam không nằm trong bối cảnh văn hoá
phương Tây, vì vậy các nghiên cứu theo trường phái nữ quyền không phát triển
tại đất nước chúng ta. Tuy nhiên, không phải vì vậy mà việc nghiên cứu về
giới, trong đó có khảo cổ học giới bớt đi ý nghĩa, bởi một lẽ rất đơn giản: Vấn
đề giới là một trong những chiếc chìa khoá quan trọng nhất để mở ra mọi cánh
cửa của toà nhà cấu trúc xã hội, kể cả trong quá khứ, hiện tại cũng như tương
lai.
1. Giới và giới
tính trong khảo cổ học
Có một số qui ước cần phải thống nhất khi tiếp cận về giới trong khảo cổ học. Vì vậy, để tránh bị nhầm lẫm khi lý giải các dữ kiện, chúng ta cần phân biệt hai phạm trù giới và giới tính. Giới tính là khái niệm phân đôi đàn ông và đàn bà (giống đực và giống cái) về mặt sinh học, mà cơ sở của nó là thể chất và tính dục. Trong khi sinh học phân chia rõ ràng hai giới tính khác biệt nhau một cách phổ biến ở mọi nơi, mọi lúc, thì về phương diện xã hội học, giới lại được qui chiếu vào những thiên hướng, hành vi xã hội và văn hoá - bao gồm cả hành vi tính dục - với vô vàn vai trò khác nhau tuỳ từng nơi, từng lúc, phụ thuộc vào từng xã hội, từng nền văn hoá. Thậm chí ngay trong một nền văn hoá thì giới cũng được phân biệt giữa các cá nhân, các nhóm xã hội (gia đình, cộng đồng, hội đoàn, giai cấp, chủng tộc, các tiểu văn hoá...). Về phương diện này, sự khác biệt hay tương đồng về giới thường được nhìn nhận theo góc độ vị thế, vai trò, chuẩn mực và sự thừa nhận xã hội. Nói cách khác, đó chính là xung đột hoặc đồng thuận xã hội thông qua các quá trình, các hành vi văn hoá và xã hội thể hiện trong vấn đề giới.
Đối với khảo cổ học, việc tiếp cận giới đặt ra một số vấn đề sau: 1) Dựa vào đâu để phát hiện được giới trong quá khứ? 2) Sự phân biệt giữa hai phạm trù giới và giới tính được hầu hết, nhưng không phải là tất cả, các nhà khảo cổ học và nhân học chấp nhận. Vậy thì có thực sự tồn tại một gianh giới rõ ràng giữa giới và giới tính trong các tư liệu khảo cổ học không? 3) Vị thế xã hội tương đương của nam giới và nữ giới tồn tại trong xã hội nào? 4) Dấu ấn của giới được biểu hiện như thế nào trong văn hoá vật chất? 5) Chức năng xã hội của giới là gì, đó có phải chỉ là tổ chức lao động không? (Claassen 1991: 4-10).
2. Các phương pháp tiếp cận
Về mặt nhận thức, không thể vạch một gianh giới dứt khoát giữa giới và giới tính để áp dụng cho việc nghiên cứu khảo cổ học. Tuy nhiên, về cơ bản khảo cổ học là một khoa học miêu tả và giải thích được xây dựng trên cơ sở các dữ liệu hiện vật. Vì vậy, chấp nhận một gianh giới, dù chỉ là gianh giới qui ước, có nghĩa là chấp nhận việc khuôn đối tượng nghiên cứu vào một phạm vi cho phép áp dụng một số phương pháp, phương pháp luận, hệ thống thuật ngữ, mô hình mô tả và giải thích phù hợp. Cho tới nay, khảo cổ học và các khoa học phù trợ chưa tìm được những phương pháp hoàn toàn thuyết phục để giải mã về giới để lại trong các di tích khảo cổ và trong các tư liệu hiện vật khác có liên quan. Brian Hayden, một nhà nhân học theo trường phái thực chứng logic thuộc khoa Khảo cổ, trường Đại học Simon Fraser (Canada) cho rằng có hai phương pháp cơ bản để tiếp cận vấn đề giới: 1) Khái quát hoá lý thuyết; 2) Lý giải đặc thù. Tác giả cho rằng từ góc độ Tiền sử, những lý giải đặc thù không mấy hiệu quả, vì đó là những định thức rất chủ quan, khó có thể kiểm nghiệm hoặc xác định. Hơn nữa những lý giải đặc thù thường chỉ thích hợp cho việc tìm hiểu hành vi cá nhân. Trong khi đó, giới là vấn đề liên quan tới những hành vi nhóm hoặc cộng đồng. Vì vậy, Hayden đã đưa ra sáu cách tiếp cận cơ bản: 1) Dân tộc học so sánh; 2) Nghiên cứu các bộ xương và sự chết; 3) Nghiên cứu các văn bản cổ; 4) Nghiên cứu các tác phẩm nghệ thuật và huyền thoại; 5) Nghiên cứu sinh lý học chuyên biệt; 6) Nghiên cứu động vật học so sánh và sinh lý học tổng quát (Hayden 1991: 33-39).
Sáu cách tiếp cận mà Hayden đưa ra chắc chắn là chưa đầy đủ, việc phân chia các cách tiếp cận của ông cũng khá tuỳ tiện. Hơn nữa khó có thể thống kê đầy đủ các phương pháp tiếp cận, vì giới là vấn đề xã hội, liên quan tới mọi khía cạnh của xã hội, nên nó cần mọi cách tiếp cận đã có và có thể có. Nhưng đối với trường hợp giới trong khảo cổ học Tây Nguyên, chúng ta có thể coi dân tộc học so sánh, ngôn ngữ học lịch sử là những cách tiếp cận hữu ích. Bên cạnh đó còn rất nhiều hướng tiếp cận từ các ngành nhân học khác, chẳng hạn như khảo cổ - cổ xã hội học về nghề gốm với tư cách là một nền sản xuất biểu tượng; tư liệu mộ táng và các mô thức cư trú để tái hiện cấu trúc xã hội thông qua các mối quan hệ giới. Ngoài ra còn có thể đề cập đến một loạt cách tiếp cận khoa học xã hội nhân văn khác liên quan tới đặc trưng về giới mà những minh hoạ dưới đây chỉ là một vài ví dụ.
2.1. Các cách tiếp cận dân tộc học so sánh
Có thể nói Tây Nguyên là một kho tàng khá nguyên vẹn cho môn dân tộc học so sánh, bởi vì vùng đất này lưu giữ được nhiều nguyên mẫu nhất về quá khứ xa xôi của nhiều tộc người trên đất nước ta. Cho đến trước thời hiện đại, về cơ bản Tây Nguyên vẫn là một vùng đất của các cộng đồng tự trị. Lối sống và ý thức hệ của các quốc gia cổ đại và trung cổ trong khu vực khó chi phối, ảnh hưởng trực tiếp, thường xuyên đến nơi này. Vì vậy, các cấu trúc xã hội cổ truyền ở đây có thể biến đổi nhưng ít bị giải thể hoặc giải thể không triệt để. Khái niệm chế độ mẫu quyền hay mẫu hệ áp dụng cho vùng đất Tây Nguyên có những nội dung lịch sử của nó. Chế độ đó thường khi vẫn được coi là kém phát triển so với chế độ phụ quyền hay phụ hệ. Đối với Tây Nguyên, mẫu quyền hay phụ quyền không hề phản ánh sự tiến bộ hay lạc hậu, nếu nó được nhìn từ góc độ văn hoá. Trong những thập kỷ gần đây, với việc phát hiện và ứng dụng hiệu quả cơ chế thông tin của bộ não - cơ chế mạng - người ta mới dần dần hiểu ra được một điều đơn giản là mô hình thứ bậc (hierarchy), chỉ là một trong vô vàn cách lý giải về sự phát triển, mà không phải là một chân lý duy nhất.
Từ góc độ đó, chúng ta có thể thay đổi lối nhìn của mình đối với các mô hình kinh tế, xã hội, văn hoá truyền thống của Tây Nguyên, đặc biệt là lối nhìn vào những cộng đồng còn di ảnh của một chế độ mẫu quyền xa xưa. Trên thực tế, khái niệm chế độ mẫu quyền đã ngăn cản người ta nhìn sâu hơn vào thực chất cấu trúc của các xã hội Tây Nguyên, để không lý giải được thấu đáo các xã hội đó. Cấu trúc của xã hội Tây Nguyên truyền thống là một mô hình không phân cấp rõ rệt. Đó là một mô hình mạng được đan dệt bởi vô vàn tác nhân tự nhiên và xã hội. Dường như sự phân cấp về quyền lực - một trong những nhân tố trung tâm tạo nên sự khác biệt về vị thế, vai trò và giá trị xã hội trong cộng đồng - là khá mờ mịt. Thể chế hội đồng người già, toà án phong tục, quyền lực của người Shaman, và đặc biệt là hệ thống các Yang (thần) là những cơ cấu quyền lực vừa vô hình, vừa hữu hình được sử dụng để kiểm soát các hành vi của mọi thành viên trong cộng đồng.
Có thể nói người phụ nữ trong các cộng đồng truyền thống Tây Nguyên có một vị thế xã hội không thua kém gì nam giới, đặc biệt là vai trò tổ chức xã hội. Nhà dài Tây Nguyên là một di ảnh về quyền lực xã hội của người phụ nữ. Tại đây, người phụ nữ là trung tâm của một đơn vị tổ chức kiếm sống và sản xuất cơ bản - người chủ của chế độ kinh tế hộ, một thể chế kinh tế gắn với truyền thống khai thác và bổ sung bằng nông nghiệp dùng cuốc trên đất khô và chăn nuôi ở qui mô nhỏ. Đối với người Tây Nguyên xưa, nguồn dự trữ tự nhiên là khá dồi dào vì rừng chưa bị tàn phá và mật độ dân cư thưa thớt, cộng với nhu cầu không cao nên sản phẩm thặng dư, lao động thặng dư gần như không đáng kể. Chính vì vậy, ở họ có lẽ không có khái niệm tư hữu tài sản. Nguồn của cải quan trọng nhất đối với họ là đất đai thì đất đai lại dư thừa, nếu như các nguồn đó được xét trong phạm vi cộng đồng. Trong bối cảnh đó, vai trò xã hội của người đàn ông có lẽ thể hiện qua một số loại hình lao động nặng, lao động công ích, trong một số loại hình sinh hoạt tinh thần, và đặc biệt thể hiện trong các cuộc chiến tranh với những cộng đồng khác. Nhưng điều này không phải bao giờ cũng xảy ra.
Người ta thường đề cập tới vai trò đặc biệt của người đàn ông trong nền kinh tế tước đoạt, đó là hoạt động săn bắn. Nhưng một khảo sát của chúng tôi tại cộng đồng người Ha Lăng, xã Sa Bình, huyện Sa Thầy (Kon Tum) cho thấy vấn đề không hoàn toàn như vậy. Tại đây người ta có tục săn vây đàn lợn rừng đông hàng trăm con để bảo vệ mùa màng và tăng khẩu phần thực phẩm. Một cuộc săn như vậy kéo dài rất nhiều ngày, đôi khi cả tháng. Dân làng dồn đàn lợn vào một cánh rừng có địa hình thuận lợi. Sau đó người ta chặt cây, rào vây thu hẹp dần diện tích khu đất đó lại. Đến khi không cần thu hẹp hơn nữa thì người ta mới vào khu đất đã được rào để đâm, chém, ném lao và bắt đàn lợn. Công việc như vậy đòi hỏi một khối lượng nhân lực lớn, ngay cả đàn bà và trẻ con cũng có thể tham gia. Với cách săn như vậy, rõ ràng lao động nữ là một nguồn bổ sung không thể thiếu được. Vì vậy, vai trò của họ không thua kém vai trò của nam giới trong loại phân công lao động tưởng chừng đặc biệt đàn ông này.
Một công việc khai thác tự nhiên khác là đánh cá cũng không phải chỉ dành riêng cho đàn ông. Truyện cổ Dyông Dư của người Ba Na ở Gia Lai kể về những đoàn người đi đánh cá ở sông lớn, thậm chí ra tận biển nữa. Trong đoàn người đó có cả nam lẫn nữ. Sở dĩ nữ giới cũng có thể tham gia vào công việc này là vì người ta đánh bắt cá bằng phương pháp “ruốc cá”, có nghĩa là dùng các loại lá cây, vỏ cây, cành cây có chất độc, đem giã nhỏ, thả xuống nước, làm cho cá bị say, người ta có thể bắt một cách dễ dàng. Với kỹ thuật đánh cá kiểu này, đôi khi vai trò của người phụ nữ lại rất quan trọng, vì họ là những người hái lượm truyền đời, quá quen với các loại cây cỏ, nhiều người trong số họ lại là những thầy thuốc thảo dược tài ba.
2.2. Các tiếp cận khảo cổ học
Tây Nguyên là một trong những vùng đất hiếm hoi với khá nhiều di chỉ nguyên vẹn còn có thể nghiên cứu khảo cổ học cư trú Tiền sử tại Việt Nam. Khi nói tới lối sống truyền thống của các xã hội Tây Nguyên, người ta thường nghĩ ngay tới việc du canh, du cư, hoặc các hình thức cư trú di động khác, ít ai có thể hình dung người Tây Nguyên Tiền sử lại định cư. Nhưng trên thực tế, hệ thống di chỉ khảo cổ học Tiền sử Tây Nguyên đã được khảo sát cho thấy những người Tây Nguyên đầu tiên là những cộng đồng định cư rất lâu dài và rất ổn định tại những làng Tiền sử rộng hàng ngàn mét vuông, với tầng văn hoá cư trú liên tục dày trên dưới 1m như Biển Hồ, Bàu Cạn, Trà Dôm, Chư Prông.... ở Gia Lai; Lung Leng I, Lung Leng II ở Kon Tum. Những di chỉ như vậy chắc chắn đã được định cư liên tục hàng trăm, thậm chí hàng nghìn năm.
Tuy nhiên, một câu hỏi được đặt ra là định cư liên quan gì tới vấn đề giới trong khảo cổ học? Như chúng ta đều biết, định cư Tiền sử trên một quy mô lớn về không gian và thời gian, cách ngày nay trên dới 3500 năm ở môi trường Tây Nguyên, trước hết đòi hỏi những tiền đề kinh tế, xã hội ở mức phát triển nào đó, nếu không nói là khá cao. Định cư lâu dài với một qui mô lớn phải có những nguồn cung cấp ổn định, dù đó là những nguồn dự trữ trong tự nhiên hay những nguồn do con người sản xuất ra. Những bằng chứng đầu tiên ở di chỉ Lung Leng cho thấy người Tiền sử nơi đây dường như đã biết sản xuất lúa gạo. Nếu không sản xuất lúa gạo thì chí ít người ta cũng đã có một nền nông nghiệp phát triển với những loại hoa màu khác, đó là một nền nông nghiệp dùng cuốc trên đất khô và đất phù sa ven sông suối. Loại hình bôn đá, cuốc đá phát hiện phổ biến tại Tây Nguyên cho thấy điều đó.
Với một nền nông nghiệp như vậy, người Tiền sử Tây Nguyên chắc chắn đã tổ chức cộng đồng của họ thành những xã hội ổn định, dựa trên các mối quan hệ phức tạp và một sự phân công lao động đã phát triển. Cơ sở phân công xã hội đầu tiên phải là giới. Nhưng có bao nhiêu giới trong một xã hội như vậy, và vị thế, vai trò của các giới trong xã hội đó ra sao? Các nghiên cứu nhân học tại một số bộ lạc bản địa Mỹ cho thấy có những dấu hiệu văn hoá vật chất khá rõ ràng để qui định vị thế xã hội của các thành viên trong cộng đồng. Các nghiên cứu tại Moundville đã phát hiện ra rằng vị thế “người lớn” được biểu hiện bằng những chiếc xương hươu, những móng vuốt chim và những mảnh xương rùa không hề được chế tác. Người lớn là đàn ông thì có riêng những chiếc rìu, đục bằng đá. Còn vị thế “trẻ con” thì được đánh dấu bởi những đồ gốm nhỏ xíu, những đồ vật bằng đất sét, hoặc những vỏ nhuyễn thể nước ngọt không qua tạo tác (Christopher Peebles and Susan Kus 1977: 422-448).
Tuy nhiên, các tác giả trên không tìm được mối liên hệ nào giữa tuổi tác và địa vị xã hội. Dường như họ không biết có mối liên hệ đó. Sống trong một xã hội phân cấp và chuyên nghiệp, họ khó mà hình dung ra rằng tuổi tác lại gắn liền với vị thế xã hội, là một giá trị xã hội. Vì vậy tác giả của công trình Giới trong khảo cổ học, Cheryl Laassen đã cho rằng những tập hợp hiện vật do con người tạo ra để ghi dấu ấn người lớn, trẻ con đó gắn liền với tuổi tác và giới tính (sinh học) đã cho thấy rằng cũng có thể có những tập hợp hiện vật được tạo ra để ghi dấu ấn giới (xã hội) (Cheryl Laassen 1991:7). Trong các di chỉ Tiền sử Tây Nguyên như Lung Leng, Trà Dôm, Chư Prông... cùng với các tập hợp rìu bôn đá nhỏ xíu như một cái móng tay; những đồ gốm tí hon như những cái lọ mực... người ta còn tìm thấy những con dao, chiếc cuốc, chiếc rìu, chiếc khuyên tai đá khổng lồ - nhiều khả năng đó là các hiện vật biểu trưng. Chúng ta chưa tìm được bất kỳ bằng chứng khảo cổ học trực tiếp nào để chứng tỏ rằng đã có một hội đồng người già trong xã hội Tây Nguyên Tiền sử. Tuy nhiên, những so sánh dân tộc học đã cho thấy Hội đồng già làng là một thiết chế quyền lực lưỡng phân. Nó vừa đóng vai một hội đồng tư vấn lại vừa trực tiếp chi phối mọi hoạt động của cộng đồng bằng cách ra các quyết định từ quan trọng nhất đến bình thường nhất và sử dụng dư luận xã hội cùng toà án phong tục để kiểm soát việc thực thi các quyết định đó.
Như vậy, đối với xã hội Tây Nguyên, người già đồng nghĩa với quyền lực xã hội mà cộng đồng đã giao phó thông qua một tiêu chí sinh học là tuổi tác. Về phương diện này, người ta khó mà tách bạch tiêu chí sinh học ra khỏi tiêu chí xã hội khi đề cập đến vấn đề giới. Đó là cung cách của một xã hội tổ chức theo mạng không phân cấp. ở đây tuổi tác được giả định là gắn liền với kinh nghiệm sống - một nguồn tri thức quan trọng nhất đảm bảo cho sự sinh tồn của cộng đồng. Tuy nhiên, một xã hội được tổ chức như vậy là một xã hội bình quân, không dự phóng một đường hướng phát triển. Bình quân quyền lực theo tiêu chí tuổi tác trên thực tế là trung hoà quyền lực vì tất cả đều được giả định là đại diện cho quyền lực của cộng đồng, khi đến một độ tuổi nào đó mà cộng đồng coi là già.
2.3. Các tiếp cận xã hội học
Cần phải nói ngay rằng việc nghiên cứu giới trong xã hội Tây Nguyên tiền sử bằng các tiếp cận xã hội học trực tiếp là không thể được, bởi vì các xã hội ấy đã trở thành quá khứ. Tuy nhiên có thể sử dụng các tiếp cận xã hội học so sánh, các tiếp cận xã hội học gián tiếp, tiếp cận xã hội học bằng phương pháp phân nhóm xã hội, bằng cách sử dụng hệ thống thuật ngữ xã hội học để miêu tả, để xây dựng các mô hình giải thích các xã hội Tiền sử... Và bản thân vấn đề giới mà chúng ta đang đề cập cũng là một trong những vấn đề trung tâm của xã hội học. Trong nhiều công trình nghiên cứu, mọi người đều rất quen thuộc với cách phân nhóm xã hội ở tầm vĩ mô. Đã có một thời, hầu hết các nghiên cứu thuộc lĩnh vực Khoa học Xã hội và Nhân văn đều qui chiếu về một tiêu chí phân nhóm xã hội duy nhất là giai cấp. Nhận thức luận ấy cũng được áp dụng phổ biến vào việc tiếp cận các xã hội Tiền sử. Vì vậy, cái mà người ta cố gắng đi tìm trong các loại dữ kiện khảo cổ là quá trình phân hoá giai cấp xã hội, mà không mấy lưu ý tới các loại phân nhóm khác.
Nếu chỉ sử dụng tiêu chí phân nhóm duy nhất là giai cấp làm hệ qui chiếu để nghiên cứu Tiền sử và Lịch sử Tây Nguyên thì chắc chắn phải đi tới một kết luận là Tây Nguyên không có lịch sử. Đó là lý do tại sao chúng ta cần có những tiêu chí phân nhóm xã hội bổ sung khác để nghiên cứu các xã hội Tây Nguyên, kể cả xưa và nay. Sử dụng tiêu chí phân nhóm xã hội thông qua giới có nghĩa là chúng ta đã quay trở về với cội nguồn đầu tiên tạo nên cấu trúc xã hội, trước hết là trong phân công lao động. Tuy nhiên giá trị của công trình nghiên cứu sẽ không có gì đáng kể nếu chỉ dừng lại ở cái gianh giới khác biệt giữa nam và nữ; dừng lại ở mức độ khái quát phân công lao động xã hội giữa nam giới và nữ giới căn cứ trên các khác biệt sinh học mà bỏ qua cái quan trọng hơn, đó là vị thế, vai trò, giá trị và sự thừa nhận xã hội đối với một hoặc những giới nào đó.
Về phương diện lý thuyết thì khái niệm tính phức hợp có thể cho chúng ta một số gợi ý khi dựng lại các mối quan hệ xã hội thông qua tiêu chí giới. Tuy nhiên, chúng ta lại bị tính chất rõ ràng của sự khác biệt giới tính làm cho vấn đề có vẻ trở nên quá đơn giản. Trên thực tế, một số nghiên cứu xã hội học tại các cộng đồng bản địa chây Mỹ cho thấy vấn đề quan hệ giới không hề đơn giản chút nào. Chẳng hạn như tại cộng đồng thổ dân Timucua bang Florida (Mỹ) có một loại người gọi là những “berdaches” đã được những nhà truyền giáo châu Âu đầu tiên, trong đó có Le Moyne đến thăm. Berdaches ăn mặc như những người phụ nữ và làm những công việc rất đặc biệt. Các vị khách châu Âu gọi họ là những “thân trâu ngựa” vì họ rất khoẻ và làm công việc của một phu huyệt mộ, vận chuyển lương thực; một số người biết nghề chữa bệnh bằng thảo dược (Lorant 1946: 69-81). Họ được coi là trung giới, nói cách khác, đó là những người ái nam ái nữ, mặc dù về sinh lý học, họ là những người đàn ông. Họ đã vượt qua cái đường biên phân chia nam giới, nữ giới về vai trò xã hội (Whiehead 1982). Họ không nhất thiết phải là những người đồng tính, mặc dù đồng tính không phải là không bình thường (Milanich and Sturtevant 1972).
Việc đồng hoá các thuộc tính vai trò giới vào các hoạt động lao động của cả đàn ông lẫn đàn bà, kể cả mọi công việc vặt trong nhà đã cho thấy rằng họ có một vị thế xã hội đặc biệt trong cộng đồng. Chỉ có điều, họ vẫn là những người được cộng đồng kính trọng (Hauser 1990: 53). LeMoyne còn thấy rằng trong cộng đồng này cả đàn ông và đàn bà đều săm mình. Trong khi đó săm mình là thể hiện một vị thế xã hội cao trong cộng đồng, chỉ được dùng cho người lớn, và với nhiều cộng đồng, chỉ đàn ông mới xăm mình. Phải chăng không phân biệt vị thế, vai trò giới đã tạo điều kiện cho xã hội sẵn lòng chấp nhận các berdaches? Điều đó cho thấy đây là một cộng đồng bình đẳng. Một xã hội ở trình độ Tiền sử mà có những hành vi ứng xử như vậy chỉ có thể là xã hội mẫu hệ. Trong một xã hội phụ hệ, các hành vi và thân phận xã hội của những người đàn ông như vậy sẽ không bao giờ được cộng đồng kính trọng, nếu không nói là họ có thể còn bị phân biệt đối xử, bị khinh rẻ.
Những ví dụ trên phần nào giúp chúng ta hình dung một cấu trúc đa dạng, nhiều chiều trong quan hệ giới của xã hội Tây Nguyên Tiền sử. Người ta không nhất thiết phải đi tìm hoặc chứng minh có một “giới” berdaches trong mọi cộng đồng Tiền sử. Tuy nhiên, nếu qui giản mọi quan hệ hướng về một quyền lực của một bà già hoặc một thủ lĩnh, hoặc một giới duy nhất nào đó sẽ là điều sai lầm. Đối với xã hội Tây Nguyên Tiền sử, sự tương đồng của hầu hết các mộ cho người quan sát một ấn tượng đây là một xã hội bình đẳng. Người ta không thấy có những mộ quá giàu, dù rằng có những mộ thì lại khá sơ sài, đơn giản. Những mộ có vẻ phong phú hơn, có vẻ quyền uy hơn, có thể được dành riêng cho những người có uy tín trong cộng đồng. Đó có thể là những người già cả, hoặc những người có tay nghề trong một số lĩnh vực sản xuất nào đó. Đó cũng có thể là một vài thành viên chuyên biệt trong một số lĩnh vực phục vụ cộng đồng như thầy cúng, thầy phù thuỷ kiêm chữa bệnh chẳng hạn. Tuy là những chuyên viên nhưng họ không có đặc quyền đặc lợi gì từ cộng đồng cả, vì đơn giản đây là những cộng đồng không tổ chức trên cơ sở tư hữu tài sản với giá trị thặng dư lao động cao. Hơn nữa, những người được gọi là chuyên viên kia, ngoài một số ngón nghề riêng, họ vẫn có bổn phận với cộng đồng như mọi thành viên khác và vẫn sống như mọi thành viên khác trong cộng đồng.
Đặc biệt đối với giới phù thuỷ, thầy cúng, người hành nghề chữa bệnh (kể cả bằng cúng bái hay bằng các loại thảo dược), dù là nam hay nữ thì vì “trách nhiệm” là trung gian giữa con người và thần linh, họ phải chịu những hy sinh nhất định trong đời sống thường nhật, đặc biệt là những kiêng kị, giữ giới, không được có lòng tham với của cải, vật chất. Họ được mọi người trong cộng đồng coi như là những siêu nhân. Nhiều cộng đồng Tây Nguyên hiện thời vẫn còn những con người này. Hiện nay, nền tảng xã hội của họ đã thay đổi nên họ không còn được coi là một loại người, một giới không thể thiếu của cộng đồng nữa. Nhưng chúng ta có thể hình dung được vai trò và vị thế xã hội của họ hàng trăm, hàng nghìn năm trước đây quan trọng tới mức nào.
2.4. Các tiếp cận kinh tế học
Mạng lưới di chỉ khảo cổ học dày đặc và phong phú ở Tây Nguyên cho thấy vào thời Tiền sử muộn, nơi đây đã từng có một hệ thống xã hội phát triển. Đó có thể là một loại hình tổ chức xã hội tiền nhà nước mà phụ nữ đóng vai trò quyết định. Người ta có thể tìm thấy gợi ý về một hệ thống các thủ lĩnh do các nữ tù trưởng đứng đầu thông qua hình tượng Po Naga - Mẹ xứ sở của người Chăm chẳng hạn. Thời gian này, con đường giao thương giữa Đông Á, Đông Nam Á, Nam Á và thế giới Địa Trung Hải bắt đầu phát triển. Người Trung Quốc gọi đó là con đường tơ lụa trên biển. Người phương Tây gọi là con đường hương liệu. Còn có ý kiến cho rằng đó là con đường buôn bán vàng, ngọc và các loại trang sức thuỷ tinh, đá quí khác. Trong giai đoạn này, có thể Tây Nguyên là một trong số các nguồn cung cấp các loại sản phẩm sơ cấp cho các kỹ nghệ sản xuất hương liệu, đá quí và vàng cho một phần thị trường thế giới. Nếu đúng như vậy thì trao đổi và thương mại là một động lực thúc đẩy sự phát triển ở khu vực này và đây có thể là giai đoạn hoàng kim của chế độ mẫu quyền Tây Nguyên.
Chưa có đủ bằng chứng để có thể kết luận về một sự suy thoái trong xã hội Tây Nguyên Sơ sử sau khi con đường giao thương trên biển từ Đông Á qua Nam Á sang Địa Trung Hải đã bị gián đoạn. Tuy nhiên, có một điều chắc chắn là sự lớn mạnh và suy thoái của một số quốc gia cổ đại ven biển Việt Nam, Malaysia, Thái Lan, Miến Điện và trên một số hòn đảo Đông Nam Á đã có ảnh hưởng không nhỏ tới khu vực Tây Nguyên. Có lẽ nhiều đợt di cư từ các vùng ven biển vì những lý do chính trị và kinh tế lên Tây Nguyên đã làm cho vùng đất này trở nên xáo động. Một số di chỉ có tầng văn hoá mỏng,15cm - 20cm ở những khu vực không mấy thuận tiện, có niên đại tương đương với Sa Huỳnh muộn và sau đó được tìm thấy ở Kon Tum (Ya Chiêm, ngoại thị Kon Tum) và rải rác ở một số nơi khác dường như là bằng chứng cho những biến động xã hội đầu tiên tại đây. Và có lẽ từ thời kỳ này, xã hội Tiền sử muộn trên đất Tây Nguyên bắt đầu quá trình giải cấu trúc xã hội nữ quyền tiền nhà nước vùng để trở thành những cộng đồng người nhỏ hơn, sống bán định cư. Đây cũng có thể là giai đoạn xảy ra những va chạm thường xuyên giữa những người mới đến và các cư dân bản địa. Bối cảnh xã hội đó đã đòi hỏi vai trò xã hội của những người đàn ông, đặc biệt là khi có va chạm, xung đột và chiến tranh với các cộng đồng khác. Đây là một trong các giai đoạn ra đời các anh hùng ca Tây Nguyên, ra đời thể chế Hội đồng người già và những hình thức hội nghị dân làng khác nhằm quyết định tập thể những vấn đề sống còn của cộng đồng. Cùng với các thể chế này, đặc biệt là cùng với lối sống mới, một số ngành kinh tế Tây Nguyên bắt đầu suy thoái, trong đó đặc biệt có nghề gốm, kéo theo nó là những biến đổi cấu trúc xã hội, phong tục tập quán.
Trước hết, cần đề cập đôi chút tới nghề gốm Tiền sử Tây Nguyên dưới góc độ kinh tế như một nền sản xuất biểu tượng, một nền kinh tế biểu tượng. Vì thế việc nghiên cứu gốm Tiền sử Tây Nguyên dưới góc độ kinh tế học có thể và cần phải sử dụng cách tiếp cận kinh tế học biểu tượng. Khi nói tới kinh tế học, một người dù không am hiểu gì nhiều về lĩnh vực này cũng vẫn có thể biết được rằng đây là một khoa học lấy cái khan hiếm làm đối tượng, mục đích của nó là tìm ra con đường để tiết kiệm chi phí nhưng lại đạt được lợi nhuận tối đa. Cái nội hàm kinh tế học hiện đại ấy có rất ít điểm chung với môn kinh tế học biểu tượng. Có thể nói ngay rằng kinh tế học biểu tượng, dù là kinh tế học biểu tượng cổ đại hay kinh tế học biểu tượng hiện đại đi nữa thì đối tượng của nó là tri thức, là việc giải đáp những vấn đề xã hội. Và thay vì lấy lợi nhuận làm mục đích thì kinh tế học biểu tượng lại lấy xã hội làm mục đích. Có thể coi việc tổ chức lao động, cách thức lao động, kết quả lao động và mục đích lao động của người Ai Cập cổ đại xây Kim Tự Tháp làm một ví dụ điển hình cho môn kinh tế học biểu tượng cổ đại. Cả một guồng máy nhà nước đã được huy động để khai thác mọi nguồn lực quốc gia, kể cả nguồn lực khoa học và trí tuệ sáng tạo cao nhất để xây nên những hệ thống lăng mộ. Nó thật vô lý về phương diện kinh tế, nhưng lại cực kỳ hữu lý với tư cách là biểu tượng số một về sự vĩnh cửu của chế độ phụ quyền Ai Cập cổ đại.
Tính chất biểu tượng của nghề gốm tiền sử Tây Nguyên không phô bày một cách lộ liễu như hệ thống Kim Tự Tháp Ai Cập, nhưng lại mang một ý nghĩa ẩn tàng khá sâu kín qua đó người ta có thể đọc được phần nào vai trò xã hội của giới, mà cụ thể là vị thế, vai trò và giá trị của người phụ nữ trong xã hội ấy. Điều đó thể hiện qua hệ thống mộ chum, mộ vò gốm Tiền sử được phát hiện trong hầu khắp các di chỉ khảo cổ học Tây Nguyên. Có lẽ ở đây không có bất cứ cái gì có thể so sánh được với sự hoành tráng và vĩ đại của hệ thống lăng mộ Ai Cập cổ đại về qui mô, hình dáng và kích cỡ. Nhưng đó chỉ là cái vẻ bề ngoài. Nếu xét từ bình diện kinh tế thì chúng ta có thể nói rằng tỷ lệ huy động các nguồn, những chi phí hữu hình và vô hình cho hệ thống mộ chum, mộ vò ở di chỉ Lung Leng chẳng hạn so với sức khoẻ của nền kinh tế và xã hội Lung Leng không thua kém gì tỷ lệ chi phí cho hệ thống lăng mộ Ai Cập so với sức khoẻ của nền kinh tế và xã hội Ai Cập cổ đại. Tại di chỉ này người ta đã sản xuất ra những chiếc chum, những chiếc vò to nhất, đẹp nhất, công phu nhất dùng cho người chết. Người ta đã bỏ vào mộ những đồ tuỳ táng bao gồm những công cụ, những vật dụng tốt nhất, mới nhất và giá trị nhất. Như vậy có nghĩa là người Tiền sử nơi đây đã huy động toàn bộ khả năng kinh tế, xã hội, văn hoá và trí tuệ của mình để xây dựng một hệ thống biểu tượng. Đỉnh cao của nền kinh tế thủ công gốm và chế tác đá đã trở thành những giá trị biểu tượng vì trước hết nó đã được dành cho thế giới người chết.
2.5. Các tiếp cận hành vi
Động cơ nào ẩn sau những hành vi có vẻ vô lý về phương diện kinh tế học đó? Đối với người Tiền sử Tây Nguyên, các khu định cư lâu đời, trù phú và có qui mô lớn như Lung Leng là bằng chứng về một xã hội ổn định về kinh tế và có hệ thống tổ chức cao. Một xã hội như vậy chắc chắn đã ra đời giới tinh hoa của nó ở một mức độ nào đó. Giới tinh hoa ấy đã có một nền tảng văn hoá làm chất keo gắn kết các thành viên của xã hội, có nghĩa là cộng đồng ấy đã có một hệ giá trị riêng của mình. Tuy nhiên, như vậy chưa đủ vì bản chất của con người là khao khát được sống nhiều hơn, được tồn tại dài hơn, thậm chí trở thành bất tử và vĩnh cửu. Các cư dân nông nghiệp định cư Tiền sử là những ngươì có nhiều cơ sở nhất cho việc xây dựng một ý thức hệ phù hợp với những khát vọng như vậy. Cùng với việc chế ngự được nạn thiếu lương thực, thực phẩm bằng làm nông, chăn nuôi, săn bắn, hái lượm, khai thác các nguồn; cùng với việc chế ngự được nạn thiếu thốn công cụ, vũ khí, vật dụng hàng ngày bằng phát triển thủ công nghiệp và trao đổi; cái mà con người khao khát chế ngự nhất là cái chết. Vì vậy, bằng mọi cách con người mong muốn chiến thắng cái chết. Theo nghĩa đó, thật là sai lầm nếu chúng ta chỉ nhìn kinh tế qua lăng kính lợi nhuận. Một nền kinh tế có thể là phi lợi nhuận nhưng nếu như nó làm cho con người ta không sợ cái chết và có ý nghĩ là mình bất tử thì đó chính là một nền kinh tế biểu tượng. Đi tìm các qui luật của nền kinh tế biểu tượng là mục đích của môn kinh tế học biểu tượng.
Có thể nói nghề gốm Tiền sử muộn Tây Nguyên là một bộ phận chính yếu của nền kinh tế biểu tượng nơi đây. Hơn nữa, gốm là một trong những nguồn tư liệu tốt, đáng tin cậy giúp người nghiên cứu tiếp cận vấn đề giới. Cho đến nay có lẽ không mấy người phản bác ý kiến cho rằng nghề gốm Tiền sử là một nghề chủ yếu do phụ nữ tiến hành, là một nghề trước hết gắn liền với lao động phụ nữ. Vậy thì cái nền sản xuất xã hội phụ nữ ấy muốn thể hiện điều gì với những khu mộ chum được chôn ngay trong nơi cư trú của mình như ở Lung Leng? Phải chăng, ngược lại với hành vi của đàn ông hiển lộ thông qua hệ thống Kim Tự Tháp sừng sững giữa trời như một biểu tượng quyền lực vĩnh cửu tại thế, người phụ nữ Tiền sử Tây Nguyên muốn thể hiện một quyền năng sinh thành vô biên thông qua hình tượng chiếc chum như một thai tạng, tiếp tục thai nghén những cuộc đời mới sau cái chết được ấp ủ dưới lòng đất ngay tại nơi cộng đồng đang sinh sống? Hành vi đó có lẽ phổ biến trong việc ứng xử với cái chết của các xã hội nông nghiệp, nơi ngự trị quyền năng bất tận và hiền hoà của nữ giới. Và sau này, việc bành trướng của Đạo Phật với nguyên lý tái sinh phổ biến trong các cư dân Châu Á là một bằng chứng về ý thức hệ đó.
Việc chinh phục cái chết bằng cách coi chết không phải là hết, chết là đi sang một thế giới khác tốt đẹp không kém đã làm cho con người bớt sợ hãi và tăng thêm lòng can đảm. Người sống cư xử tử tế với người chết chính là một cách nối dài cuộc đời mai sau của bản thân mình. Đó là triết lý sống rất giản dị của những cư dân nông nghiệp định cư. Nhng một cộng đồng Tiền sử và Sơ sử do nữ giới làm chủ, dù có thịnh vượng và phát triển đến một mức độ nào đi nữa thì đó vẫn chỉ là những cộng đồng tự trị ở một qui mô nhỏ, cùng lắm cũng chỉ có thể là ở qui mô vùng hoặc “tiểu quốc”. Bởi vì trong thời gian này, bành trướng, xâm chiếm, cướp bóc và nô dịch các cộng đồng khác là một xu thế phổ biến của lịch sử. Một xã hội thích nghi với tình thế chiến tranh phải là một xã hội của các chiến binh, của đàn ông. Trong lịch sử, kinh nghiệm thất bại của vương quốc Chàm - một cấu trúc xã hội phân đôi: Gia đình mẫu hệ, quốc gia phụ hệ - có thể được coi là một ví dụ điển hình. Cấu trúc phân đôi ấy đã không sản sinh ra được những ngời lính thực sự, không động viên được tinh thần chiến đấu tới cùng của những người đàn ông bởi vì khi quay về nhà, những người lính vẫn là những người bị động, phụ thuộc vào vợ, vào gia đình vợ, và về già lại phụ thuộc vào con gái.
Một di ảnh cấu trúc phân đôi cộng đồng - gia đình thời sơ sử còn đọng lại khá lâu trong các xã hội Tây Nguyên. Đó là về phương diện giới người ta duy trì chế độ mẫu hệ trong gia đình và chế độ phụ hệ ngoài cộng đồng. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ tới hành vi của các cộng đồng này, trong khi đó việc duy trì hình thức “nô lệ” gia đình - một hình phạt lao dịch khá cổ sơ cho mãi tới gần đây. Về phương diện khảo cổ học chúng ta chưa biết trong các xã hội Tây Nguyên Tiền sử có tồn tại những hành vi tương tự không? Nhưng đã có dấu hiệu cho thấy có sự khác biệt thân phận thông qua cách chôn cất. Trong số hàng trăm mộ khai quật được ở Lung Leng, người ta đã tìm thấy một số trường hợp không phải mộ chum, mộ vò mà là những chiếc mộ đất. Có mộ được kè gốm theo hình một chiếc thuyền. Chủ nhân của các mộ đất này nếu không khác biệt về địa vị xã hội thì chí ít cũng có thể là những “vị khách”, một loại người ngoài mà không phải là thành viên của cộng đồng.
Một hiện tượng đáng lưu ý ở Lung Leng, cần được phân tích đó là sự phân bố dày đặc các mảnh gốm, gần như toàn bộ bề mặt di chỉ. Đằng sau hiện tượng này tiềm ẩn những hành vi hoặc sự cố gì của con người Tiền sử nới đây? Có thể đưa ra một số khả năng: 1) Thải bỏ đồ gốm vỡ, hỏng trong quá trình sản xuất và/ hoặc sử dụng gốm; 2) Trải gốm làm nền cho khu cư trú; 3) Đập vỡ gốm chia cho người chết; 5) Đập vỡ gốm trong các nghi lễ cúng tế hoặc trong các dịp lễ hội; 6) Trải mảnh gốm để phân biệt thế giới người sống với thế giới người chết; 7) Trải mảnh gốm để phân biệt thế giới của con người khỏi thế giới tự nhiên; 8) Đồ gốm vỡ do di chỉ bị tàn phá, cướp bóc; 9) Đồ gốm vỡ sau khi cư dân rời đi nơi khác; 10) Một số khả năng trong số trên; 11) Tất cả các khả năng trên?
2.6. Các tiếp cận ý thức hệ
Như chúng ta đã biết, các cư dân Tiền sử và Sơ sử đều coi mọi vật là có thần, bất kể đó là những vật vô cơ hay hữu cơ, do tự nhiên hay do con người tạo ra. Nếu nhà khảo cổ không để ý tới nguyên lý này thì rất nhiều hành vi của người xưa sẽ trở thành vô lý hoặc không thể lý giải nổi. Tiêu biểu cho việc tuân thủ theo nguyên lý đó là những hành vi của các cư dân cổ đối với đồ gốm. Một nghi lễ Tiền sử rất thông dụng mà thổ dân Châu Mỹ tiến hành giải thoát cho thần nồi (vò bát, đĩa, bình, chậu....) bằng cách “giết chết” đồ vật dùng cho nghi lễ ngay sau khi nghi lễ kết thúc và trả đồ vật đã từng “sống” đó về với đất. Có một số nhóm đập vỡ đồ vật trước khi đem chôn cùng người chết. Có những nhóm chỉ ghè ra một mảnh hoặc ghè, khoan những “lỗ giết chết” đồ vật dưới đáy vò hoặc bát rồi sau đó mới đặt lên mặt người chết. Mài, khía, đập vỡ một mảnh miệng gốm cũng là một cách “giết”. Trong một số nghi lễ, thổ dân Katsina đóng vai những thằng hề đi hết nhà nọ đến nhà kia trong làng đập toàn bộ các đồ vật bằng gốm còn lại để thực hiện nghi lễ “giết gốm” với hy vọng là sau khi trở lại thành đất, các thần nồi lại tái sinh (Karasik and Foxx 1993: 212). Và có lẽ đó cũng là một trong những nguyên nhân thúc đẩy nghề gốm phát triển với tư cách là một ngành sản xuất biểu tượng do phụ nữ làm chủ.
Rõ ràng việc “giết gốm” với hy vọng gốm sẽ tái sinh là một quan niệm rất phù hợp với ý thức hệ vạn vật hữu thần luận nguyên thuỷ. Và khi đã coi vạn vật đều có thần thì người ta chỉ còn đứng cách một bước chân nhỏ là đến với quan niệm tái sinh với những biến thái của nó về một đời sống ở thế giới khác sau khi chết hoặc quan niệm luân hồi của một số tôn giáo có nguồn gốc ấn Độ và các quốc gia xung quanh. Như vậy, mọi tín ngưỡng, mọi tôn giáo đều kỳ vọng vào sự bất tử. ý thức hệ vạn vật hữu thần kết thúc cùng với sự ra đời của các tôn giáo độc thần, trở thành một trong những cái mốc đánh dấu rõ nhất sự chiến thắng của chế độ phụ quyền đối với chế độ mẫu quyền. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng về cơ bản vạn vật hữu thần luận là ý thức hệ nữ quyền Tiền sử, nó gắn liền thế giới người sống với thế giới người chết; gắn liền thế giới con người và thế giới tự nhiên; gắn liền thế giới vô cơ với thế giới hữu cơ. Đó chính là thời đại của những xã hội bình đẳng mà cơ sở của nó chủ yếu là nền kinh tế khai thác tự nhiên và nền nông nghiệp sơ khai với thặng dư lao động thấp.
Dựa vào các dữ kiện mộ táng với mức độ phân biệt thân phận không đáng kể qua nghi thức mai táng, qua quan tài gốm, qua số lượng và chất lượng đồ tuỳ táng, chúng ta có thể thấy ý thức hệ bình đẳng nguyên thuỷ ấy thể hiện rất rõ trong các cộng đồng Tiền sử Tây Nguyên. Tuy nhiên, cần phải lưu ý một điều là khái niệm bình đẳng được sử dụng ở đây không theo nghĩa hiện đại của từ này. Nó phải được hiểu trong khung cảnh của những xã hội Tiền sử khép kín tương đối, đôi khi trong một qui mô cộng đồng khá nhỏ, chỉ từ vài trăm đến vài nghìn người. Và như vậy, đối với họ, cộng đồng của mình đồng nghĩa với một thế giới, thế giới của riêng họ. Và chính ý thức hệ bình đẳng cộng đồng ấy đã thúc đẩy các thành viên trong cộng đồng thể hiện mình như một cái gì đó rất riêng, rất độc đáo, rất khác biệt với phần thế giới còn lại, không phải của mình, cái thế giới bên ngoài cộng đồng mình. Đó là lý do tại sao có những khác biệt đáng kể trong các phong cách tạo tác đồ vật, trong kiểu dáng gốm, trang trí hoa văn gốm ở cả những cộng đồng sống không xa nhau. Điều này đặc biệt liên quan đến vấn đề giới, mà cụ thể là nữ giới bởi vì tính khép kín cộng đồng là một đặc trưng của xã hội mẫu hệ.
Trong xã hội nguyên thuỷ, nhiều ngón nghề bí truyền, đặc biệt là nghề gốm và làm thảo dược hầu hết là những tri thức, kỹ năng của phụ nữ được truyền dạy cho con gái, theo dòng mẹ. Vì vậy trong khi chúng ta dễ dàng nhận thấy phong cách gốm luôn khác nhau, thì ngược lại phong cách chế tác công cụ lại khá tương đồng trên một phạm vị không gian rộng lớn. Có thể lý giải điều đó từ góc độ giới: Chế độ mẫu quyền gắn liền với chế độ mẫu cư, con gái lấy chồng, chồng phải về cư trú bên nhà vợ. Nghề chế tác đá là của đàn ông, người đàn ông có thể đem bí quyết nghề nghiệp của cộng đồng mình về với cộng đồng nhà vợ. Cứ như vậy, việc phổ biến bí quyết nghề nghiệp có cơ hội lan rộng. Tuy nhiên trên thực tế, chế độ nội hôn là một trong những cố gắng phổ biến của các cộng đồng nguyên thuỷ nhằm bảo vệ cái ego - cái tôi cộng đồng của mình.
3. Giới, heterarchy và mô hình mạng.
Gần đây, thuật ngữ heterarchy đã trở nên thịnh hành trong mọi ngành khoa học tại các quốc gia đã phát triển, bất kể đó là ngành gì, bởi vì heterarchy gắn liền với cơ chế thông tin của bộ não. Heterarchy có nghĩa là mạng. Nó không chỉ đơn giản là một thuật ngữ mà đằng sau nó là cả một cuộc cách mạng nhận thức luận, cuộc cách mạng chỉ xảy ra trong xã hội tri thức, dựa trên hệ thống thông tin của nền kinh tế biểu tượng hiện đại. Tương quan giữa heterarchy và hierarchy (cao thấp) là tương quan giữa cái phổ biến và cái đặc thù, tương quan giữa tính tổng thể và tính cục bộ. Vì vậy người ta coi việc sử dụng khái niệm heterarchy trong phân tích khoa học đồng nghĩa với khả năng phân tích đạt tới cấp độ nhận thức luận tổng thể (holistic).
Nhưng heterarchy liên quan gì đến giới, nhất là vấn đề giới trong khảo cổ học? Không phải ngẫu nhiên mà trên dưới một thế kỷ nay, những người phụ nữ đã dấy lên phong trào nữ quyền. Nếu nhìn phong trào ấy dưới bất cứ từ góc độ tự nhiên hay xã hội thì người ta cũng đều nhận ra sự mất cân bằng và thiếu hài hoà trong quá trình phát triển, đặc biệt là sự phát triển ở đỉnh cao của thời đại công nghiệp. Phản ứng của phong trào nữ quyền vì vậy có một lý do sâu xa hơn là những tuyên ngôn mang tính bề nổi của nó. Về phương diện xã hội, người ta phải đi tìm lời giải đáp cho những vấn đề mà phong trào ấy đưa ra từ kinh nghiệm nào của nhân loại?
Trong lịch sử loài người, phụ nữ đã từng có những vai trò, vị thế xã hội xứng đáng. Nhưng các thời đại phụ quyền nối tiếp nhau, đôi khi đã làm cho người ta lãng quên đi giá trị to lớn mà nữ giới đã từng thể hiện. Vì vậy trở lại với những giá trị đó từ cội nguồn chính là một nhiệm vụ của khảo cổ học. Trong bản chất nhân văn của con người, bình đẳng là một giá trị lớn lao. Vì vậy kinh nghiệm bình đẳng của thời đại mẫu hệ rất có thể là những bài học tốt cho nhân loại ngày nay. Bình đẳng thể hiện trong cấu trúc xã hội là một tương quan mạng, trong đó mỗi thành tố đều có giá trị, đều có lý do tồn tại của nó. Điều đó thể hiện sự hài hoà trong quan hệ giữa mọi cá nhân, mọi nhóm, mọi giới xã hội. Vì vậy, trong khoa học xã hội và nhân văn, heterarchy chính là mối quan hệ bình đẳng. Tìm lại giá trị, vai trò của giới thông qua các dữ kiện khảo cổ học, trong đó có khảo cổ học Tây Nguyên vừa là một công việc có ý nghĩa, vừa là một thế mạnh của môn nghiên cứu Tây Nguyên, hay nói cách khác, thế mạnh của môn Tây Nguyên học.
_______________________________________
* Ghi chú: Bài đăng trong tạp chí Khảo cổ học, Số 3
(129) (V-VI), 2004. (Số chuyên đề Khảo cổ học Tây Nguyên).
Tài
liệu dẫn
Claassen Cheryl (1991). Gender in archaeology. In Exploring Gender Through Archaeology, selectef papers from the 1991 Boone Conference, edited by Cheryl Claassen.
Hauser Raymond ed. (1990). The Berdache and the Illinois Indian Tribe during the Last Haft of the Seventeenth Century. In Ethnohistory 37(1).
Hayden Brian (1991). Observing Prehistoric Women. Exploring gender through archaeology, selectef papers from the 1991 Boone Conference, edited by Cheryl Claassen.
Karasik, Carol and Jeffrey Jay Foxx (1993). Symbolism on Hopi and Zuni Pottery. Museum of Ancient Civilizations, Museum Studies Program, San Francisco State University.
Lorant Stefan (1946). The New World. Duell, Sloan and Pearce, New York.
Milanich, Jerald T. and William C. Sturtevant (1972). Francisco Pereja‘s 1613 Confesionario: A Documentary Source for Timucuan Ethnography. Division of Archives, History, and Records Management, Florida Department of State, Tallahassee.
Peeebles Christopher and Suan Kus (1977). Some archaeological correlates of Ranked Societies. American Antiquity 42.
Whitehead Harriet (1981). The Bow and the Burden Strap: A New Look at Institutionalized Homosexuality in Native North America. In Sexual Meanings: The Cultural Construction of Gender, edited by S.B. Ortner and H. Whitehead. Cambridge University Press, New York.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét