TS. Nguyễn Dũng Hòa
Tóm tắt
Năm 1644, nhà Minh bị diệt
vong, quân Thanh vào làm chủ Trung Nguyên, Mãn tộc kiểm soát chính quyền nhà
Thanh, và nhiều người Hán đã từ chối chấp nhận sự cai trị của nhà Thanh và trốn
ra nước ngoài, để lại một di sản ở Đông Nam Á. Trong số đó, Thanh Vân đình [1] Malacca và Minh hương xã của Việt Nam là do di dân nhà
Minh xây dựng, và một số bia mộ, bia đá, bài biển còn được bảo tồn đến ngày
nay. Từ việc khảo sát các di tích văn hóa, người
ta thấy rằng trong các văn vật của di dân nhà Minh ở hai nơi này luôn có khắc
chữ “Long phi” (rồng bay). Tuy nhiên cho đến nay, giới học thuật vẫn chưa có
cách nào để khảo cứu được ý nghĩa thực sự của “Long phi”, còn các học giả thì có
những kiến giải riêng. Bài viết này sẽ cố gắng khám phá các tài liệu lịch sử
Trung Quốc liên quan đến “Long phi” từ bên trong Trung Quốc, kết hợp với các
ghi chép cổ xưa, tiến hành phân tích, làm rõ để trả lời những nghi hoặc về từ
“Long phi” trong giới học thuật. Đồng thời, thông qua việc khảo sát thực nghĩa
của “Long phi”, tiến tới diễn giải động cơ và tâm tư của di dân nhà Minh với từ “Long
phi” để lấp đầy những thiếu khuyết của lịch sử người Hoa hải ngoại.
1. Lời nói đầu
Thực trạng xã hội vào cuối thời nhà Minh là hỗn loạn bất
an, đó là một tình huống trong buồn ngoài rầu. Vào thời điểm đó, đội quân nông
dân khởi nghĩa của Lý Tự Thành [2] đã quật khởi chiến đấu, còn quân nhà Thanh thì
đang từ phía bắc xâm chiếm lãnh thổ nhà Minh. Năm 1644, chính quyền nhà Minh đã
bị đội quân nông dân khởi nghĩa của Lý Tự Thành đánh bại, và lập nước lấy tên
là Đại Thuận [3]. Sau đó, Ngô Tam Quế [4], là tướng nhà Minh, đã lãnh đạo quân
Thanh nhập hải quan, đánh bại quân Đại Thuận và định đô tại Bắc Kinh, khiến nhà
Minh bị diệt vong, nhưng thế lực nhà Minh chưa bị tan rã hoàn toàn, và vẫn còn ảnh
hưởng ở miền Nam, tôn thất nhà Minh và các đại thần còn sống sót di chuyển xuống
phía nam và muốn xây dựng lại chính quyền nhà Minh, mà sử gọi là Nam Minh [5].
Mặc dù chính quyền Nam Minh được xây dựng lại trong một thời gian ngắn, nhưng
nó đã ủng hộ Phúc Vương Chu đăng cơ xưng là Hoằng Quang Hoàng đế, và sau khi Hoằng
Quang Hoàng đế đăng cơ không lâu, ông đã phải đối mặt với quân đội nhà Thanh đang
mở rộng về phía nam. Hoằng Quang đế thân cô, không chỗ dựa, ngoài ra, đại quyền
lại do bè lũ hoạn quan độc ác còn sót lại nắm giữ, bốn trấn ở Giang Bắc thì đều
phải tự cai quản, Hoằng Quang đế cuối cùng bị sát hại, chính quyền Nam Minh bị
quân nhà Thanh phá tan. Sau khi Hoằng Quang Hoàng đế qua đời, Giám Quốc Lỗ
vương Chu Dĩ Hải [6], Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang, Đường vương Chu Duật Kiện với
sự hỗ trợ của bọn Trịnh Chi Long [7] (con trai ông là Trịnh Thành Công [8]) đã xưng đế
tại Phúc Châu, Phúc Kiến, đó là Long Vũ đế. Tuy nhiên, hai thế lực chủ yếu của
Nam Minh đã không thừa nhận sự tồn tại của nhau và cuối cùng đã dẫn đến tình huống
tấn công lẫn nhau khi đối mặt với cuộc tấn công của quân Thanh (Tả Thư Ngạc
1986: 5-6). Quân Thanh đã tăng cường mở rộng và củng cố các lực lượng, chính
quyền nhà Thanh đã lần lượt bình định xong các thế lực “Tam Phiên chi loạn” [9],
“Minh Trịnh” [10], triều đại Nam Minh, giúp cho chính quyền nhà Thanh hoàn toàn
kiểm soát lãnh thổ Trung Quốc.
Vào cuối triều đại nhà Minh đầu nhà Thanh, chiến tranh
vẫn tiếp diễn luôn năm, người dân không biết dựa vào đâu để sống [11], chính
quyền nhà Thanh bắt người dân thay đổi y phục, và cắt tóc, dẫn đến một số người
không chấp nhận sự cai trị của chính quyền nhà Thanh đã trốn sang các quốc gia
Đông Nam Á để bảo toàn chính khí của dân tộc Hán (Trần Kinh Hòa 1964: 25-26).
Cho đến nay, ở khu vực Đông Nam Á vẫn có thể thấy rõ một số văn vật và di tích
văn hóa còn lại của di dân nhà Minh, đặc biệt là tại Thanh Vân đình ở Melaka và
Minh Hương xã ở Việt Nam. Trước hết, lấy việc thành lập Thanh Vân đình ở
Malacca làm ví dụ, chủ yếu dưới sự lãnh đạo của Giáp tất đan [12] người Hoa ở Malacca
Trịnh Phương Dương và Lý Vi Kinh, nên Thanh Vân đình đã được xây dựng vào năm
1645, chức năng chính là giúp xoa dịu một nhóm di dân nhà Minh đã rời bỏ nhà cửa,
quê hương bản quán. Căn cứ vào dữ liệu lịch sử, Giáp tất đan người Hoa ở
Malacca Trịnh Phương Dương và Lý Vi Kinh, Lý Chính Hào, Tăng Kỳ Lộc, v.v., chính
là những nghĩa sĩ tị nạn “phản Thanh phục Minh”. Thứ hai, Minh Hương xã Việt
Nam cũng do những di dân nhà Minh lập nên. Chức năng của nó là hỗ trợ những người
tị nạn khốn khó. Trong các di tích văn hóa của hai nơi này, điều nổi bật hơn cả
là từ “Long phi”, cũng đã làm dấy lên các cuộc thảo luận rộng rãi trong giới học
thuật.
2. Tổng quan nghiên cứu về “long phi” ở Đông Nam Á
Dựa trên các tư liệu hiện tại, chỉ có thể tìm thấy các di tích văn hóa của di dân nhà Minh ở Malaysia và Việt Nam sử dụng từ “Long phi”. Có sáu loại di tích văn hóa được khắc chữ “Long phi” ở Malacca: Thứ nhất, mộ của Giáp tất đan Trịnh Phương Dương (Giáp tất đan Trịnh Phương Dương chi mộ), khắc dòng chữ “Lập ngày lành năm Mậu ngọ Long phi” (long phi tuế thứ mậu ngọ cát đán lập); Thứ hai, bia ca tụng công đức của Giáp tất đan Lý Vi Kinh (Giáp tất đan lí vi kinh tụng đức bi) có khắc dòng chữ: “Năm Ất sử Long phi” (long phi ất sửu niên); Thứ ba, bia ca tụng công đức của Tăng Kỳ Lộc (đại công đức chủ tăng công tụng chúc bi) khắc: “Năm Bính tuất Long phi” (long phi tuế tại bính tuất); Thứ tư, bia trùng hưng Thanh Vân đình, có khắc “Năm Tân dậu Long phi” (long phi tân dậu niên); Thứ năm, “Ghi chép đóng góp tiền quy tập mộ, trùng hưng Từ tế cung, Thanh Vân đình” (cưu mộ trọng hưng thanh vân đình từ tế cung duyên ngân lục) có khắc: “Công lập ngày lành, trọng đông năm Bính ngọ Long phi” (long phi tuế thứ bính ngọ niên trọng đông cát nhật lập); Thứ sáu, “Ngày đản sinh Phật tổ Quan âm, xây mộ đền đại chúng, quy ước xuân thu hai lần cúng tế”, có khắc dòng chữ “Công lập vào ngày lành tháng tốt năm Bính ngọ Long phi” (long phi tuế thứ bính ngọ đoan nguyệt cát nhật cốc đán lập) (Trần Thiết Phàm, Phó Ngô Khang viết 1982: 224, 229, 237, 369; “Tinh châu Nhật báo”, ngày 31 tháng 10 năm 2017); Ngoài ra, tại Minh hương Gia Thịnh đường, Việt Nam, cũng có nhiều hoành phi khắc chữ “Long phi”, ví dụ hoành phi: “Thân tích vô cương” [13] có dòng lạc khoản “Ngày lành, tháng Trọng đông, năm Ất hợi, Long phi” (long phi ất hợi niên trọng đông nguyệt cát đán); hoành phi “Trạc trạc quyết linh” [14] có lạc khoản “Ngày lành, tháng Trọng đông, năm Đinh dậu, Long phi” (Long phi đinh dậu niên trọng đông cát đán); Hoành phi: “Tinh linh trác hạc” (Hồn thiêng rạng rỡ) có lạc khoản “Ngày lành, cuối thu, năm Bính tuất” (long phi bính tuất niên quý thu cốc đán); hoành phi “Bảo ngã lê dân” (Bảo vệ dân mình) có lạc khoản “Ngày lành cuối thu năm Bính tuất, Long phi” (long phi bính mậu niên quý thu cốc đán); hoành phi “Kinh tặng bảo an” có lạc khoản “Cát tạo tháng Mười năm Đinh hợi, Long phi” (long phi đinh hợi niên mạnh đông cát tạo); “Hoa bảo di hương”, có lạc khoản “Tháng cuối xuân năm Nhâm dần, Long phi” (long phi nhâm dần niên quý xuân chi nguyệt); “Thụ tư giới phúc”, lạc khoản “Ngày lành cuối thu năm Bính tuất” (bính tuất niên quý thu cốc đán); “Huệ trạch uông dương” lạc khoản “Cát lập tháng Tám năm Bính tuất, Long phi” (long phi bính mậu niên quế nguyệt cát lập), ngoài ra tại Minh hương Gia Thịnh đường còn có một chiếc chuông đồng có khắc dòng chữ “Long phi quý vị thu nguyệt”. (Giản An Chí 2012: 13)
Thanh
Vân đình Malacca và Minh Hương xã ở Việt Nam được các di dân nhà Minh xây dựng;
một số bia mộ, bia đá, hoành phi câu đối v.v., vẫn còn được bảo tồn, có khắc
năm “Long phi”. Điều này không chỉ khiến nhiều người nghĩ liệu có phải “Long
phi” là do di dân nhà Minh không chấp nhận sự cai trị của nhà Thanh, vì vậy họ
đã cố ý sử dụng “Long phi” để tránh gọi tên nhà Thanh (Ba Tố [15] 1950: 15).
Trong số đó, Lưu Tiền Độ [16] khi dịch “Lịch sử Hoa kiều Malaysia” của Ba Tố đã
cho rằng hai từ “Long phi” do tiên sinh Đông Hồng [17] thời Minh sử dụng, và
thường được thêm niên hiệu, chẳng hạn như: năm Thiên Khải Long phi Giáp tý,
v.v. Bởi vì rồng bay phương múa là biểu tượng điềm lành dùng để nói về cái đức
của đế vương. Do đó, các nghĩa sĩ thời Minh mạt đã không cam lòng làm người người
dân mất nước, nên phải ồ ạt vượt biển đi nam, nhưng trong các ghi chép lại
không muốn sử dụng niên hiệu nhà Thanh, vì vậy mà chọn giải pháp chiết trung, bỏ
niên hiệu nhà Minh, giữ lại hai từ “long phi”, dựa vào Long phi năm Ất sửu,
được tìm thấy ở Malacca. (Ba Tố 1950: 15). Kể từ đó, Nhiễu Tông Di [18] (1970)
đã từng đề cập đến “Long phi” trong “Tinh
mã hoa văn bi khắc hệ niên” (星馬華文碑刻系年),
và đưa ra nghi vấn là Giáp tất đan người Hoa tại Malacca Thái Sĩ Chương trong “Trùng
hưng Thanh Vân đình bi ký” sử dụng một từ “Long phi”; tuy nhiên, trong cùng năm
đó, Thanh Vân đình đã viết tiêu đề biển ngạch “Linh sơn đệ nhất”, đã sử dụng niên
hiệu “Đại Thanh Gia Khánh”, hai hiện vật cùng năm, tại sao lại có tiêu đề
"Gia Khánh", mà một trong số đó lại viết “Long phi” cũng đủ để thấy
rằng không phải là không sử dụng niên hiệu nhà Mãn Thanh. (422-423) Nhiêu Tông Di (1970). Bổ sung các tài liệu lịch sử liên quan đến
“Long phi”, như “Sử thông” của Lưu Tri Kỷ [19] đã đề cập: “Dấu hiệu của Đế
vương phải là Long phi” và Ngô Phác [20] viết “Long phi kỷ lược” cho rằng Long
phi mỗ niên tức là nói đến Hoàng đế cai trị năm thứ bao nhiêu, đâu có nhất
thiết phải có ngụ ý gì, không cần phải tìm tòi sâu xa vậy (423).
Vào những năm 1970, Diệp Đài Ngân đã công bố một bài viết có tựa đề
“Giáp tất đan Malacca Lý Quân Thường và Thanh Vân đình” (Mã lục giáp
giáp tất đan lí quân thường dữ thanh vân đình), đã
liên hệ “Long phi” với thời nhà Minh khi Trương Liễn tự xưng “Phi Long”. Lý do
chính là có thể bị ảnh hưởng bởi “Lịch đại kỉ nguyên biên quyển” của Lý Triệu Lạc [21] (1989), bởi vì trong đó có viết là
Trương Liễn lấy “Long phi” làm niên hiệu (15). Tuy nhiên, theo Nhiêu Tông Di (1974)
họ Lý đã sai, và đã viết bài “Luận về vấn đề Long phi và Trương Liễn” (Long
phi dữ Trương Liễn vấn đề biện chính), cho rằng Lý
Triệu Lạc đã viết sai “phi long” (Rồng bay*) thành “Long phi” (Niên hiệu Lương
Lữ Quang thời Hậu Lương và Niên hiệu thời Trương Liễn nhà Minh*), đã dẫn đến
nhiều từ điển và thậm chí người Nhật Bản soạn “Đại Hán – Nhật Từ điển” đều tiếp
tục nối dài cái sai của ông (11 - 12). Điều này chủ yếu là do trong thời kỳ tạo
phản động loạn, Trương Liễn đã tự xưng là “Phi long nhân chủ”. Tuy nhiên, Trương
Liễn là người thời nhà Minh đã chết ở năm Gia Tĩnh thứ bốn mươi mốt (1562) và
không có mối quan hệ nào với các hoạt động chống Thanh. Vì vậy, điều đó có
nghĩa là “Phi long” không liên quan gì đến “Long phi” của di dân nhà Minh cả.
Cho đến nay, việc nghiên
cứu về “Long phi” vẫn chưa có được lời giải thích dứt khoát. Do đó, các học giả
Malaysia phân tích vấn đề “Long phi” ở Malacca từ những quan điểm khác nhau. Ví
dụ, Hoàng Văn Bân từng suy đoán rằng “Long phi” nói về sự diệt vong của nhà
Minh hay cái chết của hoàng đế, cả hai đã chết, nhưng những người trung thành với
nhà Minh không thừa nhận nhà Thanh, nên họ đã sử dụng quốc hiệu này ("Nhật
báo phương Đông", ngày 17 tháng 2 năm 2009). Ngoài ra, Vương Sâm Phát nhận
ra ý nghĩa của “Long phi” không phải là Long phi đã mất, ngược lại, ông tin vào
sự dũng cảm của Lý Vi Kinh, mặc dù lúc đó nhà Minh đã bị diệt vong, nhưng bi
văn được sử dụng chủ yếu với ngụ ý niên hiệu “Long phi” đang đợi vị Hoàng đế mới
lên ngôi”, nhưng vị Hoàng đế mới mà ông mong đợi chắc chắn không phải là Hoàng
đế của nhà Thanh. (Tạ Trọng Dương,
ngày 20, tháng 9 năm 2015, 2)
Các học giả ngày nay có ý
kiến khác nhau về “Long phi”, nhưng tất cả họ đều bị vây nhiễu bởi bốn quan điểm
sau: thứ nhất, “Long phi” mang nghĩa Hoàng đế lên ngôi; thứ hai, “Long phi” là việc
di dân nhà Minh tránh dùng niên hiệu của nhà Thanh, nên cố tình dùng “Long
phi”; thứ ba, “Long phi” là ẩn dụ Hoàng đế đã chết; thứ tư, “Long phi” là biểu
tượng điềm lành, dùng để chỉ ân đức Hoàng đế. Trong một số quan niệm này, có thể
thấy rằng nhiều học giả chỉ dựa vào các chữ khắc và bia mộ liên quan đến “Long
phi” ở Malacca hoặc Việt Nam để tiến hành nghiên cứu và suy luận. Thiếu sót duy
nhất là các tư liệu khai quật các minh bi, biển ngạch, bia mộ, thư tịch và các
tư liệu khác liên quan đến “Long phi” ở Trung Quốc, để nghiên cứu thêm, điều
này làm cho ý nghĩa thực sự của “Long phi” được Xác nhận là không tiến thêm được
bước nào. Do đó, bài viết này nhằm mục đích tìm hiểu một số tài liệu lịch sử và
di tích văn hóa Trung Quốc liên quan đến “Long phi” từ trong lòng Trung Quốc, để
khám phá ý nghĩa thực sự và ý định của di dân nhà Minh đối với “Long phi” để trả lời những
nghi hoặc của giới học thuật về “Long phi”.
3. Việc sử dụng “Long phi” trong xã
hội Trung Quốc
Với kết quả nghiên cứu hiện tại của giới học thuật, hầu như “Long phi” liên quan đến các di dân nhà Minh không sẵn lòng chấp nhận nhà Thanh và tạo ra “Long phi” của riêng mình để thể hiện tiếng nói của họ. Tuy nhiên, vào tháng 9 năm 2014, tác giả đã đến miếu Dương Sơn ở làng Đỉnh Thành, Nam An, tỉnh Phúc Kiến và phát hiện được chiếc lư hương trong miếu có khắc dòng chữ “Long phi Tân mão”. Do phát hiện ra lư hương có khắc chữ “Long phi”, nên tác giả bắt đầu chú ý xem liệu có những tài liệu khác ở Trung Quốc giống như ở Malacca và Việt Nam, được khắc chữ “Long phi” không. Bởi vì nếu có thể tìm thấy nhiều tư liệu liên quan đến “Long phi” ở Trung Quốc, thì sẽ giúp làm rõ hơn ý nghĩa thực sự của “Long phi”, nghĩa là hiểu được tâm nguyện của các di dân nhà Minh.
Sau khi thu thập dữ liệu trong một khoảng thời gian, có thể thấy rằng một số hiện vật và tư liệu ở Trung Quốc thực sự có hai chữ “Long phi”, bao gồm văn bia, hoành phi câu đổi, thi họa, thư tịch, bia mộ, minh văn, đồ thờ cúng và các di tích văn vật khác. Theo kết quả chỉnh lý và thống kê, hiện có ít nhất 97 tư liệu và văn vật ở Trung Quốc có liên quan đến hai chữ “Long phi”, bao gồm một tài liệu thời Hiếu Xương (525 – 527*) triều Bắc Ngụy có 1 hiện vật; tiếp đó thời nhà Đường có 2; nhà Minh có 35; Nam Minh có 3; nhà Thanh 53; thời Dân quốc có 2. Trong số đó, từ “Long phi” đa số xuất hiện trong thư tịch, có 30 tư liệu; tiếp đến là bia khắc có 23 tư liệu; rồi đến bài biển (hoành phi, câu đối, biển ngạch các loại) 11 hiện vật; thi họa có 9 tư liệu; bia mộ hoặc minh bi mộ chí có 7 hiện vật; vật kiến trúc có 6; đồ gốm sứ 3 hiện vật; các loại tư liệu khác có 9.
Trước
hết, lấy niên hiệu Hiếu Xương thời Bắc Ngụy làm ví dụ, tư liệu là bài minh trên
mộ chí của Thanh Hà Văn hiến vương Nguyên Dịch [22] triều Bắc Ngụy, và dòng chữ
trên văn bia là: “….Kim thượng Long phi, tăng ấp thiên
thất, tiến vị ti đồ, thị trung như cố….Huyền phù toản lục, vâng lệnh Long phi,
ư mục quân vương, dận thánh trọng huy….”. (Tiết Nguyên Minh 2014: 41, 96); (…Hoàng đế Long Phi, tăng ấp nghìn nhà, cất
nhắc Tư đồ, người hầu như cũ…Tín phù màu đen, thụ mệnh Long Phi, đẹp lòng Quân
vương, noi thánh đức, trọng huy hoàng…)
Sau
đó, phát triển đến nhà Đường, tức là có “Sử thông” của Lưu Tri Kỷ (2014) trong
tự sự thứ hai mươi hai có nói đến: “Bang quốc [23] sơ cơ, thời thế hỗn ám, điềm
triệu Đế vương, tất hiệu Long phi”. (300) Ngoài ra, thi nhân thời nhà Đường Lý
Ích sáng tác bài “Tặng Tuyên đại sư” [24] cũng sử dụng hai từ “Long phi” như
sau:
Tặng
Tuyên đại sư
Cả nước Sa di [23] tự giải thơ
Người người ý đẹp Huệ Lâm sư
Tiên hoàng hạ chiếu vời ngày trước
Kim thượng Long Phi nhập nội thì
Ngắm nguyệt nhớ về nơi tùng tự
Tầm hoa bỗng tưởng nước hạnh khê
Nhân bàn Phật địa cầu tâm địa
Chỉ thấy thường ngâm ấy trụ trì.
(Bành Định Cầu 2008: 1462)
Theo
các ghi chép trên, từ thời Bắc Ngụy đến thời Đường, việc sử dụng “Long phi” dựa
trên các từ “Kim thượng Long phi”, “Hiệu Long Phi” hoặc
“Thụ mệnh Long phi”,
cho thấy “Long phi” có liên quan mật thiết với Hoàng đế. Thời nhà Minh và nhà
Thanh, các tư liệu đã trình hiện cách sử dụng các cụm từ “Long
phi điện hạ”, “Thiên tử Long phi”, “Long phi cửu ngũ”, “Hoàng Minh Long phi”,
“Đại Thanh Long phi”, “Hoàng thượng Long phi”, duy chỉ có Hoàng đế mới có thể tự
xưng là “Long phi”. Nay xét “Ư tiên sinh trông thật rực rỡ” (Ư tiên sinh kiến
chi hoàng hoàng) của “Nhị Hi đường văn tập” (do Văn học gia Thái Thế Viễn soạn năm Ung Chính thập niên, 1732, đời
Thanh) có viết: “Hoàng thượng Long phi là trụ cột cho nền móng
ngọt lành cựu học…” (Hoàng thượng Long phi ngự cực ư cam bàn cựu học…), (Quyển
thứ nhất), theo đoạn này thì không còn nghi ngờ gì nữa, “Long phi” có mối liên
hệ mật thiết với Hoàng đế.
Trong
triều đại nhà Minh và nhà Thanh, từ “Long phi” trở nên phổ biến. Nhiều chữ
khắc, bảng biển, thơ, sách, bia mộ hoặc văn bia, đồ sứ và các hiện vật kiến
trúc có hai từ “Long phi” đã được tìm thấy trên khắp Trung Quốc. Ngoài ra, “Long
phi” thường được sử dụng trong các ghi chép về một năm nào đó; cho đến nay,
việc chỉnh lý các tư liệu lịch sử hiện tại cho thấy có 21 tư liệu trong triều
đại nhà Minh, 3 thuộc triều đại Nam Minh, 47 thời nhà Thanh, 2 thuộc thời Trung
Hoa Dân quốc, và vẫn còn một số năm chưa thống kê được tư liệu. Về hình thức tư
liệu ghi chép về các năm nhất định, đại thể có năm cách thức: i) Long phi Hoàng
đế mỗ năm mỗ; ii) Triều đại mỗ Long phi Hoàng đế mỗ, năm mỗ; iii) Triều đại mỗ
Long phi năm mỗ; iv) Hoàng đế mỗ Long phi năm mỗ; v) Long phi năm mỗ. Từ cách
thức ghi lại các năm này, có thể biết rằng từ “Long phi” đã dần trở thành một cách
thức truyền thống từ thời nhà Minh và tiếp tục đến Nam Minh, Thanh và thậm chí
cả thời Trung Hoa Dân quốc. Thời Dân quốc, đã bãi bỏ chế độ quân chủ, nhưng
việc sử dụng “Long phi” cũng vẫn được tìm thấy, đây là một hiện tượng rất hiếm,
tư liệu là “Càn thư” (乾書) và “Khôn thư” (坤書) như sau:
Lý do chính cho việc sử dụng “Long phi” trong thời Trung Hoa Dân quốc là “Long phi” được biến thành cách thức trong xã hội bình dân. Theo hai cuốn sách cổ của nhà Thanh, “Thiếp thức bộ” (帖式簿) và “Tu luân” (修倫) mà xét thì hai cuốn sách này phân loại thành: “Loại rượu và gạo”, “Loại lễ nghi”, “Tiên tổ khảo”, “Bàn về hôn nhân tương bái” v.v., các loại khác có thể được gọi là toàn bộ phong tục xã hội dân gian Trung Quốc. Nội dung của những cuốn sách như vậy đã thống nhất phong tục và tập quán của xã hội dân gian Trung Quốc, để các thế hệ tương lai theo một phạm trù cố định. Do đó, khi người bình dân bách tính viết các vấn đề hôn nhân, lễ nghi, càn thư, khôn thư, thì căn cứ vào các cách thức đã có từ trước mà sao chép, vì vậy hai từ “Long phi” vẫn được sử dụng trong thời Dân quốc. Từ những dấu hiệu trên, xã hội cổ đại đã không hạn chế bất kỳ người nào sử dụng hai từ “Long phi”. Căn cứ vào các tư liệu xã hội của các triều đại Minh Thanh, số lượng “Long phi” được giới quý tộc sử dụng chiếm đa số, nhưng vẫn có thể tìm thấy trong các tư liệu tông miếu, phả hệ, hôn nhân và nghi thức mà người dân thường sử dụng hai từ “Long phi”. Do đó, từ việc khảo sát các tư liệu gốc, có thể xác minh rằng “Long phi” đã dần trở nên phổ biến trong các triều đại nhà Minh và nhà Thanh.
Từ “Long phi” không chỉ được người Hán sử dụng mà người Mãn cũng từng dùng. Trong số đó, “Gia phả tộc Huy Phát Tát Khắc Đạt” (Hoifa Nara hala), được biên soạn vào năm Quang Tự thứ hai mươi tư (1898), là một ví dụ. Nó ghi lại tình huống của bà Phụng Thánh Phu nhân là nhũ mẫu của hai Hoàng đế Thuận Trị và Khang Hy cùng hậu duệ của bà, tộc phả ghi lại rõ ràng người của bộ tộc: “Thái tổ Long Phi của nội phủ tộc Nhật Huề nối đời nhận lấy” (Quách Hựu Lăng 2003: 630). Hơn nữa, Thái hậu Từ Hi cũng đã sử dụng “Long phi” trong tác phẩm “Mai hoa song thước đồ lập trục” (Tranh cuộn Hoa mai và hai con chim khách) của mình, và viết bên rìa bức tranh “Long Phi Quang Tự năm thứ 15, tháng Giêng, ngày 15, ban cho Thái tử Thái bảo Thượng thư Bộ công, tạm nhậm Thượng thư Bộ hộ thần Phan Tổ Ấm [25]” ,
Tóm
lại, lấy các ghi
chép trong nhiều tài liệu hiện tại mà xét thì thấy từ “Long phi” không có nghĩa
chỉ hoàng đế lên ngôi, cũng
không phải là các nghĩa sĩ di dân hoặc phản Thanh của nhà Minh tự sáng tạo hoặc
riêng có niên hiệu đó, mà có một lớp nghĩa khác. Tác giả sẽ tìm hiểu và lý giải thêm
về ý nghĩa thực sự của “Long phi” để tìm hiểu động cơ và tiếng nói của di dân
nhà Minh ở Đông Nam Á khi họ sử dụng từ “Long phi”.
_______________________________________
Nguồn: 阮湧俰,东南亚明朝遗民使用“龙飞”之动机考证,马来西亚人文与社会科学学报,第六卷第一、二期合辑,2017年12月:1-16, Nguyễn Dũng Hòa,
đông nam á minh triều di dân sử dụng “long phi” chi động cơ khảo chứng, mã lai
tây á nhân văn dữ xã hội khoa học học báo, đệ lục quyển đệ nhất, nhị kì hợp tập,
2017 niên 12 nguyệt: 1-16.
Người dịch: Hà Hữu Nga
Tác
giả: Nguyễn Dũng Hòa (阮湧俰), Tiến sĩ Lịch sử Thế giới, Viện Nghiên cứu
Nam Dương, Đại học Hạ Môn.
Chú thích của người dịch
[1] Thanh
Vân đình (青雲亭) là
ngôi đình cổ nhất của Trung Quốc ở Malaysia. Nó được xây dựng vào thế kỷ 15 và
tọa lạc tại số 25 đường Tokong, Malacca. Đây là một loại tòa án và tổ chức trọng
tài của cộng đồng người Hoa của khu vực này trong hàng trăm năm. Công việc mở rộng
hầu hết được thực hiện bởi quyết định của đại diện cao nhất của cộng đồng người
Hoa là Giáp Tất đan (dịch tiếng Hà
Lan: Kapitan là Thủ lĩnh, Tộc trưởng). Khi người Anh bãi bỏ hệ thống Giáp Tất đan, thì Thanh Vân đình vẫn giữ vai trò tương tự
cho đến năm 1911. Vào thời đó, vật liệu và các nghệ nhân xây dựng Thanh Vân
đình đều được đưa từ Trung Quốc đến và sau này đã được đưa vào Danh sách Di sản
Văn hóa Thế giới của Liên Hợp Quốc. Năm 2003, Thanh Vân đình đã giành được Giải thưởng
Di sản Châu Á-Thái Bình Dương của UNESCO về Bảo tồn Di sản Văn hóa, là hình mẫu
cho các dự án phục hồi tu bổ các công trình có giá trị nổi bật.
[2]
Lý Tự Thành (李自成 1606-1645)
nguyên là Hồng Cơ (鴻基), là nhân vật nổi tiếng thời "Minh mạt Thanh
sơ" trong lịch sử Trung Quốc, ông đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa lật đổ nhà
Minh sau 276 năm thống trị vào năm 1644, lên ngôi hoàng đế, lập ra nhà Đại Thuận.
Lý Tự Thành là người huyện Mễ Chỉ, tỉnh Thiểm Tây, từ nhỏ đã đi chăn cừu thuê.
Năm 1630, Trương Hiến Trung khởi nghĩa tại Mễ Chỉ, Thiểm Tây, Lý Tự Thành đến
làm "Sấm Tướng" trong đạo nghĩa quân do người cậu là Cao Nghênh Tường
lãnh đạo và trở thành một lãnh tụ nông dân kiệt xuất
trong lịch sử Trung Quốc. Năm 1643, Lý Tự Thành lên làm “Tân Thuận vương”,
chính thức thành lập bộ máy chính quyền mới tại Tương Dương và đổi tên gọi là
Tương Kinh. Tháng 10-1643, nghĩa quân Lý Tự Thành đánh chiếm được khu vực Thiểm
Tây – Cam Ninh ở miền Tây Bắc rộng lớn, hiểm trở xây dựng thành căn cứ kháng
chiến lâu dài. Năm 1644, quân Lý Tự Thành tiến vào Bắc Kinh, lật đổ Vương triều
nhà Minh thống trị Trung Quốc trong 276 năm trời. Tướng nhà Minh là Ngô Tam Quế
kết hợp với Đa Nhĩ Cổn mở cổng Sơn Hải Quan dẫn quân Mãn Thanh vào tiến đánh
chiếm lĩnh thành Bắc Kinh vào Tháng 5/1644. Chính quyết định này của Ngô Tam Quế
đã mở đường cho quân Mãn Thanh tiến vào Trung Nguyên lập nên triều đại Mãn
Thanh thống trị Trung Quốc gần 300 năm. Khoảng tháng 4-1645, trong lúc đang
quan sát địa hình trên núi Cửu Cung, huyện Thông Sơn, tỉnh Hồ Bắc Lý Tự Thành bị
tập kích giết chết vào năm ông 39 tuổi.
[3]
Đại Thuận (大順) hay còn gọi là Lý Thuận (李順) là một chính quyền do Sấm vương Lý
Tự Thành thành lập. Tháng 10 năm 1643, Sấm vương công phá Đồng Quan, đến tháng
11 thì chiếm Tây An. Tháng 1 năm Sùng Trinh thứ 17 (1644), Lý Sấm kiến quốc tại
Tây An, đặt quốc hiệu là "Đại Thuận", đến tháng 3 tiến vào Tử Cấm
Thành, Sùng Trinh Đế tự thắt cổ ở Môi Sơn tại Bắc Kinh. Chính quyền Đại Thuận
vừa treo bảng yên dân, kêu gọi mọi người an cư lại nghiệp, vừa trừng phạt các
hoàng thân quốc thích và quan lại tham ô của triều Minh. Ngô Tam Quế đã gửi thư
cho Đa Nhĩ Cổn mời quân Thanh đến giúp. Đa Nhĩ Cổn tận dụng thời cơ đem quân
Thanh đang mai phục tiến thẳng vào quân Đại Thuận. Lý Tự Thành lại bại trận ở
Giang Tây, sau bị quân Nam Minh giết tại Cửu Cung Sơn ở phía nam huyện Thông
Sơn của Hồ Bắc. Quan chế Đại Thuận đại thể theo quan chế triều Minh, có sửa đổi
nhỏ, đổi nội các thành "Thiên hựu điện" (天佑殿), đổi Lục bộ là Lục Chính phủ, thiết
lập các chức đại học sĩ, thượng thư, thị lang. Ở địa phương, chính quyền Đại
Thiện đổi tuần phủ thành tiết độ sứ, tuần án trực chỉ sứ.
[4]
Ngô Tam Quế (吳三桂, 1612 – 1678), là Tổng binh cuối triều Minh, sau đầu
hàng và trở thành tướng của nhà Thanh. Trước đây Ngô Tam Quế từng dưới quyền của
Viên Sùng Hoán (1584-1630). Sau khi viên tướng này bị vua nhà Minh là Sùng
Trinh giết chết, Ngô Tam Quế dần dần được trao nhiệm vụ làm Tổng binh trấn giữ
Sơn Hải Quan (nay thuộc tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc). Khoảng thời gian này, các
nhóm khởi nghĩa chống lại nhà Minh đã dần lớn mạnh, trong số ấy có lực lượng của
Lý Tự Thành. Sau những thắng lợi liên tiếp, Lý Tự Thành lên ngôi Hoàng đế ở Tây
An (Thiểm Tây) và rồi đánh chiếm luôn Bắc Kinh vào ngày 26 tháng 5 năm 1644. Nghe
tin kinh đô đã thất thủ, Sùng Trinh Hoàng đế đã chết, nên Ngô Tam Quế đã định
hàng Lý Tự Thành. Nhưng khi hay ái thiếp của mình là Trần Viên Viên bị Tự Thành
chiếm đoạt, cha của ông cũng bị Lý Tự Thành giết, ông nổi giận đổi ý, đến xin hợp
tác với quân Mãn Thanh dưới quyền chỉ huy của Đa Nhĩ Cổn. Quân của Ngô Tam Quế
sau đó mở cửa Sơn Hải cho quân Mãn tràn quan, phối hợp chống lại quân Lý Tự
Thành. Kết quả là quân Mãn Châu đã tiêu diệt lực lượng của Lý Tự Thành. Khi mới
thành lập, triều Thanh đã phong vương cho một số tướng lĩnh Hán tộc có công,
trong số đó có Ngô Tam Quế được phong Bình Tây vương, trấn thủ Vân Nam. Năm 1673 vua
Khang Hi đã ra lệnh bãi bỏ các phiên. Bị mất quyền lợi, ngay năm ấy Bình Tây
vương Ngô Tam Quế nổi dậy chống lại nhà Thanh. Tuy nhiên, vì các lực lượng
chống Thanh không có hành động thống nhất nên ít năm sau thì bị dẹp tan. Trong
tình thế rất khó khăn, năm 1678, Ngô Tam Quế vẫn xưng làm Hoàng đế, lập ra nhà
Đại Chu (大周), thủ đô
tại Hành Dương, Hồ Nam. Nhưng chỉ được 5 tháng thì chết vào ngày 2 tháng 10 năm
1678, thọ 66 tuổi. Cháu của ông là Ngô Thế Phiên (Phan) (吴世璠) nối ngôi nhưng thế lực đã rất suy yếu. Năm 1681,
quân nhà Thanh tấn công và chiếm được Vân Nam, Thế Phiên phải tự tử.
[5]
Nhà Nam Minh
(南明 -
"triều Minh ở phía Nam" 1644 – 1662) là tên gọi của một triều đại được
chính dòng dõi con cháu của nhà Minh thành lập ở phía Nam Trung Quốc sau khi
kinh đô Bắc Kinh bị Lý Tự Thành chiếm được vào năm 1644. Một số quan lại nhà
Minh di tản xuống vùng Giang Nam đến thủ đô thứ hai là Nam Kinh, cùng hoàng tộc
ủng hộ lập vua mới. Tháng 5 năm 1644, Phúc vương lên ngôi ở Nam Kinh. Tháng 4
năm 1645, quân nhà Thanh xâm chiếm và đoạt được Nam Kinh, bắt đầu chiến dịch
truy quét và tiêu diệt từng nhóm lẻ tẻ chống cự nhà Thanh. Phúc Vương nhảy xuống
sông Trường Giang tự vẫn, tháng 6 năm 1645, quần thần lập Lỗ Vương Chu Dĩ Hải
lên ngôi xưng Giám Quốc, thành lập chính quyền lưu vong đóng đô ở Thiệu Hưng, đồng
thời với Phúc Vương là Đường Vương Chu Duật Kiện tức Long Vũ Đế cũng lên ngôi,
Trịnh Chi Long và Hoàng Đạo Chu cùng phò tá cả hai vị hoàng đế của nhà Nam Minh
lên ngôi vị tạo nên tình trạng phân liệt. Tháng 6 năm 1646 Lỗ Vương trốn thoát
được, lén vượt biển sang nương tựa lực lượng của Trịnh Thành Công. Lúc này chỉ
còn mỗi lực lượng của vua Long Vũ Đế, tháng 8 năm 1646 quân Thanh xâm lược Phúc
Châu, tiêu diệt chính quyền của Long Vũ Đế. Sau cùng, em trai là Thiệu Vũ Đế kế
vị anh tiếp túc cuộc kháng cự, cùng năm đó thất bại trước cuộc tấn công mãnh liệt
của quân Thanh, Thiệu Vũ Đế tự sát. Tháng 10 năm 1646, Quế Vương Chu Do Lang
xưng Giám Quốc, đóng đô ở Triệu Khánh, tháng 11 lên ngôi, thành lập chính quyền
Vĩnh Lịch. Năm 1659, sau trận Ma Bàn Sơn, Vĩnh Lịch Đế chạy trốn sang Miến Điện,
nhưng sau đó Ngô Tam Quế đem quân đánh, Miến Điện đã bắt vua giao nộp. Đến năm
1662 tháng 4, Ngô Tam Quế giết chết Vĩnh Lịch Đế. Ngoài ra vào năm 1662, Lỗ
Vương Chu Dĩ Hải mắc bệnh chết bên cạnh Trịnh Thành Công, nhà Nam Minh coi như
bị diệt vong.
[6]
Giám Quốc Lỗ vương Chu Dĩ Hải (朱以海 1618 – 1662), là một vị vua của nhà Nam Minh. Tuy trị vì trong 10 năm
(1645 – 1655) nhưng ông lại không đặt niên hiệu trong thời gian tại vị của
mình. Ông là cháu 9 đời của Lỗ Hoang vương Chu Đàn. Năm Sùng Trinh thứ 15
(1642), quân Thanh tấn công Duyện Châu. Đại huynh của ông, Chu Dĩ Phái (朱以派), khi đó
đang giữ tước Lỗ vương, cùng con trai và 2 người em là Chu Dĩ Hành (朱以洐) và Chu Dĩ Giang (朱以江) thắt cổ tự vẫn. Do
đó, Chu Dĩ Hải trở thành người kế vị duy nhất của cha mình. 4 ngày sau khi được
sắc phong Lỗ vương, Lý Tự Thành tấn công Bắc Kinh, Lỗ vương Chu Dĩ Hải phải chạy
về phương nam, trú tại Thai Châu. Năm 1644, sau khi Sùng Trinh đế qua đời, Chu
Do Tung lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Hoằng Quang, lập ra nhà Nam Minh. Gần
1 năm sau đó, Hoằng Quang đế bị xử trảm cùng các thân vương khác tại Thái Thị
Khẩu. Tháng 8 năm 1645, Chu Duật Kiện xưng đế tại Phúc Châu, đặt niên hiệu là
Long Vũ (隆武). Cũng khi đó, Trịnh Tuân Khiêm (鄭遵謙) và Trương
Quốc Duy (張國維) cùng tôn Lỗ Vương Chu Dĩ Hải giám quốc tại Thiệu
Hưng. Hai bên đều có ý tranh đoạt ngôi vị hoàng thống, nội chiến liên miên,
chưa đầy một năm thì triều Long Vũ bị diệt vong, Chu Duật Kiện bị quân Thanh bắt
giết. Lỗ vương thoát được chạy về Chu San. Năm 1651, Lỗ vương chạy tới đảo Kim
Môn nương nhờ Trịnh Thành Công. Tháng 12 năm 1662, Chu Dĩ Hải qua đời tại đó.
[7] Trịnh Chi Long (鄭芝龍 1604 – 1661), hiệu Phi Hồng, tên Kitô giáo là
Nicholas hoặc Nicholas Iquan Gaspard, người làng Thạch Tĩnh, Nam An, phủ Tuyền
Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Ông là thương nhân, thủ lĩnh quân sự, quan lại triều
đình kiêm cướp biển hoạt động mạnh ở vùng bờ biển Hoa Nam, Đài Loan và Nhật Bản
vào cuối đời Nhà Minh. Ông chính là cha của Trịnh Thành Công, khởi nghiệp ở
Hirado, Nhật Bản lúc ban đầu, sau tự tay tạo dựng nên tập đoàn thương nhân kiêm
cướp biển vũ trang ngày càng lớn mạnh, tạo nền tảng vững chắc cho chính quyền
Minh Trịnh sau này. Tháng 5
năm 1653 (năm Thuận Trị thứ 10), ông được tấn phong Đồng An Hầu, ra sức phủ dụ
lực lượng của Trịnh Thành Công. Trịnh Chi Long phụng lệnh triều đình khuyên bảo
con trai Trịnh Thành Công quy thuận theo
mình, nhưng Trịnh Thành Công nhất quyết từ chối. Năm 1655 (năm Thuận Trị thứ
12) Trịnh Chi Long bị triều đình hạch tội vì không chiêu dụ được Trịnh Thành
Công, bèn tước chức quan, tống vào nhà ngục, năm 1657 (năm Thuận Trị thứ 14), Đề
đốc Hoàng Ngô, nguyên là gia tướng của họ Trịnh dâng sớ khuyên triều đình nên
trục xuất toàn gia tộc Trịnh Chi Long ra khỏi kinh sư, cho quản thúc ở Ninh Cổ
Tháp, Thịnh Kinh, nhưng không được chấp nhận. Năm 1660 (năm Thuận Trị thứ 17),
Tuần phủ Phúc Kiến Đồng Quốc Khí tâu rằng Trịnh Chi Long cùng con là Trịnh
Thành Công lén lút liên lạc cá nhân. Hội nghị Đại thần Nghị Chính vương quyết định
nghị luận ghép ông tội danh tư thông bên ngoài (Thông Hải), sau đó đày cả nhà
Chi Long đến Ninh Cổ Tháp chờ xử tử. Tháng 10 năm 1661 (năm Thuận Trị thứ 18),
vua Thuận Trị băng hà, Phụ chính Đại thần Tô Khắc Tát Cáp ra lệnh chém đầu Trịnh
Chi Long cùng thân tộc tại Sài Thị ở kinh sư khi ông mới 58 tuổi.
[8] Trịnh Thành Công (鄭成功 1624 - 1662, nguyên huý là Sâm, tự là
Minh Nghiễm hay Đại Mộc, hay còn được biết đến với tên gọi khác là Trịnh Sâm,
Trịnh Quốc Tính, Trịnh Diên Bình, và được dân gian tôn sùng gọi ông là Quốc
Tính Gia,[8] là nhà lãnh đạo quân sự, chính trị của triều Nam Minh, sinh tại
Hirado, Nhật Bản, cha là Trịnh Chi Long một hải tặc/thương nhân và mẹ là người
Nhật. Trịnh Thành Công là danh tướng kiệt xuất thời kỳ cuối nhà Minh đầu nhà
Thanh. Ông là anh hùng dân tộc Trung Quốc, đã dùng 16 năm cuối đời mình để
kháng chiến chống nhà Thanh, không thành công trong các chiến dịch quân sự tại
miền Đông Nam Trung Quốc trong nỗ lực phản Thanh phục Minh, ông đưa tướng sĩ và
gia quyến vượt biển di cư sang Đài Loan, sau đó ông tổ chức và chỉ huy một hạm
đội tiến hành chiến dịch quân sự đánh bại công ty Đông Ấn Hà Lan trên đảo Đài
Loan từ năm 1661 đến 1662, tiếp tục tiến hành xây dựng lực lượng vững mạnh trên
đảo nhằm hỗ trợ cho các hoạt động chống nhà Thanh ở đại lục, sau khi ông mất,
con là Trịnh Kinh tiếp tục tăng cường cai trị, biến đảo Đài Loan thành một nước
độc lập là vương quốc Đông Ninh cho tới khi bị tướng Thi Lang của nhà Thanh
vượt biển mang quân sang tiêu diệt năm 1683.
[9] Loạn
Tam phiên (chữ Hán: 三藩之亂 tam phiên chi loạn; 1673-1681) là cuộc chiến giữa 3 phiên vương
phía nam lãnh thổ Trung Quốc do Ngô Tam Quế cầm đầu chống lại vương triều nhà
Thanh cuối thế kỷ 17 trong lịch sử Trung Quốc. Sau khi nhà Thanh tiến vào cai
trị Trung Quốc, đến thời Khang Hi, lãnh thổ Trung Quốc chưa hoàn toàn được thống
nhất, vẫn còn nguy cơ để lại từ cuối thời Minh: đó là "tam phiên" tức
3 vị vương từng là hàng tướng của nhà Minh gồm có Bình Tây vương Ngô Tam Quế ở
Vân Nam, Bình Nam vương Thượng Khả Hỷ ở Quảng Đông và Tĩnh Nam vương Cảnh Tinh
Trung ở Phúc Kiến; Trịnh Thành Công vẫn chiếm giữ Đài Loan, Nước Nga Sa hoàng
nhiều lần gây chiến ở biên giới. Vì vậy từ khi chính thức trực tiếp nắm quyền
hành, Khang Hi đã tự mình viết tấm biển "tam phiên, hà vụ, tào vận" để
đặt ra nhiệm vụ giải quyết những mối lo của triều đình, trong đó tam phiên được
coi là mục tiêu giải quyết trước. Tam phiên có địa bàn cai quản rộng lớn, thế lực
ngày càng mạnh, lại là tướng cũ của nhà Minh, trở thành mối lo với nhà Thanh,
do đó Khang Hi quyết tâm trừ bỏ. Cho đến năm 1678, quân
Thanh giành thắng lợi, đánh chiếm lại Thiểm Tây. Một số tướng lĩnh của Tam Quế
là Lâm Hưng Chu, Hàn Đại Nhiệm xin hàng nhà Thanh. Cùng lúc Vương Kiệt Thư đánh
bại quân Ngô ở Giang Tây và Chiết Giang khiến Cảnh Tinh Trung không còn ngoại
viện, thế cùng phải xin hàng. Thế cục đã thay đổi, Ngô Tam Quế phải rút về chỉ
còn giữ được Vân Nam. Nhưng đầu năm 1678 Ngô Tam Quế vẫn cố xưng đế hiệu ở Hành
Dương, đặt quốc hiệu là Chu. Chỉ 5 tháng sau Tam Quế già yếu mắc bệnh qua đời.
Cháu Tam Quế là Ngô Thế Phan kế vị. Năm 1680, Khang Hi điều 3 cánh quân tấn
công Vân Nam. Ngô Thế Phan thất bại liên tiếp, quân Thanh chiếm được Côn Minh.
Thế Phan bị dồn vào đường cùng, phải uống thuốc độc tự sát. Sang năm 1681,
Khang Hi hoàn toàn dẹp được Vân Nam, chấm dứt loạn Tam phiên.
[10] Minh
Trịnh (明鄭 1628-1683) là quyền lực chính trị được lãnh
đạo bởi gia đình Trịnh Chi Long trong thời nhà Thanh sơ nhằm khôi phục lại nhà
Minh. Đây cũng là quyền lực chính trị cuối cùng của nhà Minh. Cha con Trịnh Chi
Long và Trịnh Thành Công đều là những người đầu tiên sáng lập thời Minh Trịnh.
[11] Dân bất liêu sinh: là một thành ngữ của Trung Quốc, nguyên
chỉ bách tính không biết nương tựa vào đâu để mưu sinh, nên cuộc sống cực kỳ
khốn khổ. Thành ngữ này có nguồn gốc từ “Sử ký - Trương Nhĩ, Trần Dư liệt truyện” cảu Tư Mã Thiên thời Tây Hán: “Trăm họ
rã rời, đếm đầu thu thuế, lấy làm quân phí, tài lực vét cạn, dân không đường sống”
(Bách tính bãi tệ, đầu hội ki liễm, dĩ cung quân phí, tài quỹ lực tận, dân bất
liêu sinh.”.
[12] Giáp tất đan (甲必丹), tiếng Mã Lai gốc từ tiếng
Hà Lan: Kapitan Cina vì vùng này đã từng là thuộc địa của Hà Lan. Hệ thống này
sẽ bổ nhiệm thủ lĩnh người Hoa ở nước ngoài để kinh doanh, kiếm sống hoặc định
cư nhằm hỗ trợ chính quyền thực dân giải quyết các vấn đề của cộng đồng Kiều
dân. Đến thế kỷ 16, Công ty Đông Ấn và chính phủ thực dân Anh tiếp quản
Malacca, do chế độ quân chủ thế tập do người Mã Lai làm thủ lĩnh, nên họ giao
cho thủ lĩnh người Hoa thay mặt chính quyền quản lý cộng đồng này và gọi ông ta
là Kapitan Cina - Giáp tất đan, chịu trách nhiệm quản lý và giải quyết các
tranh chấp dân sự khác nhau của Hoa Kiều. Nếu Giáp tất đan không thể giải quyết,
thì đệ trình lên chính quyền thuộc địa. Vào thế kỷ 19, quyền lực và ảnh hưởng của
Giáp tất đan ở Malaya và Eo biển Singapore được mở rộng ảnh hưởng đến uy tín của
chính quyền thực dân. Do đó, chính quyền thuộc địa đã thành lập Chế độ bảo hộ
người Hoa (華民護衛司署 Hoa nhân Hộ vệ Ty thự - The
Chinese Protectorate) can thiệp trực tiếp vào
việc quản lý các vấn đề Hoa kiều. Sau năm 1935, hệ thống Kapitan đã bị bãi bỏ
hoàn toàn ở Malaya thuộc Anh.
[13] Thân tích vô cương (Kinh
thi, Thương tụng, Liệt tổ (詩經,商頌,烈祖)
烈祖
嗟嗟烈祖、有秩斯祜。
申錫無疆、及爾斯所。
既載清酤、賚我思成。
亦有和羹、既戒既平。
鬷假無言、時靡有爭。
綏我眉壽、黃耇無疆。
約軧錯衡、八鸞鶬鶬。
以假以享、我受命溥將。
自天降康、豐年穰穰。
來假來饗、降福無疆。
顧予烝嘗、湯孫之將。
申錫無疆、及爾斯所。
既載清酤、賚我思成。
亦有和羹、既戒既平。
鬷假無言、時靡有爭。
綏我眉壽、黃耇無疆。
約軧錯衡、八鸞鶬鶬。
以假以享、我受命溥將。
自天降康、豐年穰穰。
來假來饗、降福無疆。
顧予烝嘗、湯孫之將。
Liệt tổ
Ta ta liệt tổ, hữu trật tư hỗ.
Thân tích vô cương, cập nhĩ tư sở.
Kí tái thanh cô, lãi ngã tư thành.
Diệc hữu hòa canh, kí giới kí bình.
Tông giả vô ngôn, thì mĩ hữu tranh.
Tuy ngã mi thọ, hoàng cẩu vô cương.
Ước để thác hành, bát loan thương thương.
Dĩ giả dĩ hưởng, ngã thụ mệnh phổ tương.
Tự thiên hàng khang, phong niên nhương nhương.
Lai giả lai hưởng, hàng phúc vô cương.
Cố dữ chưng thường, thang tôn chi tương.
Than
ôi! Liệt tổ phúc dày
Công
đức vô tận đến Ngài hôm nay
Trong
veo rượu đã sẵn bày
Khiến
ta cùng được sum vầy tổ tiên
Lại
kính cẩn dâng canh hòa dịu
Chốn
lằng lặng nhạc thiều trình tấu
Cõi
thinh ngôn nào mảng luận tranh
Ban
cho thọ tỷ Nam sơn
Chư
hầu võng lọng mang mang
Chuông
reo ngựa hý hàng hàng chầu dâng
Ta
thụ mệnh Trời ban Đại phúc
Mùa
phong nhiêu ngũ cốc rợp đồng
Tổ
tiên lai giá hưởng cùng
Đặng
ban phúc lộc trùng trùng
Thành
Thang con cháu tương phùng kính dâng
[14] Trạc trạc quyết linh (Kinh thi, Thương tụng, Ân vũ《詩經,商頌,殷武》)
《殷武》
撻彼殷武、奮伐荊楚。
冞入其阻、裒荊之旅。
有截有所、湯孫之緒。
冞入其阻、裒荊之旅。
有截有所、湯孫之緒。
維女荊楚、居國南鄉。
昔有成湯、自彼氐羌、
昔有成湯、自彼氐羌、
莫敢不來享、莫敢不來王、曰商是常。
天命多辟、設都于禹之績。
歲事來辟、勿予禍適、稼穡匪解。
歲事來辟、勿予禍適、稼穡匪解。
天命降監、下民有嚴。
不僭不濫、不敢怠遑。
命于下國、封建厥福。
不僭不濫、不敢怠遑。
命于下國、封建厥福。
商邑翼翼、四方之極。
赫赫厥聲、濯濯厥靈。
壽考且寧、以保我後生。
赫赫厥聲、濯濯厥靈。
壽考且寧、以保我後生。
Ân vũ
Thát bỉ ân vũ, phấn
phạt kinh sở.
My nhập kì trở, bầu
kinh chi lữ.
Hữu tiệt hữu sở,
thang tôn chi tự.
Duy nữ kinh sở, cư
quốc nam hương.
Tích hữu thành
thang, tự bỉ để khương,
mạc cảm bất lai hưởng,
mạc cảm bất lai vương, viết thương thị thường.
Thiên mệnh đa tích,
thiết đô vu vũ chi tích.
Tuế sự lai tích, vật
dữ họa thích, giá sắc phỉ giải.
Thiên mệnh hàng
giam, hạ dân hữu nghiêm.
Bất tiếm bất lạm, bất
cảm đãi hoàng.
Mệnh vu hạ quốc,
phong kiến quyết phúc.
Thương ấp dực dực, tứ
phương chi cực.
Hách hách quyết
thanh, trạc trạc quyết linh.
Thọ khảo thả ninh,
dĩ bảo ngã hậu sanh.
[15] Ba Tố (巴素, Victor Purcell 1896 - 1965) gốc từ Vương quốc Anh, sinh ở Hoa Kỳ, chuyên về văn học và thơ ca. Ông gia nhập quân đội từ năm 1914 đến 1918, sau chiến tranh, ông được phái đi phục vụ ở thuộc địa Viễn Đông. Đầu tiên ông đến Quảng Châu để học tiếng Trung và đạt được kết quả xuất sắc, và thông thạo tiếng Quảng Đông. Ông làm việc cho chính phủ Mã Lai từ năm 1921 đến năm 1946. Sau khi phục vụ trong bộ phận chính phủ Malaysia hơn 20 năm, ông hết sức quan tâm đến người Hoa và đã tiến hành nghiên cứu chuyên sâu về lịch sử phát triển của người Hoa ở Đông Nam Á. Ông là tác giả của "Người Trung Quốc ở Malaya" và "Người Trung Quốc ở Đông Nam Á". Từ năm 1946 đến năm 1948, ông làm cố vấn cho Liên Hợp Quốc. Năm 1949, ông được giảng dạy tại Đại học Cambridge về Lịch sử Viễn Đông. Ông mất năm 1965 ở tuổi 68.
[16]
Lưu Tiền Độ (劉前度): Lỗ Tấn được mời đến Hồng Kông vào năm 1927 để diễn
thuyết với tựa đề “Trung Quốc im lặng” (Vô thanh
đích Trung Quốc) và “Giai điệu cũ đã được hát” (Lão
điều tử dĩ kinh xướng hoàn). Lưu Tiền Độ tham gia
buổi gặp gỡ và ghi biên bản. Có sự trùng hợp kỳ lạ là có một Lão tác gia
Malaysia, Lưu Tiền Độ, người đã đạt được một số thành tựu trong sáng tạo và dịch
thuật tiểu thuyết, và trong quá khứ có quen biết Úc Đạt Phu (鬱達夫, Úc Văn 1896 – 1945, tự Đạt Phu, người Phú
Dương, Chiết Giang, là Tiểu thuyết gia, thi nhân Trung Quốc cận đại*). Việc hai
vị Lưu Tiền Độ này có mối quan hệ nào hay không thì vẫn chưa được biết rõ.
[17]
Đông Hồng tiên sinh, là nói đến sự hồ đồ, hủ lậu. Đường Trịnh Huân chủ trì kỳ
thi nhầm Nhan Tiêu là hậu duệ của Lỗ Công (Nhan Chân Khanh), nên đã chấm cho
anh ta đỗ Trạng nguyên. Vào thời điểm đó, một số người đã viết các bài thơ chế
giễu: “Khảo quan đầu óc quá đông hồng
(gàn dở), Đánh lộn Nhan Tiêu với Lỗ Công” (Chủ ti đầu não thái đông hồng, Thác
nhận Nhan Tiêu tác Lỗ Công).
[18]
Nhiễu Tông Di (饒宗頤 1917 - 2018) người huyện Triều An,
Quảng Đông, nay là huyện Tương Kiều, thành phố Triều Châu. Tổ tiên quê thôn
Đồng Bà, Mai Huyện, tên tự là Cố Am, Bá Liêm, Bá Tử, Hào Tuyển Đường là các bậc thầy của giới học
thuật, bậc thầy về thư pháp và hội họa trong và ngoài nước. Ông có những đóng góp quan trọng trong nhiều ngành học
như nghiên cứu lịch sử, khảo cổ học, tôn giáo, triết học, nghệ thuật, văn học
và nghệ thuật Cận Đông, và có uy tín cao trong cộng đồng Hán học quốc tế đương
đại. Giới học thuật Trung Quốc luôn
so sánh ông với Tiền Chung Thư (1910 – 1998, nhà văn, nhà nghiên cứu văn học nổi
tiếng, thông thạo các ngôn ngữ: Anh, Pháp, Đức,
Latin, Ý, Tây Ban Nha, vv…*), và Quý Tiện Lâm (1911 – 2009, giáo sư, nhà
ngôn ngữ học, dịch giả văn học, chuyên gia tiếng Phạn và Pali) bằng cách nói:
“Nam Nhiễu, bắc Tiền” và “Nam Nhiễu, bắc Quý”. Ông
là giáo sư của Khoa Trung Quốc của Đại học Hồng Kông, giáo sư của Khoa Nghệ thuật
và là cố vấn cho Viện Văn hóa Trung Quốc; giáo sư danh dự tại Đại học Hồng
Kông, Đại học Bắc Kinh và Đại học Nam Kinh. Ông đến Hồng Kông năm 1949 và giảng dạy tại Đại học New
Asia năm 1952. Từ năm 1952 đến năm 1968, ông giảng dạy tại Đại học Hồng Kông. Từ
năm 1968 đến năm 1973, ông được bổ nhiệm làm giáo sư đầu tiên và trưởng khoa của
Khoa Trung Quốc học của Đại học Singapore. Trong thời gian đó, ông là giáo sư
thỉnh giảng tại Viện nghiên cứu Đại học Yale và Viện Nghiên cứu Ngôn ngữ. Năm
1973, ông trở thành Trưởng khoa Ngôn ngữ và Văn học Trung Quốc tại Đại học Hồng
Kông Trung Quốc, và nghỉ hưu năm 1978. Sau đó, ông giảng bài tại Pháp, Nhật Bản,
Trung Quốc Đại lục, Đài Loan và Ma Cao. Nhiễu Tông Di đã giành được nhiều giải
thưởng, Tiến sĩ danh dự và giáo sư danh dự của Viện hàn lâm Khoa học Pháp, học
giả nước ngoài của Viện hàn lâm Khoa học Pháp, thành viên danh dự của Hiệp hội
Paris Châu Á. Cục Di tích Văn hóa và Chính quyền Nhân dân tỉnh Cam Túc đã trao
tặng Bảo vệ Di tích Văn hóa Đôn Hoàng, Giải thưởng Đóng góp Nghiên cứu Đặc biệt,
Huy chương Đại Bauhinia (Grand Bauhinia Medal, 大紫荊勳章 Đại tử kinh Huân chương) của Chính phủ Hồng
Kông và Giải thưởng Thành tựu trọn đời của Hội đồng Phát triển Nghệ thuật Hồng
Kông. Vào sáng sớm ngày 6 tháng 2 năm 2018, Rao Zongxi qua đời ở Hồng Kông khi
101 tuổi.
[19] Lưu Tri Kỷ (劉知幾 661-721), tự Tử Huyền, người họ Lưu Bành Thành, quan
chức nhà Đường, nhà sử học. Trong thời Vĩnh Long (680 SCN), ông được thăng chức
Tiến sỹ, Chí tả tán kỵ thường thị. Tiếp đó nhậm trứ tác tá lang, trung thư xá, kiêm tu quốc sử hơn hai
mươi năm. Năm Cảnh Long thứ hai (708 SCN), ông đã
từ chức và tự biên soạn sách sử cho đến hết đời. Các trước tác gồm: “Lưu thị
gia thừa” 15 quyển, “Lưu thị phả khảo” 3 quyển, “Sử thông” 20 quyển, “Duệ
Tông thực lục” 10 quyển, “Lưu Tử Huyền tập”
30 quyển, cùng viết “Tam giáo châu anh” 313 quyển, “Tính tộc hệ lục” 200 quyển,
“Đường thư” 80 quyển, “Cao Tông thực lục” 80 quyển, “Trung Tông thực lục” 20
quyển, “Tắc Thiên Hoàng hậu thực lục” 30 quyển, v.v.
[20] Ngô Phác (吳樸 1500 – 1570), tự Hoa Phủ, người thôn Hạ Mỹ, huyện Triều An, Phúc Kiến, sinh năm Hoằng
Trị thứ mười ba, tướng mạo tầm thường, nhưng đọc nhiều hiểu rộng, đọc đâu nhớ
đó, đã đọc là không quên. Thời Gia Tĩnh, Lâm Hy Nguyên theo Mao Ôn Bá đánh An
Nam, có mời Ngô Phác làm tham quân, chết năm Long Khánh thứ tư, 1570. Ông là tác giả của “Long Phi kỷ lược”, “Hoàng
Minh đại sự kí”, “Y xỉ vấn nan”, “Độ hải phương trình”, “Cửu
biên đồ yếu”, “Đông nam hải ngoại chư di” và “Phục đại ninh hà sáo chư kế hoạch”,
nay hầu hết thất tán.
[21] Lý Triệu Lạc (李兆洛 1769 - 1841) nguyên họ
Vương, tự Thân Kỳ, hiệu Dướng Nhất, người Thường Châu, Giang Tô. Ông là quan chức,
nhà địa lí học, văn học gia, tiến
sĩ xuất thân. Năm Gia Khánh thứ chín (1804) đỗ cử nhân (giải nguyên), năm Gia Khánh
thứ mười (1805) đỗ Tiến sĩ nhị giáp đệ nhị danh. Từng nhậm phụng tri huyện Đài Huyện.
Ông tinh thông âm vận, sử địa, lịch toán chi học, văn chương. Diêu Oánh gọi ông
là “Đông Nam giảng tập đệ nhất nhân”. Tác phẩm có “Hoàng triều nhất thống dư địa
toàn đồ”, “Dưỡng nhất trai tập”, “Lịch đại địa lí chí vận biên kim thích”,
“Lịch đại địa lí duyên cách đồ”, “Hoàng triều dư địa vận biên”, văn tuyển có
“Biền thể văn sao”.
[22]
Nguyên Dịch (元懌 487年-520年) tự Tuyên Nhân, người huyện Lạc
Dương, quận Hà Nam, nay là thành phố Lạc Dương, tỉnh Hà Nam. Ông là con thứ tư
của Ngụy Hiếu Văn đế Nguyên Hoành, mẹ là La phu
nhân, tôn thất Bắc Ngụy. Thời thơ ấu mẫn tuệ, dung mạo đẹp đẽ, Hiếu Văn đế rất
yêu chiều. Nguyên Dịch làu thông kinh sử, có văn tài, giỏi đàm lý, khoan nhân dung
dụ, hỉ nộ không thể hiện ra sắc diện. Năm Thái Hòa thứ hai mươi mốt (497) phong Thanh Hà
vương. Vì Tư không Cao Triệu chuyên quyền nên Nguyên Dịch và anh trai thứ ba
Nguyên Du bất mãn, Nguyên Du bị sát hại, sau Hiếu Minh đế Nguyên Hủ tức vị,
Nguyên Dịch tham gia tru sát Cao Triệu. Nguyên Dịch được bổ Thái úy, sau bị Nguyên
Nghệ tố cáo Dịch mưu phản, cấm Nguyên Dịch ra khỏi nhà. Chính Quang nguyên niên
(520), Nguyên Dịch bị cầm tù vì bị vu mưu phản, sau Nguyên Dịch được phục hồi
thụy hiệu Văn Hiến.
[23] Bang quốc (邦國) là sự phát triển của các thực thể chính trị sau khi
người Trung Quốc cổ đại bước vào xã hội văn minh nên được chuẩn hóa hơn như: Bang
quốc – Vương quốc – Đế quốc là loại hình nhà nước ba giai đoạn và ba hình thức.
Nhà nước đầu tiên ở Trung Quốc cổ đại (hoặc có thể được gọi là nhà nước sơ thủy)
là một tiểu quốc quả dân với hình thức Bang quốc, sau đó phát triển thành vương
quốc, và sau vương quốc, là loại hình đế quốc thông qua hình thức trung ương tập
quyền.
[24] Tặng Tuyên đại sư
Nhất quốc sa di độc giải thi,
Nhân nhân đạo thắng huệ lâm sư.
Tiên hoàng chiếu hạ trưng hoàn nhật,
Kim thượng long phi nhập nội thì.
Khán nguyệt ức lai tùng tự túc,
Tầm hoa tư tác hạnh khê kì.
Nhân luận phật địa cầu tâm địa,
Chỉ thuyết thường ngâm thị trụ trì.
(Bành Định Cầu 2008: 1462)
唐•李益:《贈宣大師》
一國沙彌獨解詩,人人道勝惠林師。
先皇詔下徵還日,今上龍飛入內時。
看月憶來松寺宿,尋花思作杏溪期。
因論佛地求心地,只說常吟是住持。
(彭定求 2008: 1462)
先皇詔下徵還日,今上龍飛入內時。
看月憶來松寺宿,尋花思作杏溪期。
因論佛地求心地,只說常吟是住持。
(彭定求 2008: 1462)
[25] Phan Tổ Ấm (潘祖蔭 1830 - 1890)
là đại quan nhà Thanh, ông là thư pháp
gia, tàng thư gia, tự Tại Chung, tiểu tự Phụng Sinh, hiệu Bá Dần, Thiểu Đường, Trịnh
Am. Người Ngô Huyện, nay là Tô Châu, Giang Tô, là cháu nội của Đại học sĩ Phan
Thế Ân, là con trai của Nội các Thị độc Phan Tằng Thụ, năm Hàm Phong thứ hai đỗ
Nhất giáp Tam danh tiến sĩ, Thám hoa, thụ phong biên tu. Thời Quang Tự thụ
phong Công bộ Thượng thư. Ông làu thông kinh sử, tinh giai pháp, tàng kim thạch.
Trước tác có “Phàn cổ lâu di khí đồ thích”, “Bàng hỉ trai tùng thư”, “Công thuận
đường tùng thư”.
Tài liệu tham khảo
(唐)刘知几著;白云译注,2014,《史通》,北京:中华书局。(đường) lưu tri kỉ trứ; bạch vân dịch chú, 2014, “sử
thông”, bắc kinh: trung hoa thư cục.
(清)李兆洛,1989,《历代纪元编卷》,收录《四部备要》,北京:中华书局。(thanh) lí triệu lạc, 1989, “lịch đại kỉ nguyên biên
quyển” thu lục “tứ bộ bị yếu”, bắc kinh: trung hoa thư cục.
(清)彭定求,2008,《全唐诗》,郑州:中州古籍出版社。(thanh) bành định cầu, 2008, “toàn đường thi”, trịnh châu:
trung châu cổ tịch xuất bản xã.
(清)张有昌吉录:《帖式薄》,龙飞光绪戊申新春(未出版),网址:,游览时间:2016年4月30日。(thanh) trương hữu xương cát lục: “thiếp thức bạc”,
long phi quang tự mậu thân tân xuân (vị xuất bản), võng chỉ: http:// book.kongfz.
com/1351/173768356/, du lãm thì gian:2016 niên 4 nguyệt 30 nhật.
巴素,1950,《马来亚华侨史》,槟城:光华日报有限公司。ba tố, 1950, “mã lai á hoa kiều sử”, tân thành: quang
hoa nhật báo hữu hạn công ti.
陈荆和撰,1964,《承天明乡社陈氏正谱》,香港:香港中文大学新亚研究所。trần kinh hòa soạn, 1964, “thừa thiên minh hương xã trần
thị chánh phổ”, hương cảng: hương cảng trung văn đại học tân á nghiên cứu
sở.
陈铁凡,傅吾康合编,1982,《马来西亚华文铭刻萃编》,吉隆坡:马来亚大学出版社。trần thiết phàm, phó ngô khang hợp biên, 1982, “mã lai
tây á hoa văn minh khắc tụy biên”, cát long pha: mã lai á đại học xuất bản xã.
《东方日报》,2009年2月17日。“đông phương nhật báo”, 2009 niên 2 nguyệt 17 nhật.
《二希堂文集》,第一卷,《四库全书》(集部七·别集类六)。 “nhị hi đường văn tập”, đệ nhất quyển, “tứ khố toàn thư”
tập bộ thất - biệt tập loại lục).
郭又陵主编,2003,《北京图书馆藏家谱丛刊·民族卷》,北京:北京图书馆出版社。quách hựu lăng chủ biên, 2003, “bắc kinh đồ thư quán
tàng gia phổ tùng khan - dân tộc quyển”, bắc kinh: bắc kinh đồ thư quán xuất bản
xã.
简安志,《“悠悠大明魂”:看十七世纪至十九世纪越南“明香/明乡人”的“原乡性”》,收录于《2012年“海外华人研究”研究生国际学术研讨会:认同与文化政治论文集》,地点:马来西亚拉曼大学(金宝校区),日期;2012年5月25-26日。giản an chí, “du du đại minh hồn”: khán thập thất thế kỉ chí thập cửu
thế kỉ việt nam “minh hương/ minh hương nhân” đích “nguyên hương tính”, thu lục
vu “2012 niên “hải ngoại hoa nhân nghiên cứu” nghiên cứu sinh quốc tế học thuật
nghiên thảo hội: nhận đồng dữ văn hóa chính trị luận văn tập”, địa điểm: mã lai
tây á lạp mạn đại học (kim bảo giáo khu), nhật kì; 2012 niên 5 nguyệt 25 –
26 nhật.
李瑄,2008,<南明抗清运动中明遗民的失落>,《四川师范大学学报》(社会科学版),第35卷第4期,页83。lí tuyên, 2008, “nam minh kháng thanh vận động trung minh
di dân đích thất lạc”, “tứ xuyên sư phạm đại học học báo” (xã hội khoa học
bản), đệ 35 quyển đệ 4 kì, hiệt 83.
民国时期的“乾书”,“孔夫子旧书网”网站:http:book.kongfz.com/,游览时间:2016年4月29日. dân quốc thì kì đích “can thư”, “khổng phu tử cựu thư
võng” võng trạm: http: book.kongfz. com/, du lãm thì gian: 2016 niên 4 nguyệt 29
nhật.
民国时期的“坤书”,“孔夫子旧书网”网站:http:book.kongfz.com/1351/325753363/,游览时间:2016年4月29日. dân quốc thì kì đích “khôn thư”, “khổng phu tử cựu
thư võng” võng trạm: http: book.kongfz. com/1351/325753363/, du lãm thì gian: 2016 niên 4 nguyệt
29 nhật.
梅花双鹊图立轴,“博宝拍卖网”网站:http://auction.artxun.com/pic,游览时间:2016年4月28日. mai hoa song thước đồ lập trục, “bác bảo phách mại
võng” võng trạm: http://auction. artxun.com/pic-28498453- 0.html, du lãm thì
gian: 2016 niên 4 nguyệt 28 nhật.
饶宗颐,1999,<星马华文碑刻系年>,《饶宗颐东方学论集》,汕头:汕头大学出版社,页418-434。nhiêu tông di, 1999, “tinh mã hoa văn bi khắc hệ niên”,
“nhiêu tông di đông phương học luận tập”, sán đầu: sán đầu đại học xuất bản xã,
hiệt 418 - 434.
饶宗颐,1974,龙飞与张琏问题辩证,《南洋学报》,第29卷第1,2期,页11-14。nhiêu tông di, 1974, “long phi dữ trương liễn vấn đề biện
chứng”, “nam dương học báo”, đệ 29 quyển đệ 1,2 kì, hiệt 11 - 14.
《日讲易经解义》,卷四百三十七,《钦定四库全书荟要》(经部)。“nhật giảng dịch kinh giải nghĩa”, quyển tứ bách tam
thập thất, “khâm định tứ khố toàn thư oái yếu” (kinh bộ).
阮湧俰,2015,<马六甲华人甲必丹李为经生平事迹补遗——以《厦门光裕堂李氏族谱》为依据>,《马来西亚人文与社会科学学报》,第四卷第一期,2015,页59-70。nguyễn dũng hòa, 2015, “mã lục giáp hoa nhân giáp tất
đan lí vi kinh sanh bình sự tích bổ di – dĩ “hạ môn quang dụ đường lí thị
tộc phả” vi y cư”, “mã lai tây á nhân văn dữ xã hội khoa học học báo”, đệ tứ quyển
đệ nhất kì, 2015, hiệt 59 – 70.
翁洁,1997,<试论南明政权抗清的性质>,《右江民族师专学报》,第10卷第一期,页53-56。ông khiết, 1997, “thí luận nam minh chánh quyền kháng thanh
đích tính chất”, “hữu giang dân tộc sư chuyên học báo”, đệ 10 quyển đệ nhất kì,
hiệt 53 – 56.
《厦门光裕堂李氏族谱》(未出版)。 “hạ môn quang dụ đường lí thị tộc phả” (vị xuất bản).
谢仲洋,华文教育起源和兴盛·追溯15世纪甲王朝,《星洲日报》,2015年9月20日,页2。tạ trọng dương, “hoa văn giáo dục khởi nguyên hòa
hưng thịnh – truy tố 15 thế kỉ giáp vương triêu”, “tinh châu nhật báo”, 2015 niên
9 nguyệt 20 nhật, hiệt 2.
《星洲日报》,2017年10月31日。“tinh châu nhật báo”, 2017 niên 10 nguyệt 31 nhật.
《修伦》(未出版)(现为笔者收藏)。“tu luân” (vị xuất bản) (hiện vi bút giả thu tàng).
薛元明,2014,《元怿墓志铭》,南昌:江西美术出版社。tiết nguyên minh, 2014, “nguyên dịch mộ chí minh”, nam
xương: giang tây mĩ thuật xuất bản xã.
《朱子语类》,卷六十八,《钦定四库全书》(子部)。“chu tử ngữ loại”, quyển lục thập bát, “khâm định tứ khố
toàn thư” (tử bộ).
《子夏易传》,卷一,《钦定四库全书》(经部)。 “tử hạ dịch truyện”, quyển nhất, “khâm định tứ
khố toàn thư” (kinh bộ).
左书愕,1986,<清朝统一是历史的必然>,《满族研究》,第3期,页3-9。tả thư ngạc, 1986, “thanh triêu thống nhất thị lịch sử
đích tất nhiên”, “mãn tộc nghiên cứu”, đệ 3 kì, hiệt 3 – 9.
* Những chỗ có đánh dấu (*) cũng là ghi chú của người dịch.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét