Powered By Blogger

Chủ Nhật, 23 tháng 8, 2020

Hành động, Lý do và Nguyên nhân


Donald Davidson

Người dịch: Hà Hữu Nga

Mối quan hệ giữa lý do và hành động là gì khi lý do giải thích hành động bằng cách đưa ra lý do của tác nhân cho việc anh ta đã làm? Chúng ta có thể gọi những giải thích như vậy là những giải thích duy lý hóa, và nói rằng chính lý do duy lý hóa hành động. Trong bài viết này, tôi muốn bảo vệ lập trường cổ xưa - và thông thường – cho rằng duy lý hóa là một loại giải thích nhân quả. Việc bảo vệ chắc chắn đòi hỏi việc tái triển khai nào đó, nhưng dường như không cần thiết phải từ bỏ lập trường đó, như nhiều tác giả gần đây đã nhấn mạnh.1

Một lý do chỉ hợp lý hóa một hành động
khi nó khiến chúng ta thấy một điều gì đó mà tác nhân đã thấy hoặc nghĩ rằng anh ta đã thấy, trong hành động của mình — một đặc điểm, hệ quả hoặc khía cạnh nào đó của hành động mà tác nhân khao khát, mong muốn, đánh giá cao, yêu quý, coi là bổn phận, có lợi, bắt buộc hoặc hợp ý. Chúng ta không thể giải thích tại sao ai đó đã làm những gì anh ta đã làm chỉ đơn giản bằng cách nói rằng hành động cụ thể lôi cuốn anh ta; chúng ta phải chỉ ra hành động đó lôi cuốn anh ta về cái gì. Do đó, bất cứ khi nào ai đó làm điều gì đó vì một lý do nào đó, anh ta có thể được mô tả là (a) có một loại thái độ chuyên nghiệp đối với một loại hành động nào đó và (b) tin tưởng (hoặc biết, nhận thức, chú ý, ghi nhớ) rằng hành động của anh ta là thuộc loại đó. Thuộc về (a) phải bao gồm khát vọng, mong muốn, giục giã, thúc bách và nhiều quan điểm đạo đức, nguyên tắc thẩm mỹ, định kiến ​​kinh tế, quy ước xã hội, mục tiêu và giá trị công và tư trong chừng mực chúng có thể được diễn giải là thái độ của một tác nhân hướng đến một loại hành động nhất định. Ở đây, từ 'thái độ' chỉ giúp cho ta thật tận tình, vì nó không chỉ bao hàm những đặc điểm tính cách vĩnh viễn thể hiện trong hành vi cả đời của họ, như niềm thương yêu con trẻ hoặc ham bầu bạn ồn ào, mà còn là thói ham mê vụt thoáng thúc đẩy một hành động độc đáo, như mong muốn bất chợt được chạm vào khuỷu tay một kẻ nữ nhân. Nói chung, không nên có thái độ chuyên nghiệp vì những nhiệt thành nhất thời, rằng mọi hành động thuộc một loại nào đó phải được thực hiện, là đáng thực hiện, hoặc là tất cả những điều được coi là đáng mong muốn. Ngược lại, một người đàn ông có thể cả đời chỉ có một thèm khát uống một lon sơn, mà không bao giờ, ngay cả lúc anh ta chịu lép vế, tin rằng đó là việc đáng làm.

Việc đưa ra lý do tại sao một tác nhân đã làm một điều gì đó thường là vấn đề gọi tên cho cái thái độ chuyên nghiệp (a) hoặc niềm tin liên quan (b) hoặc cả hai; tôi gọi cặp này là lý do chính tại sao tác nhân thực hiện hành động đó. Giờ đây, cả hai đều có thể trình bày lại điều khẳng định rằng các giải thích duy lý hóa chính các giải thích nhân quả và tạo cấu trúc cho lập luận bằng cách nêu ra hai l về những lý do chính: 1). Để hiểu được cách thức mà bất kỳ một loại lý do nào duy lý hóa một hành động, thì điều cần và đủ mà chúng ta thấy, ít nhất là bằng phác thảo cơ bản, cách kiến tạo một lý do chính. 2). Lý do chính cho một hành động là nguyên nhân của nó. Tôi sẽ lần lượt biện luận cho những điểm này. Tôi đóng công tắc, bật đèn và chiếu sáng căn phòng. Tôi không hề biết rằng mình cũng đã cảnh báo cho một tên trộm rìnhxem tôi ở nhà hay không. Ở đây, tôi không cần phải làm bốn việc, mà chỉ làm một, trong đó bốn mô tả đã được đưa ra.2 Tôi đóng công tắc vì muốn bật đèn và bằng cách nói muốn bật đèn, tôi giải thích (đưa ra lý do, giải thích duy lý hóa) việc đóng công tắc. Nhưng bằng cách đưa ra lý do này, tôi không duy lý hóa cảnh báo của tôi về kẻ rình mò cũng như việc tôi chiếu sáng căn phòng. Vì các lý do có thể duy lý hóa những gì ai đó làm khi nó được mô tả theo cách này chứ không phải theo cách khác, nên chúng ta không thể coi những gì đã làm chỉ đơn giản là một thuật ngữ trong các câu như 'Lý do tôi đóng công tắc là tôi muốn bật đè cho sáng'; nếu không, chúng ta buộc phải kết luận, từ thực tế việc đóng công tắc đồng nhất với việc cảnh báo kẻ rình mò, rằng lý do tôi cảnh báo kẻ rình mò điều mà tôi muốn bật đèn. Chúng ta sẽ đánh dấu cái đặc trưng mô tả hành động gần như cường độ3 này trong các giải thích duy lý hóa bằng cách nêu ra chính xác hơn một chút điều kiện cần cho các lý do chính:

C1. R là lý do chính tại sao một tác nhân thực hiện hành động A trong mô tả d chỉ khi R bao gồm thái độ chuyên nghiệp của tác nhân đối với các hành động một thuộc tính nhất định và niềm tin của tác nhân rằng A, theo mô tả d, có thuộc tính đó. Làm thế nào việc tôi muốn bật đèn có thể là (một phần của) lý do chính, vì nó dường như thiếu yếu tố tổng thể tính bắt buộc? Chúng ta có thể bị gạt bởi cách nói song hành giữa Tôi đã bật đènTôi đã muốn bật đèn. Câu đầu rõ ràng đề cập đến một sự kiện cụ thể, vì vậy chúng ta kết luận rằng câu thứ hai có cùng sự kiện này với tư cách là đối tượng của nó. Tất nhiên, rõ ràng là sự kiện bật đèn của tôi không thể được đề cập theo cùng một cách trong cả hai câu vì sự tồn tại của sự kiện được đòi hỏi bằng sự thật 'Tôi đã bật đèn' chứ không phải bằng sự thật 'Tôi đã muốn bật đèn'. Nếu chiếu vật giống nhau trong cả hai trường hợp, thì câu thứ hai sẽ dẫn đến câu thứ nhất; nhưng thực tế hai câu này độc lập về mặt logic. Điều không rõ ràng, ít nhất cho đến khi chúng ta chú ý đến nó, là cái sự kiện mà việc diễn ra làm cho 'Tôi đã bật đèn' là sự thật thì lại không thể được gọi là đối tượng - dù có chủ ý - của 'Tôi đã muốn bật đèn'. Nếu tôi đã bật đèn, thì tôi đã phải thực hiện nó vào một thời điểm chính xác, bằng cách cụ thể — mọi chi tiết đều được cố định. Nhưng không có ý nghĩa gì khi đòi hỏi cái mà tôi muốn phải hướng đến một hành động được thực hiện tại bất kỳ thời điểm nào hoặc được thực hiện theo một cách duy nhất nào đó. Bất kỳ một hành động nào trong một số lượng lớn vô hạn định sẽ đáp ứng mong muốn và đều có thể được coi là thích hợp với tư cách là đối tượng của nó. Mong muốn và khát khao thường được nhắm vào các đối tượng vật chất. Tuy nhiên, 'Tôi muốn chiếc đồng hồ vàng để trong cửa sổ' lại không phải là lý do chính và giải thích tại sao tôi vào cửa hàng chỉ vì nó gợi ra một lý do chính -  ví dụ: tôi muốn mua chiếc đồng hồ.

Vì 'Tôi
đã muốn bật đèn' và 'Tôi đã bật đèn' độc lập về mặt logic, nên câu thứ nhất có thể được sử dụng để đưa ra lý do tại sao câu thứ hai là đúng. Một lý do như vậy cho ta thông tin tối thiểu: nó ngụ ý rằng hành động đó là có chủ ý và việc muốn có xu hướng loại trừ một số thái độ chuyên nghiệp khác, chẳng hạn như ý thức về bổn phận hoặc nghĩa vụ. Nhưng việc loại trừ ấy lại phụ thuộc rất nhiều vào hành động và bối cảnh giải thích. Việc muốn có vẻ nhợt nhạt bên cạnh thèm khát, nhưng sẽ thật kỳ quặc nếu chối rằng một kẻ thèm khát một phụ nữ hoặc tách cà phê muốn cô ấy hoặc tách cà phê đó. Thực tế, không phải là không tự nhiên khi coi mong muốn một giống bao gồm tất cả các thái độ chuyên nghiệp như loài. Khi chúng ta làm điều này và khi chúng ta biết một hành động nào đó có chủ ý, thì sẽ dễ dàng trả lời câu hỏi, 'Sao mày làm thế?' với, 'Chẳng sao cả', đó không phải là không có lý do mà là không có lý do nào khác, không có lý do nào là cái không thể suy ra từ thực tế là hành động đã được thực hiện một cách có chủ ý; không có lý do, nói cách khác, ngoài việc muốn làm điều đó. Điểm cuối cùng này không cần thiết cho lập luận hiện tại, nhưng nó được quan tâm vì nó bảo vệ cái khả tính xác định một hành động có chủ ý như một hành động được thực hiện vì một lý do nào đó. Một lý do chính bao gồm một niềm tin và một thái độ, nhưng nói chung là vô ích khi đề cập đến cả hai. Nếu bạn nói với tôi rằng bạn đang giảm gió buồm mũi thuyền vì bạn nghĩ rằng điều đó sẽ ngăn buồm chính đảo chiều gió, thì không cần ai bảo tôi cũng biết bạn muốn ngăn buồm chính đảo gió; và nếu bạn nói rằng bạn đang chĩa ngón tay cái của bạn vào tôi vì bạn muốn xúc phạm tôi, thì không có ích gì khi bạn nói thêm rằng bạn nghĩ bằng cách chĩa ngón tay cái của bạn vào tôi bạn sẽ xúc phạm tôi. Tương tự, nhiều giải thích về các hành động trong khuôn khổ các lý do không phải là lý do chính không đòi hỏi phải đề cập đến lý do chính để hoàn thành câu chuyện. Nếu tôi nói rằng tôi đang tỉa cỏ vì tôi muốn có một bãi cỏ đẹp, thì sẽ là ngốc nghếch nếu tôi đưa ra giải thích, 'Và vì vậy tôi thấy điều gì đó đáng mong đợi trong bất kỳ hành động nào như vậy, hoặc có cơ hội tốt để làm cho bãi cỏ trở nên đẹp đẽ' . Tại sao nhấn mạnh rằng có bất kỳ bước nào, logic hay tâm lý, trong việc chuyển ham muốn từ một mục đích không phải là một hành động thành những hành động mà người ta coi là phương tiện? Nó cũng được dùng để lập luận rằng mục đích mong muốn giải thích cho hành động chỉ khi những gì tác nhân tin là phương tiện mong muốn.

May mắn thay, không cần thiết phải phân loại và phân tích nhiều loại cảm xúc, tình cảm, tâm trạng, động cơ, đam mê và khao khát mà việc đề cập đến có thể trả lời cho câu hỏi, 'Sao mày làm thế?' để xem làm thế nào, khi việc đề cập như vậy lại giải thích duy lý hóa hành động, một lý do chính có liên quan. Chứng sợ không gian kín tạo ra lý do cho một người đàn ông rời khỏi bữa tiệc cocktail bởi vì chúng ta biết mọi người muốn tránh, thoát khỏi, được an toàn, cách xa những gì làm họ sợ hãi. Ganh ghét là động cơ gây ra vụ đầu độc bởi vì, trong số những thứ khác, kẻ đầu độc tin rằng hành động của mình sẽ gây hại cho đối thủ của mình, xóa bỏ nguyên nhân gây ra đau khổ cho anh ta hoặc giải quyết sự bất công, và đây là những điều mà một người đố kị muốn làm. Khi biết rằng một người đàn ông lừa con trai mình vì lòng tham, chúng ta không nhất thiết phải biết lý do chính là gì, nhưng chúng ta biết có một lý do và bản chất chung của nó. Ryle phân tích 'anh ta lấy làm kiêu hãnh tính phù phiếm' thành 'anh ta khoe khoang khi gặp người lạ và việc làm ấy của anh ta thỏa mãn cái mệnh đề hệt như quy luật bất cứ khi nào tìm được cơ hội để tạo được lòng ngưỡng mộ và thói độ kỵ của kẻ khác, anh ta làm bất cứ điều gì anh ta nghĩ sẽ tạo ra ngưỡng mộ và đố kỵ. (89). Phân tích này thường, và có lẽ, đáng bị chỉ trích trên cơ sở một người đàn ông có thể kiêu hãnh về tính phù phiếm chỉ một lần. Nhưng nếu kẻ kiêu hãnh của Kyle làm những gì anh ta đã làm tính phù phiếm, thì điều gì đó kéo theo phân tích của Ryle là đúng: kẻ kiêu hãnh muốn đảm bảo lòng ngưỡng mộ và thói đố kỵ của kẻ khác, và anh ta tin rằng hành động của mình sẽ tạo ra ngưỡng mộ và đố kỵ; đúng hay sai, phân tích của Ryle không phải không cần đến các lý do chính mà phụ thuộc vào chúng.

Để biết lý do chính khiến ai đó hành động như anh ta đã làm là biết
được một ý định mà với nó hành động được thực hiện. Nếu tôi rẽ trái tại ngã ba vì tôi muốn đến Katmandu, ý định của tôi khi rẽ trái là để đến Katmandu. Nhưng để biết ý định không nhất thiết phải biết lý do chính một cách chi tiết. Nếu James đi nhà thờ với ý định làm đẹp lòng mẹ, thì anh ta phải có một thái độ chuyên nghiệp nào đó để làm hài lòng mẹ mình, nhưng vẫn cần thêm thông tin để biết xem liệu lý do của anh ta là anh ta thích làm hài lòng mẹ mình, hay nghĩ cho đúng, là bổn phận, hoặc trách nhiệm của anh ta. Cách biểu đạt 'ý định James đi nhà thờ' có hình thức mô tả bề ngoài, nhưng trên thực tế, nó là hư từ (syncategorematic) và không thể dùng để chỉ một thực thể, trạng thái, bố cục hoặc sự kiện. Chức năng của nó trong ngữ cảnh là tạo ra các mô tả mới về các hành động trong khuôn khổ lý do của chúng; do đó, 'James đi nhà thờ với ý định làm vui lòng mẹ mình' tạo ra một mô tả mới và đầy đủ hơn về hành động được mô tả trong 'James đi nhà thờ'. Về cơ bản, quá trình diễn ra tương tự khi tôi trả lời câu hỏi, 'Sao mày nhấp nhổm mãi thế?' với, 'Tôi đan lát, dệt vải, tập luyện, chèo thuyền, ôm ấp’.

Mô tả t
rực tiếp về một kết quả dự kiến ​​thường giải thích một hành động tốt hơn là nói rằng kết quả đó là dự định hoặc mong muốn. 'Nó sẽ làm dịu cơn kích động của mày' giải thích lý do tại sao tôi lại táng cho một cú hiệu quả hệt như 'Tao muốn làm điều gì đó để xoa dịu cơn điên của mày', vì câu đầu tiên trong ngữ cảnh giải thích ngụ ý câu thứ hai; nhưng điều đầu tiên hiệu quả hơn, bởi vì, nếu đúng đó là thật, thì sự thật sẽ biện minh cho lựa chọn hành động của tôi. Bởi vì biện minh và giải thích một hành động quá thường đi đôi với nhau, chúng ta thường chỉ ra lý do chính cho một hành động bằng cách đưa ra một tuyên bố, nếu đúng, cũng sẽ xác minh, minh oan hoặc hỗ trợ cho niềm tin hoặc thái độ liên quan của tác nhân. 'Tôi biết tôi phải trả lại nó', 'Tờ báo nói rằng trời sắp có tuyết', 'Mày đã giẫm lên ngón chân tao', tất cả, trong bối cảnh đưa ra lý do thích hợp, đều thực hiện chức năng kép quen thuộc này. Vai trò biện minh của một lý do, với cách diễn giải này, phụ thuộc vào vai trò giải thích, nhưng điều ngược lại thì không. Việc mày giẫm lên ngón chân tao không giải thích hay biện minh cho việc tao giẫm lên ngón chân mày trừ khi tao tin rằng mày đã giẫm lên ngón chân tao, nhưng chỉ mình niềm tin thôi, dù chân hay giả, cũng giải thích cho hành động của tôi. Xét về lý do chính, một hành động được bộc lộ là phù hợp với một số đặc điểm nhất định, dài hạn hay ngắn hạn, đặc trưng hay không, của tác nhân, và tác nhân được thể hiện trong vai trò Động vật Duy lý của hắn. Tương ứng với niềm tin và thái độ của một lý do chính cho một hành động, chúng ta luôn có thể kiến tạo (với một chút tài khéo) những tiền đề của một tam đọan luận mà từ đó hành động có một (như Anscombe gọi nó) 'đặc trưng mong muốn'4 nào đó. Do đó, có một ý nghĩa nào đó không thể quy giản được — mặc dù hơi yếu ớt — trong đó mọi giải thích duy hóa đều biện minh: theo quan điểm của tác nhân, khi anh ta hành động, có điều gì đó làm chứng cho hành động đó.

Lưu ý rằng các giải thích nhân quả phi mục đích luận không biểu thị yếu tố biện minh được các lý do đem lại, một số nhà triết học đã kết luận rằng khái niệm nguyên nhân áp dụng ở những nơi khác không thể áp dụng cho mối quan hệ giữa lý do và hành động, và trong trường hợp các lý do, thì thức biện minh cung cấp việc giải thích được đòi hỏi. Nhưng giả sử chúng ta chấp nhận rằng những lý do đó chỉ biện minh cho các hành động trong quá trình giải thích chúng; thì cũng không phải do đó mà việc giải thích cũng không - và nhất thiết - mang tính nhân quả. Thật vậy, điều kiện đầu tiên cho các lý do chính của chúng ta (Cl) được thiết kế để giúp xác lập các giải thích duy lý hóa ngoài các loại giải thích khác. Vì tôi có ý định cho rằng, nếu các giải thích duy lý hóa là một loại giải thích nhân quả, thì việc biện minh, theo nghĩa mà Cl đưa ra, ít nhất cũng là một thuộc tính phân biệt. Còn khẳng định khác thì sao: cách biện minh đó là một loại giải thích, do đó ý niệm thông thường về nguyên nhân không cần phải đưa vào? Ở đây, cần phải quyết định những gì được đưa vào để biện minh. Nó chỉ có thể được chọn để chỉ bao gồm những gì được Cl yêu cầu: điều mà tác nhâncác niềm tin và thái độ nhất định coi hành động đó là hợp lý. Nhưng sau đó, một thứ gì đó thiết yếu chắc chắn đã bị bỏ qua, vì người ta có thể có lý do cho một hành động và thực hiện hành động đó, nhưng lý do này lại không phải là lý do tại sao anh ta thực hiện điều đó. Trung tâm của mối quan hệ giữa một lý do và một hành động mà nó giải thích là ý tưởng cho rằng tác nhân thực hiện hành động anh ta có lý do. Tất nhiên, chúng ta cũng có thể bao gồm cả ý tưởng này để biện minh; nhưng sau đó ý niệm về sự biện minh cũng trở nên tối tăm như ý niệm về lý do cho đến khi chúng ta có thể giải thích được sức mạnh của cái 'bởi vì' đó. Khi chúng ta hỏi tại sao ai đó lại hành động như anh ta đã hành động, thì chúng ta muốn được nghe diễn giải. Hành vi của anh ta có vẻ lạ, khác, lập dị, lạc lõng, khác thường, gián đoạn; hoặc có lẽ chúng ta thậm chí không thể nhận hành động nào của anh ta. Khi tìm hiểu lý do của anh ta, chúng ta có một cách diễn giải, một mô tả mới về những gì anh ta đã làm, phù hợp với một bức tranh quen thuộc. Bức tranh bao gồm một số niềm tin và thái độ nào đó của tác nhân; có lẽ cũng là mục tiêu, mục đích, nguyên tắc, đặc điểm tính cách chung, đức tính hoặc tật xấu. Ngoài ra, việc mô tả lại một hành động được đưa ra bởi một lý do có thể đặt hành động đó trong bối cảnh kinh tế, xã hội, ngôn ngữ hoặc đánh giá rộng hơn. Để biết rõ, thông qua việc tìm hiểu lý do, tác nhân quan niệm hành động của mình là lừa dối, trả một món nợ, một sự xúc phạm, thì việc thực hiện nghĩa vụ hữu ích, hoặc ván cờ của hiệp sĩ là phải nắm được điểm hành động trong bối cảnh các quy tắc, thực hành, quy ước và kỳ vọng của nó.

Những nhận xét như thế này, được lấy cảm hứng từ Wittgenstein sau này, đã được một số nhà triết học xây dựng
một cách tinh tế và sâu sắc. Và không thể phủ nhận rằng điều này là đúng: khi chúng ta giải thích một hành động, bằng cách đưa ra lý do, chúng ta thực sự mô tả lại hành động đó; việc mô tả lại hành động mang lại cho hành động một vị trí trong một mô thứcbằng cách này, hành động được giải thích. Ở đây, thật hấp dẫn để rút ra hai kết luận không kéo theo. Trước hết, chúng ta không thể suy luận, từ thực tế rằng việc đưa ra lý do chỉ mô tả lại hành động và nguyên nhân tách biệt với các tác động, do đó các lý do không phải là nguyên nhân. Các lý do, là niềm tin và thái độ, chắc chắn không đồng nhất với các hành động; nhưng, quan trọng hơn, các sự kiện thường được mô tả lại bằng khuôn khổ nguyên nhân của chúng. (Giả sử ai đó bị thương. Chúng ta có thể mô tả lại sự kiện này 'theo khuôn khổ nguyên nhân' bằng cách nói rằng anh ta đã bị bỏng.) Thứ hai, thật là sai lầm khi nghĩ rằng, bởi vì việc đặt hành động trong một mô thức lớn hơn sẽ giải thích được nó, do đó, giờ đây chúng ta tìm hiểu loại giải thích liên quan. Câu chuyện về các mô thức và ngữ cảnh không trả lời cho câu hỏi về cách thức mà lý do giải thích cho các hành động, vì mô thức hoặc ngữ cảnh có liên quan chứa cả lý do và hành động. Một cách chúng ta có thể giải thích một sự kiện là đặt nó trong bối cảnh nguyên nhân của nó; nguyên nhân và kết quả tạo thành loại mô thức giải thích cho hiệu quả, theo nghĩa 'giải thích' mà chúng ta hiểu cũng như bất kỳ cách hiểu nào. Nếu lý do và hành động minh họa cho một mô thức giải thích khác, thì mô thức đó phải được xác định.

Tôi sẽ đưa ra vấn đề liên quan đến một ví dụ của Melden. Một người đàn ông lái ô tô giơ cánh tay của mình để ra hiệu. Ý định ra hiệu của anh ta, giải thích hành động của anh ta, giơ cánh tay mình ra, bằng cách mô tả lại nó như cách phát tín hiệu. Mô thức giải thích hành động đó là gì? Đó có phải là mô thức quen thuộc của một hành động được thực hiện vì một lý do? Vậy là, nó thực sự giải thích hành động, nhưng chỉ vì nó giả định mối quan hệ của lý do và hành động mà chúng ta muốn phân tích. Hay đúng hơn cái thức đó là thế này: người đàn ông đang lái xe, anh ta đang đến gần một ngã rẽ; anh ta biết anh ta phải ra hiệu; anh biết cách ra hiệu bằng giơ cánh tay lên. Và giờ đây, trong bối cảnh này, anh ấy giơ cánh tay lên. Có lẽ, như Melden gợi ý, nếu tất cả những điều này xảy ra, anh ta ra hiệu. Vậy là cách giải thích đó như sau: nếu, trong những điều kiện này, một người đàn ông giơ cánh tay lên, thì anh ta ra hiệu. Tất nhiên, khó khăn là lời giải thích này không chạm đến câu hỏi tại sao anh ta lại giơ tay lên. Anh ấy có lý do để giơ cánh tay của mình lên, nhưng điều này không được chứng minh là lý do tại sao anh ấy làm điều đó. Nếu mô tả 'ra hiệu' giải thích cho hành động của anh ta bằng cách đưa ra lý do của anh ta, thì việc ra hiệu phải chủ ý; nhưng, bằng cách giải thích vừa đưa ra, nó cũng có thể không.

Nếu, như Melden khẳng định, những cách giải thích nhân quả 'hoàn toàn không liên quan đến sự hiểu biết mà chúng ta tìm kiếm' về hành động của con người (184) thì chúng ta không có phân tích về 'bởi vì' trong 'Anh ấy đã làm điều đó bởi vì ...', nơi chúng ta tiếp tục đặt tên cho một lý do. Hampshire nhận xét, về mối quan hệ giữa lý do và hành động, ‘Trong triết học người ta phải chắc chắn tìm ra mối liên hệ này... hoàn toàn bí ẩn'(166). Hampshire bác bỏ nỗ lực của Aristotle nhằm giải quyết điều bí ẩn bằng cách đưa ra khái niệm muốn như một yếu tố nhân quả, với lý do lý thuyết tiếp theo quá rõ ràng và chắc chắn phù hợp với mọi trường hợp và, Vẫn chưa có cơ sở thuyết phục để khẳng định rằng từ "muốn" phải gia nhập vào mọi phán đoán đầy đủ về các lý do cho hành động(168). Tôi đồng ý rằng khái niệm muốn là quá hẹp, nhưng tôi đã lập luận rằng, ít nhất trong một số lượng vô cùng lớn các trường hợp điển hình, thì một thái độ chuyên nghiệp nào đó phải được cho là hiện diện nếu một phán đoán về các lý do hành động của một tác nhân là dễ hiểu. Hampshire không nhận thấy cách thức mà lược đồ của Aristotle có thể được đánh giá là chân hay giả, vì không rõ cái gì có thể là cơ sở đánh giá, hay loại bằng chứng nào có thể mang tính quyết định(167). Nhưng tôi nhấn mạnh  rằng, nếu không có một giải pháp thay thế thỏa đáng, thì lý lẽ tốt nhất cho một lược đồ như của Aristotle là điều mà chỉ riêng nó hứa hẹn sẽ đưa ra được cách giải thích về mối kết nối bí ẩn giữa lý do và hành động. Để chuyển cái ‘ đầu tiên thành bởi vì trong Anh ấy luyện tập anh ấy muốn giảm cân và nghĩ rằng tập thể dục sẽ làm được, chúng ta phải, với tư cách là biện pháp5 cơ bản, tăng thêm điều kiện C1 với: C2. Lý do chính cho một hành động là nguyên nhân của nó. Tôi hy vọng rằng những cân nhắc ủng hộ cho C2 giờ đây là hiển nhiên; phần còn lại của bài viết này, tôi muốn bảo vệ C2 trước các luồng tấn công khác nhau và trong quá trình này, làm rõ khái niệm giải thích nhân quả liên quan.

A. Luồng tấn công đầu tiên là đây. Các lý do chính bao gồm các thái độ và niềm tin, là trạng thái hoặc khuynh hướng, không phải sự kiện; do đó chúng không thể là nguyên nhân. Có thể dễ dàng trả lời rằng các trạng thái, khuynh hướngcác điều kiện thường được gọi là nguyên nhân của các sự kiện: cây cầu bị sập vì một khiếm khuyết kết cấu; máy bay gặp sự cố khi cất cánh vì nhiệt độ không khí cao bất thường; cái đĩa bị vỡ vì nó có một vết nứt. Tuy nhiên, câu trả lời này không đáp ứng một điểm liên quan chặt chẽ. Việc đề cập đến một điều kiện nhân quả cho một sự kiện chỉ đưa ra một nguyên nhân dựa trên giả định rằng cũng có một sự kiện xảy ra trước đó. Nhưng sự kiện trước đó gây ra một hành động là gì? Trong nhiều trường hợp, không hề khó để tìm thấy các sự kiện có liên quan chặt chẽ với lý do chính. Các trạng thái khuynh hướng không phải là sự kiện, nhưng sự công kích dữ dội của một trạng thái hoặc khuynh hướng thì lại chính sự kiện. Một khát khao làm tổn thương tình cảm của mày có thể nảy sinh vào lúc mày chọc giận tao; tao có thể bắt đầu thèm ăn dưa ngay khi nhìn thấy quả dưa; và niềm tin có thể bắt đầu vào thời điểm chúng ta để ý, nhận thức, học hỏi hoặc ghi nhớ điều gì đó. Những người lập luận rằng không có sự kiện tinh thần nào được coi là nguyên nhân của hành động thường bỏ lỡ điều hiển nhiên bởi vì họ kiên ngoan rằng một sự kiện tinh thần được quan sát hoặc để ý (thay vì việc quan sát hoặc việc để ý) hoặc nó giống như một nhát đâm, một nỗi day dứt, một vết chích hoặc một sự run rẩy, một thôi thúc bí ẩn của lương tri hoặc hành động của ý chí. Melden, khi bàn về người lái xe ra hiệu rẽ bằng cách giơ cánh tay lên, thách thức những người muốn giải thích các hành động theo cách tiếp cận nhân quả để xác định một sự kiện phổ biến và đặc thù đối với tất cả các trường hợp như vậy (87), dù sao đi nữa cũng có thể là một động cơ hoặc ý định một cảm giác hoặc kinh nghiệm cụ thể nào đó’ (95). Nhưng tất nhiên có một sự kiện tinh thần; tại một thời điểm nào đó người lái xe để ý (hoặc nghĩ rằng anh ta đã để ý) sắp phải rẽ, và đó là thời điểm anh ta ra hiệu. Trong bất kỳ hoạt động liên tục nào, như lái xe hoặc thực hiện một hành động phức tạp, như bơi qua eo biển Dardanelles chẳng hạn, thì ít nhiều cũng có những mục đích, tiêu chuẩn, mong muốn và thói quen cố định đưa ra định hướng và hình thức cho toàn bộ hành động đó và luôn có thông tin đầu vào về những gì chúng ta đang làm, về những thay đổi trong môi trường, trong khuôn khổ những gì mà chúng ta quy định và điều chỉnh hành động của mình.  

Việc đề cao nhận thức của người lái xe cho rằng anh ta đến điểm rẽ bằng cách gọi đó là một trải nghiệm, hoặc thậm chí là một cảm giác, không nghi ngờ gì đó là phóng đại, nhưng cho dù nó xứng đáng được đặt tên hay không, thì tốt hơn hết là vấn đề lý do tại sao anh ta giơ tay lên. Trong trường hợp này, và thông thường, có thể không có bất cứ điều gì chúng ta gọi là động cơ, nhưng nếu chúng ta đề cập đến mục đích chung là muốn đến đích an toàn, thì rõ ràng động cơ không phải là một sự kiện. Cái ý định khiến cho người lái xe giơ cánh tay của mình lên cũng không phải là một sự kiện, vì nó chẳng là gì cả, không phải là sự kiện, thái độ, khuynh hướng hay đối tượng. Cuối cùng, Melden yêu cầu nhà lý thuyết nhân quả tìm ra một sự kiện phổ biếnriêng biệt đối với tất cả các trường hợp mà ở đó một người đàn ông chủ ý giơ cánh tay của mình lên, và điều này, phải thừa nhận là không thể xảy ra. Nhưng vậy thì cả hai nguyên nhân phổ biến và riêng biệt đều không thể gây ra việc hỏng cầu, rơi máy bay hoặc vỡ đĩa. Người lái xe ra hiệu có thể trả lời câu hỏi, Tại sao mày lại giơ tay vào lúc đó?, và từ câu trả lời, chúng ta biết được sự kiện gây ra hành động đó. Nhưng liệu có phải bất cứ một kẻ hành động nào cũng luôn trả lời câu hỏi như vậy? Đôi khi câu trả lời sẽ đề cập đến một sự kiện tinh thần mà không đưa ra lý do: Cuối cùng tao đã quyết định. Tuy nhiên, dường như cũng có những trường hợp hành động có chủ ý mà chúng ta không thể giải thích được tại sao chúng ta lại hành động khi chúng ta làm vậy. Trong những trường hợp như vậy, việc giải thích về lý do chính song hành cùng với việc giải thích về sự cố sập cầu do lỗi kết cấu: chúng ta không biết về sự kiện hoặc chuỗi sự kiện dẫn đến (gây ra) vụ sập, nhưng chúng ta chắc chắn rằng có một sự kiện hoặc chuỗi sự kiện như vậy.

B. Theo Melden, một nguyên nhân phải khác biệt một cách logic với kết quả được đưa ra mà không được chứng minh’ (52); nhưng một lý do cho một hành động không khác biệt về mặt logic với hành động; do đó, lý do không phải là nguyên nhân của hành động.6 Một hình thức khả thể của lập luận này đã được đề xuất. Vì một lý do làm cho một hành động trở nên dễ hiểu bằng cách mô tả lại nó, chúng ta không có hai sự kiện, mà chỉ có một sự kiện dưới các mô tả khác nhau. Tuy nhiên, quan hệ nhân quả đòi hỏi các sự kiện khác nhau. Ai đó có thể bị cám dỗ vào sai lầm khi nghĩ rằng việc tôi đóng công tắc đã khiến tôi bật đèn (thực tế là nó khiến đèn bật sáng). Nhưng điều đó không có nghĩa là sai lầm khi nói, Lý do tôi đóng công tắc là tôi muốn bật đèn, một phần là, Tôi đã đóng công tắc và hành động này có thể mô tả thêm là xảy ra là do muốn bật đèn. Việc mô tả một sự kiện theo khuôn khổ nguyên nhân của nó thì không được nhầm lẫn sự kiện với nguyên nhân, cũng như việc giải thích bằng cách mô tả lại không loại trừ giải thích nhân quả. Ví dụ này cũng để bác bỏ việc khẳng định rằng chúng ta không thể mô tả hành động mà không sử dụng các từ liên kết nó với nguyên nhân được viện ra. Ở đây, hành động này phải được giải thích theo mô tả: ‘việc tôi đóng công tắc và nguyên nhân được viện ra‘việc tôi muốn bật đèn. Mối quan hệ logic phù hợp nào được cho tồn tại trong các cụm từ này? Có vẻ hợp lý hơn khi đưa ra một liên kết hợp lý giữa ‘việc tôi muốn bật đèn‘việc tôi bật đèn, nhưng ngay cả ở đây, khi xem xét thì, liên kết này hóa ra là ngữ pháp chứ không phải là logic. Trong mọi trường hợp, có điều gì đó rất kỳ quặc khi cho rằng các mối quan hệ nhân quả mang tính kinh nghiệm hơn là logic. Điều này có ý nghĩa gì? Chắc chắn không phải mọi phán đoán nhân quả chân đều mang tính kinh nghiệm. Vì giả sử A gây ra Bchân. Vậy thì nguyên nhân của B = A; vì vậy thay thế, chúng ta có Nguyên nhân của B gây ra Bcó tính phân tích. Chân lý của một phán đoán nhân quả phụ thuộc vào cái các sự kiện được mô tả; trạng thái của nó là phân tích hoặc tổng hợp phụ thuộc vào cách các sự kiện được mô tả. Tuy nhiên, có thể đảm bảo một lý do chỉ giải thích duy lý hóa một hành động khi các mô tả được cố định một cách thích hợp và các mô tả phù hợp không độc lập về mặt logic.

Giả sử khi nói rằng một người muốn bật đèn có nghĩa là anh ta sẽ thực hiện bất kỳ hành động nào mà anh ta tin sẽ hoàn thành mục đích của mình. Vậy là, phán đoán về lý do chính của anh ta để đóng công tắc sẽ dẫn đến việc anh ta đã đóng công tắc ‘ngay lập tức anh ta hành động, như Aristotle nói. Trong trường hợp này, chắc chắn sẽ có một mối liên hệ hợp lý giữa lý do và hành động, kiểu kết nối tương tự như giữa có thể hòa tan trong nước và được bỏ vào nướcNó hòa tan. Vì hàm ý xuất phát từ việc mô tả nguyên nhân đến mô tả hiệu quả chứ không phải ngược lại, thì việc gọi tên nguyên nhân vẫn mang lại thông tin. Và, mặc dù vấn đề thường bị bỏ qua, ‘Việc bỏ nó vào nước khiến nó tan ra không có nghĩa là có thể tan trong nước; vì vậy câu sau có thêm sức mạnh giải thích. Tuy nhiên, lời giải thích sẽ thú vị hơn nhiều, nếu thay vì tính hòa tan, và mối liên hệ xác định rõ ràng của nó với sự kiện cần được giải thích, chúng ta có thể đề cập đến một thuộc tính nào đó, chẳng hạn như một cấu trúc tinh thể cụ thể, mà mối liên hệ với sự hòa tan trong nước chỉ được biết đến thông qua thực nghiệm. Giờ đây rõ ràng là tại sao những lý do chính như khát khao và muốn không giải thích hành động theo cách tương đối tầm thường là tính hòa tan giải thích cho sự hòa tan. Tính hòa tan, chúng ta đang giả định, là một thuộc tính thuần túy khuynh hướng: nó được định nghĩa theo khuôn khổ của một phép thử duy nhất. Nhưng các ham muốn không thể được định nghĩa bằng các hành động mà chúng có thể giải thích duy lý hóa, cho dù mối quan hệ giữa ham muốn và hành động không chỉ đơn giản mang tính kinh nghiệm; có những tiêu chí khác, không kém phần thiết yếu cho các ham muốn - ví dụ như biểu hiện của chúng trong cảm xúc và hành động mà chúng không giải thích duy lý hóa. Người có ham muốn (hay muốn hoặc niềm tin) thường không cần tiêu chí nào cả - người đó thường biết, ngay cả khi không có bất kỳ manh mối nào đối với kẻ khác, những gì anh ta muốn, ham muốn và tin tưởng. Những đặc tính hợp lý này của những lý do chính cho thấy không phải chỉ thiếu tài khéo mới khiến chúng ta không định nghĩa chúng như những khuynh hướng để hành động vì những lý do này.

C. Theo Hume,
chúng ta có thể xác định nguyên nhân là một đối tượng, tiếp theo là nguyên nhân khác, và ở đó tất cả các đối tượng tương tự với đối tượng đầu tiên được theo sau bởi các đối tượng tương tự như đối tượng thứ hai. Nhưng, Hart và Honore khẳng định, ‘Việc phán đoán rằng một người đã làm điều gì đó vì, chẳng hạn như một người khác đe dọa anh ta, không mang hàm ý hay khẳng định ngầm rằng nếu tình huống lặp lại thì hành động tương tự sẽ xảy ra(52). Theo Hart và Honore thì Hume đúng khi nói rằng những phán đoán nhân quả duy nhất, thông thường ngụ ý các khái quát hóa, nhưng sai vì chính lý do này khi cho rằng động cơ và khát vọng là nguyên nhân bình thường của hành động. Nói tóm lại, các quy luật về cơ bản liên quan đến các giải thích nhân quả thông thường, nhưng không liên quan đến các giải thích duy lý hóa. Người ta thường cố gắng đáp ứng lập luận này bằng cách gợi ý rằng chúng ta có những quy luật thô sơ kết nối lý do và hành động, và về lý thuyết, chúng có thể được cải thiện. Sự thật thì những người bị đe dọa không phải lúc nào cũng phản ứng theo cùng một cách; nhưng chúng ta có thể phân biệt giữa các mối đe dọa và giữa các tác nhân, xét về niềm tin và thái độ của họ. Tuy nhiên, gợi ý này là viển vông, bởi vì những khái quát hóa kết nối lý do và hành động không phải - và không thể được làm sâu sắc thêm loại luật dựa trên cơ sở có thể đưa ra các dự đoán chính xác một cách đáng tin cậy. Nếu chúng ta suy ngẫm về cách mà các lý do xác định sự lựa chọn, quyết định và hành vi, thì chúng ta sẽ dễ dàng hiểu tại sao lại như vậy.

Cái nổi lên, trong bầu không khí ex post facto nhiên hậu của việc giải thích và biện minh, như là cái lý do thường xảy ra, đối với tác nhân tại thời điểm hành động, chính là một trong số rất nhiều xem xét, một lý do. Bất kỳ lý thuyết nghiêm túc nào để dự đoán hành động trên cơ sở các lý do đều phải tìm ra cách đánh giá lực tương quan của các khát vọng và niềm tin khác nhau trong ma trận quyết định; không thể coi sự sàng lọc những gì được mong đợi từ một khát vọng duy nhất là điểm xuất phát của nó. Tam đoạn luận thực hành cạn kiệt vai trò của nó trong việc thể hiện một hành động vì được liệt vào một lý do; vì vậy nó không thể được làm cho tinh tế thành việc tái cấu trúc suy lý thực hành, bao gồm cả việc cân nhắc các lý do cạnh tranh. Tam đoạn luận thực hành không cung cấp mô hình cho một khoa học tiên đoán về hành động cũng không dành cho cách giải thích chuẩn thường về suy lý định giá. Tình trạng thiếu hiểu biết về các quy luật tiên đoán thành thạo không ngăn cấm việc giải thích nhân quả hiệu lực, hoặc có thể đưa ra một số giải thích nhân quả. Tôi chắc chắn rằng cửa sổ bị vỡ vì nó bị một tảng đá đập vào - tôi đã thấy toàn bộ sự việc; nhưng tôi không (có phải bất kỳ ai?) điều khiển các quy luật trên cơ sở những gì tôi có thể dự đoán những cú đập nào sẽ phá vỡ cửa sổ nào. Một khái quát hóa như, Cửa sổ dễ vỡ và những thứ dễ vỡ có xu hướng bị vỡ khi bị va đập đủ mạnh, các điều kiện khác phù hợp không phải là một quy luật tiên đoán thô thiển – quy luật tiên đoán, nếu chúng ta có được, sẽ mang tính định lượng và sẽ sử dụng những khái niệm rất khác nhau. Việc khái quát hóa, giống như những khái quát của chúng ta về hành vi, phục vụ cho một chức năng khác: nó cung cấp bằng chứng cho sự tồn tại của luật nhân quả bao trùm vụ việc sắp tới.7 Chúng ta thường chắc chắn về một mối kết nối nhân quả đơn lẻ hơn nhiều so với bất kỳ quy luật nhân quả nào điều chỉnh vụ việc; điều này cho thấy Hume đã sai khi tuyên bố rằng các phán đoán về nhân quả đơn lẻ đòi hỏi các quy luật? Không nhất thiết, tuyên bố của Hume, như đã trích dẫn ở trên, là mơ hồ. Nó có thể có nghĩa là A gây ra B đòi hỏi một quy luật cụ thể nào đó liên quan đến các vị từ được sử dụng trong mô tả AB, hoặc nó có thể có nghĩa là A gây ra B dẫn đến tồn tại một quy luật nhân quả được chứng minh bằng một số mô tả chân của A B. Rõ ràng, cả hai phiên bản học thuyết của Hume đều có ý nghĩa khẳng định rằng các phán đoán nhân quả đơn lẻ đòi hỏi các quy luật và cả hai đều duy trì quan điểm cho rằng các giải thích nhân quả liên quan đến các quy luật. Nhưng phiên bản thứ hai yếu hơn nhiều, ở chỗ không có quy luật cụ thể nào được đưa ra bởi một khẳng đinh nhân quả đơn lẻ và một khẳng định nhân quả đơn lẻ có thể được bảo vệ, nếu nó cần bảo vệ, mà không cần bảo vệ bất cứ quy luật nào. Chỉ có thể tạo ra phiên bản thứ hai của học thuyết của Hume để phù hợp với hầu hết các giải thích nhân quả; nó tương đối phù hợp với các giải thích duyhóa.

Cách giải thích sơ khai nhất về một sự kiện đưa ra nguyên nhân của nó; những cách giải thích công phu hơn có thể kể thêm về câu chuyện hoặc bảo vệ khẳng định nhân quả đơn lẻ bằng cách tạo ra một quy luật liên quan hoặc bằng cách đưa ra các lý do để tin rằng điều đó tồn tại. Nhưng thật là sai lầm khi nghĩ rằng không có giải thích nào được đưa ra cho đến khi đưa ra được một quy luật. Gắn liền với những lỗi này là ý tưởng cho rằng các phán đoán nhân quả đơn lẻ nhất thiết chỉ ra, bằng các khái niệm mà người ta sử dụng, các khái niệm sẽ xuất hiện trong quy luật đi kèm. Giả sử một cơn bão, được thông báo trên trang 5 của tờ Thời báo hôm Thứ Ba, gây ra thảm họa, được thông báo trên trang 13 của tờ Diễn đàn hôm Thứ Tư. Sau đó, sự kiện được thông báo trên trang 5 của Thời báo hôm Thứ Ba gây ra sự kiện được thông báo trên trang 13 của tờ Diễn đàn hôm Thứ Tư. Chúng ta có nên tìm kiếm một quy luật liên quan đến những loại sự kiện này không! Nó chỉ hơi ít lố bịch hơn khi tìm kiếm một quy luật liên quan đến bão và thảm họa. Tất nhiên, các quy luật cần thiết để dự báo thảm họa một cách chính xác sẽ không có ích cho các khái niệm như bão và thảm họa. Rắc rối với việc dự đoán thời tiết là ở chỗ những mô tả các sự kiện thuộc về nó mà chúng ta quan tâm – ‘một ngày mát mẻ, nhiều mây, có mưa vào buổi chiều - chỉ có mối liên hệ từ xa với các khái niệm được sử dụng bởi các quy luật đã biết chính xác hơn. Các quy luật mà sự tồn tại của chúng là bắt buộc nếu các lý do chính các nguyên nhân của các hành động lại không, thì chúng ta có thể chắc chắn, quan tâm đến các khái niệm trong đó các các giải thích duy hóa phải liên quan. Nếu các nguyên nhân của một lớp sự kiện (hành động) thuộc một lớp nhất định (lý do) và có một quy luật hỗ trợ cho mỗi phán đoán nhân quả đơn lẻ, thì điều đó không có nghĩa là bất kỳ một quy luật nào kết nối các sự kiện được phân loại là lý do với các sự kiện được phân loại là hành động - các phân loại thậm chí có thể thuộc về thần kinh, hóa học hoặc vật lý.

D. Người ta nói rằng loại
hiểu biết mà người ta về lý do của riêng mình khi hành động không tương thích với sự tồn tại của mối quan hệ nhân quả giữa lý do và hành động: một người biết rõ chủ ý của mình khi hành động một cách tin cậy, không cần quy nạp hoặc quan sát, và không mối quan hệ nhân quả thông thường nào có thể được biết theo cách này. Không còn nghi ngờ gì nữa, hiểu biết của chúng ta về chủ ý của bản thân khi hành động sẽ cho thấy nhiều điều kỳ lạ đối với kiến ​​thức ngôi thứ nhất về nỗi đau, niềm tin, ước muốn của bản thân, v.v. câu hỏi duy nhất là liệu những điều kỳ quặc này có chứng minh rằng các lý do không gây ra, theo bất kỳ nghĩa thông thường nào, chí ít là những hành động mà chúng giải thích duy lý hóa hay không. Bạn có thể dễ dàng hiểu sai về mức chân của một phán đoán có dạng Tôi đầu độc Charles vì ​​tôi muốn anh ấy thoát khỏi đau đớn, bởi vì bạn có thể sai về việc bạn đang đầu độc Charles - có thể chính bạn lại đang uống nhầm cốc thuốc độc. Nhưng có vẻ như bạn cũng có thể sai lầm về lý do của mình, đặc biệt là khi bạn có hai lý do cho một hành động, một trong số đó làm hài lòng bạn và một lý do không. Ví dụ, bạn muốn giải thoát Charles; bạn cũng muốn anh ta tránh xa kiểu giải thoát đó. Bạn có thể sai về động cơ nào khiến bạn làm điều đó. Việc bạn có thể sai không chỉ rõ điều đó nói chung là hợp lý khi hỏi bạn làm thế nào bạn biết lý do của mình là gì hoặc yêu cầu bằng chứng của bạn. Mặc dù trong những trường hợp hiếm hoi, bạn có thể chấp nhận bằng chứng công khai hoặc riêng tư cho thấy bạn sai về lý do của mình, nhưng thông thường bạn không có bằng chứng và không quan sát được. Khi đó, kiến ​​thức của bạn về lý do của chính bạn cho hành động của mình nói chung không mang tính quy nạp, vì ở đâu có quy nạp, ở đó có bằng chứng. Điều này cho thấy kiến ​​thức không phải là quan hệ nhân quả? Tôi không thể nhận thấy rằng nó là quan hệ đó. Các quy luật nhân quả khác với những khái quát hóa chân nhưng không giống quy luật ở chỗ các trường hợp của chúng xác nhận chúng; do đó, quy nạp chắc chắn là một cách tốt để tìm hiểu chân tính của quy luật. Điều đó không có nghĩa đó là cách duy nhất để tìm hiểu chân tính của quy luật. Trong mọi trường hợp, để biết rằng một phán đoán nhân quả đơn lẻchân, không nhất thiết phải biết chân tính của một quy luật; chỉ cần biết rằng tồn tại một quy luật nào đó bao trùm các sự kiện sắp xuất hiện. Và vẫn chưa hề rõ ràng là quy nạp, và chỉ có quy nạp, mới mang lại kiến ​​thức một quy luật nhân quả thỏa mãn những điều kiện nhất định tồn tại. Hay nói cách khác, một trường hợp thường là đủ, như Hume thừa nhận, để thuyết phục chúng ta rằng một quy luật tồn tại, và điều này có nghĩa là chúng ta bị thuyết phục mà không có bằng chứng quy nạp trực tiếp, rằng có tồn tại mối quan hệ nhân quả.

E. Cuối cùng, tôi muốn nói điều gì đó về một sự bất an nào đó mà một số triết gia cảm thấy khi nói về nguyên nhân của các hành động. Melden, chẳng hạn, nói rằng các hành động thường giống với các chuyển động của cơ thể, và các chuyển động của cơ thể đều có nguyên nhân; tuy nhiên ông phủ nhận rằng nguyên nhân là nguyên nhân của các hành động. Tôi nghĩ đây là một mâu thuẫn. Ông hướng đến điều đó bằng loại cân nhắc sau: Cố gắng giải thích hành vi thông qua hiệu lực nhân quả của ham muốn là vô ích – toàn bộ cái có thể giải thích là những biến cố tiếp theo, chứ không phải các hành động do tác nhân thực hiện. Tác nhân đối đầu với mối quan hệ nhân quả trong đó những biến cố như vậy xảy ra là nạn nhân bất lực của tất cả những gì xảy ra trong và với anh ta(128, 129). Trừ khi tôi nhầm lẫn, lập luận này, nếu nó có hiệu lực, sẽ cho thấy rằng các hành động không thể có nguyên nhân. Tôi sẽ không chỉ ra những khó khăn rõ ràng trong việc loại bỏ hoàn toàn các hành động khỏi lĩnh vực quan hệ nhân quả. Nhưng có lẽ rất đáng để nỗ lực tìm ra nguồn gốc của rắc rối đó. Tại sao trên trái đất, một nguyên nhân có thể biến một hành động thành một biến cố đơn thuần và một người trở thành nạn nhân bất lực? Có phải vì chúng ta có xu hướng giả định, ít nhất là trong lĩnh vực hành động, rằng một nguyên nhân cần có một kẻ gây ra, tác tố là một tác nhân? Vì vậy, chúng ta nhấn vào câu hỏi: nếu hành động của tôi do cái gì đó gây ra, thì đó là điều gì? Nếu tôi đã gây ra, thì đó sự phi lý của bước thụt lùi vô hạn; nếu tôi không gây ra, thì tôi là nạn nhân. Nhưng tất nhiên các lựa chọn thay thế không phải là cạn kiệt. Một số nguyên nhân không có tác nhân. Trong số những nguyên nhân không có tác nhân này là các trạng thái và sự thay đổi trạng thái của con người, bởi vì chúng là các lý do cũng như các nguyên nhân, làm cho một số sự kiện nhất định thành những hành động tự do và có chủ ý.
___________________________________________

Nguồn: Donald Davidson (1963). Actions, Reasons, and Causes, In Essays on Actions and Events, Second Edition, Clarendon Press, Oxford 2002.

Tác giả: Donald Herbert Davidson (6 tháng 3 năm 1917 - 30 tháng 8 năm 2003) là một triết gia người Mỹ. Ông từng là Giáo sư Triết học Slusser tại Đại học California, Berkeley từ năm 1981 đến năm 2003 sau khi đã từng đảm nhận các nhiệm vụ giảng dạy tại Đại học Stanford, Đại học Rockefeller, Đại học Princeton và Đại học Chicago. Davidson nổi tiếng với tính lôi cuốn và sự sâu sắc cũng như độ khó trong tư tưởng của ông. Các tác phẩm của ông đã gây ảnh hưởng đáng kể trong nhiều lĩnh vực triết học từ những năm 1960 trở đi, đặc biệt là triết học về tâm trí, triết học về ngôn ngữ và lý thuyết hành động. Trong khi Davidson là một nhà triết học phân tích, và phần lớn ảnh hưởng của ông nằm trong truyền thống đó, nhưng các tác phẩm của ông đã thu hút sự chú ý của triết học lục địa, đặc biệt là trong lý thuyết văn chương và các lĩnh vực liên quan. Mặc dù được xuất bản chủ yếu dưới dạng các bài tiểu luận ngắn gọn, không dựa trên bất kỳ lý thuyết quá tải nào, nhưng các công trình của ông vẫn được ghi nhận vì tính thống nhất cao, nhất quán về phương pháp và ý tưởng. Ông đã phát triển một ngữ nghĩa có điều kiện-chân lý rất có ảnh hưởng, tấn công ý tưởng về các sự kiện tinh thần được điều chỉnh bởi các quy luật tâm lý nghiêm ngặt, và bác bỏ quan niệm về sự hiểu biết ngôn ngữ là liên quan đến các quy ước hoặc quy tắc, kết luận nổi tiếng rằng không có sự vật nào là ngôn ngữ, không phải nếu một ngôn ngữ là bất cứ thứ gì giống như những gì mà nhiều nhà triết học và ngôn ngữ học đã quy cho. Do đó, không có thứ như vậy để học, làm chủ hoặc sinh ra cùng”.  Công trình triết học của ông, nói chung, được cho là liên quan đến cách con người giao tiếp và tương tác với nhau.


Ghi chú

1. Some examples: Gilbert Ryle, The Concept of Mind, G. E. M. Anscombe, Intention, Stuart Hampshire, Thought and Action, H. L. A. Hart and A. M. Honore, Causation in the Law, William Dray, Laws and Explanation in History, and most of the books in the series edited by R. F. Holland, Studies in Philosophical Psychology, including Anthony Kenny, Action, Emotion and Will, and A. I. Melden, Free Action. Page references in parentheses are to these works.
2. We might not call my unintentional alerting of the prowler an action, but it should not be inferred from this that alerting the prowler is therefore something different from flipping the switch, say just its consequence. Actions, performances, and events not involving intention are alike in that they are often referred to or defined partly in terms of some terminal stage, outcome, or consequence. The word 'action' does not very often occur in ordinary speech, and when it does it is usually reserved for fairly portentous occasions. I follow a useful philosophical practice in calling anything an agent does intentionally an action, including intentional omissions. What is really needed is some suitably generic term to bridge the following gap: suppose 'A' is a description of an action, 'B' is a description of something done voluntarily, though not intentionally, and 'C' is a description of something done involuntarily and unintentionally; finally, supposed = B = C. Then A,B, and C are the same—what? 'Action', 'event', 'thing done', each have, at least in some contexts, a strange ring when coupled with the wrong sort of description. Only the question, 'Why did you (he) do AT has the true generality required. Obviously, the problem is greatly aggravated if we assume, as Melden does, that an action ('raising one's arm') can be identical with a bodily movement ('one's arm going up').
3. 'Quasi-intentional' because, besides its intentional aspect, the description of the action must also refer in rationalizations; otherwise it could be true that an action was done for a certain reason and yet the action not have been performed. Compare 'the author of Waverley' in 'George IV knew the author of Waverley wrote Waverley'. This semantical feature of action descriptions is discussed further in Essays 3 and 6.
4. Anscombe denies that the practical syllogism is deductive. This she does partly because she thinks of the practical syllogism, as Aristotle does, as corresponding to a piece of practical reasoning (whereas for me it is only part of the analysis of the concept of a reason with which someone acted), and therefore she is bound, again following Aristotle, to think of the conclusion of a practical syllogism as corresponding to a judgement, not merely that the action has a desirable characteristic, but that the action is desirable (reasonable, worth doing, etc.). Practical reasoning is discussed further in Essay 2.
5. I say 'as the basic move' to cancel any suggestion that Cl and C2 are jointly sufficient to define the relation of reasons to the actions they explain. For discussion of this point, see the Introduction and Essay 4.
6. This argument can be found in one or more versions, in Kenny, Hampshire, and Melden, as well as in P. Winch, The Idea of a Social Science, and R. S. Peters, The Concept of Motivation. In one of its forms, the argument was of course inspired by Ryle's treatment of motives in The Concept of Mind.
7. Essays 11,12, and 13 discuss the issues of this paragraph and the one before it.
8. We could roughly characterize the analysis of singular causal statements hinted at here as follows: 'A caused B' is true if and only if there are descriptions of A and B such that the sentence obtained by putting these descriptions for 'A' and 'B' in 'A caused B' follows from a true causal law. This analysis is saved from triviality by the fact that not all true generalizations are causal laws; causal laws are distinguished (though of course this is no analysis) by the fact that they are inductively confirmed by their instances and by the fact that they support counterfactual and subjunctive singular causal statements. There is more on causality in Essay 1'.

Tài liệu Tham khảo

Alston, William, 'Moral Attitudes and Moral Judgments', Nous, 2 (1968), 1-23.
Anscombe, G. E. M., Intention. Blackwell, Oxford. (1959).
Anscombe, G. E. M., 'Thought and Action in Aristotle', in New Essays on Plato and Aristotle, ed. R. Bamborough. Routledge and Kegan Paul, London (1965), 143-58.
Aquinas, Summa Theologica.
Ardal, P., Passion and Value in Hume's Treatise. Edinburgh University Press, Edinburgh (1966).
Armstrong, D., 'Acting and Trying', Philosophical Papers, 2 (1973), 1-15.
Armstrong, D., 'Beliefs and Desires as Causes of Action: A Reply to Donald
Davidson', Philosophical Papers 4 (1975), 1-8.
Aristotle, Nichomachean Ethics.
Atwell, J. E., 'The Accordion-Effect Thesis', Philosophical Quarterly, 19 (1969), 337-42.
Augustine, Confessions.
Austin, J. L., 'Unfair to Facts', in Philosophical Papers. Clarendon Press, Oxford (1961), 102-22.
Austin, J. L., 'A Plea for Excuses', in Philosophical Papers. Clarendon Press, Oxford (1961), 123-52.
Austin, J. L., 'Ifs and Cans', in Philosophical Papers. Clarendon Press, Oxford (1961), 153-80.
Austin, J. L., 'Three Ways of Spilling Ink', Philosophical Review, 75 (1966), 427-40.
Ayers, M. R., The Refutation of Determinism. Methuen, London. (1968).
Baier, K., The Moral Point of View. Cornell University Press, Ithaca (1958).
Bennett, D., 'Action, Reason and Purpose', Journal of Philosophy, 62 (1965), 85-95.
Berofsky, B., 'Causality and General Laws', Journal of Philosophy, 63 (1966), 148-57.
Brand, M., 'Danto on Basic Actions', Nous, 2 (1968), 187-90.
Brandt, R., and Kim, J., 'The Logic of the Identity Theory', Journal of Philosophy, 64 (1967), 515-37.
Bullard, E. C., 'The Detection of Underground Explosions', Scientific American, 215 (1966), 19-29.
Burks, A., The Logic of Causal Propositions', Mind, 60 (1951), 363-82.
Butler, S., Sermons.
Cargile, J., 'Davidson's Notion of Logical Form', Inquiry, 13 (1970), 129-39.
Castaneda, H.-N., 'Comments', in The Logic of Decision and Action, ed. N. Rescher. University of Pittsburgh Press, Pittsburgh (1967), 104-12.
Chisholm, R., Perceiving. Cornell University Press, Ithaca (1957).
Chisholm, R., 'J. L. Austin's Philosophical Papers', Mind, 73 (1964), 1-26.
Chisholm, R., 'The Descriptive Element in the Concept of Action', Journal of Philosophy, 61 (1964), 613-24.
Chisholm, R., 'The Ethics of Requirement', American Philosophical Quarterly, 1 (1964), 1-7.
Chisholm, R., 'Freedom and Action', in Freedom and Determinism, ed. K. Lehrer. Random House, New York (1966), 28-44.
Chisholm, R., 'Comments', in The Logic of Decision and Action, ed. N. Rescher. University of Pittsburgh Press, Pittsburgh (1967), 113-14.
Chisholm, R., 'Events and Propositions', Nous, 4 (1970), 15-24.
Chisholm, R., 'States of Affairs Again', Nous, 5 (1971), 179-189.
Church, A., Introduction to Mathematical Logic. Princeton University Press, Princeton, New Jersey (1956).
Churchland, P., 'The Logical Character of Action Explanations', Philosophical Review, 79 (1970), 214-36.
Danto, A., 'What We Can Do', Journal of Philosophy, 60 (1963), 435-45.
Danto, A., 'Basic Actions', American Philosophical Quarterly, 2 (1965), 141-8.
Danto, A., 'Freedom and Forbearance', in Freedom and Determinism, ed. K. Lehrer. Random House, New York (1966), 45-64.
Davidson, D., Suppes, P., Siegel, S., Decision-Making: An Experimental Approach. Stanford University Press, Stanford (1957). [Reprinted by University of Chicago Press, Chicago (1977).]
Davidson, D., 'Theories of Meaning and Learnable Languages', in Proceedings of the 1964 International Congress of Logic, Methodology and the Philosophy of Science. North-Holland Publishing Company, Amsterdam, (1965), 383-94.
Davidson, D., 'Truth and Meaning', Synthese 17 (1967), 304-23.
Davidson, D., 'On Saying That', Synthese 19 (1968-9), 130-46.
Davidson, D., 'True to the Facts', Journal of Philosophy, 66 (1969), 748-64.
Davidson, D., 'On the Very Idea of a Conceptual Scheme', Proceedings and Addresses of the American Philosophical Association, 67 (1973-4), 5-20.
Dray, W., Laws and Explanation in History. Oxford University Press, London (1957).
Dretske, F. I., 'Can Events Move?', Mind, 76 (1967), 479-92.
Ducasse, C. J., Causation and the Types of Necessity. University of Washington Press, Seattle (1924).
Ducasse, C. J., 'Explanation, Mechanism and Teleology', Journal of Philosophy, 22 (1925), 150-5.
Ducasse, C. J., Nature, Mind, and Death. Open Court, La Salle, Illinois (1951).
Ducasse, C. J., 'Critique of Hume's Conception of Causality', Journal of Philosophy, 63 (1966), 141-8.
Feigl, H., The "Mental" and the "Physical" ', in Minnesota Studies in the Philosophy of Science, 2, ed. H. Feigl, M. Scriven, and G. Maxwell.
University of Minnesota Press, Minneapolis (1958), 370-497.
Feinberg, J., 'Action and Responsibility', in Philosophy in America, ed. M. Black. Cornell University Press, Ithaca (1965), 134-160.
Feinberg, J., 'Causing Voluntary Actions', in Metaphysics and Explanation, ed. W. H. Capitan and D. D. Merrill. University of Pittsburgh Press, Pittsburgh (1965), 29-47.
Follesdal, D., 'Quantification into Causal Contexts', in Boston Studies in the Philosophy of Science, 2, ed. R. S. Cohen and M. Wartofsky. M.I.T. Press, Cambridge, Mass. (1960), 263-274.
Follesdal, D., 'Quine on Modality', in Words and Objections: Essays on the Work of W. V. Quine, ed. D. Davidson and J. Hintikka. D. Reidel Publishing Company (1969), 175-85.
Frankfurt, H., 'Alternate Possibilities and Moral Responsibility', Journal of Philosophy, 66 (1969), 829-39.
Gardiner, P. L., 'Hume's Theory of the Passions', in David Hume: A Symposium, ed. D. F. Pears. Macmillan, London (1963), 31-42.
Geach, P. T., Mental Acts. Routledge and Kegan Paul, London (1957).
Goldman, A., A Theory of Human Action. Prentice-Hall, New York (1970).
Goodman, N., 'Comments', Journal of Philosophy, 63 (1966), 328-31.
Goodman, N., Two Replies', Journal of Philosophy, 64 (1967), 286.
Gordon, R. M., The Aboutness of Emotion', American Philosophical Quarterly, 11 (1974), 27-36.
Gorovitz, S., 'Causal Judgments and Causal Explanations', Journal of Philosophy, 62 (1965), 695-710.
Grice, H. P., 'Intention and Uncertainty', British Academy Lecture, Oxford University Press, London (1979).
Halm, L. E. (ed.), The Philosophy of Donald Davidson. The Library of Living Philosophers. Chicago: Open Court (1999).
Hampshire, S., Thought and Action. Chatto and Windus, London (1959).
Hampshire, S., Freedom of the Individual. Princeton University Press, Princeton, New Jersey (1965).
Hare, R. M., The Language of Morals. Clarendon Press, Oxford (1952).
Hare, R. M., Freedom and Reason. Clarendon Press, Oxford (1963).
Hart, H. L. A., and Honore, A. M., Causation in the Law. Clarendon Press, Oxford (1959).
Hedman, C, 'On the Individuation of Action', Inquiry, 13 (1970), 125-8.
Hempel, C. G., Aspects of Scientific Explanation. Free Press, New York (1965).
Hempel, C. G., 'Rational Action', in Proceedings and Addresses of the American Philosophical Association. The Antioch Press, Yellow Springs, Ohio (1962), 5-24.
Hume, D., A Treatise of Human Nature, ed. L. A. Selby-Bigge. Clarendon Press, Oxford (1951).
Hume, D., 'A Dissertation on the Passions', in Four Dissertations. A. Millar, London (1757) [reproduced in facsimile by Garland Publishers, New York (1970)], 121-81.
Jeffrey, R. C., 'Goodman's Query', Journal of Philosophy, 63 (1966), 281-8.
Kant, L, Fundamental Principles of the Metaphysics of Morals trans. T. K. Abbott. Longman, Green and Co. (1909).
Kenny, A. J. P., Action, Emotion and Will. Routledge and Kegan Paul, London (1963).
Kim, J., 'On the Psycho-Physical Identity Theory', American Philosophical Quarterly, 3 (1966), 277-85.
Kim, J., and Brandt, R., 'The Logic of the Identity Theory', Journal of Philosophy, 64 (1967), 515-37.
Landesman, C., 'Actions as Universals', American Philosophical Quarterly, 6 (1969), 247-52.
Lehrer, K., 'Ifs, Cans and Causes', Analysis, 20 (1960), 122-4.
Lehrer, K., 'An Empirical Disproof of Determinism', in Freedom and Determinism, ed. K. Lehrer. Random House, New York (1966), 75-202.
Lemmon, E. J., 'Moral Dilemmas', Philosophical Review, 71 (1962), 139-58.
Lemmon, E. J., 'Comments', in The Logic of Decision and Action, ed. N. Rescher. University of Pittsburgh Press, Pittsburgh (1967), 96-103.
Lepore, E. and McLaughlin, B. (eds.), Actions and Events: Perspectives on the Philosophy of Donald Davidson. Oxford: Blackwell (1985).
Levin, H., The Question of Hamlet. Oxford University Press, New York (1959).
Lewis, D. K., 'An Argument for the Identity Theory', Journal of Philosophy, 63 (1966), 17-25.
Luce, D. R., 'Mind-Body Identity and Psycho-Physical Co-relation', Philosophical Studies, 17(1966), 1-7.
Mackie, J. L., 'Causes and Conditions', American Philosophical Quarterly, 2 (1965), 245-64.
Malcolm, N., 'Scientific Materialism and the Identity Theory', Dialogue, 3 (1964-5), 115-25.
Martin, R., 'On Events and Event-Descriptions', in Fact and Existence, ed. J. Margolis. Basil Blackwell, Oxford (1969), 63-73.
Martin, R., 'Reply', in Fact and Existence, ed. J. Margolis. Basil Blackwell, Oxford (1969), 97-109.
Matthews, G., 'Mental Copies', Philosophical Review, 78 (1969), 53-73.
Melden, A. L, Free Action. Routledge and Kegan Paul (1961).
Mill, J. S., Utilitarianism.
Mill, J. S. A System of Logic.
Montague, R., 'Pragmatics', in Contemporary Philosophy, ed. R. Klibansky. La Nuova Italia Editrice, Florence, (1968), 102-22.
Montague, R., 'On the Nature of Certain Philosophical Entities', Monist, 53 (1968), 159-93.
Moravcsik, J., 'Strawson and Ontological Priority', in Analytical Philosophy, Second Series, ed. R. J. Butler. Barnes and Noble, New York (1965), 106-19.
Morgenstern, O. and von Neumann, J., Theory of Games and Economic Behaviour. Second Edition, Princeton University Press, Princeton, New Jersey (1947).
Mosteller, E, and Nogee, P., 'An Experimental Measurement of Utility', Journal of Political Economy, 59 (1951), 371-404.
Nagel, T., 'Physicalism', Philosophical Review, 74 (1965), 339-56.
Nogee, P., and Mosteller, E, 'An Experimental Measurement of Utility', Journal of Political Economy, 59 (1951), 371-404.
Nowell-Smith, P. H., Ethics. Penguin Books, London (1954).
Pap, A., 'Disposition Concepts and Extensional Logic', in Minnesota Studies in the Philosophy of Science, 2, ed. H. Feigl, M. Scriven, and G. Maxwell. University of Minnesota Press, Minneapolis, (1958), 196-224.
Parsons, T., 'Modifiers and Quantifiers in Natural Language', in New Essays in Philosophy of Language, ed. F. J. Pelletier and C. G. Normore. Canadian Journal of Philosophy, suppl. vol. 6 (1980).
Pears, D. F., 'Ifs and Cans', Canadian Journal of Philosophy, 1 (1972), 249-74.
Peters, R. S., The Concept of Motivation. Routledge and Kegan Paul, London (1958).
Pitcher, George, 'Emotion', Mind, 64 (1965), 326-46.
Plato, Philebus.
Plato, Protagoras.
Quine, W. V. O., 'Quantifiers and Prepositional Attitudes', Journal of Philosophy, 53 (1956), 177-87.
Quine, W. V. O., Word and Object. M. I. T. Press, Cambridge, Mass. (1960).
Quine, W. V. O., 'Oncological Reduction and the World of Numbers', in Ways of Paradox. Random House, New York (1966), 199-207.
Quine, W. V. O., 'Existence and Quantification', in Fact and Existence, ed. J. Margolis. Basil Blackwell, Oxford (1969), 1-17.
Quine, W. V. O., 'Intensions Revisisted', in Theories and Things. Cambridge, Mass.: Harvard University Press (1981).
Ramsey, F. P., 'Facts and Propositions', reprinted in Foundations of Mathematics. Humanities Press, New York (1950), 138-55.
Ramsey, F.P., 'Truth and Probability', reprinted in Foundations of Mathematics. Humanities Press, New York (1950), 156-98.
Reichenbach, H., Elements of Symbolic Logic. Macmillan Co., New York (1947).
Rescher, N., 'Aspects of Action', in The Logic of Decision and Action, ed. N. Rescher. University on Pittsburgh Press, Pittsburgh (1967), 215-20.
Russell, B., My Philosophical Development. George Allen and Unwin, London (1959).
Ryle, G., The Concept of Mind. Barnes and Noble, New York (1949).
Santas, G., The Socratic Paradoxes', Philosophical Review, 73 (1964), 147-64.
Santas, G., 'Plato's Protagoras and Explanations of Weakness', Philosophical Review, 75 (1966), 3-33.
Scheffler, I., The Anatomy of Inquiry. Knopf, New York (1963).
Sellars, W, 'Metaphysics and the Concept of a Person', in The Logical Way of Doing Things, ed. K. Lambert. Yale University Press, New Haven (1969), 219-54.
Shoemaker, S., 'Ziff 's Other Minds', Journal of Philosophy, 62 (1965), 587-9.
Shorter,!. M., 'Causality, and a Method of Analysis', in Analytical Philosophy, Second Series, ed. R. J. Butler. Barnes and Noble, New York (1965), 145-57.
Siegel, S., Davidson, D., Suppes, P., Decision-Making: An Experimental Approach. Stanford University Press, Stanford (1957). [Reprinted by University of Chicago Press, Chicago (1977).]
Singer, M., 'Moral Rules and Principles', in Essays in Moral Philosophy, ed. A. I. Melden. University of Washington Press, Seattle (1958), 160-97.
Smart, J. J. C., 'Sensations and Brain Processes', Philosophical Review, 68 (1959), 141-56.
Stoecker R. (ed.), Reflecting Davidson: Donald Davidson Responding to an International Forum of Philosophers. Berlin: de Gruyter (1993).
Strawson, P. F, Individuals. Methuen, London (1959).
Strawson, P. F., 'Contribution to a Symposium on "Determinism" ', in Freedom and the Will ed. D. F. Pears. St. Martin's Press, London (1963), 48-68.
Stoutland, R, 'Basic Actions and Causality', Journal of Philosophy, 65 (1968), 467-75.
Suppes, P., Davidson, D., Siegel, S., Decision-Making: An Experimental Approach. Stanford University Press, Stanford (1957). [Reprinted by University of Chicago Press, Chicago (1977).]
Taylor, C., 'Mind-Body Identity, A Side Issue?', Philosophical Review, 76 (1967), 201-13.
Taylor, R., Action and Purpose. Prentice-Hall, Englewood Cliffs, New Jersey (1966).
Thalberg, I., 'Emotion and Thought", American Philosophical Quarterly, 1 (1964), 1-11.
Thalberg, I., 'Do We Cause our Own Actions?', Analysis, 27 (1967), 196-201.
Thalberg, I., 'Verbs, Deeds and What Happens to Us', Theoria, 33 (1967), 259-77.
Tversky, A., 'A Critique of Expected Utility Theory: Descriptive and Normative Considerations', Erkenntnis, 9 (1975), 163-74.
Vendler, Z., 'Effects, Results and Consequences', in Analytic Philosophy ed. R. J. Butler. Barnes and Noble, New York (1962), 1-14.
Vendler, Z., 'Comments', Journal of Philosophy, 62 (1965), 602.
Vendler, Z., 'Causal Relations', Journal of Philosophy, 64 (1967), 704-13.
Vermazen, B., and Hintikka, M. (eds.), Essays on Davidson: Actions and Events. Oxford University Press (1985).
Vickers, J. M., 'Characteristics of Projectible Predicates', Journal of Philosophy, 64 (1967), 280-5.
von Neumann, J. and Morgenstern, O., Theory of Games and Economic Behavior. Second Edition, Princeton, New Jersey (1974).
von Wright, G. H., Norm and Action. Routledge and Kegan Paul, London (1963).
Wallace, J. R., 'Goodman, Logic, Induction', Journal of Philosophy, 62 (1966), 310-28.
Williams, B. O., 'Pleasure and Belief, Proceedings of the Aristotelian Society, supplementary volume 33 (1959), 57-72.
Williams, C., The Figure of Beatrice. Faber and Faber, London (1943).
Wilson, J. R. S., Emotion and Object. Cambridge University Press, New York (1972).
Winch, P., The Idea of a Social Science. Routledge and Kegan Paul, London (1958).
Wittgenstein, L. W, Blue and Brown Books. Basil Blackwell, Oxford (1958).
Zeglen, U. (ed.), Donald Davidson: Truth, Meaning and Knowledge. London: Routledge (1999).




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét